THUYẾT TRÌNH CỦA ỦY BAN VĂN HÓA, GIÁO DỤC, THANH NIÊN, THIẾU NIÊN
VÀ NHI ĐỒNG CỦA QUỐC HỘI "VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 1993
VÀ DỰ KIẾN KẾ HOẠCH HAI NĂM 1994 - 1995 VÀ KẾ HOẠCH NĂM 1994 ĐỐI VỚI
SỰ NGHIỆP VĂN HÓA, GIÁO DỤC, THANH NIÊN, THIẾU NIÊN VÀ NHI ĐỒNG"
(Do bà Trần Thị Tâm Đan, Chủ nhiệm Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên
và nhi đồng của Quốc hội đọc tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa IX, ngày 07-12-1993)
Kính thưa Quốc hội,
Để chuẩn bị tham gia kỳ họp thứ 4 của Quốc hội, Ủy ban chúng tôi đã tổ chức 8 đoàn đi khảo sát tại các địa phương và đã làm việc với các ngành hữu quan để đánh giá tình hình hoạt động và thực hiện ngân sách đối với các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thanh thiếu niên và nhi đồng. Ủy ban chúng tôi tán thành với những đánh giá chủ yếu trong báo cáo của Chính phủ và thấy cần phải trình bày cụ thể hơn với Quốc hội những tình hình bức bách của các lĩnh vực này và những kiến nghị để Quốc hội xem xét khi quyết định dự kiến kế hoạch 1994 - 1995 và kế hoạch nhà nước năm 1994.
1. Những tiến bộ và kết quả đạt được
Sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ - kế hoạch năm 1993 tại kỳ họp thứ 2, Trung ương Đảng đã ra các nghị quyết về văn hóa, về giáo dục và về thanh niên cùng với các nghị quyết về dân số và kế hoạch hóa gia đình, về y tế. Đây là những nghị quyết quan trọng và là chỗ dựa để động viên toàn Đảng, toàn dân thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước. Nhiều địa phương đã triển khai và xây dựng thành các chương trình, đề án công tác, nhiều nơi lại đã thông qua thành nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân nên "ý Đảng, lòng dân" đã bước đầu được quán triệt vào các lĩnh vực chăm lo cho con người. Vị trí và vai trò của sự nghiệp văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và thiếu nhi đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền và xã hội quan tâm hơn, chăm lo hơn.
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin có những chuyển biến tích cực, có mặt phát triển như: tất cả các tỉnh, thành đều đã có đài phát thanh và 47 tỉnh, thành đã có đài truyền hình để chuyển tải thông tin, văn hóa, nghệ thuật đến với nhân dân; có khoảng 50% dân số có thể được nghe trực tiếp Đài Tiếng nói Việt Nam, 30% dân số được xem truyền hình Trung ương cùng thời điểm; phong trào văn hóa quần chúng ở cơ sở có được chú ý hơn thông qua việc tổ chức các lễ hội truyền thống, các cuộc thi về văn hóa dân tộc, hát dân ca, hát ru và các loại hình nghệ thuật khác; bản sắc văn hóa dân tộc đang dần dần được phục hồi; đã có 500 đội thông tin lưu động được trang bị phương tiện, bước đầu hoạt động có hiệu quả đưa thông tin đến cơ sở - chủ yếu là vùng cao, hải đảo, vùng xa xôi hẻo lánh; triển lãm nghệ thuật được tổ chức nhiều hơn; công tác xuất bản, báo chí phong phú, đa dạng và hấp dẫn hơn; các di tích lịch sử, cách mạng, văn hóa tiếp tục được xếp hạng (đến nay đã có 1.320 di tích được xếp hạng) và bước đầu được tu bổ ở một số nơi như đền Hùng, Cố đô Huế, Tân Trào, Điện Biên Phủ, chùa Tây Phương, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, một số căn cứ kháng chiến chống Mỹ...
Ngành Thể dục thể thao tuy mới được tách ra đã nhanh chóng xây dựng và ổn định tổ chức, đã chỉ đạo các hoạt động khá sôi nổi, động viên được phong trào quần chúng; nhiều hiệp hội, câu lạc bộ hoạt động tốt; tổ chức được 73 cuộc thi quốc gia, 7 cuộc thi có mời quốc tế tham gia tại Việt Nam; tham gia 12 cuộc thi khu vực, song phương và thế giới, bắt đầu đạt được thành tích khá trong các cuộc thi nói trên, tạo sự khởi sắc cho ngành.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã có bước phát triển, số học sinh ở tất cả các ngành học, cấp học trong năm học 1993 - 1994 đều tăng; các loại hình trường lớp, các hình thức tổ chức giáo dục đa dạng; phong phú; chất lượng giáo dục có bước tiến bộ, nhất là ở các trường chuyên, lớp chọn; đã xây dựng được hệ thống trường dân tộc nội trú ở cấp tỉnh và một số huyện có đồng bào dân tộc. Cho đến cuối năm 1993 có 8 tỉnh và thêm một số huyện được công nhận phổ cập tiểu học và xóa mù chữ. Số học sinh đoạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi trong và ngoài nước ngày càng xuất hiện ở nhiều địa phương.
Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em đã có sự phối hợp tốt hơn giữa các ngành hữu quan và đã tập trung cho mục tiêu trọng tâm và các vùng khó khăn, miền núi, đồng bào dân tộc, trẻ em thiệt thòi. Nhiều tỉnh đã đạt 80 - 90% chỉ tiêu tiêm chủng mở rộng; quyền học tập cùng với việc thực hiện phổ cập cấp I và xóa mù chữ, quyền vui chơi được quan tâm hơn. UNICEF đã tổ chức đánh giá giữa nhiệm kỳ vào tháng 10 năm 1993 về việc thực hiện chương trình hành động vì trẻ em Việt Nam, và đã tăng nguồn ngân sách tài trợ cho trẻ em một cách đáng kể: năm 1992, là 13,6 triệu USD, năm 1993, đã đạt tới gần 21,5 triệu USD, mục tiêu cho năm 1994 là 25,8 triệu USD và năm 1995 là 27,8 triệu USD. Việc tăng nguồn tài trợ này cùng với nguồn lực trong nước đã cho phép mở rộng việc thực hiện chương trình quốc gia vì trẻ em như: các chương trình nước sạch - vệ sinh, y tế, giáo dục, chăm sóc trẻ em thiệt thòi...
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, sau Đại hội lần thứ VI, đã có những đổi mới trong nội dung và phương thức hoạt động cho thanh niên, giúp thanh niên làm kinh tế tạo lập cuộc sống. Đoàn căn cứ vào mục tiêu kinh tế - xã hội để xây dựng các đề án giải quyết việc làm, các dự án kinh tế.
Năm 1993, Nhà nước đã dành một phần kinh phí tăng hơn đáng kể so với năm 1992, để tăng cường các hoạt động ở các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thanh thiếu niên và nhi đồng. Nhờ vậy mà các lĩnh vực này đã đạt được những kết quả trên một số mặt nhất định, tuy vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại bức xúc phải giải quyết.
2. Những khó khăn và tồn tại
Song song với những tiến bộ và kết quả đạt được, sự nghiệp văn hóa, giáo dục, thanh thiếu niên và nhi đồng vẫn đang ở trong tình trạng khó khăn và còn nhiều vấn đề bức bách phải giải quyết, đúng như nhận định của Chính phủ: "Các vấn đề xã hội còn nhiều tồn tại lớn". Tốc độ tăng dân số vẫn đang ở thời kỳ "bùng nổ dân số", dẫn đến tốc độ lao động tăng hằng năm là 3,2% trong khi đó tỷ lệ được chấp nhận phù hợp với sự phát triển kinh tế để bảo đảm ổn định xã hội không vượt quá 2%. Số lao động chưa có việc làm còn cao, trong đó thanh niên chiếm 70 - 80%. Hằng năm, có hơn 1,1 triệu thanh niên (trong đó có hàng ngàn người đã được đào tạo) bước vào tuổi lao động cần có việc làm nhưng không kiếm được việc hoặc do không muốn đi làm ở nơi xa xôi, khó khăn mà thu nhập thấp. Việc làm đối với thanh niên đang là điều bức xúc nhất hiện nay. Vấn đề việc làm mà không giải quyết được thì việc học tập cũng không có mục đích và động cơ học tập cũng không rõ làm cho văn hóa, giáo dục, lối sống cũng chịu ảnh hưởng. Không có việc làm cũng là một trong những tiền đề của tội phạm và tệ nạn xã hội (có tới 70% số tội phạm rơi vào lứa tuổi thanh thiếu niên, trong đó 85% là không có việc làm). Vì vậy, Ủy ban chúng tôi kiến nghị Nhà nước tiếp tục dành sự đầu tư thích đáng cho chương trình giải quyết việc làm và khuyến khích mạnh mẽ phong trào thanh niên lập nghiệp. Trước mắt, phải giải quyết đầu ra cho nông sản, nâng cao giá trị ngày công lao động nông nghiệp làm cho thanh niên yên tâm ở lại nông thôn, giải quyết việc làm tại chỗ trên quê hương mình.
Về trẻ em Việt Nam, điều đáng lo ngại là tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở mức 50%. Tuy ta đã khống chế được tỷ lệ trẻ sơ sinh bị chết ở mức thấp của thế giới, nhưng trẻ em vừa sinh ra đã suy dinh dưỡng vẫn còn là 19% và 59% bà mẹ đang mang thai thiếu máu, trong khi lương thực, thực phẩm của ta hằng năm đều tăng khá. Một trong những nguyên nhân sâu xa chính là trình độ dân trí thấp, thiếu kiến thức về nuôi dạy trẻ. Số trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt như mồ côi, lang thang, tàn tật còn nhiều, song số được thu nhận để nuôi dưỡng, chăm sóc chưa được bao nhiêu.
Sự nghiệp văn hóa, thông tin của ta đang bị tác động hết sức lớn của cơ chế thị trường. Trong nước thì tình trạng "thương mại hóa" ở một số lĩnh vực như xuất bản, điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật đang diễn ra gay gắt. Các loại văn hóa phẩm và các thông tin từ ngoài ào ạt nhập vào, không ít những loại độc hại, không phù hợp với lối sống của nhân dân ta, nhất là tình trạng băng hình, ấn phẩm có nội dung xấu, đã công khai hoặc lén lút phổ biến ở nhiều nơi. Các lực lượng thù địch đã tận dụng con đường này để tác động tâm lý, gây rối trong âm mưu làm mất ổn định đất nước ta. Cuộc chiến tranh thông tin, âm mưu diễn biến hòa bình đang đặt ra những yêu cầu bức xúc trong việc định ra một chiến lược lâu dài về văn hóa và thông tin của đất nước. Nghị quyết 4 của Ban Chấp hành Trung ương đã định hướng cho sự nghiệp đổi mới của lĩnh vực này, vấn đề đặt ra là cần hoạch định một chương trình cụ thể, lâu dài để chấn hưng văn hóa dân tộc và chủ động đối phó với những diễn biến phức tạp trên lĩnh vực này, không để lúng túng, bị động.
Hiệu quả việc phủ sóng phát thanh, truyền hình còn hạn chế, nhất là ở các vùng xa xôi, hẻo lánh. Ở nhiều khu vực dân cư, do nhân dân chưa có khả năng mua máy thu thanh, thu hình hoặc do chất lượng sóng không tốt nên không nghe được đài của ta mà lại nghe được đài của nước ngoài. Do nhân dân nhiều vùng ở các thành phố, thị xã, thị trấn và các tỉnh đồng bằng, trung du mua sắm được nhiều phương tiện nghe nhìn, nên nhu cầu văn hóa, thông tin, thưởng thức nghệ thuật được giải quyết tại từng gia đình, nhưng các nhà hát, rạp chiếu bóng, các nhà văn hóa lại vắng khách, các đoàn nghệ thuật gặp nhiều khó khăn; nhiều nghệ sĩ có tài năng tách ra đi phục vụ các nhu cầu tại chỗ của nhà hàng, khách sạn có thu nhập cao, đã làm cho các đoàn không còn chỗ dựa nòng cốt. Ngành Điện ảnh trong năm qua hết sức khó khăn, nhất là các hãng phim quốc doanh. Năm 1993, Chính phủ đã dành ngân sách khá hơn để tổ chức giải thưởng và tài trợ, đặt hàng tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ sáng tạo. Tuy vậy, sự thiếu hụt tác phẩm có chất lượng vẫn đang là vấn đề đòi hỏi có sự giải quyết đồng bộ, trước hết cần đầu tư nhiều hơn cho sáng tạo nghệ thuật, sửa đổi chế độ nhuận bút, ngăn chặn có hiệu quả hơn nạn ăn cắp bản quyền, in lậu, sang băng lậu để bảo đảm quyền lợi của tác giả, của nhà xuất bản. Chưa có sự phối hợp tốt giữa ngành Văn hóa - Thông tin với ngành Hải quan và các ngành hữu quan, kể cả các ngành kinh tế trong công tác quản lý xuất nhập khẩu văn hóa phẩm. Với những mục đích khác nhau, các lực lượng xã hội tham gia hoạt động văn hóa ngày càng nhiều và khá phức tạp. Số lượng văn hóa phẩm do các đơn vị kinh tế, các công ty liên doanh đưa ra sử dụng và tung ra thị trường khá lớn, có loại còn nhiều hơn sản phẩm của ngành Văn hóa - Thông tin, nhất là những sản phẩm có kỹ thuật cao lại không kiểm tra, kiểm soát hết được. Trong khi đó, công tác chỉ đạo của chúng ta chẳng những yếu về quản lý mà cả về chuyên môn nghiệp vụ; trang thiết bị, phương tiện kiểm tra cũng thiếu thốn và rất lạc hậu, xử lý không kịp thời, còn bị động; ngân sách dành cho quản lý lĩnh vực khá phức tạp này lại quá thấp.
Công tác bảo tồn, bảo tàng, do quản lý yếu, do ý thức tôn trọng của một số tổ chức và cá nhân chưa tốt nên tình hình xâm phạm, làm hư hỏng các di tích, nạn mất cắp hàng trăm pho tượng, cổ vật chưa được ngăn chặn và xử lý kịp thời đang gây ra sự lo ngại chính đáng của công luận. Việc xây dựng một số cơ sở công nghiệp, thương mại, dịch vụ đã không kết hợp hài hòa với văn hóa và môi trường, cũng cần được quan tâm xử lý. Di sản lịch sử, cách mạng, văn hóa, danh lam thắng cảnh, các bảo vật văn hóa, nghệ thuật là tài sản vô giá của đất nước, của dân tộc, của cả muôn đời thế hệ mai sau, phải được bảo vệ cho nên Nhà nước phải sớm ban hành một đạo luật mới phù hợp với tình hình hiện nay.
Ủy ban chúng tôi nhận thức rằng, cái còn lại của một dân tộc và khẳng định sự tồn tại của một dân tộc là bản sắc văn hóa của dân tộc đó. Phong tục, tập quán, đạo lý, lối sống cũng nằm trong bản sắc văn hóa. Nói đến dân tộc, phải nói đến văn hóa dân tộc; văn hóa dân tộc cũng là kết tinh của tâm hồn, của trí tuệ, tài năng và là sức mạnh tinh thần của dân tộc ta trong lịch sử nghìn năm dựng nước và giữ nước. Cơ chế thị trường có mặt tích cực nhưng cũng đang làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nhức nhối: các ngành văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, y tế tiếp tục khó khăn; sự phân hóa giàu nghèo quá nhanh; sự thay đổi thang bậc giá trị con người, điều đáng lưu ý là đồng tiền đang có xu thế lấn lướt các giá trị tinh thần khác, lối sống thực dụng đã xuất hiện ở một bộ phận dân cư đang làm xói mòn dần đạo lý con người và bản sắc văn hóa dân tộc ta, một dân tộc "thương người như thể thương thân", "lá lành đùm lá rách", một dân tộc "lấy nhân nghĩa thắng hung tàn". Ủy ban chúng tôi mong muốn Quốc hội, Chính phủ dành sự quan tâm chỉ đạo lĩnh vực văn hóa, làm thức tỉnh mạnh mẽ tình cảm yêu nước nồng nàn, lòng nhân hậu, vị tha, thực sự tập trung được nguồn lực tinh thần và vật chất để chấn hưng văn hóa dân tộc, góp phần giữ vững độc lập của đất nước, chăm lo sự trường tồn của dân tộc.
Trong năm 1993, sự nghiệp giáo dục - đào tạo tuy có những chuyển biến tích cực nhưng đang đứng trước những thử thách gay gắt. Khả năng, trình độ và chất lượng của nền giáo dục của chúng ta là bất cập với yêu cầu phát triển của đất nước. Mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 còn chưa trong tầm tay, vì sự phát triển rất không đồng đều giữa các vùng, đặc biệt là các vùng dân tộc, miền núi, vùng xa xôi, hẻo lánh còn quá nhiều khó khăn. ở những vùng đời sống khá, nhất là ở các thành phố, số giáo viên bỏ việc vẫn diễn ra, có nơi hằng năm lên tới 2.000- 3.000 người nên số đào tạo ra không bù đắp kịp số bỏ việc. Hiện nay, trong cả nước còn thiếu 60.000 giáo viên cấp I, trong khi đó, học sinh giỏi không vào sư phạm, năm nay còn có hiện tượng trường sư phạm tuyển không đủ chỉ tiêu học sinh, mặc dù điểm chuẩn đã hạ rất thấp. Giáo viên giỏi tiếng Anh xin ra khỏi ngành Giáo dục không ít, nhiều giáo sư giỏi chuyên môn đi làm chuyên gia dài hạn ở nước ngoài, học sinh giỏi không muốn ở lại trường, trong khi đó các công ty nước ngoài lại nhằm vào các trường đại học để chọn những học sinh giỏi sau khi tốt nghiệp nhận vào làm việc và còn cho họ đi nâng cao trình độ ở nước ngoài. Nguyên nhân sâu xa chính là khoảng cách về đời sống giữa những người làm việc trong khu vực kinh tế và giáo viên ngày càng chênh lệch, nhất là ở những nơi kinh tế phát triển. Tình hình đội ngũ giáo viên ở vùng nông thôn có ổn định hơn, nhưng tỷ lệ học sinh bỏ học vẫn còn cao, trình độ văn hóa của thanh niên thấp, hiện nay, trung bình chỉ đạt 12% số thanh thiếu niên trong độ tuổi có trình độ phổ thông trung học, khoảng 30 - 40% có trình độ phổ thông cơ sở; tỷ lệ học sinh đi học so với dân số trong 3 năm qua giữ ở mức trên 18%. Các trường học, đặc biệt là các trường cao đẳng và đại học, có vai trò quyết định trong sự phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài của đất nước nhưng trong nhiều năm qua và đến nay vẫn ở tình trạng khó khăn không có ngân sách cho việc bồi dưỡng, tu nghiệp để nâng cao trình độ, không có kinh phí mua sách báo nước ngoài, nên luôn bị thiếu đói thông tin khoa học; không có tiền để đổi mới thiết bị và các phương tiện giúp cho việc thực hành, nghiên cứu khoa học. Nhiều trường học đang phải tìm mọi cách để có nguồn kinh phí bổ sung từ ngoài nguồn ngân sách nhà nước cấp nên môi trường sư phạm bị biến dạng. Với tình trạng đó, trường đại học và cao đẳng của ta khó có thể đào tạo được những chuyên gia giỏi, những trí thức tài năng, những nhà chuyên môn có chất lượng ngang tầm thế giới và các trường phổ thông, chuyên nghiệp, dạy nghề chưa thể tạo được một sự chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục để chuẩn bị cho đào tạo đội ngũ lao động phổ thông có chất lượng có thể cạnh tranh được với các nước và điều đó về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế, lối sống, đạo đức và truyền thống văn hóa của dân tộc.
3. Đầu tư, quản lý và sử dụng ngân sách
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều cố gắng tìm nguồn ngân sách để đầu tư cho lĩnh vực xã hội nói chung, cho văn hóa, giáo dục, chăm sóc thanh thiếu niên và nhi đồng nói riêng. Nhưng, mức đầu tư thực tế vẫn còn thấp nhiều so với yêu cầu phát triển của những ngành này trong tương quan với phát triển kinh tế. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tỷ trọng chi so với chi tiêu dùng thường xuyên cho giáo dục năm 1991, là 13,7%; năm 1992, là 13%; năm 1993, là 15,5% và dự kiến năm 1994, là 16,58%. So với tổng ngân sách nhà nước thì năm 1991, là 9,3%; năm 1992, là 7,9%; năm 1993, là 9,3% và dự kiến năm 1994, là 11%. Đối với văn hóa - thông tin (bao gồm cả phát thanh, truyền hình, thể dục - thể thao), so với chi tiêu dùng thường xuyên năm 1991, là 2,2%; năm 1992, là 2,5%; năm 1993, là 2,1%, dự kiến năm 1994, là 2,7%; nếu so với tổng chi ngân sách nhà nước thì năm 1991, là 1,6%; năm 1992, là 1,5%; năm 1993, là 1,3% và dự kiến năm 1994, là 1,6%. Cách tính tỷ lệ chi cho văn hóa, giáo dục trong mục chi tiêu dùng thường xuyên thể hiện được tinh thần "làm ra bao nhiêu thì tiêu bằng ấy", điều đó đúng trong bài toán cân đối thu - chi, nhưng lại không thể hiện được vị trí, vai trò của văn hóa - xã hội trong phát triển đất nước. Ngày nay, quan niệm về đầu tư cho văn hóa - giáo dục đã được nhìn nhận hữu cơ với đầu tư phát triển kinh tế; nếu như đầu tư cho giao thông, điện là đầu tư cho hạ tầng sản xuất thì đầu tư cho giáo dục, y tế là đầu tư cho hạ tầng xã hội. Đầu tư cho xã hội cũng chính là đầu tư cho kinh tế vì đây là chuẩn bị cho môi trường làm kinh tế cũng như chuẩn bị cho chất lượng người lao động, bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế.
Ủy ban chúng tôi cho rằng, không có một vấn đề nào quan trọng hơn của một xã hội là xã hội đó chuẩn bị cho tương lai của mình bằng việc chăm lo đào tạo thế hệ trẻ mà trong đó văn hóa - giáo dục, y tế, thể dục thể thao có liên quan chặt chẽ với nhau và có vai trò quyết định trực tiếp tới sự hình thành và phát triển nhân cách của con người. Đảng ta đã từng khẳng định: "Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa của dân tộc, là sức mạnh tương lai của đất nước". Nghị quyết Đại hội VII đã đưa vị trí giáo dục đào tạo và khoa học - công nghệ lên "quốc sách hàng đầu". Quốc hội đã thể chế hóa thành Điều 35 trong Hiến pháp năm 1992. Điều đó hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của thế giới ngày nay. Một kinh nghiệm lớn của thế giới đã được đúc kết thành quy luật là "Hễ quốc gia nào đầu tư đúng và đủ cho giáo dục thì quốc gia đó sẽ tiến nhanh trên con đường phát triển, còn nếu làm ngược lại thì sự chậm phát triển hoặc thụt lùi sẽ là điều không tránh khỏi". Và, vì vậy, "giáo dục phải được ưu tiên tuyệt đối trong mọi ngân sách", như khuyến cáo của 74 nhà khoa học được giải thưởng Nôben khi hội thảo về "những đe dọa và hứa hẹn ở ngưỡng cửa của thế kỷ XXI". Nghị quyết Trung ương 4 đã khẳng định "đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển", coi "các mục tiêu của giáo dục và đào tạo là ưu tiên hàng đầu trong mục tiêu chiến lược của quốc gia". Theo sự tính toán của chuyên viên hai Bộ Tài chính và Giáo dục - Đào tạo thì, so với yêu cầu tối thiểu cần chi ở một trường phổ thông trong năm 1993, mức chi tiêu tính theo đầu học sinh mới đạt 24,15 - 33,82% ở bậc tiểu học, 23,33 - 30% ở phổ thông cấp II và 27,78 - 35,35% ở phổ thông trung học. Còn ở đại học và cao đẳng, chi cho con người đã chiếm 65%, còn 35% dành cho các chi khác, trong đó chỉ có 7 - 10% chi cho học tập và giảng dạy. Như vậy, việc nhà trường yêu cầu phụ huynh đóng góp quá nhiều khoản có nguyên nhân do định mức chi tiêu quá thấp này. Số phòng học tạm thời ở ngành học mầm non chiếm tới 40%, ở trường phổ thông cơ sở chiếm 33%, ở trường phổ thông trung học chiếm 21%. Hiện còn tới 80.000 phòng học 3 ca, đó là chưa tính đến hàng loạt trường, lớp mới bị những trận bão tàn phá ở các tỉnh miền Trung trong tháng 10 và tháng 11 vừa qua. Thiết bị dạy học nhiều nơi còn ở dưới mức tối thiểu cũng do ngân sách quá hạn hẹp.
Một câu hỏi được đặt ra là: trong khi thu ngân sách còn thấp thì lấy nguồn lực đâu để đầu tư cho văn hóa, giáo dục? Thực ra, trong mấy năm qua, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng đang nghiên cứu để tìm ra các giải pháp cho vấn đề này, như: làm các dự án vay vốn lãi suất thấp của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng châu Á; huy động các nguồn viện trợ, hình thành các loại trường bán công, dân lập, tư thục để trên cơ sở đáp ứng nhu cầu học tập của dân mà huy động sự đóng góp của nhân dân cho sự nghiệp giáo dục. Việc huy động này chỉ có kết quả đối với trường có chất lượng tốt, được nhân dân thừa nhận, nhất là ở những nơi dân có mức thu nhập khá. Tiếc rằng, loại trường có chất lượng cao còn quá ít. Những giải pháp như vậy chúng tôi cho là đúng hướng, nhưng muốn đạt được những điều này trước mắt lại cần phải tăng đầu tư cho giáo dục, tạo ra nhiều trường có chất lượng tốt, từ đó mà huy động được sự đầu tư của nhân dân. Ngành Thể dục - thể thao cũng đã tổ chức các câu lạc bộ, các hiệp hội để huy động thêm nguồn lực từ những người yêu thích thể dục - thể thao. Đài phát thanh, đài truyền hình, các báo chí mở thêm trang mục quảng cáo để có thêm nguồn lực.
Giai đoạn chuyển cơ chế là giai đoạn phải chi phí nhiều hơn, vì vậy, nếu nhìn nhận trong quan điểm để phát triển kinh tế, bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế và xuất phát từ thực trạng văn hóa, giáo dục hiện nay, thì việc tăng đầu tư cho văn hóa, giáo dục là một vấn đề cấp bách và không thể do dự, mặt khác, cũng cần tạo những điều kiện cần thiết như cấp đủ vốn lưu động, hỗ trợ ngân sách cho việc đổi mới công nghệ cho các đơn vị kinh tế trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục để các đơn vị này vừa phục vụ được yêu cầu của xã hội mà cũng vừa góp phần tăng nguồn thu cho các sự nghiệp này là một khả năng thực tế.
Ủy ban chúng tôi cho rằng, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng ngân sách bằng cơ chế quản lý phù hợp, chi đúng mục đích, chống lãng phí, thất thoát cũng là một biện pháp gián tiếp tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục, văn hóa. Cũng từ suy nghĩ này, năm qua, Ủy ban chúng tôi đã nghiên cứu, khảo sát chuyên đề về quản lý, phân bổ ngân sách từ Trung ương đến địa phương cho sự nghiệp giáo dục vì đây là khoản ngân sách lớn nhất trong mục chi tiêu dùng thường xuyên. Về phân bổ ngân sách giáo dục, sau khi Quốc hội quyết định tổng thể, Bộ Tài chính đã phân bổ cụ thể cho các tỉnh, thành. So sánh ngân sách này với ngân sách do Hội đồng nhân dân hoặc Ủy ban nhân dân phân bổ lại cho ngành Giáo dục - Đào tạo thì thấy rất khác nhau. Một số tỉnh đã chi tăng hơn, một số tỉnh bảo đảm chi đủ ngân sách, nhưng có nhiều tỉnh đã cấp không đủ theo mức Trung ương phân bổ, nên ngân sách giáo dục ở những nơi này chủ yếu chỉ đủ để chi trả lương. Về cơ chế quản lý ngân sách giáo dục, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 287-CT, ngày 04 tháng 8 năm 1992, giao cho các Sở Giáo dục - Đào tạo quản lý ngân sách của ngành. Đến nay, có 44/53 tỉnh, thành phố đã giao cho Sở Giáo dục - Đào tạo quản lý ngân sách giáo dục ở mức độ khác nhau. Nhiều tỉnh, thành lại đã chỉ đạo cho Sở Giáo dục - Đào tạo, Sở Tài chính ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết các hạng mục được chi và mức chi để các trường chủ động và có thể tập trung cho các hạng mục cần thiết phù hợp với từng trường. Ở những nơi do Sở Giáo dục - Đào tạo quản lý ngân sách thì Đoàn kiểm tra của Bộ Tài chính đánh giá nói chung là tốt. Qua khảo sát của Ủy ban chúng tôi, ở những địa phương đã giao cho ngành Giáo dục quản lý ngân sách thì tình trạng nợ lương, chậm lương giáo viên về cơ bản đã được khắc phục, tiền chi cho hoạt động dạy và học tăng lên, có nơi tăng gấp ba lần do biết bố trí chi hợp lý; các chương trình hoạt động của nhà trường đều có tiền để chi nên triển khai khá tốt. Nhưng, ở những nơi cơ chế quản lý chưa được đổi mới, nguyên tắc công khai ngân sách từ cấp trên xuống trường học thường không được thực hiện, làm nảy sinh những băn khoăn, thắc mắc. Chúng tôi cho rằng, việc phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách cần làm đúng theo chức năng, nhiệm vụ của từng ngành như quy định về công tác kế toán thống kê. Trên cơ sở xét duyệt của Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Tài chính thực hiện chức năng giám đốc, quản lý hạn mức ngân sách; Sở chủ quản có trách nhiệm và quyền hạn trong việc quyết định phân bổ ngân sách, đó là quyền cấp lệnh chi và phải chịu trách nhiệm về việc quản lý ngân sách trong ngành mình, còn Kho bạc là cơ quan quản lý tiền và thực hiện việc cấp phát. Cần bảo đảm thực hiện nguyên tắc công khai, dân chủ từ Trung ương đến các cấp chính quyền và tới trường học. Nhà trường trong một năm học phải có trách nhiệm thu nhận bao nhiêu học sinh, sử dụng bao nhiêu biên chế, giáo viên, cán bộ, công nhân viên thì đương nhiên phải được biết số ngân sách trong một năm là bao nhiêu, được tiêu những gì và được quyền chủ động đến đâu, điều đó cần được giải quyết sớm và dứt điểm bằng những văn bản áp dụng thống nhất để nâng cao hiệu quả sử dụng đồng tiền, tránh được những chi tiêu không đúng, lãng phí, chống được sự tùy tiện, cửa quyền và cũng tránh cho cơ sở nhiều phiền hà, phụ thuộc không đáng có.
Từ nay đến năm 1995, chúng tôi đề nghị, cùng với việc tăng ngân sách nhà nước Trung ương và sự bổ sung ngân sách của địa phương có nguồn thu vượt cần huy động sự đóng góp của nhân dân để giải quyết cho được tình trạng học ca 3, thanh toán những lớp học tạm (tranh, tre, nứa, lá), bảo đảm bàn ghế đúng quy cách, có trang thiết bị cho phòng thí nghiệm để thực hành, nghiên cứu khoa học, có phương tiện học ngoại ngữ, máy vi tính, và nhất thiết có một khoản chi cho bồi dưỡng, đào tạo lại giáo viên, kể cả việc lựa chọn một số sinh viên giỏi đưa đi đào tạo ở các nước tiên tiến; đầu tư cho thư viện nhà trường, mở rộng thành thư viện chung cho vùng dân cư; có biện pháp giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, chăm sóc thể lực cho thanh thiếu niên, nhi đồng. Do đó, chúng tôi đề nghị Quốc hội, trong kỳ họp này, xác định cụ thể tỷ trọng ngân sách nhà nước đầu tư thỏa đáng cho giáo dục, văn hóa, cho công tác thanh thiếu niên và nhi đồng, bảo đảm hằng năm phải được tăng theo mức tăng lên của Nhà nước, trên cơ sở xác định cho rõ những mục tiêu phấn đấu cho từng năm, từng kế hoạch từ nay đến năm 2000. Việc đầu tư theo các chương trình - mục tiêu là có hiệu quả, cần được duy trì. Khi đã coi đầu tư cho xã hội là đầu tư cho phát triển và để thấy được tương quan giữa xã hội với kinh tế trong đầu tư đã hợp lý chưa thì Nhà nước cần quan tâm đến tỷ trọng đầu tư trên tổng chi ngân sách nhà nước và một nguyên tắc cần được nghiêm túc thực hiện là: Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân không sửa lại mức đầu tư ngân sách cho văn hóa, giáo dục mà Trung ương đã giao, chỉ có phấn đấu bổ sung từ nguồn thu vượt ngân sách hay huy động được từ xã hội. Bên cạnh đó, việc sắp xếp lại mạng lưới các cơ sở văn hóa, giáo dục; đổi mới cách quản lý văn hóa, cách làm giáo dục, từ nội dung chương trình đến việc đổi mới cơ chế quản lý giáo dục và văn hóa; hoạch định những chính sách đối với nhà giáo, văn nghệ sĩ, trí thức cũng là những việc làm có ý nghĩa nâng cao hiệu quả đầu tư cho văn hóa, giáo dục.
Nhân tố quan trọng có tính chất quyết định chất lượng giáo dục là người thầy giáo. Hiện nay, đang nổi vấn đề cần phải giải quyết đó là đời sống giáo viên. Tình hình cải cách tiền lương dù có thực hiện đầy đủ, giáo viên vẫn không đủ sống bằng lương, vì đại bộ phận giáo viên có mức lương trong khoảng từ 200.000 - 250.000đ/tháng, trong khi mức tối thiểu để người giáo viên có thể bảo đảm mức sống khiêm tốn ở thành phố phải khoảng 500.000 đồng và ở nông thôn khoảng 300.000đ. Để tránh tình trạng giáo viên phải làm thêm nghề khác, các địa phương cần hỗ trợ thêm thu nhập cho giáo viên. Chúng tôi cho rằng, hiện nay không thể quy định đồng loạt trong toàn quốc mức hỗ trợ đời sống cho giáo viên, mà Chính phủ nên giao cho chính quyền các cấp căn cứ vào mức sống của từng vùng dân cư mà hỗ trợ thêm từ nguồn thu học phí, từ ngân sách của địa phương, sao cho giáo viên có được mức sống trung bình của xã hội để họ có thể dành thời gian, trí lực phục vụ sự nghiệp giáo dục của nhà trường. Việc Chính phủ quy định dùng 35% học phí chi cho đời sống giáo viên đã có nhiều địa phương không thực hiện được, vì trước đây dành tới 70% mà mỗi giáo viên trung bình chỉ được khoảng 20.000đồng/tháng. Cần giữ chế độ hỗ trợ cho giáo viên cấp I, vì ở cấp này không thu học phí. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách để giáo viên, văn nghệ sĩ có thể tăng thu nhập bằng lao động sáng tạo, trong hoạt động dạy và học, trong nghiên cứu khoa học, trong công tác giáo dục học sinh. Bộ Giáo dục - Đào tạo cần đổi mới chính sách đối với giáo viên, như chế độ dạy thêm giờ, nhuận bút cho việc viết giáo trình, phụ cấp cho các hoạt động giáo dục, sao cho giáo viên có thêm thu nhập chính bằng nghề của mình, để học sinh được học tập, được chăm sóc tốt hơn. Ở một số địa phương, tại các trường cấp I, II bán trú, học sinh được chăm sóc chu đáo cả ngày nên phụ huynh học sinh sẵn sàng đóng góp học phí cao hơn, đời sống giáo viên được bảo đảm và kết quả là chất lượng giáo dục được nâng lên. Có tỉnh thiếu giáo viên cấp I, đã thực hiện chính sách nếu giáo viên nào đứng hai lớp, thì được trả hai lương. Những kinh nghiệm ấy rất đáng nghiên cứu để kết hợp nâng cao thu nhập của giáo viên chính bằng kết quả giáo dục mang lại cho học sinh.
Đối với chế độ tiền lương mới, chúng tôi hoan nghênh Ban lương trong quá trình chỉ đạo thực hiện chuyển lương mới đã điều chỉnh theo hướng cố gắng bảo đảm quyền lợi cho giáo viên. Tuy nhiên, đến nay, vẫn còn những tồn tại như: thang lương của ngành Giáo dục do có nhiều ngành học nên bị dồn nén quá nhiều bậc (ví dụ số bậc lương của ngạch giáo viên phổ thông trung học cấp cao nhiều hơn số bậc lương cấp cao của các ngành khác, nhưng lại kết thúc ở mức lương bằng nhau hoặc thấp hơn). Có một vấn đề mà đội ngũ giáo dục không phấn khởi, thậm chí băn khoăn, đó là việc bỏ thâm niên giáo dục trong lương mà trước đây đã thực hiện. Ủy ban chúng tôi đề nghị Nhà nước nghiên cứu để giữ lại chế độ thâm niên, theo ý nghĩa nghề nghiệp đối với giáo viên để bảo đảm đời sống của hai người thầy là thầy thuốc và thầy giáo, nhất là trong lúc đời sống của họ còn đang rất khó khăn. Chúng tôi cũng đề nghị Nhà nước cần có chính sách quan tâm đặc biệt đối với đội ngũ trí thức và văn nghệ sỹ để họ yên tâm gắn bó với nghề nghiệp, dành mọi sức lực và tâm huyết phục vụ dân tộc, phục vụ sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Kính thưa Quốc hội,
Trên đây là những ý kiến của Ủy ban chúng tôi trình Quốc hội xem xét, quyết định phương hướng kế hoạch năm 1994 - 1995 và kế hoạch năm 1994, những giải pháp cho lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thanh thiếu niên và nhi đồng, sao cho quán triệt được quan điểm của Đảng và Nhà nước ta: giáo dục là quốc sách hàng đầu, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thanh thiếu niên và nhi đồng là tương lai của dân tộc và được thể hiện trong kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1994 bằng việc tăng tỷ lệ đầu tư ngân sách nhà nước thỏa đáng cho các lĩnh vực này, để các nghị quyết của Đảng, của Quốc hội có điều kiện đi vào cuộc sống. Trong tổ chức chỉ đạo, chúng tôi đề nghị Chính phủ tập trung nghiên cứu từng chuyên đề, giải quyết cho từng loại vấn đề của văn hóa - giáo dục, thanh thiếu niên và nhi đồng mà trước hết là mô hình tổ chức bộ máy các cấp, trong đó cần quan tâm hơn tới cấp cơ sở, đổi mới cơ chế quản lý ngành, hệ thống các chính sách cho các lĩnh vực này đang là yêu cầu bức bách cần phải giải quyết.
Xin cảm ơn sự chú ý theo dõi của các vị đại biểu Quốc hội và các vị khách.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội