VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 1 1992-1993


THUYẾT TRÌNH CỦA ỦY BAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI CỦA QUỐC HỘI
VỀ TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM, CÁC TỆ NẠN XÃ HỘI, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

(Do bà Nguyễn Thị Hoài Thu, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội
của Quốc hội đọc tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa IX, ngày 07-12-1993)

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Sau một năm hoạt động, Ủy ban về các vấn đề xã hội chúng tôi đã có báo cáo tổng kết gửi đến các quý vị đại biểu về tham gia hoạt động lập pháp và giám sát trên các lĩnh vực được phân công như vấn đề dân số, y tế, tôn giáo, chính sách xã hội..., Ủy ban chúng tôi thấy rằng các vấn đề xã hội còn rất nặng nề, đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách, biện pháp phù hợp với cơ chế mới thì mới hy vọng giải quyết được. Trong thời gian có hạn, Ủy ban chúng tôi xin phép đề cập hai vấn đề lớn trong phạm vi hoạt động giám sát của mình đó là tình hình giải quyết việc làm và các tệ nạn xã hội, hy vọng rằng bản báo cáo này sẽ cung cấp một số thông tin và giải pháp cần thiết để các đại biểu tham khảo trong việc quyết định phương hướng và phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch ngân sách trong thời gian tới. Bản thuyết trình này bao gồm hai phần:

I- THỰC HIỆN QUỸ QUỐC GIA GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM

Giải quyết việc làm là vấn đề phổ biến của nhiều quốc gia trên thế giới, là vấn đề rất khó khăn ở các nước có tỷ lệ tăng dân số cao như nước ta, trong khi nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, hệ thống bảo hiểm xã hội chưa phát triển, tỷ lệ người bước vào tuổi lao động tăng dần. Đây là một vấn đề có liên quan đến rất nhiều khía cạnh chính trị kinh tế và xã hội.

Số lượng người chưa có việc làm và thiếu việc làm ở nước ta tăng dần trong những năm qua. Chỉ riêng trong năm 1993, có trên 2,7 triệu người hoàn toàn chưa có việc làm, phần đông tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội: có khoảng 10 vạn, Thành phố Hồ Chí Minh: có 27 vạn, Hải Phòng: 7 vạn, Đà Nẵng: 7 vạn... Nhìn chung tỷ lệ người chưa có việc làm ở thành phố từ 9 - 12%. Theo các nhà kinh tế, thì đây đã là mức báo động số 2 (bởi vì, mức báo động số 1 là khi tỷ lệ này 7%), từ vấn đề kinh tế sẽ chuyển thành vấn đề chính trị phức tạp.

Trong khu vực nông thôn vấn đề thiếu việc làm rất nghiêm trọng, thứ nhất là do thời gian nông nhàn chiếm 1/3 quỹ thời gian lao động, do đó, nếu chỉ độc canh cây lúa thì thời gian nhàn rỗi khá nhiều (mà phần lớn các vùng nông thôn hiện nay còn ở tình trạng độc canh), thứ hai là tỷ lệ hộ nông dân thiếu và không có đất canh tác rất lớn. Trong một ấp ở đồng bằng sông Cửu Long có đến 25% số hộ nông dân không có đất canh tác, có những huyện có 5% số hộ không có đất và các tư liệu sản xuất khác. Các chợ lao động ở Hà Nội đã cho ta thấy phần nào tình trạng thất nghiệp ở nông thôn.

Nhu cầu việc làm lại càng tăng lên khi sắp xếp lại sản xuất trong các doanh nghiệp cũng như các cơ sở hành chính sự nghiệp, bên cạnh đó là số học sinh mới ra trường, bộ đội xuất ngũ, số đối tượng đã hoàn thành cải tạo giáo dục...

Vấn đề việc làm hết sức phức tạp, nó vừa là quyền lợi của người lao động vừa là nhu cầu cấp bách để phát triển và ổn định xã hội. Thực tế cũng như lý luận cho thấy rằng, con người chỉ cảm thấy có ích khi họ có việc làm để tự bảo đảm cho cuộc sống của họ cũng như gia đình và làm nghĩa vụ đóng góp cho xã hội. Thiếu việc làm là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến các tệ nạn xã hội (chúng tôi xin đề cập vấn đề này ở phần sau) và mất ổn định xã hội.

Vì thời gian có hạn chúng tôi chỉ đề cập một phạm vi rất hạn hẹp của vấn đề giải quyết việc làm, đó là hoạt động của quỹ quốc gia giải quyết việc làm.

Trước tình trạng trên, trong hai năm 1992 - 1993, Quốc hội đã dành một khoản ngân sách cho quỹ giải quyết việc làm quốc gia, Chính phủ và các địa phương đã tiến hành các biện pháp cần thiết và đạt được một số kết quả đáng khích lệ, trong năm 1993, có 1,2 triệu người tạo được việc làm, nhiều người đã được đào tạo dạy nghề.

Trong khu vực nông thôn, với chủ trương đa dạng hóa việc làm, đa dạng hóa nguồn thu nhập, thay đổi cơ cấu cây con trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt nhờ cơ chế mở cửa và tìm thị trường xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, từ độc canh cây lúa sang trồng các cây công nghiệp, cây ăn trái, nuôi trồng các loại đặc sản và phát triển các ngành nghề phụ ở nông thôn, vì vậy, mặc dù tỷ lệ hộ nghèo còn cao song đã có rất nhiều hộ nông dân giàu lên với mức thu nhập vài chục triệu đồng hằng năm đã xuất hiện nhiều. Thực tế cho thấy, nếu chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ độc canh cây lúa sang các loại cây công nghiệp hay cây ăn trái khác thì mức độ thu hút lao động sẽ tăng gấp 3 lần, và giá trị thu nhập có thể tăng gấp 5 lần (có nơi gấp 10 lần).

Chúng tôi thấy rằng, đây là hướng giải quyết việc làm đúng đắn, phù hợp với Nghị quyết 5 về xây dựng và phát triển nông thôn của Ban Chấp hành Trung ương, đó là bước đi cơ bản nhằm tạo việc làm ở nông thôn và góp phần xóa bỏ sự ngăn cách giữa nông thôn và thành phố, từng bước làm thay đổi bộ mặt của nông thôn Việt Nam.

Năm 1993, ngân sách nhà nước đã dành 200 tỷ cho quỹ giải quyết việc làm quốc gia. Do quỹ này mới hình thành một hai năm nay, vì vậy, nên chưa có nhiều kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện, mặt khác, do ảnh hưởng của đổ vỡ tín dụng những năm trước, vì vậy, năm 1992, thủ tục xét duyệt cho vay còn phức tạp, phải qua nhiều khâu, nhiều bước. Sang năm 1993, việc xét duyệt cho vay đã phân cấp cho các địa phương, cơ chế tín chấp đã được áp dụng hợp lý hơn, đồng thời diện đối tượng cho vay được mở rộng đến các cơ sở sản xuất của thương binh, người tàn tật, thanh niên xung phong, đối tượng xã hội sau khi đã được cải tạo giáo dục, v.v. đồng thời, lãi suất cho vay đã giảm hơn so với năm trước. Chính vì các yếu tố đó mà dự án đã được thực thi nhanh hơn.

Mặc dù đến tháng 5-1993, mới có quyết định của Chính phủ về khoản tiền 200 tỷ, nhưng do rút kinh nghiệm của năm trước, các cơ quan chức năng đã nhanh chóng triển khai. Tính đến tháng 11-1993, đã có 98% số tiền được chuyển đến các địa phương, hơn 5.000 dự án, thu hút thêm 270 vạn lao động và dạy nghề cho trên 33 ngàn người.

Việc Quốc hội ấn định một khoản ngân sách cho quỹ giải quyết việc làm là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Nhiều bà con nông dân đã cám ơn Nhà nước và cho rằng Nhà nước đã không quên họ, điều đó góp phần làm tăng niềm tin của bà con với Nhà nước.

Tuy nhiên, hoạt động của quỹ giải quyết việc làm cũng còn một số vấn đề cần phải xem xét để tiếp tục giải quyết tốt hơn:

Một là, cơ chế kinh tế thị trường với nhiều kết quả tốt đẹp song cũng có hậu quả kèm theo, đó là sự phân hóa xã hội. Số hộ nghèo và thiếu vốn còn chiếm 25- 30% tổng số hộ trong cả nước. Có những huyện tỷ lệ hộ nghèo chiếm đến trên 40%, đồng thời, diện đối tượng cho vay để giải quyết việc làm đang ngày càng mở rộng, trong khi đó quỹ lại giảm hơn so với năm trước (năm 1992, là 250 tỷ, năm 1993, là 200 tỷ). Chính vì những lẽ đó mà quỹ này chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu vay vốn của các đối tượng. Nếu chúng ta xác định giải quyết việc làm có tác dụng nhiều mặt đến kinh tế, chính trị và ổn định xã hội thì cần sớm giải quyết mâu thuẫn này.

Hai là, việc giải quyết việc làm ở khu vực thành thị qua các dự án công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp có phần đúng, nhưng trên thực tế, nhiều dự án được vay tối đa 200 triệu nhưng chỉ thu hút trên dưới 10 lao động, ngược lại ở khu vực nông thôn mỗi người chỉ cần vay bốn năm trăm ngàn đã có thể tạo ra 1-2 chỗ làm việc tạm thời, nếu được vay 5-7 triệu chắc chắn sẽ tạo việc làm lâu dài. Như vậy, một vấn đề đặt ra ở đây là các địa phương cần xem xét các dự án của doanh nghiệp tư nhân có mức vay tối đa, nếu đó chỉ là đầu tư chiều sâu để phát triển kinh tế thì nên chuyển sang vay vốn ngân hàng.

Ba là, theo quy định của quỹ giải quyết việc làm thì chỉ có các đối tượng đang sản xuất - kinh doanh mà thiếu vốn thì mới được vay hỗ trợ. Trong khi đó, các hộ nông dân nghèo thì chưa có điều kiện sản xuất - kinh doanh, muốn tạo ra việc làm gần như vốn vay là chủ yếu, nhưng ở một số địa phương có hiện tượng ngần ngại trong việc cho nông dân nghèo ở diện này vay vốn.

Như vậy, cần có nguyên tắc chỉ đạo chung là: những người thiếu vốn nhất cần phải được vay trước.

Bốn là, cho đến nay, vấn đề ách tắc nhất, vẫn là các thủ tục ở các kho bạc quận, huyện, hoặc là cho vay bằng ngân phiếu, hoặc chờ đợi thẩm tra lại dự án rất lâu mới được lĩnh tiền (cho dù đã có quyết định của tỉnh hay thành phố).

Năm là, mặc dù đã phân cấp xét duyệt dự án cho cấp tỉnh nhưng nhìn chung việc xét duyệt ở các cấp trong tỉnh, thành phố vẫn mất nhiều thời gian và không tránh khỏi phải chi phí cho "công lên việc xuống"...

Ngoài ra, từ vài năm gần đây ở các địa phương trên cả nước, đặc biệt là ở các nơi như Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Đồng Nai, Thái Bình, Hải Phòng, v.v. đang có phong trào xóa đói, giảm nghèo, hiệu quả của phong trào này đã góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho người nghèo, giảm dần sự khác biệt giàu nghèo, phong trào đó cũng rất phù hợp với xu hướng chung của các nước đang phát triển, đó cũng là một trong những nội dung của Nghị quyết 5 của Ban Chấp hành Trung ương. Vì vậy, cùng với quỹ giải quyết việc làm, chúng ta cần có một quỹ và chương trình quốc gia về xóa đói, giảm nghèo, quỹ này sẽ giúp đỡ người nghèo chưa biết cách sản xuất - kinh doanh, có cơ hội được vay vốn và được hướng dẫn giúp đỡ cách làm ăn để từng bước đi lên.

II- TÌNH HÌNH THỰC TRẠNG TỆ NẠN XÃ HỘI
VÀ CÁC GIẢI PHÁP

Tệ nạn xã hội bao gồm rất nhiều vấn đề như mại dâm, nghiện chích ma túy, tình hình lây nhiễm HIV và hiểm họa SIDA, lang thang cơ nhỡ và bụi đời, cờ bạc, trộm cắp... Với thời gian giới hạn ở đây, chúng tôi chỉ xin phép trình bày đến ba vấn đề chính là mại dâm, nghiện hút và hậu quả nghiêm trọng nhất của nó hiện nay là tình trạng nhiễn HIV và SIDA.

Thưa các vị đại biểu, kể từ kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa IX đến nay, chúng tôi đã đạt được một số tiến bộ nhất định trong việc giải quyết các tệ nạn xã hội. Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về một số vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội, Nghị quyết 05 và 06 của Chính phủ quy định về công tác phòng, chống ma túy và mại dâm, các chương trình tổng thể vùng cao phía Bắc, trong đó có chương trình chuyển hướng sản xuất thay trồng cây thuốc phiện kết hợp với cai nghiện thuốc phiện, chương trình quốc gia về phòng, chống và kiểm soát ma túy đã được hình thành và đã có một khoản kinh phí 50 tỷ đồng. Việc xây dựng các chương trình quốc gia và bước đầu có một khoản kinh phí nhất định (tuy còn rất ít) đã thể hiện sự quan tâm và cố gắng lớn của Nhà nước ta. Thực hiện các nghị quyết của Chính phủ, các địa phương đã thành lập cơ quan phòng, chống tệ nạn xã hội và có nhiều hoạt động có kết quả. Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc và Miền núi, các tỉnh miền núi phía Bắc, đã vận động nhân dân ở địa phương nhổ bỏ 60% trong tổng số 15.000 ha thuốc phiện đã trồng. Các địa phương cũng tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống ma túy, đã bắt giữ rất nhiều đối tượng trong và ngoài nước buôn bán và tàng trữ ma túy và xử phạt thích đáng kể cả tử hình.Với sự chỉ đạo tích cực của Bộ Nội vụ, các địa phương đã triệt phá nhiều ổ chích hút ma túy, bắt giữ 1.730 kg thuốc phiện, riêng thành phố Hà Nội đã truy tố 46 chủ chứa, điều tra cơ bản và xử lý đưa đi cải tạo và cai nghiện một số lớn các đối tượng. Tính đến nay, cả nước đã thành lập và đưa vào hoạt động 16 trung tâm cai nghiện và 18 trung tâm bảo trợ xã hội trong toàn quốc. Ngoài ra ở các địa phương, đã tổ chức được rất nhiều các trung tâm nhỏ và các lớp cai nghiện ngắn ngày tại huyện cũng như xã, phường, bước đầu, một số nơi đã tiến hành cai nghiện tại xã, phường đạt nhiều kết quả như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Yên Bái, Hải Phòng...

Về công tác chống mại dâm, các địa phương đã tiến hành khảo sát để nắm chắc số lượng và các tụ điểm hành nghề, đã kiểm tra tổng số 15.333 lượt các khách sạn, quán trọ, nhà hàng và phạt tiền hơn 2.000 cơ sở hàng trăm triệu đồng, rút giấy phép hoạt động của 153 cơ sở và giải tán nhiều tụ điểm hành nghề.

Như các đại biểu đã biết, do tình trạng nhiễm HIV và SIDA là hậu quả trực tiếp của các tệ nạn mại dâm và ma túy, vì vậy, sự tăng cường các hoạt động phòng, chống mại dâm và ma túy trong thời gian qua cũng là những bước đi tích cực cho công tác phòng, chống nhiễm HIV/SIDA. Bên cạnh đó, Nhà nước đã cấp một số kinh phí cho việc nâng cấp thiết bị, kỹ thuật phát hiện các trường hợp nhiễm HIV (tuy kinh phí được cấp chỉ có 10 tỷ so với nhu cầu là 200 tỷ là quá thấp). Các chương trình truyền thông, thông tin tuyên truyền về nhiễm HIV/SIDA nhất là trong thời gian gần đây, được nâng cao chất lượng và có hiệu quả khá hơn. Nhìn chung, việc phòng, chống tệ nạn xã hội tuy mới được bắt đầu trong một thời gian ngắn, nhưng chúng ta đã có những bước đi cơ bản, Đảng và Nhà nước đã quyết tâm xóa bỏ các tệ nạn này, nhân dân và toàn xã hội đồng tình mong muốn Nhà nước sớm có biện pháp giải quyết.

Tuy nhiên, thực trạng về tệ nạn xã hội hiện nay so với mong muốn của chúng ta còn cách nhau khá xa, những cố gắng của chúng ta vẫn chưa đủ mạnh, rất nhiều cử tri đang băn khoăn lo lắng vì tình hình tệ nạn xã hội hiện nay. Chúng tôi xin phép trình bày một số tình hình và đề xuất một số biện pháp để giải quyết các tệ nạn xã hội như sau:

Mại dâm là một tệ nạn đã tồn tại từ lâu đời qua các hình thái xã hội, chỉ khác nhau về cường độ hoạt động tùy theo quan điểm và quy định của mỗi xã hội về vấn đề này. Số lượng gái mại dâm đang hành nghề ở nước ta hiện nay ước chừng 200.000 người. Có một điều chúng ta cần thấy rõ rằng hiện nay, chúng ta chỉ phát hiện theo dõi được số mại dâm trực tiếp hoạt động ở các tụ điểm, khách sạn, nhà hàng, vườn hoa, v.v. còn một số lượng rất lớn hoạt động gián tiếp bằng nhiều hình thức khác nhau, kín đáo, chính số đó mới gây băng hoại xã hội và lây truyền SIDA ghê gớm mà chúng ta không lường hết được. Đặc biệt, ta cũng cần lưu ý đến nhận xét rất mỉa mai của các chuyên gia quốc tế là: gái mại dâm ở Việt Nam rất trắng trợn hơn bất kỳ một nước nào, và đã "đánh bạt" gái mại dâm Thái Lan trên thị trường Campuchia. Tỷ lệ mại dâm ở tuổi vị thành niên ngày càng tăng, ở Hà Nội là 20%, và Nha Trang, là 32%... Cũng giống như ở các vùng nông thôn Thái Lan, lác đác ở nước ta cũng có hiện tượng vì chạy theo lợi ích kinh tế mà đem bán con cho các nhà chứa. Tệ nạn mại dâm đã thâm nhập vào cả giáo viên, học sinh, sinh viên. Thực tế đã cho ta thấy rằng, trong một số trường đại học cũng có nữ sinh viên hoạt động mại dâm. Do lợi ích thu được từ kinh doanh hoạt động mại dâm cao và nhanh hơn bất cứ một ngành nghề nào khác, vì vậy, số chủ chứa đã tăng lên không ngừng, riêng thành phố Hải Phòng, số chủ chứa năm 1993 đã tăng gấp đôi số chủ chứa năm 1992, cùng với tăng về số lượng các chủ chứa cũng có nhiều hành động chống đối dữ dội. Ví dụ, ở Hà Nội, đã có 27 trường hợp chủ chứa đến cướp lại gái mại dâm đang bị đưa vào giáo dục trong trung tâm bảo trợ xã hội. Mặc dù rất nhiều chủ chứa cùng với gái mại dâm đã lần lượt bị xử lý, song lại có một số lớn các cô gái trẻ đẹp từ các vùng nông thôn bị lừa đảo hay do các nguyên nhân kinh tế - xã hội lên thay thế họ. Số liệu cho thấy rằng, ở Thành phố Hồ Chí Minh, có 40% số mại dâm là từ các tỉnh lân cận đến hành nghề, còn ở Hà Nội, số này là 60%. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, ước chừng có khoảng 50 ngàn gái mại dâm, song khả năng của thành phố mỗi năm chỉ có thể thu gom đưa vào các trung tâm bảo trợ xã hội khoảng 2.000, như vậy, số thu gom vừa bằng số tăng mới hằng năm.

Về tệ nạn nghiện hút, tính đến năm 1993, theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cả nước ta có chừng 75.000 người nghiện chích ma túy được phát hiện, phần lớn tập trung ở các thành phố lớn và một số tỉnh miền núi, trong đó 88% là thất nghiệp, và hầu hết các đối tượng này đều có dính dáng đến trộm cắp và có tỷ lệ phạm tội khá cao, hầu hết những con nghiện nữ đều làm nghề bán dâm. Mỗi người nghiện hút hằng ngày trung bình tiêu cho chích hút khoảng 30 đến 50.000 đồng, có những đối tượng chi hàng trăm ngàn đồng một vài ngày, như vậy, riêng về chích hút đã mất vài tỷ trong mỗi ngày, như vậy, hậu quả của nghiện hút trên tất cả các khía cạnh chính trị kinh tế - xã hội.

Chúng ta đã đều biết sự liên quan chặt chẽ giữa mại dâm, ma túy và SIDA. Đối với nước ta trong gần ba năm qua, số nhiễm HIV đã lên đến hơn 1.000 người. Nếu theo cách tính của thế giới thì số thực bị nhiễm ở nước ta sẽ vào khoảng 100.000 người, sự lây nhiễm SIDA ở nước ta 88% qua con đường tiêm chích ma túy. Theo dự báo của Tổ chức Y tế thế giới đến năm 2000, nước ta sẽ có chừng 350.000 nhiễm HIV, 24.000 người sẽ bị nhiễm qua đường sinh dục, 60.000 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ bị nhiễm HIV và 20.000 trẻ em bị nhiễm HIV từ mẹ... Đó là những con số không những làm băng hoại xã hội mà còn gây thiệt hại to lớn về kinh tế... Như trên chúng tôi đã trình bày, với các biện pháp giải quyết như hiện nay để xóa bỏ cơ bản các tệ nạn ma túy và mại dâm cũng phải mất một thời gian dài, trong thời gian ấy, căn bệnh SIDA đã đủ giết cả dân tộc ta, chúng ta đừng nghĩ rằng nhiễm HIV và SIDA là những vấn đề của người khác, của các nước khác. Theo đánh giá của thế giới thì hiện nay, nước ta đang ở vào giai đoạn yên lặng, nếu không có các biện pháp hữu hiệu thì đến giai đoạn tới chúng ta sẽ không chống đỡ kịp.

Qua phân tích tình hình trên, Ủy ban chúng tôi nhận thấy tình hình đã đến mức báo động, cái đó không còn đơn thuần là tệ nạn xã hội đến với cá nhân và từng gia đình, những cái đó đã làm xói mòn đạo đức lối sống của dân tộc và đang có xu hướng phát triển thương mại hóa, bằng mọi thủ đoạn ranh ma lừa đảo của chủ chứa hòng buôn bán phụ nữ nhằm kiếm lời cao, những cái đó đang dần dần làm biến dạng bản chất xã hội ta.

Ủy ban chúng tôi xin kiến nghị một số giải pháp như sau:

1. Vấn đề trước tiên là chúng ta phải xác định một quan điểm thống nhất trên cả nước đó là nhất trí dần dần xóa bỏ cơ bản các tệ nạn này. Đối với nạn nghiện chích ma túy, tất cả chúng ta đã thống nhất là hạn chế và xóa bỏ càng sớm càng tốt, song đối với nạn mại dâm tuy Chính phủ đã có nghị quyết song chưa phải đã được thống nhất thực hiện ở các địa phương cũng như các ngành. Có tỉnh thực hiện ráo riết, triệt để nhằm hạn chế mại dâm. Song có ngành và địa phương chỉ tiến hành các biện pháp cầm chừng và còn sợ nếu làm mạnh công tác chống mại dâm sẽ mất nguồn thu từ khách du lịch. Chính vì những quan điểm như vậy mà số gái mại dâm hành nghề trong các khách sạn nhà nước chiếm tỷ lệ khá cao, ví dụ, ở Hải Phòng: 54% số gái mại dâm hoạt động trong các khách sạn (phần lớn là khách sạn nhà nước). Trong vụ án Sextour 1 (quán cà phê Bam Bi, quận 3) ở Thành phố Hồ Chí Minh vừa qua, có hơn 50 số người bị truy tố là nhân viên các khách sạn và hướng dẫn viên du lịch, chỉ một quán bán cà phê mà cung cấp gái mại dâm cho hơn 20 khách sạn ở Thành phố Hồ Chí Minh... Chúng ta nên thống nhất một quan điểm là đừng nên quá dễ dãi và cho rằng cứ chuyển sang nền kinh tế thị trường là có ănchơi và đĩ điếm. Thực tế, một tài liệu cho ta thấy rằng, chỉ có 15% khách du lịch nước ngoài là có nhu cầu tình dục, phần lớn khách đi mua dâm là người Việt Nam và 70 đến 80% trong số đó là công chức nhà nước.

Ở đây, chúng tôi xin nêu trường hợp của Thái Lan, đất nước có nguồn thu 5-6 tỷ đô la từ nguồn thu du lịch, song do khuyến khích du lịch tình dục mà cho đến nay, với số lượng vài trăm ngàn người nhiễm HIV và mỗi năm sinh ra hơn 1.000 trẻ nhiễm HIV và đúng như các nhà nghiên cứu SIDA của Tổ chức Y tế thế giới đánh giá là ảnh hưởng của SIDA sẽ như một làn sóng thủy triều quét sạch những thành tựu về kinh tế - xã hội mà Thái Lan đã phấn đấu tích cực để đạt được trong những năm vừa qua. Do đó, muốn chống tệ nạn này, trước hết phải làm trong sạch các khách sạn nhà nước và có biện pháp xử lý nghiêm với những công chức nhà nước vi phạm để làm gương, mới hy vọng nhân dân và xã hội đồng tình, có như vậy họ mới cộng tác với Nhà nước trong việc phòng, chống tệ nạn này.

2. Một vấn đề rất quan trọng là cần tuyên truyền rộng rãi để nhân dân tự nguyện thực hiện, việc giải quyết các tện nạn xã hội là trách nhiệm của Nhà nước và mọi người dân, của các đoàn thể xã hội, tôn giáo. Cần tạo ra những chương trình hoạt động đồng bộ và một dư luận xã hội rộng lớn nhằm chống lại các tệ nạn xã hội như các năm trước đây, muốn như vậy thì Chính phủ cần có kinh phí thích hợp để các hoạt động này có hiệu quả hơn.

Giống như các nước khác trong khu vực châu Á, chúng ta cũng bị ảnh hưởng của phim ảnh, băng hình có nội dung xấu và lối sống phương tây, chính những cái đó đã góp phần làm tăng tệ nạn xã hội. Vì vậy, cùng với việc tăng cường giáo dục truyền thống dân tộc và gia đình, tôn giáo, v.v. cần quản lý chặt chẽ phim ảnh và băng hình.

3. Về vấn đề luật pháp và xử lý các vi phạm. Các quy định về luật pháp đã có đầy đủ, nội dung các điều 96, 202, 203 của Bộ luật hình sự, nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ và các quy định hướng dẫn thi hành của các Bộ, ngoài ra, ở mỗi địa phương còn có những quy định chi tiết hơn. Trong năm qua, việc xử lý các đối tượng hầu hết còn nhẹ do châm chước hoàn cảnh hay do các yếu tố khác mà rất nhiều các chủ chứa mặc dù bị bắt quả tang nhưng chỉ bị phạt hành chính rồi cho về. Thực tế, ở một số nước như Trung Quốc và Xingapo, thực hiện xử lý các đối tượng liên quan đến ma túy và mại dâm khá nghiêm túc. Năm 1992, tại Trung Quốc, đã có 277 người buôn lậu ma túy bị tử hình. Do kinh doanh nghề này thu được rất nhiều lợi nhuận, mặt khác, ta lại xử lý quá nhẹ, do đó, các chủ chứa càng coi thường pháp luật, tiếp tục hoạt động và lừa đảo nhiều cô gái vào vòng tội lỗi. Như vậy, trước hết chúng ta phải thực hiện nghiêm túc những quy định pháp luật đã có.

Đối với các nhà hàng, khách sạn bất kể là thuộc về Nhà nước hay tư nhân nếu bị phát hiện có chứa chấp hoạt động mại dâm đều phải được xử lý theo pháp luật và kèm theo phạt tiền thật nặng, nếu tái phạm sẽ bị đóng cửa.

Một vấn đề nữa đặt ra ở đây là, một số quy định trong Bộ luật hình sự với khung hình phạt còn quá nhẹ, cần nâng cao mức xử phạt đối với các tội chứa, môi giới mãi dâm và đồng thời nên quy định các hành vi mua dâm, bán dâm và môi giới mại dâm đều là tội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Giải pháp tốt nhất về mặt pháp lý là chúng ta nên ban hành các luật hoặc pháp lệnh về phòng, chống ma túy, mại dâm và SIDA. Tuy nhiên, trước mắt ta nên gấp rút sửa đổi ngay trong năm 1994 một số điều quy định có liên quan trong Bộ luật hình sự.

Đối với những người nghiện hút và hành nghề mại dâm phải được xử lý trên cơ sở phân loại. Với những đối tượng đã giáo dục nhiều lần mà vẫn tiếp tục thì cần phải đưa vào các trung tâm để xử lý, còn các đối tượng do khó khăn trong cuộc sống thì có những biện pháp giáo dục thuyết phục, đào tạo dạy nghề, giúp đỡ tạo việc làm, cho vay vốn, tổ chức cai nghiện và chữa bệnh cho họ tại cơ sở phường xã. Đồng thời, cần tạo ra môi trường trong lành, gần gũi giúp đỡ họ đủ khả năng từ bỏ con đường cũ và hòa nhập với cộng đồng. Qua số liệu điều tra cho thấy rằng: 88% số nghiện hút ở Hải Phòng là không có việc làm, 85% số gái hành nghề mại dâm ở Thành phố Hồ Chí Minh là do sinh kế bản thân và gia đình, 70% số họ xuất phát từ các hộ gia đình nghèo không đủ sống. Trong khi cuộc sống ở nông thôn có nhiều khó khăn vất vả thì cuộc sống xa hoa dễ kiếm tiền trong các nhà hàng khách sạn, v.v. là lực hấp dẫn đối với họ. Chúng ta cũng không nên quá nặng lời đối với một cô gái nông thôn nghèo đói và không có việc làm phải bán thân đi để kiếm sống trong khi thực tế có nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng vẫn chưa kiếm được việc làm. Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Quốc gia phòng, chống SIDA, nạn mại dâm đã nhiễm vào cả giáo viên, học sinh, sinh viên và đều có một nguyên nhân chung nhất đó là do sinh kế. Có đến 80% đối tượng sau khi đã cai nghiện hoặc hoàn thành giáo dục cải tạo lại tiếp tục con đường mại dâm, nghiện hút trở lại vì không có việc làm. Do đó, giải pháp tạo việc làm cùng với các biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội rất quan trọng để góp phần giải quyết tệ nạn xã hội.

Đối với người mua dâm, những người tạo ra thị trường bán dâm cũng cần phải xử lý thích đáng. Chúng tôi nghĩ cũng giống như vấn đề kế hoạch hóa gia đình đó không chỉ là vấn đề riêng của phụ nữ, đó là trách nhiệm của cả hai phía nam và nữ. Do đó, chúng tôi đề nghị cần có biện pháp xử lý người mua dâm như nếu bắt được quả tang sẽ thông báo về cơ quan, địa phương nơi cư trú. Đặc biệt, cần phải xử lý thật nặng các cán bộ công chức nhà nước dùng tiền công quỹ tiêu xài vào hoạt động ăn chơi, mại dâm. Cũng cần quy định rõ tiêu chuẩn này trong Pháp lệnh công chức nhà nước sẽ được ban hành trong thời gian tới.

Riêng trường hợp có quan hệ với gái mại dâm ở tuổi vị thành niên cần phải xử theo đúng quy định trong Bộ luật hình sự.

4. Giải pháp tình thế

Ma túy và mại dâm đã tồn tại từ nhiều đời nay cùng với sự phát triển của nhân loại. Cho đến hiện nay, chưa có quốc gia nào hoàn toàn xóa bỏ được tệ nạn này. Mặc dù, bản chất của xã hội và truyền thống của người Việt Nam không chấp nhận hiện tượng mại dâm và nghiện hút, tuy nhiên, chúng ta buộc phải chấp nhận những giải pháp tình thế song song với các biện pháp hạn chế và xóa bỏ cơ bản tệ nạn này. Những giải pháp tình thế này bao gồm các chương trình giáo dục tuyên truyền cho các nhóm đối tượng nhằm thay đổi hành vi, sử dụng bao cao su để bảo đảm tình dục an toàn, sử dụng kim tiêm sạch, bởi vì trong thực tế 85% lây lan HIV ở nước ta là do tiêm chích, 8% số nghiện hút dùng chung bơm tiêm, 79% chủ chứa chỉ sát trùng bơm tiêm qua loa... Kinh nghiệm thực tế ở các nước cho thấy rằng, trong giai đoạn im lặng hiện nay của SIDA các giải pháp tình thế như vậy sẽ có tác dụng rất lớn để hạn chế nhiễm HIV.

5. Một giải pháp quan trọng cơ bản, lâu dài, đó là giải pháp về dân số. Sự gia tăng dân số cao hiện nay, sự tăng luồng nhập cư nông thôn ra thành phố, tỷ lệ thất nghiệp cao hiện nay đó là kết quả của quá trình thực hiện các chương trình dân số trong 10 - 15 năm qua. Chúng tôi đã nêu ở trên là tỷ lệ thất nghiệp cao đã là một nguyên nhân chính gây tăng các tệ nạn xã hội và tỷ lệ tăng dân số là một nguyên nhân cơ bản gây tăng tỷ lệ thất nghiệp. Như vậy, giải quyết vấn đề dân số từ bây giờ sẽ là biện pháp cơ bản để góp phần hạn chế tệ nạn xã hội cho mai sau.

Trong những năm qua, chúng ta đã đầu tư khá nhiều công sức, vật chất để giải quyết vấn đề dân số, gần đây nhất là nghị quyết của Hội nghị Trung ương, chiến lược dân số đến năm 2000, kinh phí đã được tăng dần (mặc dù chưa đáp ứng nhu cầu) nhưng cái đó thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, song mức độ tăng dân số vẫn còn khá cao. Như vậy, cần phải quan tâm hơn nữa về các mặt cho công tác tuyên truyền cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ các biện pháp tránh thai, sự quan tâm phải được thể hiện trước hết ở các vị lãnh đạo, những nhà lập kế hoạch và xây dựng chính sách và các đại biểu Quốc hội.

Qua số liệu khảo sát tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa IX cho thấy, 27,3% đại biểu có trình độ phổ thông cơ sở, 25% đại biểu có trình độ phổ thông trung học và 13,8% đại biểu có trình độ đại học mong muốn có từ 3 đến 4 con. Khảo sát của Ủy ban chúng tôi tại Hà Tĩnh cho thấy, 75% đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh có từ 3 - 5 con. Như vậy, một yêu cầu đối với các đại biểu dân cử nói chung và đại biểu Quốc hội nói riêng là phải nâng cao nhận thức, chú trọng đến công tác dân số, gương mẫu thực hiện. Quốc hội cần ban hành một chính sách dân số của nước ta đầy đủ với các khía cạnh của nó như vấn đề chăm sóc người già, bảo vệ phụ nữ, chính sách điều động dân cư chứ không phải chỉ có vấn đề kế hoạch hóa gia đình.

7. Một giải pháp rất quan trọng để các biện pháp được thực thi có hiệu quả đó là sự quan tâm của Nhà nước cũng cần được thể hiện trong kế hoạch ngân sách hằng năm cho công tác này, phải coi đây là công việc thường xuyên chứ không phải là bố trí theo chiến dịch.

Kính thưa Quốc hội,

Cơ chế thị trường đã đem lại cho chúng ta nhiều kết quả tốt đẹp, tuy nhiên, nó cũng làm phát sinh không ít những hậu quả về mặt xã hội; các vấn đề xã hội có liên quan chặt chẽ với tình hình chính trị cũng như kinh tế, vì vậy, song song với các biện pháp phát triển kinh tế cần tiến hành đồng thời các biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, có như vậy mới tạo ra sự phát triển vững chắc và lâu dài. Quốc hội chúng ta đã qua 9 khóa nhưng chúng ta chưa có lần nào dành thời gian để thảo luận các vấn đề xã hội, vì vậy, Ủy ban chúng tôi thiết tha kính mong Quốc hội trong năm 1994 hãy dành chút ít thời gian để xem xét về các vấn đề này.

Xin chân thành cảm ơn các vị đại biểu.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội
 

Về trang mục lục

Trở về đầu trang