QUỐC HỘI VIỆT NAM NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI QUỐC HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

PGS, TS. Trần Ngọc Đường**

Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội,

  Phó Trưởng Ban Công tác lập pháp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

  1. Đặc trưng cơ bản về sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội

1.1 Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là sự lãnh đạo đối với cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân

Theo Hiến pháp, Quốc hội có vị trí đặc biệt quan trọng. Vị trí đặc biệt đó thể hiện sâu sắc hai tính chất sau đây:

- Một là, Quốc hội là cơ quan cao nhất của nhân dân. 

- Hai là, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.

Ở nước ta, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Như vậy, nhân dân là chủ thể mang quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, muốn sử dụng quyền lực Nhà nước của mình, nhân dân phải được tổ chức lại dưới hình thức Nhà nước. Quốc hội chính là cơ quan Nhà nước cao nhất, thông qua đó nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước của mình. Thông qua Quốc hội, ý chí của nhân dân trở thành ý chí của Nhà nước thể hiện bằng các đạo luật mang tính bắt buộc chung. Cũng thông qua Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, thành lập Chính phủ, bầu ra Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các cơ quan này tổ chức và hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ do Hiến pháp quy định, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Quốc hội giám sát toàn bộ mọi hoạt động của bộ máy Nhà nước.

Với vị trí đặc biệt nói trên của Quốc hội trong bộ máy Nhà nước ta, đòi hỏi phương thức lãnh đạo của Đảng phải phù hợp với vị trí đó, bảo đảm phát huy được vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, bảo đảm cho ý chí của Đảng và lòng dân do Quốc hội đại diện là thống nhất với nhau, Quốc hội mạnh và thực quyền chính là Đảng mạnh.

1.2 Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là sự lãnh đạo đối với một thể chế tạo lập nền tảng chính trị - pháp lý cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước và xã hội ta

Quốc hội nước ta ra đời và tồn tại trước hết là để tạo lập nền tảng chính trị - pháp lý cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước và xã hội. Nhờ vai trò này mà toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được xây dựng, củng cố và hoàn thiện dựa trên nền tảng chính trị - pháp lý vững chắc.

Hơn nửa thế kỷ qua với 11 khóa Quốc hội, ở nước ta đã có bốn bản Hiến pháp và nhiều đạo luật, pháp lệnh, trong đó có những bộ luật lớn như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, … làm nền tảng chính trị - pháp lý không những cho tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước mà còn là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và phát triển các quan hệ kinh tế hiện nay. Chỉ tính riêng Quốc hội các khóa trong thời kỳ đổi mới đã thông qua được 93 bộ luật và đạo luật và Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua 124 pháp lệnh.

Như vậy, thực tiễn chỉ ra rằng, muốn xây dựng và củng cố vững chắc nền tảng chính trị - pháp lý của đất nước không thể không ngừng chăm lo xây dựng và củng cố Quốc hội, phát huy vai trò của Quốc hội trong việc thực hiện các chức năng lập hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Để giữ vững vai trò đó, đòi hỏi không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Quốc hội phát huy được đầy đủ vai trò nói trên.

1.3 Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là sự lãnh đạo đối với một thể chế vừa là Nhà nước vừa là nhân dân

Khác với các cơ quan nhà nước khác, Quốc hội có hai tư cách: Quốc hội vừa có tư cách nhân dân vừa có tư cách nhà nước. Với tư cách là nhân dân, trong quá trình hoạt động của mình, Quốc hội luôn thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, nói tiếng nói của nhân dân trong mối quan hệ với các cơ quan Nhà nước khác. Đồng thời, thông qua Quốc hội, nhân dân lại có điều kiện tham gia trực tiếp một cách rộng rãi, có hiệu lực và có hiệu quả vào các hoạt động của Nhà nước.

Với tư cách là Nhà nước, Quốc hội chính là nhân dân được thống nhất lại dưới hình thức Nhà nước, được nhân dân ủy quyền thực hiện quyền lực Nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan Nhà nước khác và với chính mình. Vì thế, có thể nói, Quốc hội vừa là nơi thực hiện và thể hiện chế độ dân chủ đại diện (dân chủ thông qua ủy quyền) và vừa là nơi thể hiện và thực hiện dân chủ trực tiếp (thông qua Quốc hội, nhân dân thể hiện trực tiếp ý chí của mình). Sự kết hợp giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, một mặt được thể hiện và thực hiện thông qua hoạt động của người đại biểu nhân dân trong và ngoài kỳ họp, mặt khác còn thông qua tính tích cực của nhân dân trong việc tham gia các hoạt động của Quốc hội. Quốc hội cũng là nơi để nhân dân lao động “học” và “tập làm” dân chủ. Vì thế, xây dựng và phát huy vai trò của Quốc hội phải được coi là một quy luật phát triển của Nhà nước dân chủ. Đúng như V.I.Lênin đã nói, không thể quan niệm một nền dân chủ mà lại không có cơ quan đại diện[1].

Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng phải phù hợp với tính nhân dân và tính nhà nước kết tinh trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm cho hoạt động của Quốc hội thể hiện mạnh mẽ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vừa thể hiện ngày càng sâu sắc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân chính là nơi nhân dân thừa nhận và đánh giá sự lãnh đạo của Đảng.

1.4 Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là sự lãnh đạo đối với một tổ chức thể hiện sinh động hình ảnh “nhân dân thu nhỏ”[2] và hiện thân của sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân được thống nhất lại dưới hình thức Nhà nước

Sở dĩ Quốc hội kết tinh được những tinh hoa đó, bởi vì từ khi ra đời cho đến nay, Quốc hội được xây dựng, củng cố và phát triển dựa trên cơ sở xã hội rất rộng lớn, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp trong cộng đồng nhân dân và dân tộc Việt Nam.

Với quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và chế độ bầu cử tự do, tiến bộ, thành phần đại biểu được bầu vào Quốc hội qua các khóa ngày càng thể hiện chân thực hình ảnh “nhân dân thu nhỏ”. Ngoài đại biểu của các giai cấp công nhân và nông dân; nhiều nhân sĩ trí thức, nhiều nhà hoạt động tôn giáo, nhiều người thuộc tầng lớp trên đã được bầu vào Quốc hội. Điều đó nói lên Quốc hội nước ta không chỉ là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của riêng giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức mà còn là của cả cộng đồng nhân dân với các giai cấp tầng lớp khác nhau trong xã hội, thể hiện sâu sắc bản chất nhân dân của Nhà nước ta. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận định: “Đó là một truyền thống quý báu của Quốc hội ta, một ưu điểm cơ bản của chế độ ta”. Từ đó có thể khẳng định rằng, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh của nhân dân, không thể không đề cao và phát huy vai trò của Quốc hội. Ngược lại, coi thường và hạ thấp vị trí và vai trò của Quốc hội chính là xem thường và hạ thấp vai trò của nhân dân trong tổ chức và thực thi quyền lực Nhà nước, trong việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời làm cho bộ máy Nhà nước xa rời bản chất của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng sao cho phát huy và tăng cường tính nhân dân trong tổ chức cũng như hoạt động của Quốc hội. Để làm điều đó, trước hết cần đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trên các vấn đề liên quan đến bầu cử, ứng cử, vấn đề về nhân sự cấp cao trong bộ máy Nhà nước thuộc thẩm quyền của Quốc hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc chuyển Quốc hội từ hoạt động hình thức sang hoạt động thực quyền.

2. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội

2.1 Các quan điểm tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội

Quan điểm chung là Đảng phải tiếp tục đổi mới về nội dung và phương thức lãnh đạo, phải đi đầu trong đổi mới với những bước đi thích hợp, phù hợp với đặc điểm của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước.

- Đảng ta là Đảng cầm quyền, là Đảng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Vì vậy, khi đặt vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội phải được xem xét trong mối quan hệ Đảng không chỉ lãnh đạo Quốc hội mà lãnh đạo tất cả bộ máy Nhà nước và xã hội. Vì vậy, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng không thể tách rời với nội dung và phương thức lãnh đạo bộ máy Nhà nước và xã hội nói chung. Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của Quốc hội có những đặc trưng khác so với các cơ quan trong bộ máy Nhà nước nên nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội có những nét đặc thù riêng biệt. Không thể rập khuôn, máy móc sử dụng một phương thức lãnh đạo giống nhau cho các cơ quan Nhà nước khác nhau.

- Đảng lãnh đạo Quốc hội, do nhân dân bầu ra, các vị đại biểu Quốc hội đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân lao động cả nước. Vì thế, Đảng lãnh đạo vừa luôn luôn phải tôn trọng và phát huy vai trò của Quốc hội, không xem mình đứng trên Quốc hội, áp đặt nội dung lãnh đạo của mình, lại vừa phải là lực lượng tiên phong hướng dẫn, định hướng nội dung và phương thức hoạt động của Quốc hội. Phải chỉ rõ phạm vi và nội dung lãnh đạo, bao gồm những vấn đề gì và đến mức độ nào.

- Đảng lãnh đạo, chứ Đảng không chỉ đạo công việc cụ thể của Quốc hội. Đảng lãnh đạo nhưng phải thực sự tôn trọng Quốc hội với tư cách là cơ quan dân cử, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Phải thừa nhận về phương diện chính trị và pháp lý rằng, Quốc hội chính là cơ quan được nhân dân chính thức giao quyền lực Nhà nước và nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội.

- Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội phải bảo đảm cho nền tảng chính trị - pháp lý của quốc gia phát triển bền vững, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Quốc hội và nhân dân.

Bất cứ đảng cầm quyền nào cũng không muốn mất đi quyền lãnh đạo của mình hay rơi vào nguy cơ mất quyền lãnh đạo. Việc mất quyền lãnh đạo có thể xảy ra một khi chính trị không ổn định. Quốc hội là nền tảng chính trị - pháp lý cho một quốc gia. Nền tảng đó không vững chắc chính là nơi nảy sinh mất ổn định.

Vì thế, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội sao cho Quốc hội ngày càng thực hiện tốt các chức năng lập hiến, lập pháp; giám sát tối cao và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nhân dân phấn khởi, hăng say và an tâm lao động, đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh, ngày càng đoàn kết, gắn bó, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Quốc hội.

2.2 Tiếp tục đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội

Đảng lãnh đạo Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng là nguyên tắc hiến định, song nội dung lãnh đạo bao gồm những vấn đề gì và bằng phương thức nào luôn là vấn đề đặc biệt quan trọng mà Đảng phải tìm tòi sáng tạo và sử dụng hợp lý phù hợp với từng thời kỳ cách mạng. Việc xác định nội dung lãnh đạo bao gồm những gì và việc sử dụng những phương thức nào để đạt hiệu quả cao nhất luôn luôn là hai vấn đề liên quan mật thiết với nhau. Mỗi nội dung lãnh đạo cần phải được chuyển tải bằng những phương thức tương thích với nó. Về hoạt động lập pháp, sự lãnh đạo của Đảng bao gồm một số nội dung cơ bản sau:

a. Lãnh đạo, định hướng hoạt động lập hiến, lập pháp

Trước hết, cần phải khẳng định rằng, đường lối chính sách của Đảng thể hiện trong các nghị quyết, quyết định của Đảng là nguồn của pháp luật nước ta. Do đó, đường lối chính sách của Đảng là định hướng nội dung và là cơ sở chính trị của pháp luật. Pháp luật là sự thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành các quy tắc có tính bắt buộc chung.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đường lối không thể chế hoá thành pháp luật thì sự lãnh đạo không trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh có tính bắt buộc chung đối với xã hội. Như vậy, Đảng không thể lãnh đạo được đối với Nhà nước và xã hội. Điều đó cho thấy rằng, nếu chủ trương, đường lối của Đảng càng hoàn thiện, càng cụ thể, minh bạch, phù hợp với thực tiễn khách quan của đất nước thì việc thể chế hoá thành pháp luật là đúng đắn, càng có khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, do vậy, sự lãnh đạo của Đảng càng được tăng cường.

Trên cơ sở các nội dung thể hiện đường lối của Đảng trong từng thời kỳ, Quốc hội với chức năng lập hiến và lập pháp của mình thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật tương ứng.

Sự lãnh đạo mang tính định hướng của Đảng đối với hoạt động lập pháp trước hết là sự chỉ đạo trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình lập pháp. Cùng với điều đó, nghị quyết của Đảng cần định hướng một số nội dung thuộc về quan điểm như chính sách về đất đai, về kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp xây dựng nhà nước pháp quyền…

b. Lãnh đạo việc xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ cho công tác lập pháp

Đây là một nội dung lãnh đạo quan trọng để nâng cao chất lượng của hoạt động lập pháp. Hoạt động lập pháp do nhiều người, nhiều chủ thể khác nhau tham gia. Sản phẩm của nó là sự kết tinh trí tuệ của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân. Vì thế lãnh đạo công tác tổ chức và nhân sự là một nội dung quan trọng về sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội. Cần coi trọng nội dung lãnh đạo này để sớm hình thành tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, chuyên gia giỏi phục vụ hoạt động lập pháp đáp ứng đòi hỏi tăng nhanh về số lượng, cao về chất lượng các dự án luật và pháp lệnh phục vụ nhiệm vụ phát triển, hội nhập và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

c. Lãnh đạo việc ban hành các đạo luật và pháp lệnh cụ thể

Như phần đầu của mục này đã trình bày, Đảng thông qua các nghị quyết của mình để lãnh đạo, định hướng hoạt động lập pháp về nội dung và chương trình kế hoạch. Lãnh đạo bằng cách đó, mang tính chỉ đạo chung. Cùng với điều đó, Đảng còn lãnh đạo một cách cụ thể hơn bằng định hướng nội dung đối với từng đạo luật, pháp lệnh cụ thể.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với từng đạo luật, pháp lệnh cụ thể là cần thiết, tuy nhiên, để đẩy nhanh tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh đồng thời không sa vào công việc cụ thể của Nhà nước cũng cần phải đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng theo hướng đề cao trách nhiệm của Đảng đoàn Quốc hội và Ban cán sự Đảng Chính phủ, của cá nhân và cơ quan có thẩm quyền trong các giai đoạn của quy trình lập pháp.

d. Lãnh đạo Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước

Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành có nhiệm vụ và quyền hạn: quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, quyết định chính sách dân tộc, tôn giáo, quyết định tổ chức, nhân sự bộ máy Nhà nước…

Để các quyết định lãnh đạo của mình được thực hiện, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân thông qua việc ủy thác cho các Đại biểu Quốc hội cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng sao cho ý Đảng lòng dân thống nhất là một theo một quy trình dân chủ, cởi mở, minh bạch, không gò bó, áp đặt, lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau.

đ. Lãnh đạo Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước

Nội dung cơ bản của lãnh đạo Quốc hội thực hiện chức năng giám sát đó là lãnh đạo, chỉ đạo việc khắc phục những thiếu sót của quản lý nhà nước do giám sát phát hiện ra. Giám sát tối cao của Quốc hội chủ yếu tập trung giám sát ở tầng cao nhất của bộ máy nhà nước, nhất là giám sát Chính phủ. Vì thế, giám sát tối cao muốn nâng cao hiệu lực và hiệu quả, thì hậu quả pháp lý của nó phải là các nghị quyết trong đó xác định trách nhiệm của tổ chức và cá nhân là một nội dung quan trọng. Những cá nhân thuộc đối tượng giám sát tối cao của Quốc hội là những người nắm giữ những trọng trách cao nhất trong bộ máy nhà nước. Vì thế, sự lãnh đạo của Đảng trong việc xác định trách nhiệm cá nhân - hậu quả pháp lý của giám sát tối cao phải được xem là một nội dung quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã mở rộng thẩm quyền cho Quốc hội trong việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, thì sự lãnh đạo của Đảng cũng phải được mở rộng để Quốc hội có điều kiện thực hiện thẩm quyền này.

2.3 Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Quốc hội

Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là cách thức, quy trình, phương pháp mà Đảng sử dụng để lãnh đạo Quốc hội thực hiện những nội dung lãnh đạo của mình.

Các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng đã được Đảng tổng kết và được thực hiện trong thực tiễn. Đối với những phương thức lãnh đạo này cần tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng, phù hợp với đặc thù về tổ chức và hoạt động của Quốc hội.

- Về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết, các quyết định, chỉ thị, các nguyên tắc về các vấn đề hệ trọng của đất nước.

Cần tiếp tục nâng cao chất lượng của các nghị quyết, quyết định, chỉ thị của Đảng. Các nghị quyết hay quyết định càng đi sâu vào từng lĩnh vực của đời sống xã hội, càng ổn định lâu dài, càng rõ ràng, minh bạch thì Quốc hội càng chuyển tải đầy đủ, chính xác trong quá trình thể chế hoá Hiến pháp, luật và pháp lệnh.

- Về phương thức lãnh đạo, thông qua Đảng đoàn Quốc hội, các Đảng viên là Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Đại biểu Quốc hội.

Trong điều kiện đổi mới hiện nay, để ý Đảng và lòng dân là một, việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng của phương thức lãnh đạo này đòi hỏi các quyết định lãnh đạo của Đảng phải mềm dẻo, linh hoạt; tránh áp đặt cứng nhắc. Đặc biệt trong việc lãnh đạo về tổ chức nhân sự, Đảng phải cung cấp đầy đủ thông tin để Quốc hội quyết định một cách thực chất; tránh cung cấp thông tin một chiều, mang ý nghĩa chính trị chung chung và xem nhẹ các thông tin về kinh tế, xã hội. Đồng thời không ấn định một chiều chỉ đơn điệu một phương án, để từ đó thông qua Đảng đoàn Quốc hội thuyết phục đại biểu thông qua một phương án đó. Làm như thế sẽ dẫn Quốc hội đến hoạt động hình thức, thụ động, không thể hiện được đầy đủ ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

- Đảng lãnh đạo bằng phương thức kiểm tra, giám sát các hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội.

Đây cũng là phương thức lãnh đạo có tính truyền thống nhưng thực ra hiệu lực và hiệu quả còn hạn chế. Vì thế, cần xây dựng một cơ chế kiểm tra, giám sát một cách hữu hiệu. Cơ chế đó về phương diện Nhà nước, chưa có cơ quan tổ chức nào có thẩm quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Nên chăng, cần thành lập Toà án Hiến pháp để thông qua đó Đảng thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và tăng cường giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc các cấp.

Ngoài những phương thức lãnh đạo truyền thống nói trên cần tiếp tục tìm tòi các phương thức lãnh đạo khác phù hợp. Theo chúng tôi, có một số phương thức lãnh đạo mới sau đây:

- Phương thức lãnh đạo thông qua cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn theo quy định mới của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội. Đây là phương thức lãnh đạo mới cần được Trung ương và Bộ Chính trị sử dụng để góp phần nâng cao trách nhiệm và năng lực của những người được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Bằng phương thức này mà vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được nâng cao, nhân dân ngày càng tin tưởng vào các cơ quan nhà nước. Không nên quá thận trọng hoặc cường điệu việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với các bộ trưởng. Làm tốt phương thức lãnh đạo mới này chẳng những phát huy được vai trò của dân chủ đại diện mà còn là phương thức để Đảng xem xét đánh giá, sử dụng đảng viên của mình.

Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về công tác đối với Quốc hội cần được xem là các định hướng quan trọng nhất để Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo việc tổ chức thực hiện và tạo điều kiện để Quốc hội chủ động hơn nữa.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội chủ yếu thông qua nghị quyết, quyết định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị bằng các nội dung, định hướng với các căn cứ khoa học và thực tiễn xác thực, thật sự “tâm phục, khẩu phục” thì ý Đảng, lòng dân mới là một trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.

Bài học Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu chỉ ra rằng: “Đảng viên và quần chúng thờ ơ với Đảng, không sẵn sàng và kiên quyết đứng ra bảo vệ Đảng là do hậu quả của thái độ kiêu ngạo Cộng sản và không có tính thuyết phục của Đảng, coi thường ý kiến của quần chúng, việc lấy ý kiến mang tính hình thức và mị dân, đến lúc có tai biến người dân và Đảng viên thường quay lưng lại với Đảng”./.