VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP II 1960 - 1964

THUYẾT TRÌNH CỦA UỶ BAN KẾ HOẠCH VÀ NGÂN SÁCH CỦA QUỐC HỘI
VỀ "TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1961
VÀ DỰ ÁN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1962"

(Do ông Đoàn Trọng Truyến, Phó Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch và ngân sách
trình bày tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá II, ngày 18-4-1962)

 

Thưa Chủ tịch đoàn,

Thưa các đại biểu,

Ủy ban kế hoạch và ngân sách chúng tôi đã nghiên cứu tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1961 và xét bản dự án kế hoạch nhà nước năm 1962 của Chính phủ. Chúng tôi đã nghe báo cáo của Ủy ban Kế hoạch nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông trường, Bộ Thủy lợi - Điện lực, Bộ Nội thương, Bộ Ngoại thương, Ngân hàng quốc gia, Bộ Lao động, Bộ Nội vụ và Tổng cục lương thực.

Sau khi nghiên cứu tình hình và thảo luận bản báo cáo và dự án kế hoạch nhà nước năm 1962 của Chính phủ, cũng như nghiên cứu những ý kiến của các đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban chúng tôi xin trình bày trước Quốc hội những ý kiến nhận xét sau đây:

PHẦN I

VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
NĂM 1961

Ủy ban chúng tôi xác nhận rằng, việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1961 đã thu được những thắng lợi quan trọng. Các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản, các ngành kinh tế khác cũng như các ngành văn hóa đều có những tiến bộ so với năm 1960.

- Sản xuất nông nghiệp đã đạt được một số thành tích. Trước hết là về diện tích, nhờ khai hoang và tăng vụ: diện tích vỡ hoang năm 1961 gấp hai lần diện tích vỡ hoang trong cả kế hoạch ba năm (1958 - 1960); vụ thu đã trở thành một vụ sản xuất chính; diện tích được tưới nước cả ba vụ tăng gần 30% so với 1960, phong trào cải tiến kỹ thuật cũng được chú trọng hơn trước. Chăn nuôi sút kém trong năm 1960, nay đã chuyển biến tốt và đang tăng, nghề nuôi cá đang phát triển mạnh.

Các nông trường quốc doanh đã có những tiến bộ bước đầu: trên cơ sở sức lao động và tiền vốn không tăng, các nông trường quốc doanh đã tăng diện tích gieo trồng gấp hai lần, sản lượng gấp hai lần và đã nộp lãi cho Nhà nước.

Nhờ sự phấn đấu của các cấp và của nhân dân, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 8,9%, riêng lúa tăng 10,9%. Tốc độ phát triển ấy trong điều kiện nông nghiệp nước ta còn lạc hậu, chưa có cơ sở vật chất - kỹ thuật vững chắc, là một thắng lợi quan trọng; nhờ đó tình hình căng thẳng về lương thực và thực phẩm đầu năm 1961 đã dịu dần.

- Sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp cũng có nhiều tiến bộ; đặc biệt là ngành cơ khí bắt đầu được sắp xếp lại và phân công sản xuất, bước đầu mở rộng màng lưới xuống các huyện và hợp tác xã; sản xuất nhiều loại máy móc có trình độ kỹ thuật cao và nhiều loại tư liệu sản xuất phục vụ cho nông nghiệp, cũng như sản xuất được nhiều mặt hàng tiêu dùng mới với nguyên liệu trong nước.

Giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh trung ương đã tăng 25,3%, công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp cũng đã đóng góp một phần quan trọng (55,8%) trong giá trị sản lượng công nghiệp hiện nay.

- Xây dựng cơ bản cũng đạt được một số thành tích quan trọng, đã tập trung vào một số công trình trọng điểm, tăng thêm cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chú trọng nhiều đến thủy lợi và giúp đỡ cho nông nghiệp. Tài sản cố định mới được tăng thêm, 16 công trình công nghiệp đã được đưa vào sản xuất.

- Một phong trào thi đua ái quốc mới đã nảy nở trên cơ sở quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được mở rộng và ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần phấn khởi cách mạng được nâng cao thêm một bước. Phong trào Đại Phong, Duyên Hải, Thành Công, Đông Hiếu, Bắc Lý, Ba Nhất v.v. đã lôi cuốn hàng triệu quần chúng lao động phát huy sáng kiến, hợp lý hóa tổ chức, cải tiến kỹ thuật, cải tiến lề lối công tác, và đề ra hàng vạn lao động tiên tiến và chiến sĩ thi đua mới.

Năm 1961, nhà nước đã không ngừng chú trọng cải thiện đời sống nhân dân. Bình quân đầu người đạt 332/kg lương thực, tăng 25kg so với năm 1960; thu nhập của nông dân tăng lên rõ rệt; quỹ tiền lương của Nhà nước tăng 21,3%; lượng sản phẩm làm tăng thêm thu nhập cho công nhân; phúc lợi xã hội được mở rộng; Điều lệ bảo hiểm xã hội được ban hành, việc bảo hộ lao động có nhiều tiến bộ; nhân dân lao động có thêm công ăn việc làm; mức tiêu dùng hàng hóa tăng nhanh. Các mặt sự nghiệp văn hóa - xã hội - giáo dục, đều có tiến bộ: số học sinh phổ thông tăng 20%, sinh viên đại học tăng 49% so với năm học trước, hàng triệu em theo học vỡ lòng và mẫu giáo; sức khỏe nhân dân tiến bộ hơn; tỷ lệ chết, nhất là trẻ em sơ sinh hạ thấp rõ rệt.

Mặc dù chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là về lương thực, thực phẩm cũng như về hàng tiêu dùng công nghiệp, và tuy giá cả lương thực, thực phẩm không ổn định có ảnh hưởng đến đời sống cán bộ, công nhân viên một phần, nhưng nói chung nhờ sức phấn đấu của nhân dân ta, nhờ sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta, đời sống của nhân dân ta, nhất là của nông dân, đã được cải thiện thêm một bước. Khó khăn trong đời sống còn lâu dài, mức độ cải thiện không thể vượt quá điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và tốc độ phát triển của nền sản xuất. Nhưng trong những điều kiện khó khăn hiện nay, đời sống nhân dân trong năm 1961 được cải thiện thêm một bước là một thành tích gắn liền với bản chất của chế độ ta.

Tóm lại, nhìn chung năm 1961, ở miền Bắc chúng ta đã tiến thêm một bước giành được những thắng lợi quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa. Phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam ngày càng phát triển mạnh. Trên thế giới, phong trào đấu tranh cho hòa bình dân chủ, độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa ngày càng áp đảo bọn đế quốc gây chiến.

Tình hình đó làm cho nhân dân ta càng thêm phấn khởi, tin tưởng ở sức mình, tin tưởng ở sức đoàn kết quốc tế, vững bước tiến lên trong sự nghiệp xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.

Năm 1961 đã ghi được những thành tích quan trọng như trên, chứng tỏ rằng, sau khi công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi quyết định, nền kinh tế quốc dân đã có những nhân tố mới, như Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã chỉ rõ từ sau khi hoàn thành kế hoạch ba năm phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa.

Những nhân tố ấy, bước đầu được phát huy, biểu hiện phong trào thi đua của quần chúng trong sản xuất và trong mọi mặt hoạt động khác đang có một chuyển biến mạnh. Quan hệ sản xuất mới đang thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; nền kinh tế quốc dân của ta đang có một sức sống mới và có nhiều triển vọng mới; lao động sáng tạo của quần chúng nhân dân đang tạo ra những thành tích ngày càng to lớn. Những thành tích đó là kết quả của đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự cố gắng của các ngành các cấp, ý chí phấn đấu và sức sáng tạo của nhân dân và sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác trong phe xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi đề nghị Quốc hội nhiệt liệt hoan nghênh những thành tích mà nhân dân ta đã thu được trong năm 1961, và tỏ lòng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của nhân dân và Chính phủ các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, mà trung tâm là Liên Xô vĩ đại.

Thưa các đại biểu,

Tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1961 đã thu được những thắng lợi quan trọng, nhưng cũng đã làm lộ rõ những khó khăn lớn mà chúng ta cần đánh giá đầy đủ, cũng như làm lộ rõ những khuyết điểm quan trọng trong việc quản lý nền kinh tế quốc dân mà chúng ta cần nhận định đúng mức để ra sức khắc phục.

Năm 1961, nhiều chỉ tiêu quan trọng không đạt kế hoạch như các chỉ tiêu nông nghiệp (bao gồm lương thực, cây công nghiệp, chăn nuôi…) các chỉ tiêu công nghiệp, xây dựng cơ bản, xuất nhập khẩu; thậm chí một số chỉ tiêu chỉ đạt với một tỷ lệ thấp, như thu mua lương thực và nông sản khác. Trái lại, các chỉ tiêu về biên chế và tiền lương thì lại bị vượt.

Nền kinh tế quốc dân có những sự thiếu cân đối nhất là do sản xuất nông nghiệp năm 1960 sút kém đã ảnh hưởng đến nhiều mặt của nền kinh tế quốc dân trong năm 1960 cũng như qua năm 1961.

Nhu cầu vật tư cần cho xây dựng, sản xuất, xuất khẩu và đời sống thì lớn mà khả năng vật tư của chúng ta thì có hạn.

Một số công trường, xí nghiệp không đủ nguyên liệu nông nghiệp cũng như nguyên vật liệu công nghiệp trong nước và nhập khẩu. Do đó, tốc độ sản xuất và xây dựng có bị ảnh hưởng.

Sức mua của quần chúng, nhất là của nông dân, tăng lên, nhưng khả năng cung cấp hàng tiêu dùng (lương thực, thực phẩm, hàng công nghiệp) tăng không kịp, giá cả có phần không được ổn định, nhất là giá cả thực phẩm. Do đó, đời sống của nhân dân có phần bị ảnh hưởng.

Ngoại thương không đủ hàng xuất, nhập khẩu bị hạn chế, cán cân thương mại không thăng bằng, và tình hình vật tư trong nước cần cho sản xuất và xây dựng càng thêm căng thẳng.

Trong tình hình nhà nước phải chi tiền ra nhiều cho xây dựng, thu mua, và cho tín dụng giúp đỡ nông dân, tình hình căng thẳng về vật tư nói trên dẫn tới sự thiếu cân đối giữa tiền và hàng.

Do đâu mà có tình hình nói trên?

Trước hết phải thấy rằng nền kinh tế của ta vốn lạc hậu và thiếu cân đối, cơ sở vật chất kỹ thuật thì còn nhỏ yếu; công nghiệp mới phát triển bước đầu, nền tảng công nghiệp nặng chưa được xây dựng; nông nghiệp còn bấp bênh với mức bình quân đầu người chỉ có 3 sào, với sự phân bố nông nghiệp bất hợp lý cũ và trình độ kỹ thuật hiện tại, nó chưa làm cơ sở vững chắc cho công nghiệp phát triển; trong khi đó thì nhu cầu xây dựng cũng như đời sống tăng rất nhanh, và mức độ tăng dân số hàng năm cũng rất lớn (3,5%), và riêng năm 1961 dân số tăng gần 60 vạn người. Cũng cần chú ý thêm rằng, trong thời kỳ khôi phục và cải tạo kinh tế, chúng ta đã dựa nhiều vào sự giúp đỡ bằng viện trợ không hoàn lại của các nước anh em. Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải tự lực giải quyết nhu cầu bản thân ngày càng nhiều, mặc dù sự giúp đỡ của các nước anh em về vốn cho vay, về thiết bị, kỹ thuật, chuyên gia và kinh nghiệm rất to lớn và quý báu.

Chúng ta đang đứng trước những khó khăn của sự trưởng thành, khó khăn do yêu cầu phát triển đẻ ra, khác hẳn với những khó khăn của một nền kinh tế tư bản hay một nước phụ thuộc.

Chúng ta đang gặp những sự thiếu cân đối, mà biểu hiện tập trung là sự thiếu cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa nhu cầu phát triển kinh tế và cơ sở vật chất - kỹ thuật non yếu. Chính tình hình và khó khăn ấy đang đòi hỏi chúng ta phải tập trung sức lực vào nhiệm vụ trung tâm công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa để xây dựng một nền kinh tế tự chủ có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Nhiệm vụ ấy vô cùng vĩ đại nhưng cũng đầy khó khăn gian khổ.

Nhưng mặt khác, phải nói rằng sở dĩ kế hoạch năm 1961 không đạt được toàn diện và có những sự mất cân đối không bình thường, một phần quan trọng là do việc quản lý kinh tế còn có khuyết điểm:

Trước hết, cần nhấn mạnh những khuyết điểm trong việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch, nhất là trong kế hoạch sản xuất nông nghiệp và trong quản lý các mặt cân đối của nền kinh tế quốc dân. Ủy ban chúng tôi có thể tóm tắt các khuyết điểm chính vào một số điểm như sau:

a) Các cơ quan của Chính phủ trung ương cũng như địa phương chưa chú trọng đầy đủ giúp đỡ hợp tác xã, nhất là về mặt xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp, cũng như về mặt cải tiến quản lý hợp tác xã còn non yếu.

b) Chưa kết hợp chặt chẽ các khâu của nền kinh tế: sản xuất phân phối - trao đổi - tiêu dùng; các mặt quản lý vật tư, quản lý tiền tệ, quản lý thị trường, quản lý lao động và biên chế còn lỏng lẻo và chưa thật ăn khớp. Công tác thu mua có nhiều thiếu sót, tỷ lệ thu mua của Nhà nước so với sản lượng nông nghiệp sút hơn cả năm 1960 là năm thu hoạch kém.

c) Đánh giá, phân tích tình hình và đặt kế hoạch chưa sát, một số chỉ tiêu kế hoạch đặt hơi cao, cụ thể là về sản xuất nông nghiệp; có những chỉ tiêu không đủ căn cứ và khả năng hiện thực và thiếu cân đối vững chắc.

d) Công tác tuyên truyền giáo dục nhân dân và cán bộ còn thiếu sót, chưa toàn diện và sâu sắc; tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, chậm chạp, phân tán; tác phong quan liêu còn nhiều; các mặt biện pháp và chính sách không đủ bảo đảm chỉ tiêu kế hoạch; ý thức tổ chức kỷ luật, chế độ trách nhiệm, chế độ thủ trưởng trong bộ máy nhà nước chưa được tăng cường.

Nói chung lại, các ngành, các cấp chính quyền cũng như nhân dân chưa quán triệt đầy đủ nhiệm vụ thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm. Trong khi đó, kiến thức, khả năng và trình độ tổ chức và quản lý kinh tế của cán bộ ta thì chưa tiến kịp yêu cầu.

Đó là những nguyên nhân chủ quan bên cạnh những hoàn cảnh khách quan dẫn đến những thiếu sót nói trên.

PHẦN II

VỀ DỰ ÁN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1962

Thưa các vị đại biểu ,

Xuất phát từ nhiệm vụ thực hiện bước đầu công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, căn cứ vào tình hình thực hiện kế hoạch năm 1961, Ủy ban chúng tôi tán thành những phương hướng nhiệm vụ của kế hoạch năm 1962 đã nêu lên trong bản báo cáo của Chính phủ trình bày trước Quốc hội.

Những chỉ tiêu đề ra nói chung đã dựa trên cơ sở cân nhắc các mặt thuận lợi và khó khăn, thể hiện tính chất tích cực, đồng thời thể hiện tính chất vững chắc rõ rệt hơn những kế hoạch các năm trước.

Tổng giá trị sản lượng năm nay so với năm 1961 tăng 16,2% (so với tốc độ năm ngoái thực hiện chỉ có 10,9%). Tốc độ tăng của giá trị sản lượng công nghiệp là 23% (so với năm ngoái chỉ có 13,5%). Tốc độ tăng của giá trị sản lượng nông nghiệp là 11% (so với năm ngoái chỉ có 8,9%). Rõ ràng tốc độ phát triển năm nay đạt cao hơn tốc độ thực tế đạt được năm ngoái.

Tuy nhiên, trong các chỉ tiêu đề ra, Ủy ban chúng tôi thấy cần yêu cầu Ủy ban Kế hoạch nhà nước phải tính toán kỹ lại các mặt cân đối để bảo đảm cho các chỉ tiêu được hoàn thành vững chắc hơn nữa. Ví dụ:

- Các chỉ tiêu thu mua phải bảo đảm nhu cầu cung cấp lương thực, nguyên liệu trong nước và xuất khẩu, đồng thời bổ sung lực lượng dự trữ của Nhà nước tích cực hơn nữa.

- Một số chỉ tiêu về sản xuất và khai thác nguyên vật liệu trong nước (như gỗ, thuốc lá, mía) phải bảo đảm nhu cầu sản xuất và xây dựng. Riêng trong biểu thu mua trình Quốc hội, yêu cầu phải ghi rõ thêm chỉ tiêu thu mua mía, bảo đảm hoạt động tương đối đều đặn cho các nhà máy đường quốc doanh trung ương hiện gặp nhiều khó khăn về nguyên liệu.

- Trong biên chế nhà nước, khu vực không sản xuất tăng 6,4%. Chúng tôi cho rằng, nếu tích cực, kiên quyết tinh giản tổ chức bộ máy hiện nay rất cồng kềnh thì còn có thể hãm hơn nữa mức độ tăng biên chế không sản xuất, cũng như hãm mức độ tăng nhân khẩu phi nông nghiệp hiện nay đã lên đến 3 triệu người.

Trong việc thực hiện kế hoạch, Ủy ban chúng tôi xin lưu ý các đại biểu và đề nghị Quốc hội giao cho Chính phủ tiếp tục nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề quan trọng như sau:

1. Vấn đề tích cực đẩy mạnh sản xuất công nông nghiệp và xây dựng cơ bản:

Trong giai đoạn bước đầu công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta đã thấy rõ nông nghiệp ta còn bấp bênh chưa đóng được vai trò cơ sở cho công nghiệp. Công nghiệp hiện nay cũng còn non yếu, và hơn nữa chưa nắm vững phương hướng phục vụ cho nông nghiệp. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp là một vấn đề mấu chốt của công nghiệp hóa, và cũng là một vấn đề mấu chốt của kế hoạch nhà nước hiện nay.

a) Về công nghiệp: công nghiệp phải ra sức phục vụ nông nghiệp. Chúng tôi xin đặc biệt nhấn mạnh vấn đề ngành cơ khí phải vươn lên sản xuất và cung cấp những nông cụ cải tiến, và cố gắng sản xuất và cung cấp một phần những nông cụ nửa cơ giới hóa cho nông nghiệp; ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp, phải chuyển hướng mạnh mẽ trong việc chế biến nông sản (như khoai, sắn…) và sản xuất những hàng tiêu dùng với nguyên liệu địa phương.

Phong trào thi đua hiện nay đang lan rộng và ăn sâu, đang tạo ra nhiều năng suất mới và đẩy mạnh sản xuất. Nhưng Chính phủ cần chú ý hơn nữa về mặt chất lượng sản phẩm. Cần chú ý rằng trong năm qua, tỷ lệ hàng hỏng khá cao, chất lượng hàng ít được cải tiến, nhiều sản phẩm sản xuất không đồng bộ, số bán thành phẩm không thành thương phẩm và chưa sử dụng được còn khá nhiều. Xu hướng chạy theo chỉ tiêu số lượng và chỉ tiêu giá trị sản lượng mà không chú ý đầy đủ chất lượng và giá trị sử dụng thực tế là một thiếu sót gây ra tổn thất cho nền kinh tế quốc dân.

Trong công nghiệp, Ủy ban chúng tôi thấy cần lưu ý Chính phủ về vấn đề tận dụng một cách hợp lý và có hiệu quả kinh tế cao nhất các khả năng hiện có về thiết bị, nguyên liệu, vốn, sức lao động để phát triển sản xuất. Trong sản xuất công nghiệp vấn đề khai thác hết những khả năng tiềm tàng, những dự trữ sản xuất là một vấn đề rất trọng yếu và có ý nghĩa thực tiễn to lớn hiện nay. Những nguồn dự trữ ấy có nhiều, mà hiện nay ta chưa khai thác hết, để tăng năng suất, hạ giá thành, tăng thêm sản phẩm xã hội và tăng tích lũy để công nghiệp hóa nước nhà. Có thể nói rằng giá trị mà những tổn thất do không khai thác hết nguồn dự trữ trong sản xuất làm mất đi có thể lớn bằng hay thậm chí còn lớn hơn giá trị sản phẩm đã sản xuất ra được.

Sau đây hãy lấy một vài ví dụ:

- Nếu như năm 1961, nhiều xí nghiệp cơ khí của Bộ Giao thông vận tải (Bộ có nhiều nhà máy cơ khí nhất) chỉ làm việc một ca vì thiếu nguyên vật liệu và phụ tùng thì điều đó có nghĩa là mức lợi dụng thời gian công tác một ngày trong các xí nghiệp ấy chỉ bằng 1/2 thời gian công tác bình thường. Nếu so với thời gian - chế độ trong một năm thì mức lợi dụng thời gian mới trên dưới 80%, mức chạy máy cũng chỉ vào khoảng 80%. Do đó, mức lợi dụng năng lực sản xuất của các nhà máy cơ khí của ta chỉ có

50 x 80 x 80

 

= 32 %

 

100 x 100 x 100

Nói cách khác, dự trữ năng lực sản xuất của ta còn 68% chưa dùng đến.

Trong ngành kiến trúc, năm 1960, mức lợi dụng tổng số thiết bị chỉ mới có 52%, và mức lợi dụng công suất thiết bị chỉ vào khoảng 50%. Sang năm 1961, mức thực tế lợi dụng thiết bị có tiến bộ hơn. Nhưng theo số liệu thống kê 17 loại máy chính thì tỷ lệ số máy sử dụng so với số máy bình quân có trong năm chỉ có 49% và tỷ lệ giờ máy sản xuất so với giờ chế độ cũng chỉ mới 39%, tuy một số máy hoạt động trên công trường đạt đến 80 - 90% công suất quy định. Nói cách khác, dự trữ năng lực sản xuất trong ngành kiến trúc còn 61% chưa dùng đến.

- Một số nhà máy có khi phải tạm ngừng hoạt động, không lợi dụng hết công suất thiết bị là do thiếu nguyên vật liệu, phụ tùng, và do máy móc hỏng không sửa chữa kịp. Hiện tượng ngừng việc 5, 3 ngày khá phổ biến; thậm chí có nhà máy nghỉ hàng tháng, như nhà máy gỗ Cầu Đuống, nhà máy đường, nhà mày chè, nhà máy rượu.

Tình trạng công nhân nghỉ việc không có lý do còn chưa được cải thiện; số ngày làm việc bình quân còn thấp, trung bình chỉ đạt 20, 21 ngày một tháng. Phỏng tính mỗi công nhân đáng lẽ làm việc 24 ngày, như vậy mỗi tháng mất ba ngày, thì chúng ta mất cả năm một số ngày công tương đương với khối lượng lao động của khoảng một vạn công nhân. Như vậy, chẳng khác nào 1-10 tổng số công nhân thường xuyên nghỉ việc cả năm không sản xuất.

Trong bản báo cáo của Chính phủ, có nói: "ra sức nâng cao năng suất lao động và tích cực phấn đấu hạ giá thành", trong biểu chỉ tiêu đã có ghi một số chỉ tiêu cụ thể. Ủy ban chúng tôi đề nghị Chính phủ, Ủy ban Kế hoạch nhà nước và các bộ phải tính toán hết khả năng dự trữ trong sản xuất và giao trách nhiệm cụ thể cho các xí nghiệp tích cực phấn đấu khai thác khả năng tiềm tàng ngày càng tiến bộ hơn nữa.

b) Về nông nghiệp: những chỉ tiêu nông nghiệp đề ra tuy không phải là cao quá khả năng, nhưng do điều kiện thiên nhiên và do cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu, nên đạt được những chỉ tiêu ấy là cả một sự phấn đấu rất lớn. Những chỉ tiêu ấy cũng là yêu cầu tối thiểu rất cấp thiết, vì đó là mức tối thiểu mà nông nghiệp phải bảo đảm về mặt cung cấp lương thực và thực phẩm, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và vật tư cho xuất khẩu, bảo đảm phục vụ ngày càng đắc lực cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Trước mắt hiện nay chúng ta phải bảo đảm thu hoạch tốt vụ chiêm, làm tốt vụ thu và chuẩn bị tốt vụ mùa. Phải xem trọng cả hai mặt: tăng diện tích và tăng năng suất. Về mặt diện tích, nếu trong 5 năm (1961 - 1965) chúng ta tích cực thực hiện được 55 vạn hécta khai hoang thì bình quân diện tích đầu người cũng chỉ mới lên 3 sào 4 thước, vì dân số tăng khoảng ba triệu người và chúng ta phải dành một số đất đai cho xây dựng và thủy lợi. Về mặt năng suất, trong vài năm qua, chúng ta tiến chậm. Vấn đề thâm canh, thủy lợi, phân bón, nông cụ cải tiến và nửa cơ giới hóa v.v. đặt ra rất cấp thiết. Các biện pháp đề ra trong bản báo cáo của Chính phủ về mặt tăng diện tích, khai hoang, tăng vụ, và tăng năng suất đã rõ ràng và đầy đủ. Vấn đề là các ngành các cấp ở Trung ương và địa phương phải ra sức thực hiện với một tinh thần quyết tâm và khẩn trương rất lớn để đẩy nông nghiệp tiến lên, phục vụ cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Trong lãnh đạo nông nghiệp, Chính phủ cần chú ý đầy đủ cả mặt biện pháp kỹ thuật và mặt biện pháp kinh tế, và phải lấy việc cải tiến công tác quản lý hợp tác xã làm khâu quan trọng bậc nhất trong việc củng cố hợp tác xã và phát triển sản xuất.

Ủy ban chúng tôi thấy cần lưu ý Chính phủ một vấn đề đã đề ra nhiều lần, nhưng thực hiện còn gặp nhiều khó khăn và còn chậm, đó là vấn đề: làm thế nào phát triển nông nghiệp toàn diện, lấy lương thực làm trọng tâm, đồng thời phát triển mạnh cây công nghiệp, chăn nuôi và các ngành khác, nhất là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lương thực và cây công nghiệp. Muốn đẩy mạnh cây công nghiệp, cần nhận thức tầm quan trọng của vấn đề, cần sớm giải quyết vấn đề quy vùng nông nghiệp, sơ bộ quy vùng sản xuất một số cây công nghiệp quan trọng và cố gắng giải quyết tốt vấn đề lương thực cho những vùng cây công nghiệp; điều hòa một số nhân lực thừa ở đồng bằng lên vùng trung du và miền núi là nơi có nhiều điều kiện phát triển cây công nghiệp mà lại rất thiếu nhân lực. Hiện nay, trong một số người đang tồn tại một quan niệm nông nghiệp "toàn diện" không chính xác, theo lối mỗi địa phương, thậm chí mỗi hợp tác xã đều phải trồng trọt đủ loại cây, mỗi thứ một ít, không những lương thực mà cả một số cây công nghiệp mà ở nơi đó không có điều kiện thuận tiện và không có tập quán. Cách kinh doanh ấy mang theo khuynh hướng "tự túc tự cấp" địa phương một cách chật hẹp, không đem lại năng suất cao, không nâng cao được tỷ suất hàng hóa, và không có hiệu quả kinh tế cao. Kết quả là lương thực cũng không đủ, cây công nghiệp cũng không phát triển mạnh, và thu mua của Nhà nước lại rất khó khăn. Ủy ban chúng tôi đề nghị Chính phủ sớm xúc tiến việc quy vùng sản xuất, và giao nhiệm vụ sản xuất lương thực và cây công nghiệp cho từng địa phương sát điều kiện tự nhiên và tập quán canh tác của các địa phương, và đặt trách nhiệm cho các ngành và các địa phương tích cực và chủ động phát triển nông nghiệp ở từng địa phương làm cho nông nghiệp toàn miền Bắc phát triển một cách toàn diện và mạnh mẽ.

c) Về xây dựng cơ bản: để xúc tiến việc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện vốn đầu tư có hạn và vật tư còn căng thẳng, năm nay chúng ta tập trung vốn, vật tư và sức lao động vào công nghiệp, nông nghiệp và thủy lợi và một phần vào giao thông vận tải, và tập trung vào các công trình trọng điểm đang làm dở; như vậy là rất đúng. Nhưng đi đôi với các công trình trọng điểm, chúng ta phải tích cực xây dựng các công trình loại vừa và nhỏ ở địa phương, huy động lực lượng của hợp tác xã nông nghiệp và thủ công nghiệp, và tích cực giúp đỡ hợp tác xã xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nó.

Vấn đề đặt ra là phải cải tiến công tác quản lý xây dựng cơ bản về mọi mặt. Ủy ban chúng tôi xin nhấn mạnh vấn đề giữ vững cân đối giữa các mặt, nhất là vấn đề thiết bị nhập và vật tư xây dựng, bảo đảm hoàn thành đúng thời hạn những công trình dự định đưa vào sản xuất trong năm 1962, khắc phục tình trạng kéo dài như mấy năm trước ảnh hưởng lớn đến kế hoạch sản xuất.

Trong vấn đề chống lãng phí, chúng tôi thấy có những tiến bộ đáng mừng, nhưng hiện tượng lãng phí còn nhiều. Cần chú ý hơn nữa các mặt lãng phí gây ra do thiết kế chậm hay không sát, do thiếu cân đối nên công trường phải thi công chậm hay tạm ngừng lại, có khi do thi công không phù hợp với thiết kế, và cuối cùng là do vốn đầu tư chậm phát huy tác dụng.

2. Tích cực đẩy mạnh công tác thu mua, bảo đảm sự cân đối vật tư và cung cấp vật tư cho sản xuất, xây dựng và xuất khẩu, và tăng cường lực lượng dự trữ vật tư của Nhà nước

Như chúng ta đã biết, một khó khăn nổi bật trong năm 1961 là vấn đề cân đối vật tư và một khuyết điểm nổi bật là vấn đề thu mua nông sản phẩm. Năm 1961, tỷ lệ thu mua so với sản lượng chỉ đạt 16%, sụt hơn năm 1960 là năm mất mùa (1960: 18,4%), đó là một hiện tượng không bình thường. Hầu hết các loại nông sản thu mua không đạt kế hoạch, lương thực cũng như cây công nghiệp; có những thứ thu mua đạt tỷ lệ rất thấp. Tình hình thu mua trong quý I năm nay cũng chưa phải là khả quan hơn năm 1961. Kết quả như mọi người đều rõ: vấn đề cung cấp lương thực và thực phẩm cho thành thị, cho các khu công nghiệp và vùng trồng cây công nghiệp rất khó khăn, lực lượng dự trữ của Nhà nước bị ảnh hưởng, thị trường tự do không quản lý được tốt, giá cả khó bình ổn được. Nhiều nhà máy (chè, đường, rượu, gỗ…) không hoạt động đều, không chạy hết công suất và không đạt kế hoạch, vì thiếu nguyên liệu nông nghiệp; kết quả là trong số 80 triệu hụt kế hoạch sản xuất công nghiệp năm 1961 thì phần lớn là thuộc ngành chế biến thực phẩm và chế biến gỗ. Kế hoạch xuất khẩu không đạt được ảnh hưởng lớn đến kế hoạch nhập và đến cán cân thương mại, tỷ trọng hàng nông sản chỉ chiếm 12,5% (năm 1960: 28,9%), từ 20,8 triệu rúp năm 1960 sụt xuống chỉ còn 8,5 triệu năm 1961.

Rõ ràng vấn đề thu mua ảnh hưởng đến mọi mặt kinh tế quốc dân, và đóng một vai trò tối trọng yếu trong sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Năm nay, các chỉ tiêu thu mua trình bày trong dự án kế hoạch đã được cân nhắc kỹ lưỡng hơn, và đó là những chỉ tiêu hợp lý, vừa chiếu cố lợi ích nhà nước, vừa chiếu cố lợi ích của hợp tác xã và của nông dân. Tỷ lệ thu mua và thuế đối với một vài sản phẩm tính ra như sau: thóc 17%; ngô 15%; khoai 1,5%; sắn 13%; lạc 55%. Như vậy là không cao. Nhưng Ủy ban chúng tôi thấy cần nhấn mạnh lại vấn đề này và xin lưu ý các đại biểu cũng như lưu ý Chính phủ rằng nếu không có một chuyển biến mạnh mẽ trong cán bộ và nông dân thì kế hoạch thu mua năm nay tuy không cao nhưng không phải dễ dàng đạt được; và nếu như vậy thì tình hình mất cân đối sẽ còn gay go thêm, kế hoạch kinh tế quốc dân sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Chính phủ phải tập trung sức lực giải quyết tốt vấn đề này, không thể một lúc nào lơi lỏng. Trước tiên, Chính phủ cần phải đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục cho nông dân thấy hết nghĩa vụ bán nông sản cho nhà nước để phục vụ cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp công nghiệp hóa càng tiến lên thì nhà nước càng cần nắm được nhiều lương thực, càng cần nhiều nguyên liệu cho công nghiệp và hàng hóa cho xuất khẩu, sự liên hệ bằng trao đổi sản phẩm giữa công nghiệp và nông nghiệp càng lớn. Cần làm cho nông dân nhận thức rõ vai trò làm chủ nhà nước của mình một cách toàn diện và sâu sắc, nhận rõ lợi ích chung và lợi ích căn bản của bản thân mình là hoàn toàn nhất trí. Nông dân ta vốn sẵn lòng yêu nước, tin tưởng ở Đảng và Chính phủ, ngày nay họ lại là nông dân tập thể đang xây dựng chủ nghĩa xã hội; bản thân nông dân đang cần phân bón, nông cụ cải tiến và nửa cơ giới hóa thuốc trừ sâu, vật liệu xây dựng và hàng công nghiệp để tiêu dùng. Chúng ta phải làm cho nông dân hiểu rõ chỉ có công nghiệp hóa, chỉ có một nền công nghiệp phát triển mới đem lại cho họ những thứ cần thiết ấy. Muốn như vậy, không có cách nào khác là họ ủng hộ nhà nước của mình, ủng hộ giai cấp công nhân bằng cách tích cực sản xuất, tiết kiệm, và làm nghĩa vụ bán nông sản cho nhà nước. Cán bộ cơ sở ở xã phải xung phong làm gương cho quần chúng, thì nhất định quần chúng sẽ vui lòng làm nghĩa vụ.

Tất nhiên trong nông dân hiện nay cũng còn một số người chưa hiểu rõ nghĩa vụ, nặng về lợi ích của tập thể nhỏ (hợp tác xã) hay lợi ích riêng của bản thân mình, còn tư tưởng ỷ lại nhà nước, chưa tích cực bán lương thực và nguyên liệu nông sản cho nhà nước, muốn bán nông sản giá cao và mua hàng công nghiệp giá hạ, muốn vay nhiều mà không muốn trả nợ cho nhà nước. Phải nói rõ tình hình khó khăn của kinh tế nước nhà, nhiệm vụ to lớn của toàn dân và của Nhà nước, nói rõ nghĩa vụ vinh quang, làm cho nông dân tự giác cùng nhà nước gánh vác nhiệm vụ chung.

Kiểm điểm lại tình hình năm 1961, Chính phủ cần làm cho các cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương cũng như các cấp và cán bộ nâng cao ý thức trách nhiệm chấp hành nhiệm vụ thu mua, chống mọi khuynh hướng "tự túc tự cấp" địa phương, tư tưởng cục bộ, bản vị và sợ khó.

Có những tỉnh vốn không có nhiều lương thực, hay gặp nhiều khó khăn, như Hải Ninh, Phú Thọ, Hà Nam, Sơn Tây, Ninh Bình mà lại đạt hay vượt kế hoạch thu mua. Trong khi đó tại sao có nhiều tỉnh sản xuất lương thực khá hơn hoặc không có gì khó khăn hơn như Bắc Ninh, Tuyên Quang, Lạng Sơn, hay có tỉnh có nhiều đặc sản quý như lạc ở Nghệ An, mà lại không hoàn thành kế hoạch thu mua của Nhà nước. Vậy trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương ấy như thế nào?

Tình trạng chỉ đạo thu mua lúc đầu có lỏng lẻo, đến khi tình hình thật sự gay go và rõ ràng triển vọng thu mua không đạt kế hoạch thì Chính phủ mới tích cực đôn đốc các địa phương. Vậy cơ quan nào của Chính phủ trung ương chịu trách nhiệm về những sự chậm chạp và thiếu sót ấy?

Mùa màng năm 1961 tốt hơn năm 1960 mà số lượng cũng như tỷ lệ thu mua lại kém hơn, nhất là sau khi Chính phủ đã điều chỉnh một số giá cả có lợi cho nông dân hơn trước, đó là một tình hình mà chúng tôi xin đặc biệt lưu ý Quốc hội, và đề nghị Quốc hội giao cho Chính phủ kiểm điểm lại những cơ quan ở Trung ương và địa phương không hoàn thành nhiệm vụ mà không có lý do khách quan chính đáng, quy rõ trách nhiệm, có khen thưởng, có phê bình, có kỷ luật, và thi hành những biện pháp kịp thời chấm dứt tình trạng chấp hành kế hoạch lỏng lẻo để chuẩn bị cho công tác thu mua từ vụ chiêm này được tốt hơn.

Trong công tác thu mua, tuy chính sách và hệ thống giá cả của ta hiện nay nói chung là hợp lý, nhưng Ủy ban chúng tôi cho rằng đối với một số nông sản cây công nghiệp, cũng cần tiếp tục nghiên cứu thêm. Trong điều kiện ở những vùng mới khai hoang, điều kiện canh tác còn khó khăn, và có những vùng cây công nghiệp chuyên canh hay chiếm địa vị chủ yếu, hay có giá trị thương phẩm và ý nghĩa kinh tế lớn, rất cần cho công nghiệp nhẹ cũng như cho xuất khẩu, thì có thể và cần mạnh dạn nghiên cứu điều chỉnh một số giá cả thích đáng. Vấn đề giá cả là một vấn đề rất phức tạp, phải cân nhắc tính toán rất nhiều mặt; không thể giản đơn, nóng vội, một chiều, gây thiệt hại cho nhà nước hay làm tổn hại đến cơ sở liên minh công nông, cũng như thiệt hại đến lợi ích của các tầng lớp nhân dân. Tất nhiên, chúng ta không thể để cho quy luật giá trị tác động một cách tự phát và chúng ta không thể chạy theo đuôi thị trường tự do được. Nhưng chúng ta cũng nên đề phòng lối tính toán theo công thức máy móc và quan điểm bình quân chủ nghĩa, không chiếu cố đầy đủ đến lợi ích vật chất của người sản xuất.

Vấn đề là phải xem trọng việc vận dụng quy luật giá trị một cách đúng đắn để đẩy mạnh sản xuất, nhất là đối với cây công nghiệp và đặc sản, nâng cao được tỷ suất sản phẩm hàng hóa và thu mua được đủ kế hoạch, và do đó bảo đảm được kế hoạch của một số nhà máy công nghiệp nhẹ và kế hoạch xuất khẩu, và giữ được cân đối của nền kinh tế quốc dân.

3. Tích cực cải thiện đời sống nhân dân, trên cơ sở phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm

Nhà nước ta luôn luôn chăm lo cải thiện đời sống nhân dân. Những chỉ tiêu về sản xuất công nông nghiệp, phân phối vốn đầu tư cho xây dựng nhà ở, lưu chuyển hàng hóa bán lẻ, thu mua nông lâm thổ sản, quỹ tiền lương, văn hóa, giáo dục, y tế, v.v., đều biểu hiện những cố gắng to lớn của Nhà nước luôn luôn chăm lo cải thiện đời sống nhân dân tiếp theo đà tiến bộ của năm 1961.

Ủy ban chúng tôi xin nêu lên một số vấn đề để lưu ý Chính phủ:

Trong mấy năm qua, chúng ta đã thu được những thắng lợi to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa. Nhưng nền kinh tế của ta vẫn còn lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật còn non yếu, nông nghiệp ta còn bấp bênh, dân số lại tăng hàng năm 3,5%, cho nên sản xuất chưa thể phát triển theo kịp nhu cầu của đời sống. Chúng ta đang bắt tay vào một sự nghiệp vĩ đại là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa để thoát khỏi cảnh lạc hậu nghèo nàn cũ, và chúng ta đang ra sức phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, xây dựng một nền kinh tế tự chủ với sự hợp tác anh em quý báu trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa. Chỉ có tập trung sức lực vào công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, gian khổ xây dựng đất nước thì mới cải thiện đời sống một cách lâu dài và căn bản. Trong sự nghiệp vĩ đại ấy, chúng ta có những thuận lợi căn bản, nhưng chúng ta phải thấy hết khó khăn, có cái lâu dài và to lớn. Cải thiện đời sống căn bản là phải dựa vào phát triển sản xuất, nhưng đời sống không phải chỉ phụ thuộc vào sản xuất. Chúng ta còn phải quản lý tốt và nắm vững các khâu phân phối - trao đổi. Chính phủ phải ra sức cải tiến công tác quản lý, tăng cường quản lý thị trường và quản lý tiền tệ, đẩy mạnh thu mua, phân phối hàng hóa hợp lý giữa nông thôn và thành thị, giữ vững cân đối giữa tiền và hàng, luôn luôn thi hành một chính sách giá cả hợp lý và bình ổn giá cả thì mới thực hành được công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đồng thời cải thiện được đời sống nhân dân.

Trong đời sống chung của các tầng lớp nhân dân cần chú ý nhiều đến những vùng rẻo cao, những vùng điều kiện sản xuất nông nghiệp có nhiều khó khăn; đối với công nhân viên chức phải bảo đảm thu nhập thực tế cho họ bằng cách bình ổn giá cả, chỉ đạo thi hành tốt điều lệ bảo hiểm xã hội và chú ý hơn nữa vấn đề bảo hộ lao động.

Trong điều kiện quỹ mua xã hội tăng nhiều mà nguồn hàng hóa chưa theo kịp, quỹ thị trường còn chưa đủ, chúng ta không có cách nào khác là phải động viên giáo dục các tầng lớp nhân dân thực hành tiết kiệm một cách ráo riết, không những tiết kiệm trong sản xuất, xây dựng, mà tiết kiệm cả trong tiêu dùng. Cần giải thích rõ, nói hết khó khăn và nguyên nhân cho cán bộ và nhân dân, để cán bộ và nhân dân vui lòng chịu đựng những sự thiếu thốn tạm thời về một số hàng, không ỷ lại và mong chờ viện trợ hay muốn nhập nhiều hàng tiêu dùng, mà trái lại có ý thức tiêu dùng hàng nội hóa. Cần động viên nhân dân và cán bộ tích cực hưởng ứng những biện pháp của Nhà nước như gửi tiền tiết kiệm, xổ số, v.v., để giúp nhà nước giữ cân đối giữa tiền và hàng và để lấy tiền xây dựng những công trình có lợi cho nhân dân.

Năm nay, tuy sản xuất tiếp tục tăng với tốc độ khá cao, và nhà nước tiếp tục chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, nhưng phải nhìn thấy trước khó khăn: sản xuất không đi kịp yêu cầu của tiêu dùng, quỹ hàng hóa còn thiếu, sự thiếu cân đối giữa hàng và tiền của năm trước còn tồn tại và ảnh hưởng sang năm nay. Cần giáo dục cho cán bộ và nhân dân nhận rõ bản chất của tình hình khó khăn, đề ra sức phấn đấu, nhằm đúng mục tiêu, cùng với Chính phủ quyết tâm thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và cải thiện từng bước đời sống của toàn dân và của bản thân mình.

4. Về tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch

- Ủy ban chúng tôi cho rằng đây là một vấn đề quan trọng bậc nhất, và xin nhấn mạnh bốn vấn đề chính sau:

a) Tổ chức bộ máy nhà nước và biên chế của ta hiện nay khá cồng kềnh mà lại ít hiệu suất.

Bộ máy phình to, nhiều tổ chức mới đẻ ra không cần thiết, có nhiều tổ chức trung gian chồng chất, có nhiều bộ phận giẫm đạp nhau, phân tán, cục bộ. Người thì nhiều, nhưng phân bố chưa hợp lý, số cán bộ nhân viên được đào tạo và bồi dưỡng về nghiệp vụ và kỹ thuật thì ít, số người ốm yếu không làm việc khá đông, bệnh quan liêu, giấy tờ còn khá phổ biến. Khuynh hướng "lấy lượng bù chất" làm phình biên chế, biên chế tăng nhanh một cách không cân đối và không có tiêu chuẩn làm căn cứ chính xác; việc họp hành và học tập còn nặng nề và tùy tiện; chế độ thủ trưởng và kỷ luật lao động còn lỏng lẻo. Trong khi đó, việc quản lý tổ chức và biên chế của Chính phủ chưa được chặt chẽ và thống nhất: Bộ Nội vụ thì quản lý biên khu vực hành chính sự nghiệp, Bộ Lao động thì quản lý biên chế khu vực sản xuất, Bộ Tài chính thì quản lý quỹ tiền lương; ba Bộ đều cũng không đủ thẩm quyền, không đủ chuyên môn và không tập trung chỉ đạo được. Tư tưởng cục bộ và bản vị, tình trạng vô kỷ luật vi phạm quy tắc quản lý lao động - tiền lương vẫn còn trong một số cơ quan nhà nước. Tại sao có những hiện tượng trên, và tại sao ai cũng thấy, ai cũng không đồng tình mà vẫn chưa ngăn chặn được? Làm thế nào để giữ vững chỉ tiêu lao động tiền lương đã đề ra trong dự án kế hoạch? Tất nhiên, vấn đề có khó khăn, có những điều kiện khách quan như trình độ và năng lực tổ chức của cán bộ ta còn thấp, chúng ta lại phải chiếu cố đến nhiều mặt chính sách khác.

Nhưng vô luận thế nào, tình trạng tổ chức biên chế như hiện nay nếu còn kéo dài thì không thể thực hiện tốt kế hoạch nhà nước được.

Ủy ban chúng tôi đề nghị Quốc hội giao cho Chính phủ bắt đầu trong năm nay kiên quyết tinh giản bộ máy nhà nước và điều chỉnh biên chế cho hợp lý. Về mặt tổ chức bộ máy phải nghiên cứu sửa đổi lại theo nguyên tắc vừa tập trung thống nhất vừa phân cấp quản lý rành mạch, thu gọn bộ máy, rút bớt trung gian, sát với sản xuất, làm cho bộ máy thực sự trở thành một bộ máy quản lý kinh tế có hiệu lực. Về mặt biên chế, cần nghiên cứu lại tiêu chuẩn biên chế một cách có căn cứ để giảm nhẹ biên chế hành chính, kết hợp đưa cán bộ về hoạt động ở cơ sở sản xuất, củng cố hợp tác xã và tham gia vào mặt trận sản xuất; và kết hợp đưa cán bộ đi học dài hạn để bồi dưỡng lực lượng lao động dự trữ của Nhà nước. Đồng thời phải tránh xu hướng máy móc, làm trở ngại cho công tác nhất là đối với những cơ quan sản xuất và sự nghiệp mới lập và đang phát triển. Chúng tôi cũng đề nghị Chính phủ nghiên cứu lại tổ chức quản lý lao động - tiền lương, tập trung thống nhất vào một cơ quan có đủ quyền lực theo kiểu một "Ủy ban lao động tiền lương" duy nhất.

b) Việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là cán bộ quản lý kinh tế và cán bộ kỹ thuật công nhân chuyên nghiệp tuy đã được chú ý hơn trước, nhưng hiện nay còn rất xa yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Nếu chúng ta có một bộ máy hợp lý mà không có một đội ngũ cán bộ có năng lực thì bộ máy ấy cũng không thể có hiệu suất cao và không thể tinh giản được. Chúng tôi thấy cần chú trọng đặc biệt nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng đào tạo cán bộ, tận lực đẩy mạnh phương thức học tại chức và hàm thụ là phương thức rất quan trọng và tiết kiệm nhất, phát triển nó song song với hệ thống học tập trung và chính quy ở nhà trường. Chúng ta có thể khẳng định rằng cán bộ công nhân ta rất ham học, cầu tiến. Nhưng tiếc rằng việc tổ chức học tập thì không tốt: học lu bù không theo chương trình nhất định và chưa sát yêu cầu; học nhưng không có kiểm tra, sát hạch, kỷ luật học rất lỏng lẻo; thì giờ học và kết quả học của cán bộ tùy thuộc vào thủ trưởng, không có một chế độ gì bảo đảm học tập được tốt. Đội ngũ giáo viên quá thiếu, trình độ của họ thì có hạn mà thì giờ và điều kiện để họ làm nhiệm vụ vừa nghiên cứu vừa giảng dạy thì không đủ. Tài liệu giáo khoa, phương tiện và thiết bị để dạy và học thì chưa được chú ý đúng mức. Chúng ta phí khá nhiều sức lực trong việc giảng dạy và học tập, nhưng kết quả đem lại thì không tương xứng, chất lượng không đi kịp với số lượng.

Ủy ban chúng tôi đề nghị Chính phủ nên sớm tăng cường và cải tiến hệ thống đào tạo và bồi dưỡng cán bộ; song song với việc điều chỉnh và củng cố các trường đại học và trung cấp chuyên nghiệp chính quy, cần lãnh đạo chặt hơn các trường và các lớp huấn luyện không chính quy, và sớm ban hành một quy chế học tại chức và hàm thụ. Cần tích cực giải quyết ba vấn đề cơ bản: giáo viên, tài liệu giáo khoa, và cơ sở vật chất - thiết bị - phương tiện cho dạy học, để nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ theo kịp yêu cầu của cách mạng.

Đi đôi với việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, Chính phủ cần phải xem trọng hơn nữa việc đào tạo và bồi dưỡng công nhân chuyên nghiệp. Năm 1961, kế hoạch đào tạo công nhân chỉ đạt 80%, trong đó 4 Bộ quản lý sản xuất có nhiều công nhân nhất là Công nghiệp nặng, Giao thông vận tải, Thủy lợi - Điện lực và Kiến trúc lại đạt thấp nhất (45 - 65%).

Năm nay, các Bộ phải ra sức khắc phục tình trạng chậm trễ nói trên, chú trọng đầy đủ cả hai phương thức đào tạo tại chức và đào tạo tại trường, bảo đảm chỉ tiêu đã đề ra (tăng 71% so với 1961). Nói cho cùng, con người là quyết định, cán bộ và công nhân là quyết định trong việc thực hiện kế hoạch. Chỉ có xem trọng đầy đủ vấn đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ và công nhân thì mới nâng cao năng suất, bảo đảm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch.

c) Công tác xây dựng kế hoạch và theo dõi thực hiện kế hoạch của ta ngày càng tiến bộ, hệ thống cơ quan kế hoạch thống kê của ta đã có nhiều kinh nghiệm hơn trước - Kế hoạch hàng năm xây dựng và phổ biến tương đối sớm và kịp thời, trừ một vài bộ phận như kế hoạch xây dựng cơ bản thì còn chậm, thường không kịp mùa khô đầu năm.

Nhưng việc làm kế hoạch còn mắc một số khuyết điểm quan trọng như chưa đi đúng đường lối quần chúng, còn quan liêu giấy tờ, chưa kết hợp được trên và dưới, lãnh đạo và quần chúng, đặc biệt là kế hoạch nông nghiệp chưa thực sự dựa vào quần chúng hợp tác xã, chưa biểu hiện được đặc điểm của kế hoạch nông nghiệp của hợp tác xã, một tổ chức kinh tế thuộc hình thức sở hữu tập thể, khác với kế hoạch của một xí nghiệp thuộc hình thức sở hữu toàn dân.

Công tác kế hoạch muốn được tốt thì phải dựa vào hệ thống thống kê kế toán chính xác, kịp thời, thống nhất và tập trung. Hiện nay công tác này tuy có nhiều tiến bộ, nhưng vẫn còn nhiều nhược điểm, nhất là thống kê nông nghiệp…, kể cả nông nghiệp hợp tác xã cũng như đối với bộ phận nông nghiệp còn ở ngoài hợp tác xã.

Ủy ban chúng tôi đề nghị Quốc hội lưu ý Chính phủ tăng cường và chấn chỉnh bộ máy kế hoạch và thống kê từ Trung ương xuống các địa phương, từ các bộ xuống các xí nghiệp; cải tiến công tác kế hoạch và thống kê, tăng cường kỷ luật trong công tác thống kê, bảo đảm tính chất trung thực của thống kê, ngăn ngừa tình trạng thống kê và báo cáo sai sự thật.

d) Một biện pháp rất trọng yếu bảo đảm kế hoạch là vấn đề hợp đồng kinh tế. Hai năm nay, Chính phủ đã ban hành chế độ hợp đồng kinh tế, nhưng đến nay việc thi hành còn rất kém. Ngay năm nay đã qua quý II của kế hoạch năm 1962 rồi mà nhiều Bộ cũng còn ngần ngại và chậm chạp trong việc ký hợp đồng nguyên tắc. Ủy ban chúng tôi đã tìm hiểu vấn đề qua một số Bộ và Tổng cục, thì thấy vấn đề còn tồn tại rất lớn, ví dụ như giữa Trung ương và địa phương về mua lương thực, giữa Bộ Nội thương với các địa phương về phân phối hàng hóa, giữa Bộ Ngoại thương với các Bộ, Tổng cục lương thực và các địa phương về hàng xuất cũng như hàng nhập, giữa Bộ Giao thông vận tải với các Bộ về vận chuyển hàng hóa, giữa Bộ Công nghiệp nhẹ với các địa phương về nguyên liệu cho nhà máy v.v..

Tình hình ký hợp đồng nguyên tắc giữa các Bộ còn kém như vậy thì việc ký hợp đồng kinh tế cụ thể giữa các đơn vị kinh tế trực tiếp sản xuất và kinh doanh thì lại càng chậm chạp và lỏng lẻo hơn nữa.

Nguyên nhân chậm trễ có thể một mặt là do tư tưởng chưa thật sự tin vào chỉ tiêu kế hoạch đã định bên cạnh có những hoàn cảnh khách quan khó khăn, bị động; mặt khác là do tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, ý thức chấp hành kế hoạch, nhận thức tính chất pháp lệnh của kế hoạch nhà nước còn thiếu sót. Kế hoạch nhà nước là một bảng tổng hợp các chỉ tiêu liên quan chặt chẽ với nhau, tùy thuộc lẫn nhau như những mắc xích trong cả sợi dây chuyền của nền kinh tế quốc dân. Hợp đồng kinh tế là những cái đinh ốc nối liền hệ thống mắc xích chỉ tiêu lại với nhau, bảo đảm tính chất thống nhất, tính chất cân đối, tính chất vững chắc trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước.

Ủy ban chúng tôi đề nghị Quốc hội lưu ý Chính phủ đôn đốc các cơ quan nhà nước sớm khắc phục hiện tượng rời rạc nói trên hiện nay, để tránh tình trạng một số ngành, cơ quan, đơn vị, vì không tích cực thực hiện chỉ tiêu của mình mà gây ra một sự phản ứng dây chuyền làm vỡ kế hoạch của các ngành, các cơ quan, các đơn vị khác; và để tránh tình trạng một khi kế hoạch không được thực hiện thì không biết quy trách nhiệm về ai, vì đơn vị nào cũng tự cho có quyền và có lý do để đổ trách nhiệm cho đơn vị khác.

PHẦN III

TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ VÀ TƯ TƯỞNG,
ĐẨY MẠNH THI ĐUA ÁI QUỐC, ĐỘNG VIÊN TOÀN DÂN HOÀN THÀNH
VÀ HOÀN THÀNH VƯỢT MỨC KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1962

Thưa các đại biểu,

Năm 1961, đã đánh dấu một bước chuyển biến mới rất quan trọng trong tình hình chính trị tư tưởng và trong phong trào thi đua ái quốc của quần chúng. Sau khi thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa kết thúc thắng lợi, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã mở ra nhiều triển vọng mới cho công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, cuộc chỉnh huấn 1961 đã nâng cao thêm một bước quan trọng trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của nhân dân và cán bộ, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng Lao động Việt Nam đã động viên được một phong trào thi đua mới khắp nơi, như phong trào Duyên Hải, Đại Phong, Thành Công, Ba Nhất, Bắc Lý v.v..

Bước sang năm 1962, năm thứ hai của kế hoạch 5 năm, kế hoạch bước đầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chúng ta rất vui mừng và phấn khởi trước những thắng lợi to lớn đã thu được, chúng ta rất vững tin trước những thuận lợi căn bản đẻ ra từ bản chất của chế độ ta và từ những thắng lợi đã thu được mấy năm qua.

Nhưng như chúng ta đã nhận định, tình hình của chúng ta còn rất nhiều khó khăn, sự nghiệp của chúng ta còn rất nhiều gian khổ, Ủy ban chúng tôi đồng ý với bản báo cáo của Chính phủ là cần hết sức tăng cường giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán bộ và nhân dân, nâng cao nhận thức và ý thức của mọi người, làm cho mọi người hiểu rõ nhiệm vụ, thấy hết khó khăn, tập trung sức lực phục vụ cho nhiệm vụ trung tâm là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cần giáo dục cho cán bộ và nhân dân có một quan điểm toàn diện; nhận rõ quan hệ giữa lợi ích toàn dân, lợi ích tập thể và lợi ích mỗi người; nhận rõ quan hệ giữa lợi ích toàn quốc và lợi ích địa phương; đánh giá đúng thành tích và khuyết điểm, thuận lợi và khó khăn; phân biệt rõ hiện tượng và bản chất, luôn luôn nâng cao tinh thần phấn khởi lạc quan cách mạng, không những phấn khởi trong thuận lợi mà ngay cả trong khó khăn để không ngừng phấn đấu cho sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà.

Trên cơ sở nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa hơn nữa, chúng ta hãy tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước nhằm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước năm 1962. Cần làm cho các ngành, các cấp, các cơ quan, cho toàn thể cán bộ và nhân dân nhận rõ rằng, những chỉ tiêu kế hoạch nhà nước năm 1962 mà Chính phủ trình Quốc hội thông qua trong kỳ họp này là những yêu cầu tối thiểu phải đạt được, mọi người phải cố gắng hoàn thành và hoàn thành vượt mức.

Đi đôi với phong trào thi đua yêu nước, nhằm nâng cao năng suất lao động, phát triển sản xuất, phải tiến hành một cuộc vận động "nâng cao tinh thần trách nhiệm, chống lãng phí, tham ô, quan liêu, để tăng cường quản lý kinh tế". Trên cơ sở giáo dục sâu sắc ý thức làm chủ và tinh thần trách nhiệm, tinh thần tự lực cánh sinh, giữ vững tác phong lao động cần cù, sinh hoạt giản dị, cần ra sức tích cực chống các hiện tượng tham ô lãng phí và tệ quan liêu trong cơ quan nhà nước và các đơn vị kinh tế quốc doanh, đồng thời đẩy mạnh tiết kiệm trong hợp tác xã và nhân dân, làm cho nền kinh tế quốc dân phát triển theo đúng phương châm "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc".

Thưa các đại biểu,

Ủy ban chúng tôi đã trình bày những ý kiến nhận xét và đề nghị của mình đối với bản báo cáo của Chính phủ và dự án kế hoạch nhà nước năm 1962 sau khi đã thẩm tra kỹ lưỡng. Chúng tôi đề nghị Quốc hội thông qua bản dự án kế hoạch nhà nước năm 1962, đồng thời chấp nhận những đề nghị nói trên của Uỷ ban chúng tôi và giao cho Chính phủ nghiên cứu thi hành trong quá trình thực hiện kế hoạch. Chúng tôi tin tưởng rằng, với phong trào thi đua đang đà phát triển, với lực lượng sáng tạo to lớn của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, nhân dân ta sẽ phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước 1962, giành những thắng lợi mới to lớn hơn nữa trong sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.