VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 1 1992-1993


TỜ TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CÁC
LUẬT THUẾ DOANH THU, TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT, LỢI TỨC VÀ XUẤT, NHẬP KHẨU

(Do ông Hồ Tế, Bộ trưởng Bộ Tài chính đọc
tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá IX, ngày 16-6-1993)

 

Qua hơn hai năm thực hiện, hệ thống chính sách thuế hiện hành đã phát huy tác dụng quan trọng trong điều hành quản lý nền kinh tế vĩ mô và tăng thu đáng kể cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, một số điểm quy định trong các luật thuế, pháp lệnh thuế đã không còn phù hợp, chưa thật khuyến khích mạnh mẽ phát triển sản xuất - kinh doanh, bộc lộ những nhược điểm, sơ hở, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Vì vậy, cần được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện thêm hệ thống chính sách thuế, bảo đảm thuế trở thành công cụ mạnh hơn trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất, thực hiện công bằng xã hội và bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

Căn cứ Nghị quyết kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa IX về việc sửa đổi, bổ sung các luật thuế, pháp lệnh thuế, sau khi xin ý kiến của Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ xin trình Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điểm trong các luật thuế, pháp lệnh thuế với những nội dung sau đây:

PHẦN I

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC LUẬT THUẾ,
PHÁP LỆNH THUẾ

Đối chiếu với yêu cầu đặt ra, hệ thống thuế hiện hành qua thực hiện đã đạt được những kết quả và còn những nhược điểm sau:

A- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

1. Về thu ngân sách nhà nước:

Thi hành các luật thuế, pháp lệnh thuế ban hành năm 1990 và những nội dung đã được sửa đổi, bổ sung trong thời gian qua, số thu từ các loại thuế qua các năm tăng lên tương đối nhanh. Số thu từ thuế năm 1991 so với năm 1990 tăng 73% và năm 1992 so với năm 1991 tăng 71%. Số thu từ thuế và lệ phí so với tổng số thu trong nước của ngân sách nhà nước năm 1991 là 87,3%, năm 1992 là 85,5%. Về tỷ lệ động viên thuế nếu so với thu nhập quốc dân sản xuất trong nước thì năm 1991 khoảng 20,5%, năm 1992 khoảng 21%, nếu so với tổng sản phẩm sản xuất trong nước (GDP) thì năm 1991 khoảng 14,7%, năm 1992 khoảng 15%. Số thu về thuế tăng lên nhanh trong hai năm qua đã bảo đảm về cơ bản yêu cầu chi thường xuyên ngày càng tăng của ngân sách nhà nước, giảm tỷ lệ bội chi, chấm dứt được tình trạng phát hành tiền để chi cho ngân sách, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả và bước đầu đã dành một phần cho tích lũy (đầu tư xây dựng cơ bản).

2. Về phát huy tác dụng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy sắp xếp lại sản xuất:

- Việc áp dụng chung một hệ thống các luật thuế, pháp lệnh thuế có tính pháp lý cao hơn đối với các thành phần kinh tế đã tạo sự bình đẳng, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế và tạo điều kiện bao quát được đầy đủ hơn đối với các hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

- Góp phần thúc đẩy các xí nghiệp quốc doanh sắp xếp lại sản xuất, tăng cường hạch toán kinh tế, tính đủ chi phí đầu vào, bảo đảm hoạt động, nộp được thuế và có lãi, khắc phục dần tình trạng “lãi giả, lỗ thật”. Thực tế trong hai năm qua, sản xuất - kinh doanh đã có bước phát triển đa dạng và phong phú hơn trước. Ví dụ, năm 1992, Nhà nước tiếp tục chủ trương tính đủ đầu vào, riêng khấu hao cơ bản tính tăng thêm hơn 1.400 tỷ, nhưng kinh tế quốc doanh vẫn tiếp tục phát triển khá; sản xuất công nghiệp tăng hơn năm trước 15%, trong đó, công nghiệp trung ương tăng 21,5%, công nghiệp địa phương tăng 9,5%, tích lũy nộp ngân sách tăng 56,7% so với năm 1991, hiệu quả đồng vốn cũng tăng lên rõ rệt. Mức tích lũy nộp của các xí nghiệp địa phương có thấp hơn, nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động kém hiệu quả, công nghệ lạc hậu, một số doanh nghiệp phần lớn vốn phải đi vay hoặc do thiếu vốn, v.v..

3. Về tổ chức thực hiện:

Tổ chức lại bộ máy quản lý thu thuế được kịp thời, từ ba hệ thống tổ chức (thu quốc doanh, thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp) và cắt khúc theo cấp hành chính thành một hệ thống ngành dọc thống nhất trong cả nước, chịu sự lãnh đạo song trùng của Bộ Tài chính và Ủy ban nhân dân các cấp đã đem lại kết quả tốt trong việc tổ chức chỉ đạo công tác thu thuế. Đội ngũ cán bộ Thuế được sắp xếp, sàng lọc, đào tạo lại, đưa số cán bộ được đào tạo từ 36% lên 60% trong cuối năm 1992. Việc chống tiêu cực trong nội bộ ngành Thuế cũng được đẩy mạnh hơn. Trong hai năm 1991 - 1992, đã thi hành kỷ luật: cách chức, buộc thôi việc, truy cứu trách nhiệm hình sự hơn 500 cán bộ Thuế do vi phạm khuyết điểm, tham nhũng, tiêu cực. Các biện pháp cải tiến, đổi mới công tác quản lý thu thuế ở cơ sở bước đầu đã phát huy hiệu quả. Công tác kiểm tra chống thất thu và công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về thuế đã làm cho việc thi hành các luật thuế, pháp lệnh thuế và chống thất thu đạt kết quả khá.

B- NHỮNG KHUYẾT ĐIỂM, NHƯỢC ĐIỂM

1. Về chính sách thuế:

a) Chưa bao quát hết các nguồn thu:

Trong quá trình phát triển của nền kinh tế theo hướng đổi mới, đã phát sinh nhiều loại hình và hình thức kinh doanh, nhiều nguồn thu mới. Nhưng các luật thuế, pháp lệnh thuế hiện hành về nội dung chưa bao quát hết hoặc chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời chế độ thu đối với các hoạt động liên doanh, liên kết, đại lý, ký gửi, môi giới; các hoạt động dịch vụ; các thu nhập từ bất động sản và từ các hoạt động tài chính, tiền tệ…

b) Chính sách thuế còn phức tạp:

Trong nền kinh tế nhiều thành phần, trong mỗi ngành hàng còn có nhiều lợi nhuận cá biệt, nên trong mỗi loại thuế phải còn có nhiều thuế suất để xử lý phù hợp trong thời kỳ quá độ. Nhưng khó khăn hiện nay là xác định căn cứ tính thuế.

Trong mỗi loại thuế, chúng ta phải có nhiều thuế suất để vừa phân biệt theo tính chất sản xuất, vừa phân biệt theo công dụng của sản phẩm; để phân biệt hàng sản xuất trong nước với hàng nhập khẩu, nhưng lại thiếu những căn cứ rõ ràng để phân biệt theo từng thuế suất khác nhau cho mỗi mặt hàng. Ví dụ, kinh doanh sơn nhập khẩu có thể coi là hàng tiêu dùng nhập khẩu 4%, cũng có thể coi là vật liệu xây dựng 1%, v.v. dễ dẫn đến tùy tiện, trong xử lý về thuế.

c) Thu thuế còn trùng lắp:

Do chưa có đủ các điều kiện để thực hiện thuế doanh thu có khấu trừ (VAT) nên bắt buộc phải thực hiện thuế doanh thu thu trên mỗi lần bán hàng, bề ngoài biểu hiện thu thuế trùng lắp. Việc đó tuy đã được xử lý bằng cách định thuế suất thấp, để khi thu qua từng khâu sẽ không gây sức ép đẩy giá lên, nhưng cũng chưa có sức thuyết phục đối với một số trường hợp hàng hóa qua nhiều khâu: gia công, chế biến, lắp ráp, v.v. thuế tiêu thụ đặc biệt tính trên giá bán hàng có cả thuế gây ra mặc cảm và bị kêu là thuế đánh chồng lên thuế.

d) Chưa khuyến khích mạnh mẽ việc đầu tư vốn phát triển sản xuất:

Tuy đã có quy định việc miễn, giảm về thu sử dụng vốn, giảm 50% thuế lợi tức trong một số trường hợp để khuyến khích đầu tư chiều sâu nhưng diện khuyến khích chưa rộng. Chưa có quy định giảm thuế, miễn thuế cho những doanh nghiệp sản xuất mới thành lập, cho các cơ sở còn có nhiều khó khăn.

e) Các khoản phí và lệ phí chưa được quản lý tập trung thống nhất:

Ngoài các khoản thuế và phí, lệ phí do Trung ương ban hành, ở nhiều nơi còn có nhiều loại phí, lệ phí do các cấp, các ngành tự ban hành. Điều đó dẫn đến tình trạng thu chi ngoài ngân sách, Nhà nước chưa kiểm soát quản lý được.

2. Về tổ chức quản lý thu thuế :

a) Về tổ chức quản lý sản xuất - kinh doanh gắn với quản lý thu thuế:

- Còn nhiều trường hợp sản xuất - kinh doanh, dịch vụ có doanh thu và thu nhập nhưng không xin giấy phép kinh doanh, không đăng ký kê khai nộp thuế, mà chủ yếu tìm cách tổ chức sản xuất phân tán, lén lút, không mở cửa hàng, cửa hiệu, mà đi lưu động, có nhiều hành vi chống đối, nên rất khó quản lý thu được thuế.

- Chưa thi hành đúng và nghiêm túc Pháp lệnh kế toán, thống kê nhất là ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, dẫn đến tình trạng thiếu căn cứ pháp lý cho việc thi hành đúng các luật thuế.

- Việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt, không mở tài khoản tại ngân hàng là một trở ngại lớn trong việc quản lý thu thuế và dễ bị lợi dụng để trốn thuế. Từ đó, nhiều trường hợp bắt buộc phải thu thuế khoán hộ lớn, hộ vừa nên đã dẫn đến tiêu cực, thất thu thuế.

b) Về tổ chức lãnh đạo và phối hợp các lực lượng thu thuế:

- Hệ thống bộ máy thu thuế được tổ chức theo ngành dọc, đồng thời chịu sự lãnh đạo song trùng giữa ngành và Ủy ban nhân dân địa phương, đã đem lại kết quả rất tốt. Nhưng ở một số ngành và địa phương công tác thuế còn được coi là của ngành Thuế. Điều đó dẫn đến tình trạng thiếu tinh thần và biện pháp phối hợp trong việc tổ chức thi hành Luật thuế và chống thất thu thuế.

- Trong một số trường hợp việc hướng dẫn và phối hợp tổ chức các lực lượng thực hiện các luật, pháp lệnh thuế vừa chưa đồng bộ, chưa thống nhất, chưa rõ ràng, vừa sơ hở dễ bị lợi dụng để trốn thuế. Nổi lên như việc hướng dẫn và phối hợp các lực lượng quản lý thu thuế đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu tiểu ngạch biên giới; quản lý thu thuế nhà đất, thuế thu nhập, v.v..

- Quá nhiều lực lượng đi thanh tra, kiểm tra đốc thu đối với một doanh nghiệp, thiếu phân công, phân nhiệm rõ ràng, gây phiền hà và bất bình đối với đối tượng nộp thuế.

c) Về tổ chức bộ máy và cán bộ ngành Thuế:

- Ở một số nơi cơ quan Thuế và cán bộ Thuế chưa có quyết tâm cao trong việc đấu tranh với các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp tư nhân để đưa công tác sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn vào chế độ, nền nếp, bảo đảm thu sát thực tế hoạt động sản xuất -kinh doanh và bảo đảm bình đẳng, công bằng xã hội.

- Trong hơn 2 năm qua tuy đã tích cực mở lớp đào tạo, bồi dưỡng, nhưng trình độ nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ Thuế vẫn còn khoảng 40% tổng số cán bộ Thuế chưa qua đào tạo trung học, đại học. Bên cạnh hàng vạn cán bộ chấp hành nghiêm 10 điều kỷ luật của ngành và với những biện pháp sàng lọc cho ra khỏi ngành hơn 500 cán bộ vi phạm kỷ luật, trong ngành vẫn còn không ít người vi phạm, thậm chí tham ô, xâm tiêu tiền thuế, móc ngoặc với đối tượng nộp thuế để chia chác tiền thuế của Nhà nước; vừa khó khăn cho người kinh doanh, vừa giảm thu ngân sách nhà nước.

- Trang bị phương tiện làm việc cho ngành Thuế còn nhiều hạn chế, đại bộ phận cán bộ còn làm việc theo phương pháp thủ công, kém hiệu quả.

Tóm lại, do có một số khuyết nhược điểm của chính sách, có khuyết nhược điểm về tổ chức thực hiện, có những yếu kém của bản thân ngành Thuế và sự phối hợp chưa đồng bộ giữa các ngành, các cấp, việc thi hành các luật, pháp lệnh thuế chưa được nghiêm túc, thất thu thuế còn lớn.

PHẦN II

NHỮNG ĐỀ NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CÁC LUẬT THUẾ PHÁP LỆNH THUẾ

A- MỤC TIÊU, YÊU CẦU HOÀN THIỆN CÁC LUẬT,
PHÁP LỆNH THUẾ

1. Phải bao quát được hết các khoản thu nhập, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, phù hợp với tình hình đặc điểm của nền kinh tế trong từng thời kỳ, bảo đảm thực hiện được mục tiêu, yêu cầu của chính sách thuế và mức động viên mà Quốc hội đã đề ra.

2. Phải tiến dần tới mục tiêu đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra, bảo đảm bình đẳng và công bằng xã hội, góp phần bảo vệ và khuyến khích mạnh mẽ sản xuất trong nước phát triển, tạo ra nguồn thu ngày càng lớn hơn. Vì vậy, nội dung chính sách cần có phân biệt - khuyến khích hoặc hạn chế về thuế suất; về biểu thuế; về chính sách miễn giảm thuế, v.v..

3. Phải bảo đảm phát huy tác dụng của từng loại thuế, của cả hệ thống chính sách thuế.

Theo những mục tiêu, yêu cầu nói trên, về cơ bản cơ cấu số lượng các loại thuế trong hệ thống chính sách thuế hiện hành là tương đối đầy đủ, trước mắt chưa cần ban hành thêm các loại thuế mới, mà cần tập trung nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện từng loại thuế theo hai bước: về lâu dài và trước mắt như sau:

B- HƯỚNG CẢI CÁCH THUẾ VỀ LÂU DÀI

Về lâu dài, cần nghiên cứu cải cách căn bản từng loại thuế cho phù hợp với hướng phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, mở cửa với bên ngoài.

Căn cứ vào các mục tiêu, yêu cầu nói trên, tới đây Chính phủ sẽ tổ chức nghiên cứu, hoàn thiện một cách căn bản các luật thuế, pháp lệnh thuế để trình Quốc hội trong các kỳ họp sau.

C- HƯỚNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CÁC LUẬT THUẾ
TRONG KỲ NÀY

Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa IX đã đề ra là: “Giao Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét và quyết định việc sửa đổi một số khung thuế suất trong biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và một số quy định trong Pháp lệnh thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao; giao cho Chính phủ thực hiện thí điểm thu thuế giá trị gia tăng để rút kinh nghiệm xây dựng Dự án Luật về thuế này, đồng thời nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điểm trong Luật thuế lợi tức, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, trình Quốc hội trong kỳ họp tới”.

Chấp hành nghị quyết của Quốc hội, nay Chính phủ xin trình Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung một số điểm bất hợp lý, một số thuế suất chưa phù hợp, một số nhược điểm, sơ hở đang bị lợi dụng và một số quy định về giảm thuế, miễn thuế; đồng thời, củng cố, chấn chỉnh một cách đồng bộ về công tác quản lý thu thuế, bảo đảm thi hành thông suốt các luật thuế, góp phần bảo vệ và khuyến khích mạnh mẽ phát triển sản xuất trong nước, chống thất thu thuế có hiệu quả, khắc phục bớt trùng lặp, chồng chéo trong các luật thuế trên cơ sở góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất mạnh mẽ hơn. Cụ thể là:

I- LUẬT THUẾ DOANH THU

1. Chính phủ đã có quyết định thực hiện thí điểm thu thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với ngành sản xuất xi măng, ngành dệt, ngành sản xuất đường, v.v. để rút kinh nghiệm xây dựng Dự án Luật thuế VAT.

2. Đề nghị sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của Luật thuế doanh thu như sau:

- Đoạn đầu của điểm e, khoản 1, Điều 8 (cũ) quy định: "Doanh thu đối với hoạt động ngân hàng, tín dụng … là tiền thu về lãi suất do người vay trả…” là chưa phù hợp với đặc điểm của hoạt động tín dụng, đề nghị được sửa đổi: doanh thu đối với hoạt động tín dụng là khoản chênh lệch giữa lãi tiền cho vay và lãi tiền đi vay.

Do sửa đổi doanh thu tính thuế như trên, đề nghị sửa đổi thuế suất cho phù hợp là: tín dụng ngân hàng nông nghiệp 5%; tín dụng ngân hàng công thương, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính 15%; tín dụng ngân hàng đầu tư 25%; tín dụng ngân hàng ngoại thương 35%.

- Khoản 2, Điều 8 (cũ) quy định: “Trong trường hợp có doanh thu bằng ngoại tệ thì phải được quy đổi ra tiền Việt Nam theo tỷ giá mua vào do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm mà cơ sở kinh doanh thu được ngoại tệ để làm căn cứ tính thuế”.

Quy định như vậy đang có trở ngại là nhiều doanh nghiệp có doanh thu bằng ngoại tệ, nhưng mỗi khi nộp thuế lại phải quy đổi ra tiền Việt Nam (hoặc đem bán ngoại tệ lấy tiền Việt Nam) rất phiền hà; trong khi theo Luật đầu tư thì các xí nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài lại được nộp thuế bằng ngoại tệ. Vì vậy, đề nghị những doanh nghiệp trong nước có doanh thu bằng ngoại tệ cũng được nộp thuế bằng ngoại tệ, loại ngoại tệ nào thuận lợi cho việc nộp thuế do Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định. Trong trường hợp nộp bằng tiền Việt Nam thì phải quy đổi theo tỷ giá mua vào do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm nộp thuế.

- Khoản 3, Điều 18 (cũ) quy định:

“3. Cơ sở kinh doanh hoạt động ở miền núi hoặc trong một số ngành nghề quan trọng, có khó khăn mà Nhà nước phải trợ giá để duy trì hoạt động” thì được xét giảm thuế, miễn thuế doanh thu.

Quy định như khoản 3 là chưa phù hợp với thực tế, vì hiện nay các doanh nghiệp được Nhà nước trợ giá chưa có hoặc có thì chỉ trong diện rất hẹp, cho nên nhiều xí nghiệp nếu gặp khó khăn trong sản xuất - kinh doanh cũng không được xét giảm thuế doanh thu. Mặt khác, một số trường hợp cần được xem xét, song chưa được quy định trong Luật như: doanh nghiệp mới thành lập, trang bị dây chuyền công nghệ mới, ứng dụng công nghệ mới, sản xuất mặt hàng cần thay thế hàng nhập khẩu… Trong thực tế, để khuyến khích việc nghiên cứu, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, Chính phủ đã ban hành các văn bản dưới luật để điều hành và thực hiện (như các Nghị định số 114/HĐBT, số 35/HĐBT), nay đề nghị bổ sung thêm các quy định này vào Luật thuế doanh thu để hợp thức hóa quy định của Chính phủ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn, phát triển sản xuất.

3. Đồng thời với việc áp dụng thí điểm thuế trị giá gia tăng đối với những xí nghiệp có đủ điều kiện áp dụng thí điểm, đối với những xí nghiệp khác, một số thuế suất thuế doanh thu hiện hành, không hợp lý gây khó khăn cho xí nghiệp, dẫn tới bị lỗ trong kinh doanh và bổ sung danh mục, thuế suất đối với những hoạt động sản xuất - kinh doanh mà trước đây chưa đề cập.

Do vậy, đề nghị sửa đổi, bổ sung một số thuế suất trong biểu thuế doanh thu như sau:

- Đối với ngành sản xuất: Sửa đổi thuế suất đối với sản phẩm hóa chất từ 6% xuống 4%; bột giấy từ 2% xuống 1%; chế biến cà phê, chè, mỳ chính, đường, bánh kẹo từ 8% xuống 6%; sản xuất sợi len, sợi tổng hợp từ 8% xuống 6%; sản phẩm dệt từ 6% xuống 5%; dệt đay, chiếu cói, dệt thủ công từ 4% xuống 3%; sản xuất nước ngọt, nước giải khát các loại từ 6% lên 8%; bổ sung thuế suất đối với chế biến thuốc lá lá, thuốc lá sợi, cồn thực phẩm là 6%; sản xuất bài lá, vàng mã là 10% (là các mặt hàng chuyển từ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt sang nộp thuế doanh thu).

- Đối với ngành thương nghiệp: bổ sung thuế suất đối với kinh doanh ngoại tệ 0,5% (trước đây xếp vào ngành dịch vụ).

Bổ sung thuế suất đối với kinh doanh bất động sản, bao gồm cả xây nhà để bán cùng với việc chuyển quyền sử dụng đất có nhà đó là 4%.

Bổ sung thuế suất đối với trường hợp thu thuế doanh thu trên số chênh lệch giữa giá bán và giá mua 15% đối với kinh doanh ngoại tệ, bất động sản ; 4% đối với phát hành sách, báo.

- Đối với ngành dịch vụ: bổ sung thêm thuế suất đối với phôtôcopy 6%; sửa đổi thuế suất đối với đua ngựa: từ 30 xuống 20%; phát hành xổ số ở các tỉnh miền núi, Tây Nguyên: từ 30% xuống 20% (phát hành xổ số ở các tỉnh khác vẫn là 30%). Bỏ thuế suất đối với đua xe vì hiện nay hoạt động này mang tính chất phong trào, do Nhà nước tài trợ, chưa phải là hoạt động kinh doanh.

II- LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT

1. Về danh mục mặt hàng chịu thuế: quy định thu vào 6 mặt hàng nhưng thực tế mới thu được vào 4 mặt hàng: thuốc lá, bia, rượu, pháo; còn 2 mặt hàng bài lá và vàng mã thực tế không thu được vì các cơ sở sản xuất thường không xin giấy phép kinh doanh, không kê khai nộp thuế; mà phần lớn là sản xuất lén lút, phân tán, khó có căn cứ pháp lý cho việc thu thuế tiêu thụ đặc biệt. Đề nghị chuyển hai mặt hàng bài lá và vàng mã sang thu thuế doanh thu.

Đối với thuốc lá, trước đây, thu thuế tiêu thụ đặc biệt vào thuốc lá lá, thuốc lá sợi là nhằm động viên vào người tiêu dùng mặt hàng này và giành một phần nguồn thu cho ngân sách địa phương nơi trồng thuốc lá; nhưng khi thu thuế tiêu thụ đặc biệt vào thuốc lá điếu lại phải khấu trừ số thuế tiêu thụ đặc biệt đã thu ở thuốc lá lá, thuốc lá sợi. Việc thu như vậy vừa phức tạp, khó theo dõi quản lý, vừa khó khăn về vốn cho doanh nghiệp sản xuất thuốc lá điếu. Về thu ngân sách thì không tăng thêm, nhưng nếu không quản lý chặt chẽ thì còn bị thất thoát lớn. Nay, đại bộ phận thuốc lá lá, thuốc lá sợi đã đưa vào sản xuất thuốc lá điếu; thuế tiêu thụ đặc biệt không còn để lại cho ngân sách địa phương, mà nộp hết về ngân sách Trung ương. Vì vậy, đề nghị không thu thuế tiêu thụ đặc biệt vào thuốc lá lá, thuốc lá sợi, mà để tập trung thu thuế tiêu thụ đặc biệt vào thuốc lá điếu.

Như vậy, chỉ còn 4 mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là thuốc lá điếu, bia, rượu và pháo.

2. Về giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt: Luật thuế hiện hành quy định:

“Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá do cơ sở sản xuất mặt hàng đó bán ra”. Nay, đề nghị sửa đổi thành: "Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá do cơ sở sản xuất mặt hàng đó bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt”.

3. Về thuế suất: Do sửa đổi giá tính thuế nên đề nghị sửa đổi thuế suất cho phù hợp với thực tế, bảo đảm yêu cầu thu cho ngân sách, các doanh nghiệp nộp được thuế và bảo đảm một tỷ lệ lãi hợp lý (từ 7-12%) cho từng mặt hàng. Các thuế suất được sửa đổi như sau:

1. Thuốc hút:

- Thuốc lá điếu có đầu lọc, sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu nhập khẩu: 70%.

- Thuốc lá điếu có đầu lọc, sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu trong nước: 52%.

- Thuốc lá điếu không có đầu lọc, xì gà: 32%.

2. Rượu các loại:

- Trên 40o: 90%

- Từ 30o đến 40o: 75%

- Dưới 30o, kể cả rượu hoa quả, rượu thuốc: 25%

3. Bia các loại: 90%

- Riêng bia hộp: 75%

4. Pháo: 100%

4. Về thời hạn nộp thuế: để phù hợp với tình hình thực tế, đề nghị khoản 2 Điều 15 được sửa đổi, bổ sung: “Cơ sở lớn nộp thuế khi bán hàng hoặc trả hàng gia công và đã thu được tiền, nhưng chậm nhất không quá 15 ngày kể từ khi lập hóa đơn bán hàng hoặc trả hàng gia công”.

5. Về giảm thuế, miễn thuế: để phù hợp với tình hình thực tế là các doanh nghiệp trong bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường còn nhiều khó khăn do quy mô sản xuất nhỏ, vốn ít, kỹ thuật lạc hậu, đề nghị bổ sung thêm vào Điều 19, khoản 2 là: “cơ sở sản xuất có quy mô nhỏ nếu nộp đủ thuế tiêu thụ đặc biệt mà bị lỗ vốn, có thể được xét giảm thuế, mức giảm tối đa không quá 30% số thuế phải nộp, thời gian được giảm thuế tối đa không quá một năm.

Chính phủ quy định cụ thể việc giảm thuế, miễn thuế tại Điều này".

III- LUẬT THUẾ LỢI TỨC

1. Về doanh thu để tính lợi tức chịu thuế: để phù hợp với việc sửa đổi giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt và căn cứ tính thuế doanh thu, đề nghị đoạn đầu của Điều 8 được sửa đổi: “doanh thu để tính lợi tức chịu thuế là toàn bộ số tiền bán hàng, tiền gia công, tiền dịch vụ thu được”, trên cơ sở đó để xác định lợi tức chịu thuế.

2. Về thuế suất:

- Nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích lũy vốn để tái đầu tư, phát triển sản xuất, đề nghị sửa đổi thuế suất lợi tức theo các nhóm ngành, nghề từ: 30 – 40% - 50% xuống còn 25% – 35% - 45%.

- Đồng thời, đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 10, phần quy định về thuế lợi tức bổ sung như sau:

“+ Hộ tư nhân kinh doanh nếu có lợi tức bình quân tháng trên 10 triệu đồng, thì ngoài việc phải nộp theo thuế suất quy định tại Điều này, còn phải nộp thuế lợi tức bổ sung 25% phần lợi tức vượt trên 10 triệu đồng.

+ Tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh nếu có lợi tức chịu thuế cao do lợi thế khách quan, thì ngoài việc phải nộp theo thuế suất quy định tại Điều này, phần lợi tức còn lại nếu chia cho từng người góp vốn bình quân tháng trên 10 triệu đồng thì phải nộp thuế lợi tức bổ sung 25% phần lợi tức vượt trên 10 triệu đồng.

+ Doanh nghiệp nhà nước nếu có lợi tức chịu thuế cao do lợi thế khách quan, thì ngoài việc phải nộp thuế lợi tức theo thuế suất quy định tại Điều này, phần lợi tức còn lại sau khi được phép trích lập các quỹ theo quy định của pháp luật, phải nộp thuế lợi tức bổ sung, mức nộp tối đa không quá 50% số lợi tức còn lại. Chính phủ quy định chi tiết thuế suất thuế lợi tức bổ sung đối với từng ngành nghề”.

3. Về giảm thuế, miễn thuế:

Để khuyến khích mạnh mẽ việc đầu tư vốn phát triển sản xuất - kinh doanh, đề nghị sửa đổi, bổ sung các điều quy định về giảm thuế, miễn thuế lợi tức như sau:

- Điều 22 được sửa đổi, bổ sung: “tổ chức, cá nhân kinh doanh dùng lợi tức để tái đầu tư hoặc đầu tư chiều sâu, thì được giảm thuế lợi tức. Tỷ lệ thuế lợi tức được giảm bằng tỷ lệ số tiền đã chi để tái đầu tư so với lợi tức chịu thuế, nhưng mức giảm tối đa không quá 50% số thuế lợi tức phải nộp cả năm”.

- Điều 23 được sửa đổi, bổ sung: “Tổ chức kinh doanh thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất đối với những ngành Nhà nước khuyến khích phát triển sản xuất mà thực sự bị lỗ, thì được chuyển số lỗ sang năm sau khi tính thuế lợi tức. Thời gian được chuyển lỗ để tính thuế lợi tức không quá 3 năm kể từ năm đầu bị lỗ".

- Điều 25 được sửa đổi, bổ sung: “Cơ sở sản xuất mới thành lập được miễn thuế lợi tức 2 năm đầu, kể từ khi có lợi tức và được giảm 50% thuế lợi tức trong 2 năm tiếp theo; riêng cơ sở sản xuất mới thành lập ở các vùng có khó khăn thì thời gian giảm thuế được kéo dài thêm hai năm nữa.

Cơ sở đang sản xuất ở các vùng có khó khăn được giảm thuế lợi tức tối đa 50%, thời gian giảm thuế không quá 2 năm.

Chính phủ quy định cụ thể vùng có khó khăn quy định tại Điều này”.

IV- LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU

1. Để bảo đảm việc quản lý được chặt chẽ, hạn chế sơ hở, đối với hàng vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua biên giới Việt Nam, hàng chuyển khẩu được phép của Chính phủ thì không thuộc diện chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sau khi làm đầy đủ thủ tục hải quan, đề nghị Điều 2 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Hàng hóa trong các trường hợp sau đây không thuộc diện chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sau khi làm đầy đủ thủ tục hải quan:

1. Hàng vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua biên giới Việt Nam, hàng chuyển khẩu theo quy định của Chính phủ;

2. Hàng viện trợ nhân đạo”.

2. Về các trường hợp được miễn thuế và xét miễn thuế:

- Khoản 3, khoản 5 của Điều 10 (cũ) quy định:

“3. Hàng là tài sản di chuyển, hàng của công dân Việt Nam đi hợp tác lao động, hợp tác chuyên gia, công tác và học tập ở nước ngoài mang theo hoặc gửi về nước trong mức quy định của Hội đồng Bộ trưởng”.

“5. Hàng xuất khẩu để trả nợ nước ngoài của Chính phủ”.

Việc quy định miễn thuế như trên là quá rộng, khó quản lý được, nên đã dẫn đến lợi dụng trốn thuế. Vì vậy, đề nghị ở Điều 10 xóa bỏ khoản 5 và một phần của khoản 3, chỉ giữ lại đoạn đầu của khoản 3: hàng là tài sản di chuyển…

- Khoản 1, khoản 3 của Điều 11 (cũ ) quy định: “Được xét miễn thuế trong các trường hợp:

1. Hàng nhập khẩu chuyên dùng cho an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục, đào tạo”.

3. Hàng xuất khẩu, nhập khẩu của xí nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài và của bên nước ngoài hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh trong các trường hợp cần khuyến khích đầu tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”.

Trong thực tế, các khoản trên của Điều này đã bị lợi dụng để trốn thuế. Việc kiểm tra, kiểm soát, xét miễn thuế khó tránh được sơ hở, không kiểm soát hết được. Vì vậy, đề nghị ở Điều 11 xóa bỏ khoản 1 và bổ sung vào khoản 3 một đoạn sau đây :

“Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư, sau khi có sự thống nhất của Bộ Tài chính, xét miễn thuế xuất khẩu hoặc thuế nhập khẩu cho từng trường hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư”.

3. Về thời hạn nộp thuế Điều 17 khoản 3b Luật thuế xuất, nhập khẩu quy định thời hạn nộp thuế đối với hàng nhập khẩu mậu dịch là 30 ngày kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo chính thức số thuế phải nộp của cơ quan thu thuế. Quy định này là phù hợp với việc nhập khẩu hàng hóa nói chung, riêng đối với việc nhập khẩu vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu thì đơn vị sản xuất không thực hiện được. Ví dụ, một quy trình sản xuất hàng xuất khẩu (như may mặc, đóng giầy) từ lúc nhập vật tư, sản xuất, xuất sản phẩm và thu tiền về thường là dài khoảng 90 ngày. Nếu phải nộp thuế trong thời hạn 30 ngày (tuy sau đó được hoàn lại) thì đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu phải vay Ngân hàng và chịu một số lãi tiền vay không nhỏ, hơn nữa, hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu là hoạt động cần được khuyến khích. Do đó, cần cho kéo dài thời hạn nộp xong thuế đối với trường hợp này tối đa là 90 ngày, nhưng với điều kiện phải có sự bảo lãnh của ngân hàng. Cũng có ý kiến cho rằng, 90 ngày là quá dài, nên quy định tối đa là 60 ngày thôi.

Cùng với việc quy định thời gian nộp thuế, đối với các trường hợp tạm nhập tái xuất, hàng gia công, v.v.. Nếu trong thời hạn quy định mà các nghiệp vụ này đã được hoàn tất thì không cần phải bắt đơn vị nộp thuế, rồi lại thoái thu gây phiền hà không cần thiết.

Vì vậy đề nghị điểm a, điểm b, khoản 3 Điều 17 được sửa đổi như sau:

“Thời hạn đối tượng nộp thuế phải nộp xong thuế được quy định như sau:

a) Mười lăm ngày, kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo chính thức của Cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp, đối với hàng xuất khẩu;

Trong trường hợp hàng tạm xuất khẩu để tái nhập khẩu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, nếu thực tái nhập khẩu trong thời hạn 15 ngày quy định tại điểm này, thì không phải nộp thuế xuất khẩu.

b) Ba mươi ngày, kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo chính thức của Cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp đối với hàng nhập khẩu.

Trong trường hợp hàng tạm nhập khẩu để tái xuất khẩu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, nếu thực tái xuất khẩu trong thời hạn 30 ngày quy định tại điểm này thì không phải nộp thuế nhập khẩu.

Riêng trường hợp hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, thì thời hạn nộp xong thuế được quy định cho từng ngành, nghề sản xuất cụ thể, nhưng chậm nhất không được quá 90 ngày, kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo chính thức của Cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp, nếu đối tượng nộp thuế này có sự bảo lãnh của Ngân hàng.

Chính phủ quy định chi tiết thời hạn cụ thể được áp dụng cho từng ngành, nghề sản xuất.

Trong trường hợp đã thực xuất khẩu hàng sản xuất bằng vật tư, nguyên liệu nhập khẩu trong thời hạn quy định tại điểm này thì không phải nộp thuế nhập khẩu”.

4. Vấn đề xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên giới:

Để phù hợp với đặc điểm riêng của hoạt động này, Điều 5 của Luật thuế xuất nhập khẩu đã giao cho Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định thuế xuất nhập khẩu tiểu ngạch phù hợp với quy chế về xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên điểm của từng khu vực biên giới. Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã có Quyết định số 94/HĐBT ngày 25 tháng 3 năm 1992 quy định về quản lý thị trường vùng biên giới Việt - Trung; tiếp đó có Quyết định số 115/HĐBT ngày 9 tháng 4 năm 1992 về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tiểu ngạch biên giới. Theo đó, những mặt hàng có tên trong Biểu thuế và có thuế suất bằng từ 5% trở lên thì thu theo Biểu thuế; những mặt hàng không có tên trong Biểu hoặc những mặt hàng có thuế suất thấp hơn 5% thì đều thu thống nhất 5%, bảo đảm mọi hàng hóa xuất nhập khẩu tiểu ngạch đều phải nộp thuế và khuyến khích hướng họ vào xuất nhập khẩu chính ngạch để nộp thuế nhẹ hơn.

Thực hiện quy định trên và có sự tổ chức lại công tác quản lý thu thuế, số thuế xuất nhập khẩu tiểu ngạch ở Quảng Ninh và Lạng Sơn tăng lên rõ rệt (ở Lạng Sơn, số thu quý I-1983 là trên 32 tỷ đồng, gần bằng cả năm 1992 và ước thu cả năm 1993 sẽ bằng 4-5 lần số thuế thu được năm 1992). Tuy nhiên, tình hình đã diễn biến có những mặt tiêu cực sau đây:

- Lạm dụng tiểu ngạch biên giới để buông lỏng quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Việc lạm dụng này không chỉ ở các tỉnh biên giới phía Bắc, phía Tây Nam mà đã lan ra cả ở một số tỉnh ven biển.

- Đối tượng hoạt động xuất nhập khẩu tiểu ngạch theo Quyết định số 94 và 115/HĐBT là chỉ những cư dân ở khu vực biên giới; nhưng trong thực tế có cả các tổ chức, cá nhân ở các tỉnh trong nội địa cũng lên biên giới hoạt động xuất nhập khẩu tiểu ngạch.

- Các Bộ Thương mại, Tài chính, Tổng cục Hải quan đã có các văn bản hướng dẫn thi hành Quyết định số 94 và 115 của Chính phủ, nhưng còn có sự hiểu khác nhau về hàng xuất, nhập khẩu tiểu ngạch và tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu tiểu ngạch, dẫn đến trong thực hiện có nhiều vướng mắc. Việc không quy định giới hạn mặt hàng mà định mức giá trị 500.000 đồng cho một chuyến hàng cũng gây khó khăn cho địa phương trong thực hiện.

- Còn có quá nhiều đầu mối hoạt động xuất nhập khẩu, nên không kiểm soát, quản lý được chặt chẽ.

- Việc quản lý xuất nhập khẩu tiểu ngạch ở biên giới đã giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh và đã có sự phân công, phối hợp giữa các ngành ở địa phương, nhưng có nơi, có lúc thực hiện chưa chặt chẽ, một số nơi kiểm hàng hóa không theo tờ khai mà theo lô hàng, theo chuyến hàng nên để thất thu lớn. Có nơi còn cố ý thu thấp bằng quy định giá thấp hoặc bớt số lượng để kéo nguồn thu về địa phương mình.

Như vậy, nổi lên chính của vấn đề này là tổ chức thực hiện, tổ chức quản lý mặt hàng và thu thuế. Nhưng để tránh hiểu sai, dẫn đến tùy tiện trong việc tổ chức thực hiện, Chính phủ đề nghị Quốc hội cho sửa lại Điều 5 của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ: “Căn cứ vào Luật này, Hội đồng Bộ trưởng quy định thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tiểu ngạch phù hợp với quy chế về xuất khẩu, nhập khẩu tiểu ngạch biên giới và đặc điểm của từng khu vực biên giới”, thành “ Căn cứ vào Luật này, Chính phủ quy định cụ thể về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với việc buôn bán hàng hóa của cư dân vùng biên giới khi mua, hoặc bán hàng hóa qua biên giới”.

Đồng thời, Chính phủ cần có biện pháp khắc phục những khuyết, nhược điểm trong tổ chức thực hiện như sau:

- Trước hết, cần xác định rõ xuất nhập khẩu của cư dân biên giới là chỉ ở các tỉnh biên giới; nghiêm cấm việc bung ra ở các tỉnh ven biển. Các ngành, các địa phương phải chấp hành nghiêm túc các quyết định của Chính phủ, không vì lợi ích cục bộ mà phá rào.

- Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan phải sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn, bảo đảm thi hành đúng các quyết định của Chính phủ làm rõ đối tượng, mặt hàng, tiêu chuẩn về xuất nhập khẩu của cư dân vùng biên giới, tiêu chuẩn về hành lý, quà biếu theo đúng quy định và phù hợp với thực tế để không vướng mắc khi tổ chức thực hiện. Phải chấn chỉnh lại các đầu mối, các công ty xuất nhập khẩu để bảo đảm kiểm soát, quản lý được chặt chẽ; đồng thời cần giảm bớt các thủ tục gây phiền hà cho dân.

- Tổ chức phối hợp các lực lượng liên ngành có sự phân công rõ ràng đặt dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính, và Ủy ban nhân dân địa phương vùng biên giới. Thực hiện kiểm hóa theo tờ khai, xác định đúng giá và thu đúng thuế suất.

Tăng cường kiểm tra chấn chỉnh ngay các trạm, các tổ chức thu thuế ở biên giới, kiểm tra thanh lọc đội ngũ cán bộ để hạn chế tiêu cực.

Các địa phương vùng biên giới phải thành lập tiểu ban biên giới chịu sự chỉ đạo của Ban Biên giới của Chính phủ trên toàn tuyến biên giới để có đối sách phù hợp với chính sách thương mại của từng nước láng giềng.

V- MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC CỦA BỐN LUẬT THUẾ

1. Về mức phạt nộp chậm tiền thuế:

Mức xử phạt nộp chậm tiền thuế quy định tại các điều, khoản của Luật thuế doanh thu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế lợi tức, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là 0,5% (5 phần nghìn) là quá cao. Để phù hợp với tình hình thực tế, đề nghị sửa đổi thành 0,2% (2 phần nghìn) số tiền chậm nộp mỗi ngày.

2. Để phù hợp với Luật tổ chức Quốc hội và Luật tổ chức Chính phủ, đề nghị trong các Luật thuế doanh thu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế lợi tức, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, các chữ “Hội đồng Nhà nước” được sửa đổi thành các chữ “Ủy ban thường vụ Quốc hội” và các chữ “Hội đồng Bộ trưởng” được sửa đổi thành các chữ “Chính phủ”.

3. Tổng hợp lại kết quả do sửa đổi, bổ sung các Luật thuế:

- Qua toàn bộ nội dung sửa đổi, bổ sung nêu trên, đã thể hiện được chính sách khuyến khích phát triển sản xuất và bảo vệ sản xuất trong nước, trên cơ sở đó bảo đảm tăng nguồn thu trước mắt và lâu dài; mặt khác, khắc phục bớt được chồng chéo, trùng lắp trong các luật thuế. Một số thuế suất được sửa đổi, bổ sung hợp lý hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất và kinh doanh có lãi.

- Về đánh giá kết quả tăng, giảm thu giữa chính sách hiện hành và chính sách dự kiến sửa đổi, bổ sung :

 

 

Số tăng (+)

Số giảm (-)

Tổng số (+)

Cộng chung

+ 330 tỷ

- 428,9 tỷ

- 98,9 tỷ

Thuế doanh thu

+ 80 tỷ

- 130,4 tỷ

- 50,4 tỷ

Thuế tiêu thụ đặc biệt

-

- 150,5 tỷ

- 150,5 tỷ

Thuế lợi tức

+ 110 tỷ

- 148 tỷ

- 38 tỷ

Thuế xuất nhập khẩu

+ 140 tỷ

-

+ 140 tỷ

 

Số thu về thuế doanh thu và thuế tiêu thụ đặc biệt tính toán theo Luật thuế thì giảm, nhưng khoản giảm thu đó là khoản thực tế không có tích lũy để nộp thuế, vì với thuế suất của luật thuế hiện hành, một số doanh nghiệp có quy mô nhỏ, thiết bị lạc hậu, vay vốn ngân hàng lớn, quản lý kém, bị lỗ vốn, không nộp được thuế. Riêng số thuế tiêu thụ đặc biệt còn treo nợ chưa giải quyết, khoảng hơn 40 tỷ đồng.

Việc giảm thuế đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới, sản xuất các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu, năm 1992 đã thực hiện theo các Nghị định số 114 và 35 của Chính phủ. Tính chung lại số giảm không nhiều.

PHẦN III

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Việc sửa đổi, bổ sung các luật thuế kỳ này chủ yếu chỉ bao gồm việc sửa đổi một số điểm bất hợp lý, một số điểm còn sơ hở bị lợi dụng, mở rộng diện miễn giảm thuế, nhằm góp phần bảo vệ và khuyến khích phát triển mạnh mẽ sản xuất trong nước, chống thất thu thuế.

Nhưng để đạt được yêu cầu đó, vấn đề đặc biệt quan trọng là phải chấn chỉnh một cách đồng bộ trong công tác quản lý sản xuất - kinh doanh, trong tổ chức các lực lượng phối hợp thực hiện các luật, pháp lệnh thuế trên các mặt chủ yếu sau đây:

1. Trước hết, công tác ngăn chặn được hàng nhập lậu để bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến khích mạnh mẽ sản xuất trong nước phát triển, đòi hỏi ngoài việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế xuất nhập khẩu, phải có nhiều biện pháp đồng bộ trong việc tổ chức thực hiện. Những biện pháp đó bao gồm sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn dưới luật, chấn chỉnh lại các đầu mối xuất nhập khẩu, tổ chức mạnh mẽ lực lượng Thuế quan ở biên giới, đồng thời tổ chức phối hợp các lực lượng liên ngành giữa Thuế quan, Thuế vụ, Biên phòng, Công an, có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, đặt dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính và Ủy ban nhân dân vùng biên giới trong việc tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu và chống buôn lậu.

- Đối với hàng xuất nhập khẩu của cư dân vùng biên giới, vấn đề cốt lõi là chấn chỉnh lại việc tổ chức thực hiện, từ việc quy định rõ thế nào là xuất nhập khẩu của cư dân vùng biên giới, đối tượng và tiêu chuẩn xuất nhập khẩu; tổ chức phối hợp các lực lượng liên ngành như Biên phòng, Thuế quan, Thuế vụ, Quản lý thị trường, Công an, có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng vừa hỗ trợ lẫn nhau, vừa kiểm tra giám sát lẫn nhau, bảo đảm thi hành đúng chính sách thuế và chống buôn lậu có hiệu quả.

- Để ngăn chặn được thất thu thuế trong nội địa có hiệu quả, trước hết các Bộ, các ngành quản lý sản xuất - kinh doanh phải hoàn thiện các chính sách, chế độ quản lý ngành và chấn chỉnh công tác tổ chức quản lý các doanh nghiệp thuộc ngành mình như sửa đổi, bổ sung các định mức tiêu hao vật tư, nguyên liệu, chế độ giá thành, chế độ quản lý vốn, chế độ bảo toàn vốn, chế độ trích khấu hao, chế độ chi tiêu hành chính, chế độ trả lương, trả thưởng, chế độ kế toán, thống kê, chế độ đăng ký kinh doanh gắn với đăng ký kê khai nộp thuế, trên cơ sở đó mới tính thuế, thu thuế chính xác, kịp thời theo luật định.

2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với ngành Thuế:

Phải thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) theo ngành dọc, đồng thời, phát huy mạnh mẽ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy chính quyền địa phương, thực hiện nguyên tắc song trùng lãnh đạo đối với ngành Thuế. Vì vậy, trong thời gian tới cần tăng cường sự chỉ đạo thường xuyên của chính quyền các cấp đối với công tác thu thuế ở địa phương, đặc biệt quan tâm chỉ đạo và kiểm tra cơ quan Thuế trong việc thi hành các luật thuế và chấp hành kỷ luật tài chính, thi hành kỷ luật nghiêm minh đối với những trường hợp trốn lậu thuế, tham ô, xâm tiêu tiền thuế.

3. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành thuế với các ngành, nhất là các ngành nội chính trong việc triển khai thi hành các luật, pháp lệnh thuế, chống thất thu, chống buôn lậu. Kinh nghiệm thực tế cho thấy ở những nơi có sự phối hợp tốt giữa các ngành, từ khâu quản lý sản xuất - kinh doanh đến việc tổ chức thi hành chính sách thuế thì kết quả thu thuế đạt cao.

4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong việc quản lý vốn, bảo toàn vốn, chống thất thoát vốn, thất thoát tiền thuế, ngăn chặn việc khai man doanh thu, khai man chi phí trong việc trả lương, trả thưởng không tương xứng với kết quả sản xuất, kinh doanh, góp phần lập lại trật tự, kỷ cương trong quản lý kinh tế tài chính ở các doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp nhà nước. Đối với ngoài quốc doanh thì tăng cường kiểm tra chống thất thu về hộ, chống thất thu doanh số để thực hiện nghĩa vụ thu nộp thuế công bằng xã hội.

5. Đổi mới mạnh mẽ các biện pháp nghiệp vụ quản lý thu thuế:

- Thực hiện việc tách ba bộ phận trong tổ chức quản lý thu thuế đối với tất cả các khu vực kinh tế quốc doanh, kinh tế ngoài quốc doanh, thuế nông nghiệp, để bảo đảm vừa hỗ trợ, vừa kiểm tra giám sát lẫn nhau, ngăn chặn tiêu cực trong công tác quản lý thu thuế.

- Mở rộng diện thu thuế qua Kho bạc để vừa hạn chế tiêu cực, vừa tăng cường lòng tin của nhân dân và ý thức nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong việc nộp thuế vào ngân sách nhà nước.

- Triển khai mạnh mẽ việc thực hiện Pháp lệnh kế toán, thống kê, hóa đơn chứng từ trong các doanh nghiệp nhà nước; mở rộng việc thực hiện chế độ sổ sách, kế toán đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong năm 1993, phấn đấu có 10 vạn hộ kinh doanh lớn và vừa thực hiện mở sổ sách kế toán và hóa đơn, chứng từ theo quy định.

- Chỉ đạo cơ quan Thuế địa phương thực hiện tốt việc lập sổ bộ, duyệt sổ bộ thuế để có căn cứ pháp lý trong việc tổ chức thu nộp thuế đúng chính sách.

- Chỉ đạo các đội kiểm tra chống thất thu góp phần thúc đẩy việc thi hành đúng chính sách, chế độ và chống thất thu cho ngân sách nhà nước.

6. Tăng cường củng cố tổ chức các đội Thuế xã, phường, chăm lo từ việc xây dựng trụ sở làm việc, trang bị phương tiện đi lại, phương tiện làm việc, máy vi tính trong việc quản lý thu thuế đến việc xây dựng đội ngũ, bảo đảm đủ biên chế theo nhiệm vụ được giao. Tiếp tục mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn kết hợp với việc rèn luyện đội ngũ cán bộ Thuế theo 10 điều kỷ luật của ngành, bảo đảm sắp xếp cán bộ đúng chức danh tiêu chuẩn công chức ngành Thuế. Trong năm 1993, phấn đấu có 70% số cán bộ Thuế trong toàn ngành được qua các lớp đào tạo cơ bản và tăng cường việc kiểm tra nội bộ: thực hiện các chế độ thu nộp thuế, quản lý sử dụng biên lai, ấn chỉ thuế, quản lý tài chính, quản lý hàng tạm giữ, hàng tịch thu, để vừa bảo đảm thi hành đúng chính sách, chế độ, vừa góp phần chống tiêu cực trong nội bộ ngành Thuế.

7. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng để giúp cho toàn dân hiểu rõ trách nhiệm và nghĩa vụ trong việc thi hành các luật, pháp lệnh thuế; đồng thời tham gia kiểm tra giám sát việc chấp hành đúng các luật thuế.

Chính phủ xin trình Quốc hội những nội dung sửa đổi, bổ sung các Luật thuế doanh thu, tiêu thụ đặc biệt, lợi tức, xuất nhập khẩu và những biện pháp tăng cường công tác tổ chức quản lý thu thuế như trên, để Quốc hội xem xét và quyết định.

 

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội