VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 1 1992-1993


BÁO CÁO CỦA ĐOÀN THƯ KÝ KỲ HỌP VỀ VIỆC TIẾP THỤ Ý KIẾN
CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ DỰ KIẾN CHỈNH LÝ DỰ ÁN QUY CHẾ
HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI


(Do bà Nguyễn Thị Ngọc Phượng, thay mặt
Đoàn thư ký đọc tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá IX, ngày 07-7-1993)

 

Kính thưa Đoàn Chủ tịch,

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Sau khi Quốc hội thảo luận về dự án “Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội”. Đoàn thư ký đã tổng hợp ý kiến đóng góp của các đại biểu Quốc hội.

Hầu hết ý kiến của các đại biểu Quốc hội nhất trí với Dự án: cho rằng Dự án đã được chuẩn bị công phu, qua nhiều lần chỉnh lý đã thể hiện tương đối đầy đủ ý kiến của đại biểu Quốc hội; cụ thể hóa nhiều quy định của Luật tổ chức Quốc hội; làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội; bố cục và nội dung các chương, điều cơ bản là hợp lý. Tuy nhiên, có số ý kiến cho rằng, dự án viết còn dài, một số điểm chưa rõ, chưa có chế tài bảo đảm việc thực hiện các quy định đề ra.

Trên cơ sở tiếp thụ ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Đoàn thư ký, Tiểu ban soạn thảo chỉnh lý lại Dự án. Sau đây, xin trình Quốc hội báo cáo về việc chỉnh lý nói trên.

Báo cáo này sẽ trình bày sâu vào những vấn đề có liên quan đến nội dung của Dự thảo, còn ý kiến đóng góp của các đại biểu Quốc hội về văn phong, câu chữ sẽ được tiếp thụ và sửa chữa trực tiếp vào văn bản.

Về Điều 1:

Có ý kiến đề nghị viết gọn lại, ghi như trong Dự thảo vừa dài lại không cần thiết.

Chúng tôi thấy ý kiến này là hợp lý, xin tiếp thụ và viết lại khoản 1 của Điều 1 như sau: “Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội”.

Về Điều 2:

Một số đại biểu cho rằng quy định: “Đại biểu Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của cơ quan Nhà nước” là vượt quá khả năng thực tế và không thật phù hợp.

Chúng tôi xin tiếp thụ và sửa lại Điều này như sau:

“Đại biểu Quốc hội tham gia quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội: lập hiến, lập pháp, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân; giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước”.

Về Điều 3:

Có đại biểu đề nghị không nên quy định “… đại biểu Quốc hội phải thường xuyên tiếp xúc với cử tri…”, vì điều đó là không thực tế và rất khó thực hiện, và đề nghị thay từ “thường xuyên” bằng từ “định kỳ” cho phù hợp.

Có ý kiến cho rằng, quy định ở khoản 3 của Điều này về việc “đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến pháp luật …” là quá nặng, đại biểu Quốc hội không có điều kiện thực hiện. Để quy định Điều này một cách hợp lý hơn cần ghi là “đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật…”.

Chúng tôi thấy các ý kiến trên là hợp lý, xin viết lại khoản 2 và khoản 3 Điều này như sau:

“Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri, thu thập và phản ánh đúng ý kiến của cử tri với Quốc hội và cơ quan nhà nước hữu quan, định kỳ báo cáo với cử tri về hoạt động của mình.

Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật, động viên nhân dân chấp hành pháp luật và tham gia quản lý nhà nước.

Về Điều 4:

Nhiều ý kiến cho rằng, quy định về việc Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội “giữ mối quan hệ với… cơ quan chính quyền địa phương” là rất rộng và không rõ đối tượng cụ thể. Vì vậy, cần thay cụm từ “cơ quan chính quyền địa phương” bằng cụm từ “Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân”. Chúng tôi xin tiếp thụ và chỉnh lý trong Dự thảo.

Có ý kiến đề nghị bỏ từ “có thể” trong câu “Mỗi đoàn có thể có từ một đến hai đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách”, vì quy định như vậy là quá co dãn, các đoàn đại biểu muốn bố trí đại biểu hoạt động chuyên trách hay không đều được; nên quy định cụ thể Đoàn đại biểu Quốc hội có bao nhiêu đại biểu thì có đại biểu hoạt động chuyên trách, hoặc quy định dứt khoát mỗi Đoàn phải có một đến hai đại biểu chuyên trách.

Chúng tôi thấy ý kiến này là hợp lý, để nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội cần có một tỷ lệ thích đáng các đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách. Nhưng trước mắt cần quy định vấn đề này phù hợp với điều kiện thực tế để tất cả các đoàn đại biểu Quốc hội đều có thể thực hiện được. Xin sửa lại khoản 3 của Điều này như sau:

“Mỗi đoàn có ít nhất là một đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách”.

Về Điều 5:

Có ý kiến đề nghị thêm cụm từ “đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu” vào dòng đầu của Điều này; đồng thời bổ sung quy định về trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội đối với các cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của mặt trận.

Chúng tôi xin tiếp thụ ý kiến này và xin viết lại Điều 5 như sau:

“Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của mình.

Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được quy định, các cơ quan, tổ chức, đơn vị nói ở Điều này có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội”.

Cũng xin báo cáo với Quốc hội là có ý kiến đề nghị không nên quy định trong Quy chế trách nhiệm trực tiếp của các “cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang…” vì cho rằng như vậy là không đúng đối tượng điều chỉnh của Dự án. Chúng tôi thấy rằng, Quy chế này không phải là một văn bản có tính chất nội bộ: một thực tế khách quan là các đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội phải có quan hệ với các cấp, các ngành, các cơ quan, đoàn thể trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Để thể chế hóa mối quan hệ này, việc quy định trách nhiệm của các bên hữu quan là rất cần thiết. Do đó, ngoài việc thông qua Quy chế, Quốc hội sẽ ra nghị quyết ban hành Quy chế. Như vậy, văn bản này sẽ có hiệu lực pháp lý trong cả nước. Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ, cũng như các cơ quan, tổ chức hữu quan sẽ phải có văn bản hướng dẫn việc thi hành Quy chế. Vì vậy, chúng tôi thấy rằng giữ như trong Dự thảo là hợp lý.

Có ý kiến đề nghị ở Chương quy định chung nên thêm một điều nói về quyền của Đoàn đại biểu Quốc hội giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật trên phạm vi lãnh thổ địa phương. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, Đoàn đại biểu Quốc hội không phải là một cấp, do đó, nên quy định vừa phải, có mức độ.

Chúng tôi đề nghị giữ nguyên như Dự thảo.

Về Điều 6:

Về việc xin phép vắng mặt tại kỳ họp Quốc hội, một số ý kiến đề nghị ở khoản 2, chỉ nên ghi là đại biểu Quốc hội có lý do chính đáng, thì báo cáo xin phép Trưởng Đoàn là đủ, Trưởng Đoàn không nhất thiết phải báo cáo với Chủ tịch Quốc hội. Ngược lại, cũng có ý kiến đề nghị đại biểu Quốc hội chỉ có thể vắng mặt khi được Chủ tịch Quốc hội cho phép.

Chúng tôi thấy việc tham gia các kỳ họp Quốc hội vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của đại biểu. Chỉ trong trường hợp thật đặc biệt thì đại biểu Quốc hội mới phải vắng mặt. Trong trường hợp đó đại biểu báo cáo Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội, Trưởng Đoàn thấy hợp lý thì báo cáo Chủ tịch Quốc hội. Quy định như vậy là để tăng cường vai trò và trách nhiệm của Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội, đồng thời cũng giúp Chủ tịch Quốc hội nắm được số đại biểu Quốc hội vắng mặt tại kỳ họp Quốc hội.

Vì vậy, chúng tôi đề nghị giữ nguyên như Dự thảo.

Về Điều 10:

Nhiều ý kiến đề nghị gộp Điều 10 quy định về quyền của đại biểu Quốc hội trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và Điều 11 quy định về quyền của đại biểu Quốc hội trình dự án luật, pháp lệnh thành một điều. Chúng tôi thấy đề nghị này là hợp lý, xin tiếp thụ.

Có đại biểu đề nghị nên bổ sung quy định về việc Ủy ban thường vụ Quốc hội tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu Quốc hội thực hiện quyền trình Dự án Luật, dự án pháp lệnh, trong trường hợp các dự án này của đại biểu được đưa vào chương trình xây dựng pháp luật.

Hiện nay các dự án luật, pháp lệnh được đưa vào chương trình xây dựng pháp luật đều có một khoản kinh phí do Nhà nước cấp. Tuy nhiên, ngoài khoản kinh phí đó, các điều kiện khác như thông tin, tài liệu, chuyên gia… đều rất quan trọng đối với việc xây dựng các văn bản nói trên. Vì vậy, chúng tôi thấy ý kiến này là hợp lý, xin bổ sung vào cuối Điều 11 một ý như sau:

“Ủy ban thường vụ Quốc hội tạo điều kiện cần thiết để đại biểu Quốc hội thực hiện quyền trình Dự án luật, dự án pháp lệnh của mình”.

Về Điều 11:

Có ý kiến đề nghị bỏ quy định về việc đại biểu Quốc hội chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội tại khoản 3 của Điều này. Chúng tôi đề nghị giữ nguyên như Dự thảo, vì vấn đề này đã được quy định tại Điều 42 của Luật tổ chức Quốc hội.

Cũng tại Điều này, có ý kiến đề nghị nên quy định việc dành 1-2 ngày trong mỗi kỳ họp Quốc hội cho chất vấn và trả lời chất vấn. Thời gian này là cần thiết để các đại biểu Quốc hội có điều kiện trực tiếp đối thoại, trao đổi ý kiến với đại diện của các cơ quan chức năng. Chúng tôi thấy ý kiến này là hợp lý. Tuy nhiên, số lượng và nội dung chất vấn của các đại biểu Quốc hội tại các kỳ họp thường không đồng nhất. Vì vậy, rất khó quy định thời gian cụ thể cho vấn đề này. Chúng tôi đề nghị giữ nguyên như Dự thảo. Tùy tình hình cụ thể của mỗi kỳ họp, Quốc hội sẽ điều chỉnh thời gian dành cho chất vấn và trả lời chất vấn trong chương trình cho phù hợp.

Về Điều 12:

Một số đại biểu cho rằng việc tiếp dân, tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội là nhiệm vụ rất cần thiết, đại biểu Quốc hội phải sắp xếp thời gian và công việc để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Chỉ trừ trường hợp thật đặc biệt không thể tham gia được thì đại biểu Quốc hội phải báo cáo Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội.

Chúng tôi xin tiếp thụ ý kiến này và viết lại khoản 2 của Điều 12 như sau: “Trong trường hợp đặc biệt, đại biểu Quốc hội không thể tham gia việc tiếp dân, tiếp xúc cử tri, báo cáo kết quả kỳ họp Quốc hội được, thì đại biểu Quốc hội đó phải báo cáo với Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội”.

Về Điều 13:

Có ý kiến cho rằng việc quy định “mỗi năm ít nhất một lần đại biểu báo cáo và lấy ý kiến nhận xét của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Thường trực Hội đồng nhân dân và của cử tri” là rất khó thực hiện và dễ dẫn đến cách làm hình thức.

Tiếp thụ các ý kiến nói trên, theo tinh thần của khoản 2, Điều 43 Luật tổ chức Quốc hội, xin viết lại Điều 13 như sau:

“Mỗi năm một lần, kết hợp với việc tiếp xúc cử tri trước kỳ họp cuối năm của Quốc hội, đại biểu Quốc hội báo cáo với cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình. Cử tri có thể trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận Tổ quốc yêu cầu đại biểu báo cáo công tác và có thể nhận xét đối với việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội”.

Điều 14 :

Nhiều ý kiến đề nghị không nên quy định việc đại biểu Quốc hội phải trả lời cho công dân về kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; việc này nên giao cho Đoàn đại biểu Quốc hội, hoặc các cơ quan hữu quan. Trách nhiệm của đại biểu Quốc hội là giám sát, đôn đốc để các cơ quan này giải quyết kịp thời các đơn thư do đại biểu chuyển đến và báo cáo kết quả cho Đoàn đại biểu Quốc hội, đồng thời trả lời cho đương sự. Ngoài ra, có ý kiến đề nghị bổ sung chế tài quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc giải quyết các đơn thư do đại biểu Quốc hội chuyển đến.

Chúng tôi thấy các ý kiến này là hợp lý, xin tiếp thụ và viết lại Điều này như sau: “Khi nhận được kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm nghiên cứu, chuyển đến các cơ quan hữu quan và đôn đốc, theo dõi việc giải quyết. Các cơ quan này có trách nhiệm xem xét, giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trong thời hạn theo quy định của pháp luật và thông báo kết quả cho đại biểu Quốc hội và người khiếu nại, tố cáo biết.

Nếu việc giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo đó không thỏa đáng, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu thủ trưởng cơ quan hữu quan hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan đó xem xét lại.

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc cá nhân nói ở Điều này không giải quyết, giải quyết không thỏa đáng hoặc không bảo đảm thời gian quy định, thì đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét”.

Cũng có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn nữa nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Chúng tôi thấy quy định như trong Dự thảo là hợp lý vì trách nhiệm của đại biểu Quốc hội là giám sát, đôn đốc, kiểm tra, chứ không làm thay các cơ quan chức năng trong công việc này.

Về Điều 15:

Có ý kiến đề nghị bỏ Điều 15, vì cho rằng đại biểu Quốc hội không có đủ các điều kiện cần thiết để phát hiện hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu các cơ quan hữu quan có biện pháp chấm dứt các hành vi đó. Chúng tôi thấy vai trò giám sát của đại biểu Quốc hội là rất quan trọng, cần được tăng cường. Do đó, xin đề nghị giữ như Dự thảo và sửa chữa thêm về câu chữ cho phù hợp hơn.

Có ý kiến đề nghị bỏ khoản 2 của Điều này quy định việc đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét, nếu thấy các biện pháp nhằm chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật nói trên là không thỏa đáng; quy định như thế là lòng vòng và không cần thiết. Chúng tôi thấy ý kiến này là hợp lý xin tiếp thụ.

Về Điều 17:

Có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 2 của Điều này quy định về việc Thường trực Hội đồng nhân dân phải gửi trước các tài liệu của kỳ họp Hội đồng nhân dân cho đại biểu Quốc hội, để đại biểu Quốc hội có thời gian nghiên cứu, chuẩn bị phát biểu ý kiến. Chúng tôi thấy ý kiến này là hợp lý, xin tiếp thụ và chỉnh lý trong Dự thảo.

Về Điều 20:

Nhiều đại biểu đề nghị không nên quy định việc Đoàn đại biểu Quốc hội phải xây dựng chương trình hoạt động “hàng quý” vì như thế là không phù hợp. Chúng tôi xin tiếp thụ và chỉnh lý trong Dự thảo.

Về Điều 21:

Để giúp các đại biểu Quốc hội có điều kiện tham khảo ý kiến trong quá trình thảo luận, xem xét các vấn đề liên quan, một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm quy định về việc “Đoàn đại biểu Quốc hội được mời chuyên gia thuộc lĩnh vực liên quan dự họp Đoàn đại biểu Quốc hội để tham gia ý kiến”. Chúng tôi thấy ý kiến này là hợp lý, xin tiếp thụ và bổ sung trong Dự thảo.

Về Điều 23:

Có ý kiến đề nghị cần quy định cho đại biểu Quốc hội quyền đề nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp tài liệu, xem xét giải quyết các vấn đề liên quan đến việc thi hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân… như đối với Đoàn đại biểu Quốc hội; vì vậy, đề nghị bổ sung cụm từ “đại biểu Quốc hội” vào trước cụm từ “Đoàn đại biểu Quốc hội” ở khoản 1 và khoản 2 của Điều này. Ngoài ra, còn có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong trường hợp không thực hiện các yêu cầu nói tại Điều này của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội.

Chúng tôi thấy các ý kiến trên là hợp lý, xin tiếp thu và viết lại Điều này như sau:

“Khi cần thiết, đại biểu và Đoàn đại biểu Quốc hội yêu cầu các cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang ở địa phương.

- Cung cấp tài liệu về những vấn đề mà đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội quan tâm.

- Xem xét và giải quyết những vấn đề có liên quan đến việc thi hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân, hoặc những vấn đề khác liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân địa phương.

Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân có trách nhiệm, trong phạm vi chức năng của mình, giải quyết các yêu cầu của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội.

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc cá nhân nói ở Điều này không giải quyết hoặc giải quyết không thỏa đáng yêu cầu của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội thì đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét”.

Về Điều 24:

Có ý kiến đề nghị nên giao cho Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội trách nhiệm tổ chức và phân công đại biểu Quốc hội tiếp dân để tăng cường vai trò, trách nhiệm của Trưởng Đoàn. Chúng tôi xin tiếp thụ và chỉnh lý trong Dự thảo.

Cũng tại Điều này, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc trong những trường hợp cần thiết Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức kiểm tra, đôn đốc các cơ quan hữu quan giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.

Chúng tôi xin tiếp thụ ý kiến này và bổ sung vào cuối Điều 24 một khoản như sau:

“Khi cần thiết, Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức kiểm tra, đôn đốc các cơ quan hữu quan giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân”.

Về Điều 25, 26:

Có ý kiến đề nghị không nên quy định việc đại biểu Quốc hội chỉ tiếp xúc cử tri ở đơn vị bầu cử, vì cho rằng đại biểu có thể tiếp xúc cử tri ở cơ quan, đơn vị nơi công tác hoặc ở nơi cư trú… Chúng tôi xin tiếp thụ và chỉnh lý trong Dự thảo.

Về Điều 27:

Một số ý kiến cho rằng, trong việc tổ chức tiếp xúc cử tri, khảo sát tình hình thực tế ở địa phương, Đoàn đại biểu Quốc hội chỉ cần phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, hoặc thành phố trực thuộc Trung ương là đủ, không cần quy định thêm các tổ chức khác. Chúng tôi thấy ý kiến này là hợp lý, xin tiếp thụ và chỉnh lý trong Dự thảo.

Về Điều 31:

Một số đại biểu đề nghị nên quy định rõ Đoàn đại biểu Quốc hội phối hợp công tác và thông báo tình hình hoạt động của Đoàn với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, chứ không phải với tất cả các cấp; đồng thời đề nghị bỏ bớt một số quy định không cần thiết ở khoản 2 và khoản 3.

Tiếp thụ các ý kiến trên đây, chúng tôi xin chỉnh lý lại Điều 31 như sau:

“Trong hoạt động của mình, Đoàn đại biểu Quốc hội phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

Mỗi năm hai lần, vào giữa năm và cuối năm, Đoàn đại biểu Quốc hội thông báo tình hình hoạt động của Đoàn tới Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.

Về Điều 32:

Có ý kiến đề nghị bỏ điểm 2 quy định về việc Đoàn đại biểu Quốc hội nghe đại diện Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương; bên cạnh đó có ý kiến lại đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội cần nghe cả phương hướng nhiệm vụ sắp tới của địa phương.

Chúng tôi đề nghị giữ như Dự thảo, vì trước mỗi kỳ họp Quốc hội, việc đại biểu Quốc hội nghe đại diện Ủy ban nhân dân tỉnh báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương là cần thiết, giúp cho đại biểu nắm được những thông tin để chuẩn bị tham gia thảo luận tại kỳ họp Quốc hội.

Về Điều 33:

Có ý kiến đề nghị trước khi Quốc hội thảo luận về vấn đề bãi nhiệm một đại biểu Quốc hội nào đó thì nên cho phép đại biểu đó phát biểu ý kiến. Chúng tôi xin tiếp thụ và chỉnh lý trong Dự thảo.

Có ý kiến đề nghị không nên đưa vào Quy chế việc Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định thể thức tiến hành bãi nhiệm của cử tri đối với đại biểu Quốc hội nói ở khoản cuối của điều này. Chúng tôi đề nghị giữ như Dự thảo, vì vấn đề này đã được quy định tại Điều 49 của Luật tổ chức Quốc hội.

Về Điều 35:

Một số ý kiến cho rằng, khi xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu, đại biểu Quốc hội cần gửi đơn đồng thời tới Ủy ban thường vụ Quốc hội và Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội.

Có ý kiến đề nghị nên quy định để đại biểu Quốc hội xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu phát biểu ý kiến trước khi Quốc hội thảo luận về vấn đề đó.

Chúng tôi thấy các ý kiến trên là hợp lý, xin tiếp thụ và chỉnh lý trong Dự thảo.

Về Điều 37:

Một số đại biểu đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm của Văn phòng Quốc hội trong việc cung cấp thông tin, tài liệu, văn bản liên quan đến hoạt động của Quốc hội cho các đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội. Chúng tôi xin tiếp thụ và bổ sung vào cuối khoản 1 của Điều này như sau:

“Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội được Văn phòng Quốc hội cung cấp thông tin, tài liệu, văn bản liên quan đến hoạt động của Quốc hội”.

Về Điều 41:

Nhiều ý kiến đề nghị quy định chế độ công tác phí cho đại biểu Quốc hội khi đi làm nhiệm vụ đại biểu do Đoàn đại biểu Quốc hội thanh toán. Chúng tôi thấy ý kiến này là hợp lý, xin tiếp thụ và chỉnh lý lại Điều này như sau: “Đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ theo sự phân công của Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc hoặc các Ủy ban của Quốc hội, được Đoàn đại biểu Quốc hội thanh toán tiền công tác phí theo quy định hiện hành”.

Về Điều 42:

Có ý kiến đề nghị quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan nơi đại biểu làm việc trước khi hoạt động chuyên trách trong việc bố trí việc làm thích hợp và bảo đảm các chế độ cho đại biểu Quốc hội sau khi hết nhiệm kỳ. Chúng tôi xin tiếp thụ và chỉnh lý trong Dự thảo.

Về Điều 43:

Một số đại biểu cho rằng, việc Dự thảo quy định đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách được dành 1/3 thời gian trong năm cho hoạt động đại biểu là khó thực hiện, vì hầu hết các đại biểu này đều phải dành nhiều thời gian cho công tác chuyên môn của mình; nhưng ngược lại cũng có ý kiến cho rằng, quy định như vậy thực ra chỉ mới đủ thời gian cho việc tham gia các kỳ họp Quốc hội, các hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội chứ chưa có thời gian cho những hoạt động khác của đại biểu và Đoàn đại biểu Quốc hội.

Chúng tôi đề nghị giữ nguyên như Dự thảo cho phù hợp với Điều 52 của Luật tổ chức Quốc hội.

Cũng có ý kiến đề nghị cần khẳng định trách nhiệm của người lãnh đạo cơ quan nơi đại biểu Quốc hội công tác trong việc tạo điều kiện cần thiết cho đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ, vì vậy, đề nghị bỏ cụm từ “theo khả năng của cơ quan, đơn vị…” tại khoản 2 của Điều này. Chúng tôi xin tiếp thụ và chỉnh lý trong Dự thảo.

Về Điều 46:

Nhiều ý kiến đề nghị chỉ nên quy định trong trường hợp cách chức hoặc buộc thôi việc đối với đại biểu Quốc hội, thì cơ quan, đơn vị nơi đại biểu công tác mới phải báo cáo xin ý kiến Ủy ban thường vụ Quốc hội, còn kỷ luật hành chính thì không cần có sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chúng tôi thấy điều đó là hợp lý, xin sửa lại khoản 3 của Điều này như sau: “đại biểu Quốc hội không thể bị cơ quan, đơn vị nơi đại biểu làm việc cách chức, buộc thôi việc, nếu không được Ủy ban thường vụ Quốc hội đồng ý”.

Về Điều 47:

Nhiều đại biểu đề nghị quy định Đoàn đại biểu Quốc hội có trụ sở làm việc riêng, trước mắt, nếu chưa có được thì nên gắn với Thường trực Hội đồng nhân dân, vì tính chất hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân có nhiều điểm giống nhau; nhưng cũng có ý kiến cho rằng nơi làm việc của Đoàn đại biểu Quốc hội không nhất thiết gắn với Văn phòng Ủy ban nhân dân hoặc Hội đồng nhân dân, mà có thể gắn với cơ quan nơi đại biểu Quốc hội công tác; có ý kiến đề nghị quy định rõ bộ phận giúp việc cho Đoàn đại biểu Quốc hội gồm mấy người, do ai tuyển dụng, quản lý.

Đây là vấn đề mới và còn nhiều ý kiến khác nhau. Trên thực tế, hiện nay ở các địa phương cũng đang tồn tại một số cách tổ chức bộ phận giúp việc cho Đoàn đại biểu Quốc hội; để phù hợp với tình hình trước mắt, chúng tôi đề nghị giữ quy định như trong Dự thảo.

Về Điều 48:

Nhiều ý kiến đề nghị nên có thêm quy định về tiêu chuẩn đối với Thư ký Đoàn đại biểu Quốc hội và quy định rõ Thư ký Đoàn đại biểu Quốc hội là cán bộ chuyên trách cho Đoàn, đồng thời quy định thêm một số nhiệm vụ, quyền hạn, cũng như chế độ, chính sách cho Thư ký Đoàn đại biểu Quốc hội.

Chúng tôi thấy các ý kiến trên là hợp lý, xin tiếp thụ và bổ sung những điều cần thiết vào Dự thảo; một số vấn đề khác liên quan đến chế độ chính sách đối với Thư ký Đoàn đại biểu Quốc hội sẽ được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét và quyết định sau.

Về Điều 49:

Có ý kiến đề nghị không nên quy định: “Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội có trách nhiệm trong việc quản lý và sử dụng con dấu”; ngược lại có ý kiến nhất trí ghi như Dự thảo.

Chúng tôi đề nghị giữ như Dự thảo.

Về Điều 50:

Nhiều ý kiến nhất trí ghi như Dự thảo là “Đoàn đại biểu Quốc hội có kinh phí hoạt động riêng” và đề nghị không nên để khoản kinh phí này trong ngân sách địa phương như quy định ở khoản 2 của Điều này.

Chúng tôi thấy ý kiến này là hợp lý, xin tiếp thụ và chỉnh lý Điều này như sau:

Đoàn đại biểu Quốc hội có kinh phí hoạt động riêng. Kinh phí hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương thuộc ngân sách của Quốc hội”.

Trên đây là dự kiến chỉnh lý Dự án Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội. Trên cơ sở tiếp thụ các ý kiến đóng góp của đại biểu Quốc hội. Xin trình Quốc hội xem xét và quyết định.

 

 

Lưu tại Phòng Lưu trữ
Văn phòng Quốc hội