ĐẨY NHANH NHỊP ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ,
XÃ HỘI, ĐƯA ĐẤT NƯỚC VÀO THỜI KỲ MỚI CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Báo cáo về kế hoạch và ngân sách nhà nước của Chính phủ trình Quốc hội trong kỳ họp này đã được gửi tới các vị đại biểu. Các báo cáo đó đã kiểm điểm việc thực hiện các nhiệm vụ do kỳ họp thứ 2 của Quốc hội đề ra cho năm 1993, đánh giá tình hình qua ba năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm 1991 - 1995, trình bày định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong hai năm còn lại, chủ yếu là năm 1994. Quốc hội cũng sẽ nghe các báo cáo bổ sung về quốc phòng, an ninh, về công tác đối ngoại, về phát triển kinh tế - xã hội miền núi, về thực hiện chế độ tiền lương mới và về chống tham nhũng, buôn lậu.
Báo cáo này phân tích thêm một số nhận định và chủ trương lớn trình Quốc hội xem xét.
I- YÊU CẦU BỨC BÁCH VÀ KHẢ NĂNG BƯỚC VÀO MỘT THỜI KỲ MỚI CỦA SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Năm 1993 đã tiếp tục phát huy đà chuyển biến, tiến bộ của năm 1992, đạt và vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu đã được kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa IX đề ra trong Nghị quyết về nhiệm vụ năm 1993.
Tình hình chung ba năm 1991 - 1993, tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt nhịp độ tăng bình quân hàng năm 7,2%, cao hơn mức đề ra trong kế hoạch 5 năm 1991 - 1995.
Sản xuất nông nghiệp hàng năm đều gặp thiên tai ở một số vùng, nhưng nhìn chung ba năm vẫn đạt mức kế hoạch tăng trưởng. Riêng năm 1993, hạn hán kéo dài, tiếp đến bão, lụt, úng diễn ra ở nhiều tỉnh miền Trung, song tính chung cả nước, sản lượng nông nghiệp vẫn tăng và thu hoạch được 24,5 triệu tấn lương thực, đạt mức kế hoạch đề ra cho năm 1995. Ở các vùng bị thiên tai, giá cả vẫn giữ được ổn định, sản xuất và đời sống của nhân dân sớm được khôi phục.
Sản xuất của các ngành công nghiệp, dịch vụ trong các thành phần kinh tế nhìn chung đã thích nghi với cơ chế thị trường. Sản lượng công nghiệp tăng bình quân hàng năm cao hơn mức kế hoạch.
Kim ngạch xuất khẩu, mức thu ngân sách tăng cao hơn nhịp độ phát triển sản xuất. Quan hệ kinh tế với bên ngoài được mở rộng nhanh. Cán cân thanh toán được cải thiện, nguồn thu ngoại tệ đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu vật tư và hàng hóa cần thiết cho sản xuất và đời sống. Nền kinh tế bắt đầu có tích lũy nội bộ. Đời sống của đông đảo nhân dân được cải thiện.
Bước tăng trưởng liên tục ba năm qua trong các ngành và lĩnh vực kinh tế chứng minh rằng nền kinh tế đã vượt qua tình trạng suy thoái.
Đi đôi với tăng trưởng kinh tế, lạm phát đã bị đẩy lùi; qua
11 tháng năm 1993, chỉ số giá tăng 4%, chắc chắn cả năm chỉ ở mức một con số. Trong việc giảm lạm phát, có tác động của hàng nhập lậu kìm giá một số mặt hàng công nghiệp trong nước. Song những nhân tố chính đưa tới sự ổn định giá và tỷ giá là sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển, việc điều hành lưu thông tiền tệ có tiến bộ và dự trữ vật chất được tăng thêm, có thể can thiệp vào thị trường khi có biến động bất thường. Mặc dầu còn những yếu tố chưa vững chắc như bội chi ngân sách còn lớn, dự trữ ngoại tệ còn mỏng, song nhìn chung, khả năng kiểm soát lạm phát được nâng cao hơn trước.
Lĩnh vực văn hóa, xã hội tuy còn nhiều tồn tại lớn song đã có bước chuyển động khá hơn các năm trước trong việc thực hiện các chương trình tạo việc làm, phổ cập tiểu học, nâng dần chất lượng giáo dục, nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, phủ sóng truyền thanh, truyền hình, phòng chống dịch bệnh, phát triển thể dục thể thao cũng như trong cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa.
Nhìn tổng quát, chúng ta đã khắc phục được một bước rất quan trọng khủng hoảng kinh tế - xã hội, nổi bật nhất là vượt qua được tình trạng suy thoái kinh tế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững ổn định chính trị trong hoàn cảnh đầy thử thách gay gắt lại không có tài trợ bên ngoài và đang bị Mỹ cấm vận. Thành tựu đó tỏ rõ sức sống và bản lĩnh của dân tộc và con người Việt Nam, chứng minh đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước phù hợp với thực tế của nước ta, thể hiện sức mạnh về khả năng tự lực tự cường của nhân dân ta.
Thành công của công cuộc đổi mới gắn liền với chính sách đối ngoại đa phương hóa và đa dạng hóa, được sự đồng tình và ủng hộ của các nước và các tổ chức quốc tế đã mở đường cho nước ta hội nhập với cộng đồng quốc tế. Hình ảnh Việt Nam đổi mới, mong muốn làm bạn với tất cả các nước được thế giới đón nhận, đánh giá cao, đang tạo cho nước ta thế thuận lợi mới trong quan hệ quốc tế.
Những nhân tố đó tăng thêm thế và lực cho đất nước, tạo những tiền đề cần thiết cho một thời kỳ mới của sự phát triển:
a) Đông đảo nhân dân tin tưởng và nhiệt tình hưởng ứng công cuộc đổi mới, coi đó là sự nghiệp của chính mình, phù hợp với lợi ích của mình. Nền kinh tế đã có động lực kích thích, tạo ra không khí hăng hái sản xuất - kinh doanh trong xã hội. Tuy hoạt động kinh tế và xã hội chưa đi vào trật tự, kỷ cương, song việc khơi dậy tính năng động, sáng tạo của mọi người trong xã hội thay thế tâm lý thụ động, ỷ lại của thời kỳ bao cấp là một yếu tố rất quan trọng của sự phát triển.
b) Môi trường phát triển đã có được những yếu tố cơ bản, thuận lợi hơn:
- Trước hết, đó là môi trường chính trị ổn định và môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác trong quan hệ quốc tế đã mở rộng với hầu khắp các nước.
- Khả năng kiểm soát lạm phát tạo cơ sở cho việc ổn định kinh tế vĩ mô, giảm bất trắc đối với đầu tư phát triển.
- Môi trường pháp chế đang được tích cực bổ sung và hoàn chỉnh thêm.
c) Điều kiện vật chất cho sự phát triển, tuy còn hạn chế về vốn, công nghệ, thị trường và cơ sở hạ tầng, song còn nhiều tiềm năng lớn có thể khai thác:
- Ở trong nước, nền kinh tế bắt đầu tăng được tích lũy nội bộ. Từ năm 1991 đến năm 1993, tỷ lệ đầu tư bằng vốn trong nước so với GDP lần lượt là 4,8%, 6,9% và 12,7%, chấm dứt tình trạng giảm tích lũy đầu tư trong nhiều năm liền. Nguồn vốn trong dân có thể huy động vào đầu tư phát triển còn lớn (ước tính năm 1993 khoảng 20 ngàn tỷ đồng, mới huy động được 8 ngàn tỷ, phần lớn là xây dựng nhà ở). Các chủ trương, chính sách mới có thể tạo sức bật cho nhiều ngành nghề, đặc biệt là cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn, bằng sức của dân là chính. Nguồn vốn đầu tư tập trung của Nhà nước bằng tích lũy trong nước và tài trợ phát triển của bên ngoài, cùng với dự trữ vật chất khá hơn các năm trước và có thể tăng nhanh trong thời gian tới.
- Đối với bên ngoài, khả năng tranh thủ vốn và công nghệ đang mở rộng nhanh, vượt qua chính sách cấm vận của Mỹ. Việc khai thông quan hệ tín dụng với các tổ chức tài chính quốc tế thúc đẩy mạnh nguồn tài trợ phát triển đa phương và song phương. Hội nghị các bên tài trợ cho Việt Nam vừa họp tại Pari có 22 nước và 17 tổ chức quốc tế đến dự đã cam kết tài trợ phát triển cho nước ta 1,86 tỷ USD trong tài khóa 1993 - 1994. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài tiếp tục tăng nhanh; đáng chú ý là phần vốn đưa vào thực hiện năm 1993 khoảng 800 - 850 triệu USD, gấp gần hai lần năm 1992. Lúc này, mức tranh thủ vốn bên ngoài phụ thuộc chủ yếu vào khả năng tiếp thu và sử dụng có hiệu quả của chúng ta.
Những yếu tố nêu trên đang tạo cơ hội lớn cho sự phát triển. Cơ hội không tự nó đến mà do nỗ lực chủ quan của toàn Đảng, toàn dân ta, kết hợp với xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác đang phát triển ở khu vực và trên thế giới. Cơ hội cũng không tự nó đem lại kết quả nếu chúng ta không biết kịp thời nắm lấy và khai thác.
2. Bước phát triển mới đòi hỏi không chỉ vận dụng cơ hội mà còn phải nhận rõ những mặt yếu kém, những khó khăn, trở lực cần khắc phục:
a) Nền kinh tế còn nhiều yếu tố chưa vững chắc, có thể gây mất ổn định:
Cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội chậm được cải thiện, có mặt tiếp tục xuống cấp. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư còn thấp. Nhiều tiềm lực của dân chưa được khai thác vào phát triển sản xuất. Tài sản công và vốn đầu tư của Nhà nước bị đục khoét và lãng phí lớn.
Sức sản xuất xã hội chưa được giải phóng triệt để. Hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, hạn chế nguồn và tích lũy đầu tư cũng như khả năng cải thiện đời sống.
Kinh tế thị trường đang ở trình độ sơ khai, vừa chưa được phát triển đầy đủ, vừa chưa được quản lý tốt, chủ yếu do hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, năng lực và hiệu lực quản lý vĩ mô chưa đi kịp yêu cầu; bộ máy nhà nước, hệ thống tài chính, ngân hàng và khu vực doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém và tiêu cực. Tệ tham nhũng, buôn lậu tiếp diễn nghiêm trọng. Mối đe dọa tái lạm phát không thể xem thường.
b) Nhiều mặt xã hội chuyển biến chậm, còn nhiều vấn đề gay gắt, khiến lòng dân chưa yên, đặc biệt là tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm, nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm tăng lên, không kể làm giàu phi pháp trong khi nhiều người làm ăn lương thiện, những người có công với nước đang khó khăn về đời sống.
c) Công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu và mở ra toàn diện vấp phải những chỗ khó hơn trước vì đụng tới lợi ích cục bộ, cá nhân, đồng thời lại đòi hỏi ý thức cách mạng, trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý cao hơn.
Tình trạng hư hỏng cùng với sự bất cập về năng lực, ý thức tổ chức, kỷ luật kém và tệ quan liêu, cửa quyền của không ít cán bộ trong nhiều cơ quan, tổ chức nhà nước ở các ngành, các cấp, cả lĩnh vực hành chính và lĩnh vực kinh doanh đang vô hiệu hóa nhiều chủ trương, chính sách, cản trở và phá hoại công cuộc đổi mới, làm giảm lòng tin của nhân dân đang thách thức sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Các lực lượng thù địch bên ngoài và bên trong đang tìm mọi cách phá ta, không bỏ lỡ cơ hội khoét sâu những mặt yếu trong nội bộ ta.
Để ngăn ngừa nguy cơ rối loạn bên trong và thao túng của bên ngoài, điều quyết định là chúng ta phải khắc phục những khuyết điểm chủ quan trong công tác lãnh đạo và quản lý cùng với sự hư hỏng và bất cập trong đội ngũ cán bộ.
3. Thách thức lớn nhất đối với dân tộc ta, chế độ ta là kinh tế phát triển chậm, hiệu quả kinh tế thấp dẫn tới nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, luôn luôn lâm vào thế yếu, bị thua thiệt trong cạnh tranh và hợp tác quốc tế. Trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi cuộc chạy đua kinh tế nổi lên hàng đầu và đang diễn ra quyết liệt, thì sự tụt hậu xa hơn về kinh tế dễ dẫn đến mất ổn định chính trị, xã hội, hạn chế khả năng củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ độc lập, chủ quyền.
Để vượt qua thách thức ấy, chúng ta phải kịp thời nắm bắt và tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, phát triển kinh tế - xã hội với nhịp độ nhanh và vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước xung quanh. Đó là nguyện vọng và đòi hỏi bức xúc của nhân dân, là điều quyết định sự bền vững của chế độ ta, bảo đảm cho đất nước ta phát triển theo mục tiêu và định hướng xã hội chủ nghĩa, làm thất bại mọi mưu mô, hành động phá hoại và xâm phạm chủ quyền nước ta.
Con đường duy nhất để thực hiện mục tiêu đó là tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới cả về bề rộng và chiều sâu, phát huy cao hơn nữa tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, ra sức cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế. Phải tận lực phát huy sức mạnh bên trong mới có thể thu hút và sử dụng tốt nguồn lực bên ngoài để đẩy nhanh sự phát triển. Tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài sẽ dẫn tới tình trạng bị lệ thuộc và kìm hãm sự phát triển của đất nước. Điều đó không chỉ là đạo lý mà đã được thực tế chứng minh.
Chúng ta có thể rút ra kết luận gì từ những điều phân tích trên? Kết luận đó là: Năm 1994, có thể và cần phải mở đầu một thời kỳ mới của sự phát triển kinh tế - xã hội trên đất nước ta. Nhịp độ tăng trưởng GDP trong những năm tới phải đạt không dưới 8%/năm, phấn đấu vượt mục tiêu đến năm 2000 tăng gấp đôi GDP so với năm 1990, chuẩn bị điều kiện và tạo đà cho đất nước tiến nhanh hơn khi bước vào thế kỷ XXI.
Trong mấy năm trước, chúng ta phải tập trung cho nhiệm vụ khắc phục suy thoái và lạm phát, ổn định kinh tế, xã hội, chính trị. Từ năm 1994, trong khi tiếp tục chăm lo sự ổn định, chúng ta có điều kiện đặt trọng tâm vào nhiệm vụ đẩy nhanh sự phát triển kinh tế, đi đôi với chuyển biến mạnh mẽ hơn về xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo thêm cơ sở củng cố sự ổn định chính trị và tăng cường quốc phòng, an ninh. Đó là con đường đưa đất nước thoát hẳn khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đi vào thế phát triển và ổn định vững chắc. Công tác chỉ đạo và quản lý không chỉ dồn sức cho việc xử lý những vấn đề cấp bách theo chính sách tình thế, mà phải chú trọng giải quyết những vấn đề cơ bản, có ý nghĩa chiến lược nhằm thúc đẩy nhanh hơn sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đưa nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn, đạt hiệu quả cao hơn, làm cho xã hội có trật tự, công bằng và tiến bộ tốt hơn.
Định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong hai năm tới và kế hoạch năm 1994 được xây dựng theo tinh thần đó. Tôi xin trình bày rõ thêm một số vấn đề lớn và trong từng vấn đề, cũng chú trọng những điểm đòi hỏi phải được nhìn nhận sâu hơn hoặc cần có cách giải quyết mới.
II- PHẢI LÀM GÌ ĐỂ CÓ NHỊP ĐỘ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ NHANH VÀ LÂU BỀN?
1. Đẩy mạnh đầu tư phát triển, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa
Ba năm qua, đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 68,8 ngàn tỷ đồng; dự kiến năm 1994, xấp xỉ 41 ngàn tỷ đồng, tăng 32% so với năm 1993, năm 1995, tăng lên khoảng 52 ngàn tỷ đồng. Cộng chung 5 năm có thể đạt và vượt mức đầu tư đề ra trong kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 theo yêu cầu thực hiện mục tiêu chiến lược đến năm 2000, tạo tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế và tạo nhiều việc làm trong xã hội.
a) Vốn đầu tư khai thác từ nguồn nào?
Nguồn vốn cơ bản nhất, quan trọng nhất là tiết kiệm và tích lũy trong nước.
Bất cứ ai nặng lòng vì nước, giữ gìn bản sắc của dân tộc đều không thể không phẫn nộ, xót xa trước tình trạng của công bị đục khoét, và trước sự tiêu xài hoang phí phổ biến của nhiều cơ quan, doanh nghiệp nhà nước và trong xã hội. Tệ trạng đó càng đáng phê phán khi đất nước còn nghèo, đời sống chung cũng như mức tích lũy còn thấp. Chính phủ có trách nhiệm lớn trong việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện pháp luật, chính sách khuyến khích tiết kiệm, đầu tư, ngăn chặn tham ô, lãng phí của công. Song, muốn đưa đất nước vào thời kỳ mới của sự phát triển, chúng ta phải phối hợp nhiều biện pháp, huy động nhiều lực lượng nhằm làm cho mọi người dân nhận rõ vận nước ở thời điểm hết sức quan trọng này, tạo thành dư luận xã hội tôn vinh cần kiệm, lên án tham ô, lãng phí, xa hoa. Điều này cần thể hiện trong từng mặt của đời sống xã hội; chẳng hạn làm sao hình thành dư luận và tâm lý xã hội coi việc phô trương, xa hoa trong những dịp cưới xin, ma chay, giỗ, tết, v.v. không phải là điều đáng chạy đua, đáng tự hào mà là điều đáng chê trách.
Dưới đây là chủ trương, chính sách của Chính phủ trong việc khai thác và sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong mấy năm trước mắt:
- Tiềm năng lớn đang nằm ở nguồn vốn trong dân và các doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn đầu tư có hiệu quả, cần được khai thác bằng chính sách khuyến khích tiết kiệm và hướng mạnh vào đầu tư cho sản xuất. Sớm ban hành văn bản pháp quy khuyến khích đầu tư trong nước với điều kiện ưu đãi ít nhất không kém đầu tư của nước ngoài; áp dụng các hình thức gọi cổ phần, bán cổ phiếu; tăng khả năng tự đầu tư của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước; đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh đối với mọi loại hình doanh nghiệp; phát triển các hình thức hướng dẫn và dịch vụ đầu tư. Những dự án đầu tư không đòi hỏi thiết bị và công nghệ phức tạp, có khả năng tiêu thụ sản phẩm và sinh lời nhanh (như chế biến thực phẩm, kinh doanh khách sạn, dịch vụ…) thì khuyến khích đầu tư trong nước là chính, tăng tỷ lệ vốn trong nước đối với các cơ sở và dự án liên doanh với nước ngoài.
Phát triển nhanh thị trường vốn; đổi mới và tổ chức tốt hơn hoạt động của hệ thống ngân hàng, công ty tài chính để huy động mọi khoản tiền nhàn rỗi vào các quỹ tiết kiệm, quỹ bảo hiểm, mua trái phiếu, cổ phiếu … Tăng nguồn tín dụng đầu tư, kể cả vốn tín dụng của Nhà nước; mở rộng nhanh tín dụng trung hạn và dài hạn, đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Chuẩn bị tốt các điều kiện cho việc xây dựng thí điểm thị trường chứng khoán, trước hết là ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
- Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước bao gồm tích lũy trong nước đưa vào ngân sách và các khoản tài trợ phát triển (ODA) song phương, đa phương (phần lớn là cho vay ưu đãi, một phần là viện trợ không hoàn lại). Nguồn tài trợ bên ngoài cam kết tại Hội nghị vừa họp ở Pari là một thuận lợi. Tuy nhiên, còn phải tích cực giải quyết nợ cũ để khai thông nguồn tín dụng bên ngoài và cần thấy rõ những khó khăn, phức tạp trong việc khai thác nguồn vốn này để làm tốt công tác chuẩn bị, tính kỹ hiệu quả và khả năng trả nợ, tránh thua thiệt và bị động.
Nguồn vốn trong tay Nhà nước có phần được cấp phát qua ngân sách, chỉ dành cho những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng không có khả năng trực tiếp thu hồi vốn. Một phần khác ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, được đầu tư qua hình thức tín dụng hoặc góp cổ phần, mua cổ phiếu của các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế. Cơ chế này được áp dụng ngay từ kế hoạch năm 1994.
Để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhà nước, tránh thất thoát và lãng phí, cần giải quyết mấy vấn đề:
- Chuẩn bị tốt các dự án đầu tư gắn với việc xây dựng kế hoạch dài hạn và quy hoạch phát triển các địa bàn. Trên cơ sở đó, điều phối hợp lý nguồn vốn nhà nước, bố trí đầu tư tập trung, không dàn đều. Đây là nhiệm vụ chính mà Ủy ban Kế hoạch Nhà nước phải thực hiện với sự đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp.
- Chấn chỉnh cơ chế quản lý vốn đầu tư của ngân sách; sửa lại đơn giá xây dựng cho sát với thực tế; hoàn thiện cơ chế đấu thầu thiết kế, thi công và quy chế giám sát, nghiệm thu. Sử dụng dịch vụ tư vấn của công ty trong nước và nước ngoài trong lĩnh vực này.
- Đổi mới cơ chế quản lý vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước theo kinh nghiệm quản lý nguồn tín dụng ưu đãi mà bên ngoài áp dụng khi cho nước ta vay.
- Các công trình đã được duyệt cấp vốn ngân sách hoặc vốn tín dụng của Nhà nước đều phải được bảo đảm cấp vốn đúng tiến độ kế hoạch. Quy rõ trách nhiệm đối với những thiệt hại vật chất do phía cấp vốn gây ra cho công trình xây dựng.
- Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài chiếm phần quan trọng nhất trong nguồn vốn bên ngoài. Yếu tố hàng đầu để thu hút nguồn vốn này là môi trường đầu tư thuận lợi, ít chịu rủi ro, phiền hà, sách nhiễu. Cần coi trọng cải thiện môi trường đầu tư, đồng thời có chính sách hấp dẫn nước ngoài đầu tư vào những lĩnh vực và địa bàn mà ta mong muốn. Kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện cam kết đầu tư, nhất là việc chuyển giao công nghệ và bảo vệ môi trường. Đã tới lúc không chỉ quan tâm gọi vốn mà phải thúc đẩy nhanh việc thực hiện vốn đã đăng ký và tăng cường quản lý nhà nước đối với các cơ sở đã đi vào hoạt động. Từ nay, chỉ tiêu chính phản ánh đầu tư trực tiếp của nước ngoài phải là số vốn đã thực hiện và hiệu quả đối với nền kinh tế.
b) Hướng đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xúc tiến một bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa theo phương hướng chiến lược từ nay đến năm 2000.
Hai năm tới cần chú trọng những định hướng dưới đây:
- Tạo chuyển biến rõ nét trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp, từng bước công nghiệp hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương Đảng chủ yếu bằng nguồn vốn và công sức của dân kết hợp với sự hướng dẫn và hỗ trợ của Nhà nước. Nhu cầu của thị trường trong, ngoài nước cùng với điều kiện mới về lương thực vừa đòi hỏi, vừa cho phép khắc phục tình trạng tự cấp tự túc, thuần nông và độc canh lúa. Từng vùng bố trí cơ cấu sản xuất phát huy được lợi thế của mình thì sẽ góp phần quyết định sớm thoát khỏi đói nghèo, nhất là vùng đồi núi, ven biển. Phát huy tác dụng mở rộng điện khí hóa để đẩy nhanh sự phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản ở nhiều trình độ công nghệ phù hợp với các vùng nông thôn. Tổng kết và nhân rộng các mô hình kinh tế nông - công nghiệp kết hợp nhiều thành phần kinh tế.
Thu hút đầu tư nước ngoài và khuyến khích đầu tư trong nước vào khai thác và chế biến tài nguyên, phủ xanh đồi núi trọc, phát triển sản xuất, dịch vụ hướng về xuất khẩu, tạo nhiều việc làm. Đây là nguồn vốn chính để hình thành cơ cấu mới theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
- Tập trung nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, trước hết là mạng lưới tải điện, các trục đường bộ, đường sắt, cảng, sân bay, hệ thống thủy lợi và nước sinh hoạt, hệ thống thông tin liên lạc nội địa và viễn thông, một số cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ và văn hóa, xã hội, đặc biệt là giáo dục và y tế. Mở rộng vốn tín dụng để triển khai xây dựng một số công trình công nghiệp then chốt đã chuẩn bị được điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường (Báo cáo về kế hoạch đã nêu danh mục các công trình quan trọng, nhất thiết phải làm).
- Tổ chức nghiên cứu, dự báo, lựa chọn đúng các mũi nhọn phát triển trong tương lai để xúc tiến kịp thời việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết.
- Quản lý, kiểm soát và thẩm định nghiêm ngặt việc nhập khẩu thiết bị kỹ thuật và công nghệ. Những trường hợp nhập khẩu công nghệ lỗi thời, gây ô nhiễm, giá đắt, nhất là nhập khẩu bằng nguồn vốn của Nhà nước cần phải quy rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm.
- Đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện quy hoạch các địa bàn kinh tế trọng điểm ở 3 vùng, phát huy tác dụng đầu tầu lôi kéo các vùng khác cùng phát triển. Quy hoạch và kế hoạch phát triển của các vùng khác phải tận dụng lợi thế của mình và liên kết kinh tế với các địa bàn trọng điểm. Nhà nước hỗ trợ và ưu tiên dành nguồn viện trợ không hoàn lại của bên ngoài cho các vùng còn nhiều khó khăn, trước hết là vùng biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng trước đây. Sự hỗ trợ đó tập trung vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, đi đôi với cơ chế, chính sách thích hợp và giúp công tác điều tra, quy hoạch nhằm tạo điều kiện cho từng vùng, từng địa phương khai thác các nguồn lực và thế mạnh của mình để phát triển.
Vừa qua, Chính phủ đã làm việc với các địa phương thuộc mấy vùng đang có nhiều khó khăn, đi tới xác định phương hướng phát triển tập trung vào một số chương trình mục tiêu từ nay đến năm 2000, nhằm thoát khỏi tình trạng nghèo khổ và kém phát triển, tạo tiền đề tiến nhanh khi bước vào thế kỷ XXI.
Các tỉnh ven biển miền Trung, ngoài những công trình điện, giao thông và thông tin trong chương trình quốc gia, phải tập trung sức vào mấy chương trình trọng điểm: Một là, bảo vệ vốn rừng và trồng rừng mới gắn với định canh, định cư và bảo vệ môi trường. Hai là: chuyển đổi cơ cấu trồng trọt và mùa vụ để né tránh thiên tai, phủ xanh đồi trọc bằng cây công nghiệp thích hợp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển đồng cỏ chăn nuôi lớn. Ba là, khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản gắn với nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, hải đảo. Bốn là, giải quyết đủ nước cho nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp và nước sinh hoạt ở đô thị, nông thôn.
Các tỉnh Tây Nguyên cũng tập trung vào mấy chương trình đó (trừ thủy sản) với quy mô và thế mạnh lớn hơn về rừng, cây công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc đi đôi với công nghiệp chế biến.
Các tỉnh miền núi phía Bắc trong những năm trước mắt phải tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội với sự hỗ trợ của Trung ương: mạng lưới giao thông, điện nước, thông tin, các cơ sở giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí, đặc biệt là các trường nội trú cho con em các dân tộc, cơ sở đào tạo đại học và nghiên cứu ở một số trung tâm; mạng lưới y tế với quy mô thích hợp, từ buôn, bản, làng tới các huyện và các cơ sở của tỉnh; phủ sóng truyền thanh, truyền hình, phát triển thông tin, văn hóa theo hướng khôi phục và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc.
Về phát triển kinh tế, thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu cây con, ngành, nghề theo các nghị quyết của Bộ Chính trị, Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về phát triển kinh tế - xã hội miền núi và gần đây là Chỉ thị 525 của Chính phủ bổ sung các chủ trương, chính sách cụ thể. Các tỉnh, huyện miền núi phải đi sâu, sát với cơ sở, đúc kết kinh nghiệm và xây dựng các mô hình kinh tế phù hợp với điều kiện phổ biến của từng vùng, thích hợp với đặc điểm từng dân tộc.
Chính phủ chọn một tỉnh và một huyện thuộc loại khó khăn nhất trong các địa phương miền núi để chỉ đạo trực tiếp, làm thí điểm rút kinh nghiệm.
Đầu năm 1994, Chính phủ sẽ làm việc tiếp với các địa phương thuộc hai vùng đồng bằng còn lại (đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long) để xác định phương hướng phát triển.
2. Phát huy tiềm năng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế
Việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần là một nội dung quan trọng góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới. Tuy vậy, còn phải tiếp tục đổi mới và thực hiện tốt cơ chế, chính sách đối với các thành phần kinh tế để giải phóng triệt để sức sản xuất:
a) Là một nước nghèo, chậm phát triển, để xây dựng nền kinh tế và bảo đảm vai trò của Nhà nước trong quản lý vĩ mô, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát triển khu vực kinh tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng là một tất yếu khách quan.
Kinh tế nhà nước không chỉ có các doanh nghiệp mà còn bao gồm tài chính, ngân hàng nhà nước, dự trữ quốc gia, tài nguyên, đất đai và tài sản quốc gia khác. Cần phải có cách nhìn toàn diện đối với kinh tế nhà nước để quản lý, bảo toàn và phát triển nguồn của cải quốc gia. Mọi tài sản quốc gia phải có người làm chủ. Thực hiện khẩn trương việc giao đất, giao rừng cho hộ nông dân, giải quyết cụ thể vấn đề đất đô thị, đất do các doanh nghiệp sử dụng, xúc tiến việc kinh doanh nhà ở, cho thuê hoặc bán những cơ sở kinh doanh và tài sản khác mà Nhà nước không cần giữ. Những việc này phải được thực hiện theo chủ trương thống nhất của Chính phủ và số tiền thu được do nhượng, bán, cho thuê tài sản quốc gia đều phải đưa vào ngân sách.
Khu vực doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp lại một bước, song cơ cấu hiện nay vẫn chưa hợp lý, chưa tập trung vào những ngành và lĩnh vực then chốt. Nhiều doanh nghiệp nhà nước có quy mô quá nhỏ, trang thiết bị lạc hậu, hiệu quả rất thấp. Vì vậy, một mặt, phải tiếp tục sắp xếp, chấn chỉnh khu vực doanh nghiệp nhà nước một cách kiên quyết và khẩn trương hơn, phân biệt những doanh nghiệp phục vụ công cộng đáp ứng nhu cầu và lợi ích chung về kinh tế - xã hội mà Nhà nước cần có chính sách và cơ chế quản lý thích hợp, với những doanh nghiệp hoàn toàn theo cơ chế kinh doanh mà sự tồn tại và phát triển phụ thuộc vào hiệu quả kinh tế trực tiếp. Mặt khác, cần tiếp tục phát triển doanh nghiệp nhà nước trong một số ngành và lĩnh vực cần thiết như cơ sở hạ tầng, một số cơ sở sản xuất cần nhiều vốn, kỹ thuật cao, đặc biệt là trong công nghiệp nặng. Nhà nước tập trung sức xây dựng một số doanh nghiệp nhà nước thành tổ chức kinh tế mạnh trong những ngành then chốt, có sức cạnh tranh và vươn ra thị trường quốc tế, hoạt động có hiệu quả và đóng góp phần quan trọng cho ngân sách nhà nước. Những doanh nghiệp thuộc loại đó cần được tổ chức lại, liên kết với ngân hàng thương mại, công ty xuất nhập khẩu, dịch vụ vận tải trong nước và ngoài nước, hình thành một số tổ chức kinh tế lớn. Điều quan trọng là sự liên kết đó phải trên cơ sở gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, về quan hệ sở hữu, về chiến lược phát triển, không phải là sự sắp xếp bằng biện pháp hành chính. Các doanh nghiệp nhà nước vừa cạnh tranh vừa hợp tác với các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần khác. Quá trình liên kết kinh tế để hình thành các tập đoàn lớn, do doanh nghiệp nhà nước làm nòng cốt, có thể có các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần khác tham gia dưới hình thức sở hữu hỗn hợp.
Các doanh nghiệp không cần duy trì hình thức quốc doanh thì cần định thời hạn xử lý dứt điểm bằng cách chuyển đổi sở hữu hoặc khoán, cho thuê hoặc sáp nhập, giải thể. Kinh nghiệm ở nhiều nông trường, lâm trường, cửa hàng thương mại và dịch vụ, công ty vận tải cho thấy việc áp dụng cơ chế khoán, nhượng lại một phần máy móc, thiết bị, vườn cây, gia súc, v.v. cho những người lao động trong doanh nghiệp đều đem lại hiệu quả kinh tế rất rõ rệt.
Một trong những giải pháp chủ yếu để tạo động lực cho người lao động, khắc phục tình trạng vô chủ đối với tài sản công, ngăn chặn tiêu cực, là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho công nhân, viên chức trong doanh nghiệp trở thành người đồng sở hữu cổ phần. Loại doanh nghiệp nào có thể và cần phải cổ phần hóa; tỷ lệ cổ phần nhà nước cần nắm, tỷ lệ dành cho người lao động trong doanh nghiệp, tỷ lệ bán cho các tổ chức và các cá nhân khác, bán cho nhà kinh doanh nước ngoài, v.v. cần được quy định cho từng loại doanh nghiệp. Thiếu sót của Chính phủ và của các cơ quan nhà nước có trách nhiệm trong lĩnh vực này là không kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, xây dựng các văn bản pháp quy, tập huấn và hướng dẫn cụ thể nên đã có sự chậm trễ không đáng có trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa.
Qua thực tiễn, chúng ta càng thấy rõ hơn chức năng quản lý nhà nước đối với tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, phải được tách bạch rõ ràng với chức năng chủ sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước cần được tập trung vào một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý vốn và tài sản công, đại diện cho chủ sở hữu đối với những cổ phần của Nhà nước tại các công ty. Cơ quan này cũng chịu trách nhiệm chọn cử người đại diện cho sở hữu nhà nước trong Hội đồng quản trị các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước. Như vậy, cơ chế “chủ quản” của các Bộ, các Sở quản lý ngành với sự lẫn lộn giữa quản lý nhà nước và chủ sở hữu, cũng như sự phân biệt giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương sẽ không còn lý do tồn tại.
b) Đổi mới hợp tác xã, phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên và phát triển các hình thức kinh tế hợp tác mới ở nông thôn theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương Đảng. Tổng kết thực tiễn và hướng dẫn, hỗ trợ cho sự hình thành và phát triển các hình thức kinh tế hợp tác thích hợp trong các ngành, nghề khác.
c) Xóa bỏ các quy định ngăn cản, cấm đoán phi pháp, gây khó khăn cho kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân, đồng thời tăng cường sự kiểm soát, quản lý theo pháp luật, chống tình trạng kinh doanh không đăng ký hoặc ngoài đăng ký, làm hàng giả, trốn thuế và các hoạt động phi pháp khác.
Luật pháp quy định rõ những ngành nghề không được kinh doanh hoặc phải xin phép trước khi kinh doanh. Ngoài phạm vi đó, mọi trường hợp đầu tư kinh doanh có đủ điều kiện quy định, không phân biệt cá thể hay tư nhân, chỉ cần đăng ký theo đúng thủ tục, nhưng phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của nội dung đăng ký và bảo đảm kinh doanh đúng đăng ký.
Thực hiện chính sách tín dụng lấy hiệu quả kinh tế - xã hội và khả năng trả nợ làm tiêu chuẩn, không phân biệt thành phần kinh tế. Theo tinh thần đó, tăng tỷ lệ cho vay khu vực kinh tế hợp tác, cá thể và tư nhân, đặc biệt là hộ nông dân.
d) Tạo khuôn khổ pháp lý rõ ràng cho sự hoạt động và cạnh tranh lành mạnh, xử lý nghiêm mọi hiện tượng kinh doanh phi pháp, bất kể thuộc thành phần kinh tế nào. Soát xét lại các trường hợp độc quyền kinh doanh để có biện pháp hạn chế, trước hết là chống tệ cửa quyền trong cung ứng sản phẩm và dịch vụ.
Nhà nước tạo điều kiện và hỗ trợ tích cực cho sự hình thành đội ngũ những nhà kinh doanh có bản lĩnh thuộc nhiều tầm cỡ, từ người chủ kinh tế gia đình đến người quản lý những công ty, tập đoàn lớn; coi đó là một nhân tố quyết định để phát triển kinh tế năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương.
3. Mở rộng nhanh quan hệ kinh tế với bên ngoài
Trong quan hệ quốc tế, chúng ta đang có những thuận lợi mới, song việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trước hết phải dựa vào phát triển sản xuất theo cơ cấu kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ thương mại và hợp tác với bên ngoài.
Những khả năng mới về tranh thủ vốn và công nghệ bên ngoài càng đòi hỏi phải ráo riết phát huy mọi tiềm năng trong nước đi đôi với cơ chế quản lý chặt chẽ để tiếp thu và sử dụng tốt nguồn vốn bên ngoài như đã nêu ở phần trên; đồng thời, phải nâng cao năng lực điều hành vĩ mô, đề phòng đầu tư quá nóng, gây ra mất cân đối mới và tái lạm phát.
Phải tiếp tục tăng xuất khẩu nhanh hơn tốc độ chung của nền kinh tế (dự kiến năm 1994 tăng 20%, năm 1995 tăng 25%), đi đôi với từng bước cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu.
Vấn đề thị trường tiêu thụ đang nổi lên thành một yếu tố rất quan trọng đối với sản xuất. Sản xuất nói chung cũng như hàng xuất khẩu nói riêng phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường, không thể sản xuất rồi mới đi tìm thị trường.
Hiện nay, một vài mặt hàng chế biến như hàng dệt may, thủy sản tăng khá hơn, song sản phẩm xuất khẩu thô, kể cả khoáng sản và nông sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn và xuất qua trung gian. Không ít mặt hàng xuất khẩu chưa có thị trường ổn định. Vì vậy, việc tăng nhanh năng lực chế biến, trước hết là chế biến nông sản, phải là hướng ưu tiên hàng đầu trong chính sách khuyến khích đầu tư, kể cả đầu tư của nước ngoài. Từ năm 1994, phải xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực (có kim ngạch trên 100 triệu USD), giải quyết đồng bộ từ vốn đầu tư thuộc nhiều nguồn đến cơ chế, chính sách của Nhà nước, từ sản xuất, khai thác đến chế biến, tiêu thụ, dần dần tạo bạn hàng ổn định trên thị trường thế giới.
Các ngành, các cơ sở kinh tế phải đổi mới công nghệ để có năng lực sản xuất ra hàng hóa có chất lượng (kể cả chủng loại, kiểu dáng, bao bì) với giá cả có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Phải hết sức nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng hàng xuất khẩu, về kỷ luật hợp đồng để tạo chữ tín, Chính phủ sẽ ban hành quy chế quản lý đối với hàng được ghi nhãn hiệu “sản xuất tại Việt Nam”.
Các cơ sở sản xuất phải nâng cao năng lực tiếp thị, chủ động tìm bạn hàng. Phát huy vai trò của Phòng thương mại và công nghiệp hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Tổ chức lại công tác thống kê và thông tin kinh tế, không những phục vụ công tác lãnh đạo và quản lý, mà còn đáp ứng nhu cầu của các nhà kinh doanh.
Mở rộng buôn bán với thị trường đã có, khôi phục thị trường truyền thống (Trung Quốc, các nước thuộc Liên Xô cũ và các nước Đông Âu), tìm thêm thị trường mới (như châu Âu, Trung Đông, châu Phi và Mỹ Latinh). Chuẩn bị đón trước khả năng đi vào thị trường Mỹ khi có điều kiện.
Để khuyến khích xuất khẩu mạnh hơn nữa, cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, thu hẹp diện mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch, giảm thủ tục hành chính, đặc biệt là trong việc cấp giấy phép, xử lý kịp thời tỷ giá hối đoái. Nhập khẩu cần phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cả chính sách thuế, tỷ giá hối đoái, công tác hải quan và các biện pháp hành chính cần thiết. Việc chống hàng nhập lậu để bảo vệ sản xuất trong nước cần tiến hành kiên quyết, liên tục cả ở cửa khẩu và trên thị trường nội địa. Cần có biện pháp xử lý các trường hợp hàng ngoại giá rẻ xâm nhập làm đình đốn sản xuất trong nước. Song điều quan trọng là sản xuất trong nước phải đáp ứng nhu cầu, thị hiếu hết sức đa dạng của các đối tượng tiêu dùng và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh đối với hàng nước ngoài.
Trong những năm tới, số khách nước ngoài vào nước ta và người Việt Nam ở các nước về thăm quê hương sẽ tăng nhanh, đòi hỏi ngành du lịch, khách sạn phải có bước phát triển vượt bậc cả về điều kiện vật chất và chất lượng phục vụ. Việc xây dựng các khách sạn mới phải chú trọng huy động các nguồn vốn trong nước bằng nhiều hình thức. Xúc tiến việc chuyển các nhà khách, nhà nghỉ của các cơ quan, xí nghiệp sang cơ chế hạch toán kinh doanh, cải tạo và nâng cấp một số cơ sở thành khách sạn du lịch.
4. Đổi mới và cải thiện tình hình tài chính - tiền tệ - tín dụng
a) Ngân sách năm 1994 đứng trước yêu cầu rất lớn về đầu tư phát triển và giải quyết các vấn đề xã hội. Nguồn vốn từ bên ngoài tăng nhanh đòi hỏi phải có nguồn vốn trong nước đủ sức hấp thu.
Vì vậy, phải thay đổi phương thức cân đối ngân sách: phần thu bao gồm các khoản thu trong nước và viện trợ không hoàn lại của bên ngoài phải đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên, trả nợ và có phần dành cho đầu tư phát triển (năm 1994, dành khoảng 15% và các năm sau phải tăng hơn). Phần còn thiếu trong kế hoạch đầu tư phát triển bằng vốn ngân sách phải dựa vào vay dân (tăng dần tỷ lệ vay trung hạn, dài hạn) và vay nước ngoài (từ nay, chỉ vay dài hạn với lãi suất ưu đãi cho đầu tư phát triển qua ngân sách). Dứt khoát không phát hành cho ngân sách và tín dụng. Những khoản Chính phủ vay ưu đãi của bên ngoài để đầu tư cho các công trình có thể thu hồi vốn, kể cả cơ sở hạ tầng, đều chuyển sang hình thức tín dụng của Nhà nước, có vay có trả sòng phẳng cả gốc và lãi, có như vậy mới trả được nợ nước ngoài.
Nhân đây, cũng xin nói thêm về khoản nợ nước ngoài của những năm trước nay đến hạn phải trả; con số đó là khá lớn. Đó là những khoản mà ta phải vay để bù đắp cho chi tiêu trong cơ chế bao cấp, phần lớn là vật tư cho sản xuất, lương thực và một số hàng tiêu dùng; còn phần thiết bị thì có một số cơ sở phát huy được tác dụng, song nhìn chung, hiệu quả sử dụng thấp, có loại chưa được sử dụng. Để trả được nợ, không có cách nào khác là phải phát triển và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Do đó, phải tranh thủ các nguồn vay mới với điều kiện ưu đãi và phải quản lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả, làm cho nền kinh tế mạnh lên đủ sức trả cả nợ cũ, nợ mới, đồng thời tăng được tích lũy trong nước và cải thiện được đời sống. Tuy nhiên, phải chấn chỉnh ngay tình trạng kiểm soát và quản lý không chặt chẽ việc vay nợ nước ngoài của các ngành và địa phương, khi không trả được nợ thì dồn hết gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Xúc tiến cải cách hệ thống thuế; giảm thuế suất một số mặt hàng cần khuyến khích và bảo đảm khả năng thu; áp dụng thuế trị giá gia tăng đơn giản, phù hợp với điều kiện nước ta; tăng mức thu thuế hàng nhập khẩu và chấn chỉnh công tác thu thuế để nâng tỷ lệ huy động tổng sản phẩm trong nước (GDP) vào ngân sách (dự kiến năm 1994 là tiết kiệm 24%). Tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP năm 1994 phải thấp hơn năm 1993; đến năm 1995, xuống dưới 5%. Nguồn bù đắp bội chi ngân sách chủ yếu là cho đầu tư phát triển và dựa phần lớn vào nguồn vay ưu đãi của bên ngoài. Tăng thu ngân sách phải đi đôi với khuyến khích các doanh nghiệp và nhân dân tiết kiệm, đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả, từ đó mà nuôi dưỡng và mở rộng nguồn thu. Giải quyết hợp lý phần khấu hao cơ bản của doanh nghiệp nhà nước để bảo đảm tái sản xuất của cơ sở.
Cải tiến việc phân cấp quản lý ngân sách phù hợp với chủ trương phân định thẩm quyền và trách nhiệm của các cấp hành chính; tăng quyền hạn của các Bộ trưởng đối với ngân sách chi sự nghiệp dành cho toàn ngành. Xúc tiến việc ban hành Luật ngân sách.
Trong nhiều giải pháp về tài chính, tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa yêu cầu khắc phục tình trạng đang rất nhức nhối: đó là tệ tiêu xài hoang phí, ăn uống, quà cáp, biếu xén bằng công quỹ, những khoản chi tiêu không cần thiết trong các dịp kỷ niệm ngày thành lập, tổ chức và trong các kỳ đại hội. Chính phủ sẽ quy định chặt chẽ các khoản chi này. Khoản nào cần nghiêm cấm sẽ được công bố rõ để nhân dân và dư luận xã hội góp sức phát hiện, đấu tranh với những trường hợp vi phạm. Trước mắt, trong dịp Tết sắp tới, phải cấm chỉ hoàn toàn việc dùng công quỹ làm quà biếu cho những người trong bộ máy nhà nước, bất kỳ ở cương vị nào.
b) Về công tác ngân hàng: Ngân hàng Nhà nước được tăng quyền chủ động điều hòa lưu thông tiền tệ phải theo dõi sát tín hiệu của thị trường để điều hành khối lượng tiền cung ứng, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ kiểm soát lạm phát ở mức một con số, ổn định giá trị đồng tiền. Năm 1994, Ngân hàng phải tập trung sức và áp dụng nhiều biện pháp, kể cả việc tin học hóa hoạt động nghiệp vụ, thực hiện cho được việc bảo đảm khả năng thanh toán thuận tiện, nhanh chóng trong mọi tình huống, đồng thời áp dụng lãi suất phù hợp với cơ chế thị trường, để mọi doanh nghiệp và nhân dân yên tâm, mạnh dạn gửi tiền và giao dịch với ngân hàng. Tình trạng lãi suất tín dụng quá cao so với chỉ số lạm phát đang gây khó khăn cho các doanh nghiệp, kìm hãm đầu tư phát triển, cần phải có biện pháp xử lý. Xây dựng và triển khai hoạt động của thị trường liên ngân hàng cả tiền Việt Nam và ngoại tệ để điều hòa vốn kịp thời và thúc đẩy việc xây dựng thị trường vốn. Mở rộng nhanh việc áp dụng các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, kể cả các phương tiện hiện đại.
Cần theo dõi, dự báo tình hình kịp thời để ngăn ngừa tái lạm phát và đề phòng tỷ giá hối đoái đột biến khi nguồn ngoại tệ tăng nhanh. Xử lý từng bước tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đôla Mỹ nhằm ổn định tỷ giá thực tế (tính đến sự biến động giá của tiền Việt Nam và của ngoại tệ) nhằm góp phần khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không thật cần thiết, nhưng không gây đột biến giá cả trong nước.
Có quy chế quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, các ngành và địa phương. Sớm ban hành quy chế bảo lãnh vay nợ và quy chế tự vay tự trả của các doanh nghiệp.
Tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế quản lý ngoại hối, tạo điều kiện cho đồng tiền Việt Nam có thể chuyển đổi tự do và là phương tiện thanh toán duy nhất trên đất nước Việt Nam.
Các ngân hàng kinh doanh có vai trò nòng cốt trên thị trường vốn phải phát triển hoạt động tín dụng theo chính sách đã nêu ở trên. Xúc tiến việc lập quỹ tín dụng nhân dân trên cơ sở tổng kết thí điểm. Quan hệ giữa Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng kinh doanh, các quỹ tín dụng phải tiếp tục đổi mới theo hướng bảo đảm vai trò kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước, nhưng không can thiệp vào quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động tín dụng và dịch vụ của các ngân hàng kinh doanh. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các ngân hàng kinh doanh, kể cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Xúc tiến việc lập hiệp hội ngân hàng. Tăng cường đào tạo cán bộ, nâng cao trình độ quản lý và chất lượng nghiệp vụ ngân hàng.
III- GIẢI QUYẾT TỐT HƠN
CÁC VẤN ĐỀ VĂN HÓA, XÃ HỘI
Với nhận thức phát triển kinh tế gắn với văn hóa, xã hội là truyền thống của dân tộc ta, là bản chất của chế độ ta, là xu thế của thời đại, Chính phủ coi trọng bố trí kế hoạch, ngân sách và chỉ đạo các hoạt động văn hóa, xã hội. Trong năm 1993, tuy còn nhiều mặt chưa đạt mong muốn, song các ngành này đều có những bước phát triển, bằng sự hỗ trợ của ngân sách và sức đóng góp của toàn dân.
Đất nước bước vào thời kỳ mới của sự phát triển có nghĩa là từ nay mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa - xã hội có thêm điều kiện và cần phải giải quyết cân đối, hài hòa hơn. Bản thân sự phát triển kinh tế theo nội dung trình bày trên đã bao hàm việc giải quyết những vấn đề xã hội rất quan trọng và cơ bản như tạo việc làm và tăng thu nhập của dân cư. Song sự phát triển văn hóa - xã hội còn nhiều yêu cầu khác nữa. Đó là những vấn đề mà toàn xã hội cho đến từng gia đình và từng người phải chăm lo bằng công sức, trí tuệ, tiền bạc và cả nếp sống, tâm lý, dư luận xã hội. Chính phủ có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện những chủ trương, biện pháp và bảo đảm ngân sách ở mức cần thiết; đồng thời, điều rất quan trọng là bổ sung cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện cho các sự nghiệp này phát triển theo hướng phát huy cao hơn nữa phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm, huy động thêm sự đóng góp của các tổ chức trong và ngoài nước.
Dự án kế hoạch năm 1994 đã nêu những biện pháp thiết thực và dự kiến tăng chi cho giáo dục, văn hóa, nghiên cứu khoa học, y tế, thể dục - thể thao, kế hoạch hóa gia đình cao hơn mức tăng chi chung của ngân sách. Tôi xin nhấn mạnh thêm một số vấn đề dưới đây:
a) Trước hết, đó là nhiệm vụ nâng cao dân trí, bồi dưỡng đội ngũ lao động và cán bộ, đào tạo thế hệ nối tiếp. Đây là một nhiệm vụ hết sức hệ trọng đối với yêu cầu trước mắt và chuẩn bị cho sự phát triển lâu dài của đất nước ta, đặc biệt là để bước vào thế kỷ XXI với những bước tiến mạnh mẽ hơn. Chúng ta không những phải chăm lo nâng cao chất lượng dạy và học ở tất cả các cấp học, các ngành học theo một cơ cấu và quy mô phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, mà còn phải huy động nhiều lực lượng trong xã hội, từ gia đình đến đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng và các binh chủng khác trên mặt trận văn hóa để đáp ứng nhu cầu và nâng cao trình độ văn hóa, tinh thần của toàn xã hội, tạo lập cho thế hệ thanh niên, thiếu niên hoài bão và chí tiến thủ, cống hiến hết lòng cho sự lập thân, lập nghiệp của mình gắn liền với sự phồn vinh của đất nước.
Việc thu xếp việc làm của thanh niên mới ra trường cần được quan tâm bằng các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước, của các đoàn thể và gia đình, góp phần quan trọng thúc đẩy thanh niên tích cực học tập. Chúng ta phải tạo điều kiện cho đội ngũ trí thức có thể cống hiến trí tuệ và tài năng cho đất nước, sống tốt bằng nghề của mình. Chính phủ hoan nghênh và tạo điều kiện để các bạn trí thức người Việt định cư ở nước ngoài tham gia vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của nước nhà trong nhiều lĩnh vực và bằng nhiều hình thức phù hợp.
b) Chú trọng hơn nữa việc bồi dưỡng thể lực, nâng cao sức khỏe của các tầng lớp nhân dân. Chúng ta đặc biệt quan tâm sức khỏe của toàn dân, từ các cháu nhỏ, các bà mẹ, đến người cao tuổi, vì sự nghiệp xây dựng đất nước hôm nay và vì các thế hệ mai sau.
Đi đôi với sự chỉ đạo của Chính phủ và sự hỗ trợ thêm của ngân sách, các hoạt động thể dục - thể thao, chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh và chữa bệnh, sinh đẻ có kế hoạch, v.v. cần phát triển sâu, rộng và đồng bộ hơn, có sự tham gia với ý thức đầy đủ của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, trong trường học, cơ quan đến toàn xã hội.
Trong năm 1994, Chính phủ sẽ dành thêm ngân sách và chỉ đạo thực hiện tốt hơn nữa các biện pháp bảo vệ sức khỏe nhân dân các vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số (trước hết là đẩy lùi, đi đến xóa bỏ các bệnh xã hội và giải quyết nguồn nước cho sinh hoạt của đồng bào).
c) Nâng cao dân trí, bảo vệ sức khỏe nhân dân là những điều kiện cơ bản để ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, trước hết là tệ mại dâm, nghiện ma túy và gắn liền với nó là hiểm họa nhiễm HIV đang tiếp tục lan tràn, gây bất bình và lo ngại trong nhân dân. Từ đầu năm 1993, Chính phủ đã ra chỉ thị với những biện pháp kiên quyết nhằm ngăn ngừa và đẩy lùi các tệ nạn này, nhưng tình hình chuyển biến còn chậm.
Vì vậy, chính quyền các cấp cần phối hợp với các đoàn thể, các tổ chức xã hội kiểm điểm, phân tích sâu sắc việc vận động chống các tệ nạn xã hội trong thời gian qua, rút ra những việc làm tốt và những bài học không thành công, tìm hiểu thêm kinh nghiệm của các nước khác để có những biện pháp thiết thực, có hiệu lực, phù hợp với hoàn cảnh của nước ta. Chính phủ sẽ tăng thêm các điều kiện về tổ chức và tài chính cho nhiệm vụ này, song điều quan trọng hàng đầu là các cấp chính quyền địa phương từ tỉnh, thành phố, quận, huyện đến phường, xã phải thi hành đúng chức trách và phải chịu trách nhiệm về tình trạng tệ nạn xã hội trong địa phương mình.
IV- PHÁT HUY THẾ THUẬN LỢI MỚI
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI
Trên cơ sở những thành tựu của công cuộc đổi mới và dựa vào đường lối đối ngoại đúng đắn, những hoạt động ngoại giao tích cực và chủ động trong năm 1993 đã góp phần tạo thêm môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đồng thời nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế với tư cách một thành viên tích cực của xu thế hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực và trên thế giới.
Chúng ta đã tiếp tục củng cố và mở rộng hơn nữa quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng và các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng như châu Á - Thái Bình Dương, thỏa thuận giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình. Quan hệ hợp tác của nước ta với nhiều nước phát triển trên thế giới được mở rộng, đồng thời quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước trong phong trào không liên kết cũng được tăng cường. Cũng trong năm nay, chúng ta đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, đẩy mạnh quan hệ với Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN) và Cộng đồng châu Âu (EC).
Cho phép tôi, từ diễn đàn này, thay mặt Chính phủ và nhân dân Việt Nam một lần nữa cảm ơn thiện chí, sự hợp tác có hiệu quả và sự giúp đỡ quý báu của tất cả các nước và các tổ chức quốc tế đối với công cuộc đổi mới và phát triển của Việt Nam, gần đây được thể hiện rõ rệt tại Hội nghị tài trợ cho Việt Nam mới họp ở Pari. Nhân dịp này, tôi xin khẳng định lại một lần nữa: Việt Nam luôn luôn chân thành mong muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Đối với Chính phủ và nhân dân Mỹ, chúng ta chủ trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, sẵn sàng thiết lập quan hệ bình thường trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không có điều kiện tiên quyết. Điều đó không chỉ phù hợp với nhu cầu và lợi ích của nhân dân hai nước mà còn có lợi cho hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực.
Từ thực tiễn phong phú trong quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, chúng ta có thể khẳng định:
Ngày nay, trong bối cảnh quốc tế đang có nhiều diễn biến phức tạp, tuy luôn luôn phải đối phó với nhiều thách thức, song với ý chí độc lập tự chủ, tự lực tự cường, kiên định con đường phát triển của đất nước và bản sắc của dân tộc, đồng thời giương cao ngọn cờ hòa bình, hợp tác và phát triển, chúng ta đang có cơ hội tạo lập và phát triển các mối quan hệ về nhiều mặt với mọi quốc gia và các tổ chức quốc tế, không ngừng nâng cao uy tín và vị trí của nước ta trên trường quốc tế, phục vụ tích cực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Những thành tựu trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước cùng với việc mở rộng có hiệu quả quan hệ hợp tác nhiều mặt với bên ngoài luôn luôn là chỗ dựa cho hoạt động đối ngoại của chúng ta.
Hoạt động đối ngoại trong thời gian tới tiếp tục phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu theo phương hướng cơ bản đó.
V- NÂNG CAO HIỆU LỰC ĐIỀU HÀNH CỦA CHÍNH PHỦ
Trong năm 1993, Chính phủ đã cố gắng tập trung chỉ đạo, điều hành 10 công tác trọng tâm đã đề ra; đi sâu giải quyết trực tiếp một số lĩnh vực công tác cấp bách, làm việc với nhiều địa phương để xác định hướng phát triển và tháo gỡ khó khăn. Những cố gắng đó đã góp phần cùng với nỗ lực rất to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đưa đến những thành tựu về kinh tế, xã hội trong năm qua.
Tuy vậy, để nâng cao hiệu lực chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, còn rất nhiều việc phải làm.
Chức năng quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường đòi hỏi bộ máy nhà nước trước hết là bộ máy hành chính phải đủ năng lực, trong sạch, thực hiện đúng chức trách theo luật định. Đây là một bộ phận rất quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam thật sự của dân, do dân và vì dân.
Tiến trình đổi mới đi vào chiều sâu sẽ khó hơn, phức tạp hơn, đòi hỏi phải kết hợp cải cách thể chế kinh tế và cải cách hành chính, bảo đảm trình tự hợp lý và sự phối hợp giữa các khâu, các mặt của quá trình cải cách như một tổng thể, khắc phục tình trạng không đồng bộ, thiếu phối hợp, thậm chí trái ngược nhau trong chủ trương và chỉ đạo thực hiện như đã từng xảy ra vừa qua.
Hiệu lực điều hành của Chính phủ chỉ được bảo đảm và nâng cao với điều kiện chỉ đạo tập trung, thống nhất, khắc phục mọi biểu hiện phân tán, cục bộ, đi đôi với khắc phục tệ nạn tham nhũng, làm trong sạch bộ máy nhà nước. Những mặt yếu trong sự điều hành của Chính phủ cần phải được khắc phục một bước rõ rệt ngay trong năm 1994 để bảo đảm bước tiến mới của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội.
Trước mắt, phải tập trung và khẩn trương giải quyết một số vấn đề bức xúc dưới đây:
- Yêu cầu cấp bách hiện nay là phải tạo đủ khuôn khổ pháp lý cho mọi hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường; trước hết cần đẩy mạnh việc xây dựng luật pháp, kết hợp việc xây dựng, bổ sung, sửa đổi luật về từng mặt với việc hình thành các bộ luật cơ bản, đặc biệt là luật dân sự, luật kinh doanh. Công việc này đòi hỏi phải huy động một lực lượng chuyên gia tập trung nghiên cứu, soạn thảo để hoàn thành được chương trình xây dựng luật theo thời gian quy định. Đề nghị Quốc hội cũng tăng thêm thời gian cho hoạt động lập pháp theo kịp yêu cầu của việc cải cách thể chế kinh tế. Chính phủ cũng xây dựng quy chế bảo đảm việc ban hành kịp thời, thống nhất các văn bản pháp quy thi hành luật và coi việc nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật là một yêu cầu quan trọng trong chương trình cải cách hành chính. Công cụ pháp luật đi liền với công cụ tài chính - tiền tệ và công cụ kế hoạch hóa cần được sử dụng đồng bộ để quản lý nền kinh tế thị trường ở tầm vĩ mô.
- Phân định thẩm quyền hành chính của các cấp, trước hết là quyền lập quy, theo hướng bảo đảm sự tập trung, thống nhất về chính sách, tăng cường kỷ luật chấp hành các quyết định của Chính phủ, khắc phục tình trạng phân tán, tùy tiện, vô kỷ luật, tình trạng Bộ, ngành hoặc Ủy ban nhân dân địa phương ban hành văn bản trái với quyết định của Chính phủ.
Trong năm 1994, cần có kế hoạch xúc tiến việc xóa bỏ chức năng chủ quản của cơ quan hành chính đối với các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, thu gọn các Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ và bộ máy hành chính các cấp địa phương, coi đây là một biện pháp rất quan trọng, không chỉ nhằm giảm bớt tình trạng bộ máy cồng kềnh, quan liêu, mà còn khắc phục tính cục bộ của ngành và địa phương trong hệ thống quản lý nhà nước.
- Hiện nay, thủ tục hành chính quá rườm rà, phiền phức đang nuôi dưỡng tệ cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng của không ít cán bộ, nhân viên có chức trách giải quyết các việc mà nhân dân cần đăng ký hoặc xin phép chính quyền và gây trở ngại, khó khăn trong quan hệ công tác giữa các cơ quan. Tình trạng đó gây khó khăn, tốn kém cho nhân dân, tạo ra bất bình lớn trong xã hội. Trong năm 1994, Chính phủ sẽ tiến hành việc cải cách thủ tục hành chính theo nguyên tắc vừa thuận tiện cho dân, vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, tập trung trước hết ở những lĩnh vực đang có nhiều tiêu cực, đang gây phiền hà cho nhiều người, đang cản trở hoạt động kinh doanh. Công việc này phải tiến hành có kế hoạch, được chỉ đạo, kiểm tra chặt chẽ, huy động được các đoàn thể và nhân dân cùng tham gia, đặc biệt là trong việc góp ý kiến về sửa đổi và chấp hành các thủ tục hành chính. Đồng thời, cần ban hành sớm luật hành chính làm cơ sở cho việc xây dựng chế độ công vụ, quy chế công chức và xúc tiến việc thành lập cơ quan tài phán hành chính để giải quyết các khiếu nại của dân đối với cơ quan và viên chức hành chính.
- Một nhiệm vụ hết sức quan trọng là xúc tiến việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công chức, từng bước tiêu chuẩn hóa các chức danh hành chính và sửa đổi quy chế tuyển dụng, bổ nhiệm công chức. Công việc này cần tiến hành có kế hoạch để sau một thời gian nhất định, hình thành được đội ngũ công chức hành chính đủ trình độ đảm nhiệm công việc, trước hết là những công chức thuộc các chức danh chủ chốt ở các cơ quan hành chính Trung ương và cấp tỉnh, thành phố.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Dân tộc ta, nhân dân ta vốn có truyền thống quật cường, đã nhiều lần tỏ rõ bản lĩnh vượt qua những thử thách hết sức hiểm nghèo để tồn tại và phát triển, tạo ra những bước ngoặt lịch sử.
Ngày nay, ở thời điểm mà cơ hội và thách thức đối với vận nước đều lớn, Chính phủ đặt niềm tin vào lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường, trí thông minh, sáng tạo và đức tính cần cù lao động của dân tộc và con người Việt Nam.
Cùng với Quốc hội và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chính phủ sẽ làm hết sức mình để tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài, tạo môi trường và tạo điều kiện cho mọi người đem hết khả năng cống hiến, làm giàu cho mình và cho đất nước, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho dân tộc ta bước vào thế kỷ XXI, đưa nước ta sớm thoát khỏi tình trạng một nước nghèo, kém phát triển.
Với sự đồng lòng, chung sức của toàn dân đi theo đường lối của Đảng, chúng ta dứt khoát không để lỡ thời cơ, ra sức thực hiện những nhiệm vụ mà Quốc hội đề ra cho năm 1994, mở đầu một thời kỳ mới của sự phát triển kinh tế - xã hội trên đất nước ta.
Xin cảm ơn.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội