TỜ TRÌNH CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI VỀ DỰ KIẾN
CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT NĂM 1994 VÀ DỰ KIẾN CHƯƠNG TRÌNH
XÂY DỰNG PHÁP LUẬT TỪ NĂM 1995 ĐẾN HẾT NHIỆM KỲ CỦA QUỐC HỘI
(Do Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Văn Tửu,
trình bày tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa IX, ngày 23-12-1993)
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trên cơ sở Tờ trình của Chính phủ, đề nghị của các cơ quan, tổ chức có quyền trình Dự án Luật và sau khi nghe ý kiến của Ủy ban pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thảo luận, đánh giá tình hình thực hiện chương trình xây dựng pháp luật năm 1993, dự kiến chương trình xây dựng pháp luật năm 1994 và việc chuẩn bị dự kiến chương trình xây dựng pháp luật từ năm 1995 đến hết nhiệm kỳ.
Thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội, tôi xin báo cáo với Quốc hội như sau:
I- VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT NĂM 1993
Chương trình xây dựng pháp luật năm 1993 của Quốc hội bao gồm 16 dự án luật, 1 bộ luật, 4 quy chế, 17 dự án, pháp lệnh. Đến nay, Quốc hội đã thông qua được 8 luật và 4 quy chế, nếu tính cả các dự án luật dự kiến thông qua tại kỳ họp này, thì số luật được thông qua trong năm sẽ là 11; Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua được 14 pháp lệnh (xin xem phụ lục số 1). Như vậy, còn 6 dự án luật, 1 dự án Bộ luật và 3 dự án pháp lệnh chưa được thông qua.
Từ thực tế công tác xây dựng pháp luật năm 1993, có thể rút ra một số nhận xét như sau:
1. Về ưu điểm
Nhìn chung, chương trình xây dựng pháp luật năm 1993 đã được triển khai thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ, đạt kết quả tương đối tốt và có một số mặt tiến bộ, hầu hết các dự án luật, pháp lệnh trong chương trình đã được chuẩn bị, trong đó, nhiều văn bản đã được Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua.
Về cơ bản, các luật, pháp lệnh được ban hành đều đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế, quản lý xã hội; đã và đang được khẩn trương triển khai thi hành. Một số luật quan trọng, có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của đông đảo các tầng lớp nhân dân như Luật đất đai; Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được các tầng lớp nhân dân đồng tình, có tác dụng thúc đẩy công cuộc phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Có được những kết quả nêu trên, trước hết là do có sự nỗ lực chung của tất cả các cơ quan có trách nhiệm trong quá trình soạn thảo, thẩm tra và thông qua các dự án, sự đóng góp ý kiến các ngành, các cấp và các tầng lớp nhân dân. Về phần mình, với chức năng, nhiệm vụ được giao, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã phân công cụ thể các cơ quan soạn thảo, thẩm tra, chỉ đạo theo dõi sát sao tiến độ xây dựng các dự án văn bản.
2. Một số khó khăn, khuyết điểm và tồn tại
Trước yêu cầu bức xúc của công cuộc đổi mới đất nước về mọi mặt và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, năm 1993, chúng ta đã đề ra một chương trình xây dựng pháp luật gồm một khối lượng lớn các văn bản luật và pháp lệnh. Tuy đều là những văn bản quan trọng và cần thiết, nhưng do khả năng thực tế của các cơ quan có trách nhiệm còn có những hạn chế nhất định và trong điều kiện Quốc hội chỉ họp hai kỳ và thời gian mỗi kỳ họp không thể kéo dài, nên đến nay còn một số Dự án Luật quan trọng và cần thiết thuộc chương trình xây dựng pháp luật năm 1993 chưa được Quốc hội thông qua, đó là: Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi), Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi), Luật ngân sách nhà nước, Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật về thẩm quyền và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là Bộ luật lao động.
Một số dự án văn bản do tính chất phức tạp và khó khăn của bản thân dự án, có những vấn đề còn có ý kiến khác nhau về quan điểm cụ thể cho nên tuy có sự nghiên cứu công phu, đầu tư nhiều thời gian để chuẩn bị, nhưng những giải pháp đưa ra vẫn chưa được sự nhất trí cao như các dự án về tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, doanh nghiệp nhà nước, v.v..
Một số dự án văn bản do nội dung có liên quan mật thiết với nhau như các dự án luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi), Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi), Luật ngân sách nhà nước, Luật về thẩm quyền và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nên khi một dự án gặp trở ngại thì cũng kéo theo các dự án khác có liên quan.
Chất lượng của một số dự án văn bản (kể cả nội dung cũng như hình thức thể hiện) chuẩn bị chưa tốt. Điều đáng chú ý là đội ngũ chuyên gia nghiên cứu biên soạn các dự án luật, pháp lệnh còn thiếu và yếu, sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan còn thiếu chặt chẽ, do đó ảnh hưởng đến quá trình xem xét và quyết định của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Việc ban hành các văn bản dưới luật quy định chi tiết thi hành và hướng dẫn thi hành một số luật, pháp lệnh còn chậm nên việc đưa các luật, pháp lệnh đó vào cuộc sống chưa được kịp thời.
Nhìn chung, tiến độ xây dựng các dự án văn bản từ khâu soạn thảo đến khâu thông qua chưa bảo đảm những mốc thời gian đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định, nhất là việc gửi văn bản đến các cơ quan thẩm tra, cho ý kiến và gửi tới đại biểu Quốc hội. Do đó, việc xem xét dự án văn bản của các cơ quan thường bị động và gặp nhiều khó khăn, chưa đủ thời gian cần thiết cho việc nghiên cứu, chuẩn bị ý kiến của các cơ quan này.
Ủy ban thường vụ Quốc hội tự nhận thấy, trong quá trình chuẩn bị dự kiến chương trình xây dựng pháp luật và chỉ đạo việc tổ chức thực hiện chương trình có lúc, có việc còn thiếu chủ động, chưa quan tâm đúng mức đến việc chỉ đạo điều hòa, phối hợp hoạt động của các cơ quan thuộc Quốc hội và các cơ quan hữu quan.
Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng, những tồn tại trên đây cần phải được xem xét, đánh giá một cách đúng mức để rút kinh nghiệm nhằm bảo đảm cho việc quyết định và triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình xây dựng pháp luật năm 1994.
II- VỀ DỰ KIẾN CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT TỪ NAY ĐẾN HẾT NHIỆM KỲ QUỐC HỘI KHÓA IX
A- ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
TỪ NAY ĐẾN HẾT NHIỆM KỲ QUỐC HỘI KHÓA IX
Nghị quyết Quốc hội tại kỳ họp thứ 2 về công tác xây dựng pháp luật năm 1993 xác định: "Nhiệm vụ công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa IX là tiếp tục thể chế hóa cương lĩnh, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng; rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật hiện hành; định kế hoạch xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung các văn bản đã ban hành, làm cho hệ thống pháp luật phù hợp với Hiến pháp mới, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội và xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân".
Căn cứ vào định hướng chung đó, công tác xây dựng pháp luật từ nay đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX cần tập trung vào các lĩnh vực chính sau đây:
1. Tiếp tục đổi mới kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế nhằm phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ đối ngoại, kinh tế đối ngoại;
2. Từng bước đổi mới hệ thống chính trị, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động và tăng cường hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp;
3. Góp phần bảo đảm củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững trật tự, an toàn và bảo đảm kỷ cương xã hội, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, chống tham nhũng, chống buôn lậu;
4. Bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân, thể chế hóa các chính sách quan trọng trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ và môi trường.
B- VỀ DỰ KIẾN CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT NĂM 1994
Căn cứ vào định hướng đã nêu trên và thực tế tình hình chuẩn bị các văn bản, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin trình Quốc hội dự kiến chương trình xây dựng pháp luật năm 1994 gồm 2 bộ luật, 7 luật, 18 pháp lệnh và 7 Dự án Luật, 3 dự án pháp lệnh dự bị để bổ sung khi cần thiết.
A- Các dự án luật:
a) Chính thức:
* Thông qua tại kỳ họp thứ 5 (6-1994)
2. Luật khuyến khích đầu tư trong nước
3. Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất
4. Luật nghĩa vụ quân sự (sửa đổi)
5. Luật doanh nghiệp nhà nước.
* Thông qua tại kỳ họp thứ 6 (12-1994)
6. Bộ luật dân sự
7. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi)
8. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi)
9. Luật ngân sách nhà nước.
b) Dự bị: có thể bố trí vào chương trình hai kỳ họp trên:
1. Luật hợp tác xã
2. Luật công ty
3. Luật hàng không dân dụng Việt Nam (sửa đổi)
4. Luật biên giới quốc gia
5. Luật phòng, chống ma túy
6. Bộ luật hình sự (sửa đổi)
7. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân (phần liên quan đến Hội đồng nhân dân và Tòa án hành chính) hoặc Luật tổ chức Tòa án hành chính.
B- Các dự án pháp lệnh:
a) Chính thức:
1. Pháp lệnh về công chức
2. Pháp lệnh về công nhận và thi hành tại Việt Nam các quyết định của trọng tài nước ngoài.
3. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
4. Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (sửa đổi)
5. Pháp lệnh thuế nhà đất (sửa đổi)
6. Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức trong nước sử dụng đất (cụ thể hóa Điều 3 Luật đất đai)
7. Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam (cụ thể hóa Điều 80 Luật đất đai).
8. Pháp lệnh về thuế đối với hộ sử dụng đất nông nghiệp vượt quá mức diện tích quy định (cụ thể hóa Điều 10 Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp).
9. Pháp lệnh về phí và lệ phí
10. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính (sửa đổi)
11. Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
12. Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả
13. Pháp lệnh về người có công
14. Pháp lệnh về nhà vắng chủ
15. Pháp lệnh về quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi
17. Pháp lệnh bảo vệ công trình quốc phòng và khu vực quân sự
18. Pháp lệnh về phòng, chống SIDA.
b) Dự bị:
2. Pháp lệnh về hàm ngoại giao
3. Pháp lệnh về khen thưởng.
Để các đại biểu Quốc hội có cơ sở xem xét, ủy ban thường vụ Quốc hội xin trình bày thêm một số vấn đề sau đây:
- Một số dự án lớn có nội dung phức tạp và rất quan trọng đã được chuẩn bị từ nhiều năm nay như Bộ luật lao động và Bộ luật dân sự, cần được tập trung chỉ đạo và dành ưu tiên cho việc chuẩn bị và thông qua.
- Về Dự án Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi), Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi), Ủy ban thường vụ Quốc hội đã có báo cáo là do còn một số vấn đề liên quan đến việc đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương, nên xin chuyển việc thông qua các Dự án Luật này sang năm 1995. Sau khi xem xét, cân nhắc lại vấn đề này và tiếp thụ ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy trong điều kiện hiện nay, cần khẩn trương nghiên cứu, tiếp tục lấy ý kiến đóng góp của các địa phương và các cơ quan hữu quan, làm rõ các vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau để có thể trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp tháng 12 năm 1994, chuẩn bị điều kiện tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp vào tháng 4 năm 1995.
- Để phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật về kinh tế, dự kiến trong năm 1994 sẽ ban hành và sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật như Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật ngân sách nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (sửa đổi), Pháp lệnh thuế nhà đất (sửa đổi), Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam; Pháp lệnh về thuế đối với hộ sử dụng đất nông nghiệp vượt quá mức diện tích quy định.
Ngoài ra, còn một số dự án quan trọng mà Chính phủ và các cơ quan, tổ chức đề nghị thông qua trong năm 1994 như: Luật ngân sách nhà nước, Luật công ty (sửa đổi), Luật phòng, chống ma túy, Luật biên giới quốc gia, Bộ luật hình sự (sửa đổi), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân (phần có liên quan đến Hội đồng nhân dân, Tòa án hành chính) hoặc Luật tổ chức Tòa án hành chính, Luật quốc tịch (sửa đổi) và một số dự án pháp lệnh. Xét thấy đây là những dự án đều có nhu cầu được ban hành, trong đó có một số dự án đã được chuẩn bị. Tuy nhiên, để có thời gian nghiên cứu, hoàn chỉnh thêm hoặc tính toán cân nhắc thời điểm ban hành, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị ghi các dự án này vào chương trình dự bị năm 1994, nếu xét thấy việc chuẩn bị tốt và có điều kiện thuận lợi, xin chuyển từng dự án vào chương trình chính thức.
Ngoài chương trình xây dựng pháp luật năm 1994, để chuẩn bị một bước cho chương trình xây dựng pháp luật năm 1995, Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến danh mục các văn bản soạn thảo trong năm 1994 và đề nghị Quốc hội giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định bản danh mục này (xin xem danh mục tại Phụ lục 3).
C- VỀ VIỆC CHUẨN BỊ DỰ KIẾN CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT TỪ NĂM 1995 ĐẾN HẾT NHIỆM KỲ QUỐC HỘI KHÓA IX
Đến nay, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nhận được đề nghị của Chính phủ và một số cơ quan có quyền trình Dự án Luật, pháp lệnh kiến nghị đưa vào dự kiến chương trình này 37 Dự án Luật và 20 dự án pháp lệnh (không tính các dự án đã có trong dự kiến chương trình xây dựng pháp luật năm 1994).
Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy: các đề nghị do các cơ quan và tổ chức nêu lên nhìn chung là cần thiết. Để hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực, còn cần phải nghiên cứu ban hành nhiều văn bản luật, pháp lệnh. Tuy nhiên, hầu hết các đề nghị này đều mới được gửi đến, còn nhiều vấn đề về mục đích, yêu cầu phạm vi điều chỉnh của các dự án chưa được làm rõ, còn thiếu căn cứ để tính toán tiến độ xây dựng văn bản cũng như điều kiện để xác định hình thức văn bản là luật hay là pháp lệnh. Vì vậy, đề nghị Quốc hội giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội trên cơ sở tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp này, tổ chức lấy thêm ý kiến các ngành, các cấp và các tổ chức và cá nhân có quyền trình dự án để chuẩn bị trình Quốc hội trong một kỳ họp sau.
III- MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
Để góp phần thực hiện tốt chương trình xây dựng pháp luật từ nay đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị:
1. Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan hữu quan cần coi công tác xây dựng pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và xác định rõ trách nhiệm của mình trong việc góp phần thực hiện chương trình xây dựng pháp luật mà Quốc hội đã đề ra.
Ủy ban thường vụ Quốc hội quan tâm chỉ đạo việc thực hiện chương trình, phân công cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra, quyết định tiến độ xây dựng dự án và các biện pháp bảo đảm khác; dành thời gian thích đáng cho việc xem xét các dự án luật trình Quốc hội và thông qua các pháp lệnh. Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của mình và sự phân công của ủy ban thường vụ Quốc hội, có kế hoạch cụ thể triển khai việc xem xét, thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh. Riêng Ủy ban pháp luật cần đặc biệt quan tâm đến việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật như luật định. Các Đoàn đại biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội căn cứ vào kế hoạch chung về triển khai thực hiện chương trình, dành thời gian để nghiên cứu và đóng góp ý kiến xây dựng các văn bản pháp luật.
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan trách nhiệm khác cần triển khai đồng bộ, có những biện pháp cụ thể, kịp thời bảo đảm tiến độ quy định và thực hiện đúng quy trình xây dựng pháp luật; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chương trình đã đề ra. Cần đặc biệt quan tâm chuẩn bị kịp thời các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh.
2. Tăng cường hơn nữa quan hệ phối hợp giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Giữa Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội với các cơ quan liên quan trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện chương trình đã được Quốc hội thông qua.
3. Chú ý đúng mức đến các biện pháp bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện chương trình xây dựng pháp luật. Có kế hoạch sớm bổ sung, bồi dưỡng và kiện toàn tổ chức đội ngũ cán bộ pháp lý. Cũng cần quan tâm đến việc tiếp tục dành một khoản kinh phí cần thiết cho công tác xây dựng pháp luật.
Trên đây là một số vấn đề chủ yếu về dự kiến chương trình xây dựng pháp luật 1994 và dự kiến chương trình từ năm 1995 đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX, xin trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Phụ lục 1
DANH MỤC CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT
THÔNG QUA TRONG NĂM 1993
I- LUẬT
1. Luật đất đai (sửa đổi)
2. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp
3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế doanh thu
4. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế lợi tức
5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
6. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
7. Luật xuất bản
8. Luật dầu khí
9. Luật bảo vệ môi trường
10. Luật phá sản doanh nghiệp1
11. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân1
II- PHÁP LỆNH
1. Pháp lệnh thú y
2. Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật
3. Pháp lệnh phòng chống lụt bão
4. Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
5. Pháp lệnh Kiểm sát viên
6. Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự
7. Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự
8. Pháp lệnh thi hành án dân sự
9. Pháp lệnh thi hành án phạt tù
10. Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân
11. Pháp lệnh về quyền ưu đãi miễn trừ đối với Cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế có trụ sở tại Việt Nam
12. Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài
13. Pháp lệnh về cơ quan đại diện Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài
14. Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam các bản án và quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài.
III- CÁC VĂN BẢN KHÁC
A- Văn bản của Quốc hội
1. Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội.
2. Quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội
3. Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc
4. Quy chế hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội.
B- Văn bản của Ủy ban thường vụ Quốc hội
1. Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung khung thuế xuất một số nhóm mặt hàng trong thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
2. Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
3. Nghị quyết về trang phục đối với ngành Kiểm sát và giấy chứng minh Kiểm sát viên.
4. Nghị quyết về việc thi hành Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
5. Nghị quyết về việc ban hành Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức.
Phụ lục 2
PHƯƠNG ÁN TỔ CHỨC THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
TẠI HAI KỲ HỌP QUỐC HỘI TRONG NĂM 1994
Kỳ họp thứ 5:
a) Thông qua:
1. Bộ luật lao động : 6,0 ngày
2. Luật khuyến khích đầu tư trong nước : 2,5 ngày
3. Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất : 2,0 ngày
4. Luật nghĩa vụ quân sự (sửa đổi) : 1,5 ngày
5. Luật doanh nghiệp nhà nước : 2,0 ngày
6. Từ 1 đến 3 dự án dự bị : 6,0 ngày.
Cộng : 20 ngày
b) Cho ý kiến:
1. Bộ luật dân sự : 1,0 ngày
2. Luật tổ chức HĐND và UDBD (sửa đổi) : 1,0 ngày
3. Luật bầu cử đại biểu HĐND (sửa đổi) : 1, 0 ngày
Cộng : 3,0 ngày
c) Các vấn đề khác : 5,0 ngày
Cộng: 28,0 ngày không kể Chủ nhật
Kỳ họp thứ 6:
a) Thông qua:
1. Bộ luật dân sự : 6,0 ngày
2. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân (sửa đổi) : 3,0 ngày
3. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
(sửa đổi) : 2, 0 ngày
4. Luật ngân sách nhà nước : 2,0 ngày
5. Chương trình xây dựng pháp luật năm 1995 : 1,0 ngày
6. Từ 1 đến 2 Dự án Luật dự bị : 4,0 ngày
Cộng : 18 ngày
b) Các vấn đề kinh tế - xã hội : 10 ngày
Cộng: 28,0 ngày không kể Chủ nhật
Nếu dự phòng có từ 1 - 2 dự án thuộc chương trình kỳ họp thứ 5 chưa thông qua được chuyển sang thì dự kiến thời gian tiến hành kỳ họp thứ 6 sẽ khoảng từ 29 - 31 ngày (không kể Chủ nhật).
Phụ lục 3
DỰ KIẾN CÁC DỰ ÁN LUẬT, PHÁP LỆNH CHUẨN BỊ TRONG NĂM 1994
1. Các dự án luật:
1. Luật hợp tác xã(*)
2. Luật công ty (sửa đổi) (*)
3. Luật hàng không dân dụng Việt Nam (sửa đổi) (*)
4. Luật biên giới quốc gia (*)
5. Luật phòng, chống ma túy (*)
6. Bộ luật hình sự (sửa đổi) (*)
7. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân (phần liên quan đến Hội đồng nhân dân và Tòa án hành chính) hoặc Luật tổ chức Tòa án hành chính (*).
8. Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi)
9. Bộ luật tố tụng dân sự
10. Luật thương mại
11. Luật mỏ
12. Luật nước
13. Luật hải quan
14. Luật về xây dựng
15. Luật đường sắt
16. Luật đường bộ
17. Luật quốc tịch (sửa đổi)
18. Luật thẩm quyền và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
19. Luật khoa học và công nghệ
20. Luật dân tộc
21. Luật về hội.
2. Các dự án pháp lệnh:
1. Pháp lệnh về giá
2. Pháp lệnh về Kho bạc Nhà nước
3. Pháp lệnh về thị trường chứng khoán
4. Pháp lệnh về bảo hiểm
5. Pháp lệnh về du lịch
6. Pháp lệnh về bưu chính viễn thông
7. Pháp lệnh về phòng cháy chữa cháy (sửa đổi)
8. Pháp lệnh về kiểm soát bức xạ
9. Pháp lệnh về trọng tài phi Chính phủ
10. Pháp lệnh về Bộ đội biên phòng
11. Pháp lệnh về lưu trữ (sửa đổi)
12. Pháp lệnh về thư viện.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội