BÁO CÁO THẨM TRA CỦA ỦY BAN VĂN HÓA, GIÁO DỤC, THANH NIÊN,
THIẾU NIÊN VÀ NHI ĐỒNG CỦA QUỐC HỘI VỀ DỰ ÁN LUẬT XUẤT BẢN
(Do bà Trần Thị Tâm Đan, Chủ nhiệm Ủy ban văn hoá, giáo dục,
thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội đọc
tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá IX, ngày 16-6-1993)
Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng được Ủy ban thường vụ Quốc hội giao nhiệm vụ thẩm tra Dự án Luật xuất bản. Ý thức được trách nhiệm của mình, ngay từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội, Thường trực Ủy ban đã nghiên cứu toàn bộ hồ sơ của quá trình xây dựng Dự án Luật này từ năm 1989, ý kiến của Ủy ban văn hóa và giáo dục, Ủy ban pháp luật, các ý kiến chỉ đạo của Hội đồng Nhà nước của Quốc hội khóa VIII; trực tiếp làm việc nhiều lần với Ban soạn thảo và các cơ quan hữu quan để thẩm tra, chỉnh lý bản Dự thảo; tổ chức các cuộc họp trao đổi với các nhà quản lý, điều hành trên các lĩnh vực xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm, các luật gia, Ủy ban đã họp toàn thể để thẩm tra Dự án Luật.
Dưới đây, Ủy ban chúng tôi xin trình Quốc hội những ý kiến thẩm tra Dự án Luật xuất bản để Quốc hội xem xét và quyết định.
I- SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH LUẬT XUẤT BẢN
Tờ trình của Chính phủ về Dự án Luật xuất bản đã nêu rõ lý do cần ban hành Luật, các quan điểm và nội dung cơ bản thể hiện trong Luật.
Ủy ban chúng tôi thấy cần trình bày rõ thêm một số tình hình để Quốc hội xem xét.
Ngày 18-6-1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc luật 003/SLT, quy định chế độ xuất bản. Sắc luật này đã đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của giai đoạn lúc bấy giờ. Sau này, do yêu cầu của từng giai đoạn lịch sử, Đảng và Nhà nước tiếp tục có những chỉ thị, nghị quyết bổ sung để chỉ đạo và quản lý sự nghiệp xuất bản. Các văn bản đó cần được thể chế hóa thành luật. Hơn nữa, trong công cuộc đổi mới và mở cửa của đất nước, nhu cầu thông tin, tiếp nhận thành tựu khoa học, công nghệ và giao lưu văn hóa thế giới đang đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với hoạt động xuất bản. Các nhà trí thức, văn nghệ sĩ và nhân dân có nhu cầu xuất bản, phổ biến các tác phẩm và công trình nghiên cứu dưới hình thức xuất bản phẩm ngày càng phong phú hơn. Đặc biệt là sự “bung ra” của nền sản xuất hàng hóa đã tác động vào lĩnh vực xuất bản, có lúc, có nơi đã nảy sinh tình trạng lộn xộn, tiêu cực, nhất là trong vài năm gần đây. Nhiều xuất bản phẩm độc hại xuất hiện đã gây tác động xấu, bị công luận phê phán gay gắt. Vì vậy, việc ban hành Luật xuất bản nhằm tạo điều kiện thuận lợi để có nhiều xuất bản phẩm có giá trị được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, đáp ứng nhu cầu thông tin, giao lưu văn hóa, nâng cao dân trí, bảo đảm quyền sáng tạo, quyền được xuất bản tác phẩm của các tổ chức, công dân, đồng thời lập lại trật tự, kỷ cương, đưa hoạt động này vào nền nếp là việc làm rất cần thiết và càng sớm càng tốt.
Nhà nước ta đã đưa Dự luật này vào chương trình xây dựng pháp luật từ Quốc hội khóa VIII, nhưng chưa thông qua được. Quốc hội khóa IX tiếp tục nhiệm vụ trên, đã giao cho Chính phủ hoàn chỉnh Dự luật xuất bản để trình ra kỳ họp thứ 3 của Quốc hội. Kể từ năm 1989 đến nay, Dự luật này đã được dự thảo nhiều lần, Ban soạn thảo đã làm việc rất tích cực, công phu, Ủy ban thường vụ Quốc hội quan tâm chỉ đạo nên bản Dự thảo đã được hoàn chỉnh để trình ra Quốc hội.
II- VỀ NỘI DUNG CỦA DỰ THẢO LUẬT XUẤT BẢN
Ủy ban chúng tôi cho rằng, bố cục của Dự luật với 6 chương, 44 điều là hợp lý, các điều khoản trong mỗi chương và nội dung của từng điều là rõ ràng, xúc tích và đã mang văn phong pháp luật. Chúng tôi nhất trí với nội dung tóm tắt trong Tờ trình của Chính phủ về bản Dự thảo Luật, trong đó đã đề cập cả những điểm mới so với Sắc luật 003/SLT.
Chúng tôi xin trình bày rõ thêm một số vấn đề đáng quan tâm để Quốc hội xem xét.
1. Về vấn đề kiểm duyệt:
Kế thừa Sắc luật 003/SLT, Điều 2 của Dự luật đã khẳng định: “Nhà nước không kiểm duyệt các tác phẩm trước khi xuất bản, trừ trường hợp cần thiết do Thủ tướng quyết định" nhằm tạo điều kiện thuận lợi để công dân, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, kinh tế, lực lượng vũ trang thực hiện quyền công bố, phổ biến tác phẩm, công trình nghiên cứu của mình dưới hình thức xuất bản phẩm. Mục đích của hoạt động xuất bản là thông qua việc phổ biến những xuất bản phẩm mà phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, giới thiệu tinh hoa văn hóa thế giới, nâng cao dân trí, làm phong phú đời sống tinh thần của xã hội, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam. Để đạt được mục đích này, trong công tác quản lý hoạt động xuất bản, điều quan trọng nhất cần đạt được là làm sao cho các tác phẩm tốt được xuất bản thuận lợi và ngày càng nhiều; ngăn chặn có hiệu quả việc xuất bản, phổ biến những tác phẩm không tốt, độc hại. Điều này đã được thể hiện trong Dự luật, thông qua việc quy định trách nhiệm của Giám đốc Nhà xuất bản, Tổng biên tập, cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản (Điều 11). Đồng thời, Điều 22 đã quy định những nội dung cần nghiêm cấm đối với các tác phẩm khi xuất bản. Như vậy, Dự luật vừa bảo đảm quyền tự do sáng tạo, xuất bản tác phẩm, vừa xác định trách nhiệm nhằm ngăn chặn việc phổ biến ấn phẩm xấu.
2. Về vấn đề bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm, công trình nghiên cứu, các quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức đối với hoạt động xuất bản:
Ủy ban chúng tôi tán thành với các quy định tại các điều 4, 5, 6, 7, 8, 17, 18. Với những quy định tại các điều trên, việc phổ biến các tác phẩm không những không bị bó hẹp mà đối với tác phẩm có giá trị, còn được Nhà nước khuyến khích bằng chính sách tài trợ, mua bản thảo, đầu tư cho việc ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng xuất bản phẩm. Đồng thời, Dự luật còn quan tâm tới quyền hưởng thụ những xuất bản phẩm đối với đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng phải quan tâm như thiếu nhi, lực lượng vũ trang (các điều 6, 27).
3. Việc quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản:
Vấn đề này đã được quy định thành một chương riêng, phân định rõ trách nhiệm của Chính phủ, Bộ Văn hóa - Thông tin, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quy định tổ chức thanh tra chuyên ngành về hoạt động xuất bản. Vừa qua, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém là do công tác quản lý. Vì vậy, Dự luật đã quan tâm đầy đủ hơn đối với công tác này.
4. Đối với vấn đề thành lập nhà xuất bản tư nhân :
Ủy ban chúng tôi tán thành với quy định trong Dự thảo Luật, nhà xuất bản là tổ chức thuộc cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội; tư nhân chỉ tham gia một số dịch vụ xuất bản như in, nhân bản, phát hành (Chương II của Dự luật đã thể hiện), nhưng cần quy định rõ vấn đề này trong văn bản dưới luật để tạo nên sự thống nhất với Điều 11 của Luật công ty và Điều 5 của Luật doanh nghiệp tư nhân (“dịch vụ bưu chính viễn thông, truyền thanh, truyền hình, xuất bản”, phải được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cho phép).
Xuất phát từ vị trí, tính chất của hoạt động xuất bản là hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, phục vụ nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội theo đường lối của Đảng, cung cấp “món ăn” tinh thần bổ ích, lành mạnh cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh chống âm mưu lợi dụng hoạt động xuất bản cũng như các phương tiện truyền thông đại chúng để phá hoại tư tưởng con người, nên không áp dụng chính sách nhiều thành phần kinh tế trong lĩnh vực xuất bản. Hoạt động xuất bản không thể mang tính chất đơn thuần kinh doanh, coi mục đích cao nhất là kinh doanh kiếm lời. Các cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể, với nhiệm vụ và ý thức trách nhiệm của mình, cùng với sự tài trợ của Nhà nước, phải bảo đảm đưa xuất bản phẩm đến các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng cao, vì việc đưa đến các nơi trên không thể có lãi.
Sách và các xuất bản phẩm nói chung là sản phẩm của trí tuệ, có tác dụng sâu sắc và lâu dài, đòi hỏi một quá trình biên tập công phu để bảo đảm nội dung chính trị và giá trị văn hóa, tư tưởng của xuất bản phẩm. Nhà xuất bản tư nhân chỉ cần thực hiện sao cho nội dung xuất bản phẩm không vi phạm Điều 22 của Luật này, còn các yêu cầu khác của tác phẩm thì tùy ý thức và nhận thức của họ.
Thực tiễn trong mấy năm qua, từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, trong công tác lãnh đạo và quản lý của Nhà nước có sơ hở, các chính sách chưa được ban hành kịp thời, chưa phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của hoạt động xuất bản. Nhiều tư nhân đã lợi dụng khó khăn của nhà xuất bản để tìm mọi cách kiếm lời. Một số nhà xuất bản đã không thực hiện đúng quy trình biên tập, đưa in và giao xuất bản phẩm cho cơ quan phát hành mà đã để tư nhân bỏ vốn ra bao thầu toàn bộ khâu xuất bản, in, kể cả việc mua trang thiết bị mới gửi vào nhà in và đặc biệt là khâu phát hành. Từ đó mà chi phối cả việc in tăng số lượng, tăng giá bán lẻ, cả việc lựa chọn tác phẩm và trong nhiều trường hợp, phải chiều theo thị hiếu không lành mạnh của một số đối tượng để xuất bản sao cho đạt lợi nhuận cao. Do vậy, đã dẫn đến tình trạng là, một số tác phẩm tốt được xuất bản, nhưng số lượng ít và không được phổ biến rộng rãi. Sách dịch nhiều, nhưng tập trung vào những loại sách kiếm hiệp, sách chưởng, sách về tình yêu dang dở, đau khổ, kích thích tình dục, v.v. được tái bản tràn lan đội lốt “sáng tác mới”; nhiều sách cho thiếu nhi thì tính giáo dục, tính sư phạm thấp. Tình trạng lộn xộn trong hoạt động xuất bản gần đây đã được khắc phục một phần và tới đây, khi Quốc hội đã ban hành Luật xuất bản, thì phải khắc phục về cơ bản. Từ tình hình như trên và do tính chất, mục đích và nhiệm vụ của hoạt động xuất bản thì việc không để tư nhân thành lập nhà xuất bản mà chỉ tham gia các công đoạn in, nhân bản, phát hành là phù hợp.
5. Về xuất bản nhất thời:
Đây là hình thức xuất bản không thông qua nhà xuất bản, do tổ chức chính quyền, đoàn thể ở Trung ương hoặc địa phương đứng ra xin phép cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản để xuất bản những tài liệu, tác phẩm không nhằm mục đích kinh doanh, sau đó, tự đảm nhận việc in và phổ biến xuất bản phẩm. Hình thức này đã góp phần giải quyết nhu cầu in ấn một số tài liệu tuyên truyền của các địa phương. Song, trong nhiều trường hợp, tổ chức đứng ra xin xuất bản không có người có chuyên môn, nghiệp vụ về xuất bản, cũng không quan tâm xem xét đầy đủ về nội dung nên dễ có sơ hở. Ngoài ra, hoạt động xuất bản nhất thời không phải nộp thuế, không phải nộp ngân sách như các nhà xuất bản nên, trong thời gian qua, một số người đã lợi dụng hình thức xuất bản nhất thời để in sách kinh doanh, phổ biến những xuất bản phẩm xấu, gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát.
Trong Dự luật không quy định hình thức xuất bản nhất thời, các tác phẩm đều được xuất bản thông qua nhà xuất bản để bảo đảm nội dung, nâng cao chất lượng xuất bản phẩm. Nhà xuất bản có đội ngũ biên tập viên có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là đơn vị chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung xuất bản phẩm cùng với tác giả trong điều kiện Nhà nước không kiểm duyệt. Vì vậy, Ủy ban chúng tôi tán thành không đặt ra hình thức xuất bản nhất thời trong Luật. Tuy nhiên, đối với những tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không có nhà xuất bản mà có tài liệu cần xuất bản, không nhằm mục đích kinh doanh, những tài liệu, giáo trình, công trình nghiên cứu của các cơ quan lưu hành nội bộ thì cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản có thẩm quyền sẽ xem xét giải quyết theo quy định của Chính phủ.
III- MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC CHỈ ĐẠO
THỰC HIỆN LUẬT
Để Luật xuất bản, sau khi được Quốc hội thông qua, đi vào cuộc sống, Ủy ban chúng tôi đề nghị Chính phủ lưu ý một số vấn đề sau:
1. Ban hành sớm các văn bản dưới luật để triển khai thi hành Luật. Văn bản dưới luật vừa phải căn cứ vào Luật này, đồng thời phải phù hợp với các văn bản pháp luật khác như Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty, Luật báo chí, Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước và các văn bản pháp luật về xuất nhập khẩu. Trong tình hình khoa học - công nghệ đang phát triển và với “sự bùng nổ thông tin” như hiện nay thì việc ứng dụng công nghệ mới, sử dụng trang thiết bị hiện đại để in ấn, nhân bản sẽ phát triển nhanh. Do vậy, công tác quản lý, kiểm tra sẽ ngày một khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Ủy ban chúng tôi cho rằng, Luật này chưa thể quy định cụ thể, chi tiết; đề nghị Chính phủ căn cứ vào thực tế trong quá trình áp dụng Luật mà bổ sung ở văn bản dưới luật cho phù hợp với tình hình trong từng giai đoạn. Nhà nước cần sớm xây dựng Luật bản quyền tác giả để tạo ra sự đồng bộ với Luật xuất bản. Công tác tuyên truyền, giải thích luật cũng rất cần thiết để bảo đảm cho Luật đi vào cuộc sống, do đó, Chính phủ cần coi trọng việc tổ chức cho những người làm công tác xuất bản nghiên cứu, nắm vững Luật để thực hiện và tuyên truyền giải thích cho những người khác cùng thực hiện.
2. Cần kiện toàn cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản, nhất là xây dựng hệ thống thanh tra chuyên ngành về xuất bản, có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan để kịp thời xử lý những vi phạm; ngăn chặn được những xuất bản phẩm xấu và những tiêu cực trong hoạt động xuất bản.
3. Sớm có quy hoạch mạng lưới các nhà xuất bản Trung ương, địa phương; củng cố, kiện toàn các nhà xuất bản cho phù hợp với mức độ phát triển của sự nghiệp xuất bản, đáp ứng được nhu cầu xuất bản của công dân và tổ chức một cách thuận lợi. Theo báo cáo của Cục xuất bản, Bộ Văn hóa - Thông tin, số trang xuất bản của nước ta trong năm 1992 cũng chỉ ở con số trên 70 triệu đầu sách cho gần 70 triệu dân, trong đó gần 60 đầu sách là sách giáo khoa. Chúng ta cần có những biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh tốc độ phát triển sự nghiệp xuất bản, đồng thời cũng cần kiên quyết sắp xếp lại những nhà xuất bản khi chưa có đủ các điều kiện để hoạt động. Cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản cần chỉ đạo các nhà xuất bản phục vụ kịp thời các địa phương, các tổ chức không có nhà xuất bản.
Chúng tôi cho rằng, mục tiêu của hoạt động xuất bản là làm sao có được nhiều xuất bản phẩm tốt, bảo đảm cho những công dân và tổ chức có tác phẩm được xuất bản thông qua nhà xuất bản một cách thuận lợi, chấm dứt việc đưa ra xã hội những xuất bản phẩm xấu, những việc làm sai trái như in tăng số lượng so với quy định trong giấy phép, trả nhuận bút cho tác giả không đúng với số lượng xuất bản phẩm, với giá bán, trốn thuế, cùng với nhiều thủ đoạn khác để tăng lợi nhuận, không cần quan tâm đến những hậu quả xấu gây ra cho xã hội. Vì vậy, việc củng cố nhà xuất bản, trước hết là củng cố về tổ chức và công tác cán bộ, tiếp đó là việc đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị, cấp đủ vốn lưu động để các nhà xuất bản có đủ điều kiện vươn lên làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình với ý thức trách nhiệm cao, góp phần xây dựng đời sống tinh thần của xã hội thông qua xuất bản phẩm.
4. Trong Dự thảo Luật xuất bản không quy định mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của nhà xuất bản. Tuy nhiên, Ủy ban chúng tôi cho rằng, dù nhà xuất bản tổ chức hoạt động theo mô hình tổ chức nào, cơ chế kinh doanh hay cơ chế sự nghiệp, thì cũng nên áp dụng phương thức hạch toán để thúc đẩy sự năng động nhằm nâng cao chất lượng xuất bản phẩm cả về nội dung lẫn hình thức, nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất bản, tránh được sự bao cấp tràn lan, kém hiệu quả.
Sự hỗ trợ của Nhà nước, của tổ chức có nhà xuất bản bằng các chính sách tài trợ, đặt hàng, mua bản thảo, trước hết nên thực hiện với từng tác phẩm. Thực tế trong thời gian qua, có những tác phẩm tốt khi xuất bản được độc giả hưởng ứng nhiệt liệt, đã phát hành không phải hàng ngàn mà hàng vạn. Điều đó chứng tỏ những xuất bản phẩm có chiều sâu về tâm lý xã hội, có hàm lượng tri thức cao, có tính nhân văn sâu sắc, có tác dụng giáo dục tốt, thì được nhân dân từ người già đến trẻ em đồng tình, hưởng ứng. Những tác phẩm như vậy chẳng những không lỗ mà còn thu được lợi nhuận cao, nhân dân được hưởng thụ những xuất bản phẩm có giá trị, tác giả cũng được bồi dưỡng thỏa đáng. Từ đó, cổ vũ lực lượng văn nghệ sĩ, trí thức và nhân dân sáng tạo ra những tác phẩm ngày càng có giá trị cao, thúc đẩy sự nghiệp xuất bản của đất nước phát triển.
5. Nhà nước chăm lo đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, những tài năng trẻ trong lĩnh vực văn học - nghệ thuật, nghiên cứu khoa học để thúc đẩy hoạt động sáng tạo, tạo ra những tác phẩm mới có giá trị, đó cũng là việc làm quan trọng trong việc tạo nguồn tác phẩm cho hoạt động xuất bản.
Việc quy hoạch và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho những người hoạt động trong lĩnh vực xuất bản là điều kiện có tính quyết định để đưa công tác quản lý hoạt động xuất bản vào nền nếp, thúc đẩy sự nghiệp xuất bản phát triển đúng hướng.
Hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay rất cần một đạo luật mới để điều chỉnh. Dự thảo Luật xuất bản đã được xây dựng công phu dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Bộ trưởng và Hội đồng Nhà nước trước đây và nay đã được sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội và sự tham gia tích cực của nhiều tổ chức, công dân, Ủy ban chúng tôi đề nghị Quốc hội xem xét và thông qua Luật này.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội