VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 2 1994-1995


BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ VỀ MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LỚN TRONG CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
NĂM 1995 THEO NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI


(Do Phó Thủ tướng Phan Văn Khải trình bày
tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá IX, ngày 28-3-1995)

Trong báo cáo này, Chính phủ trình bày với Quốc hội một số nét tổng quát về tình hình kinh tế - xã hội năm 1994 qua số liệu tổng kết cả năm và những diễn biến trong mấy tháng đầu năm nay, nêu một số vấn đề lớn về kinh tế - xã hội và về công tác đối ngoại, phân tích và làm rõ thêm chủ trương, biện pháp nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1995. Nội dung trình bày nhằm bổ sung báo cáo của Chính phủ đã trình Quốc hội trong kỳ họp lần trước nên không đề cập toàn diện tình hình và nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Báo cáo này chủ yếu nêu nhận định và chủ trương, còn tình hình cùng với số liệu chi tiết và các biện pháp cụ thể được trình bày trong các báo cáo của Chính phủ về kế hoạch và về ngân sách đã gửi tới các đại biểu Quốc hội.

I- MỘT SỐ NÉT TỔNG QUÁT VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ -
XÃ HỘI QUA SỐ LIỆU TỔNG KẾT NĂM 1994 VÀ
DIỄN BIẾN TRONG MẤY THÁNG ĐẦU NĂM 1995

1. Tình hình năm 1994 qua số liệu tổng kết cả năm

Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp Quốc hội tháng 10 năm ngoái đã đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1994 dựa trên kết quả đạt được trong 9 tháng đầu năm và ước tính cả năm. Nay, số liệu tổng kết cả năm về một số chỉ tiêu chủ yếu so với số liệu ước tính nêu trong báo cáo tháng 10-1994 như sau:

Tốc độ tăng trưởng năm 1994 so với năm 1993: tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8,8% (báo cáo tháng 10-1994 ước tính tăng 8,5%), tổng sản lượng nông nghiệp tăng 4% (bằng số ước tính), tổng sản lượng công nghiệp tăng 13,5% (ước tính 13%). Sản lượng lương thực đạt 26 triệu tấn (ước tính 25,8 triệu tấn). Kim ngạch xuất khẩu bằng số ước tính (3,6 tỷ USD), kim ngạch nhập khẩu 5 tỷ USD (khi ước tính 4,5 tỷ USD chưa tính hết những thiết bị, vật tư nhập theo dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài).

Vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội năm 1994 có thể đạt khoảng 48.000 tỷ đồng (báo cáo tháng 10-1994 ước tính 43.000 tỷ đồng). Khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản đã thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước 8.833 tỷ đồng (ước tính 8.500 tỷ đồng). Về đầu tư trực tiếp của nước ngoài, báo cáo tháng 10-1994 mới có số liệu đến tháng 9, nay số liệu cả năm 1994 là: 362 dự án được cấp giấy phép; tổng số vốn đăng ký là 4.074 triệu USD (kể cả vốn của các dự án mới, vốn bổ sung của các dự án cũ và trừ vốn của các dự án bị rút giấy phép); vốn đầu tư đã thực hiện trong năm 1,5 tỷ USD.

Ngân sách nhà nước thu vượt dự toán 6,3% (báo cáo trình Quốc hội tháng 10-1994 ước vượt 10,8%), tổng số chi xấp xỉ số ước tính trước đây.

Chỉ số giá hàng hóa, dịch vụ trong báo cáo đã trình Quốc hội, tính đến tháng 9 năm 1994 so với cuối năm 1993 là 9,9%, dự toán cả năm hơn 10%, nay chỉ số thực tế cả năm là 14,4%.

Như vậy, số liệu cả năm chỉ chênh lệch ít so với số ước tính trong báo cáo tháng 10-1994, không làm thay đổi những nhận định đã trình Quốc hội. Điều đó cho thấy khả năng đánh giá và dự đoán tình hình có thể đáp ứng được yêu cầu tiến hành sớm kỳ họp Quốc hội vào đầu quý IV năm trước để bàn định nhiệm vụ năm sau.

2. Tình hình kinh tế - xã hội qua mấy tháng đầu năm

Sản xuất tiếp tục tăng khá so với cùng kỳ năm trước. Tiến độ gieo trồng lúa, ngô, rau đậu, cây công nghiệp ngắn ngày vụ Đông - Xuân nhanh hơn; nhìn chung cho đến nay, cây trồng sinh trưởng khá. Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch gần 30% trà lúa sớm, đạt năng suất cao hơn năm trước. Trong hai tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước, sản lượng công nghiệp tăng 13,8%, trong đó điện, than, thép cán, xi măng, giấy, vải tăng cao hơn nhịp độ chung; kim ngạch xuất khẩu tăng 44%; nhập khẩu tăng 10,6%.

Từ đầu năm đến 15-3-1995 đã cấp giấy phép cho 62 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 1.301 triệu USD; ước tính quý I, bao gồm cả vốn bổ sung vào các dự án cũ và loại trừ số vốn của các dự án bị rút giấy phép, thì có thể đạt khoảng 2 tỷ USD, xấp xỉ một nửa năm trước; vốn đầu tư được thực hiện trong quý I có thể đạt 420 triệu USD. Tuy nhiên, phần đầu tư trong nước bằng nguồn vốn ngân sách trong 2 tháng mới đạt 10% kế hoạch năm; kế hoạch cấp phát ngân sách đạt thấp, chưa đủ trang trải khối lượng đã thực hiện năm trước.

Thu ngân sách ước tính quý I tăng 36% so với cùng kỳ năm trước, nhưng hai tháng đầu mới đạt 9,6% kế hoạch năm, bằng 86,8% số chi trong hai tháng.

Chỉ số giá hàng hóa, dịch vụ tháng 1 tăng 3,8%, tháng 2 tăng 3,4%, ước tính tháng 3 tăng 0,2%, tính chung quý I tăng 7,5% so với cuối năm 1994; giá vàng và đôla Mỹ trong hai tháng tăng dưới 0,5%.

Dịp Tết năm nay, lường trước mức tăng mạnh nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội và nguồn hàng đáp ứng có khó khăn, Chính phủ đã áp dụng một số biện pháp tình thế như điều hòa lưu thông gạo, kể cả gạo ngon, ngăn chặn xuất lậu gạo, heo hơi, miễn thuế buôn chuyến và giải tỏa ách tắc trong việc đưa lương thực, thực phẩm vào các đô thị. Nhờ vậy, đã kiềm chế được nhịp độ tăng giá, hạ được giá lương thực, thực phẩm vào mấy ngày giáp Tết. Kết quả đó cùng với thành công trong việc thực hiện lệnh cấm đốt pháo nổ và bảo vệ trị an đã góp phần vào không khí yên tâm, phấn khởi trong những ngày vui Tết cổ truyền của dân tộc và mừng Đảng 65 tuổi. Việc tổ chức thực hiện với tình cảm sâu sắc Pháp lệnh tôn vinh Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đã bồi dưỡng ý thức “uống nước nhớ nguồn”, làm cho những ngày mừng xuân năm nay càng đậm đà tình nghĩa dân tộc.

Nhìn chung, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao và hoạt động của các ngành, các địa phương trong mấy tháng đầu năm đang tiếp tục đà tiến triển, song nổi lên mấy vấn đề đáng quan tâm:

- Thu ngân sách đạt thấp, ảnh hưởng đến việc bảo đảm nhu cầu chi để thực hiện nhiệm vụ năm 1995, nhất là chi đầu tư xây dựng cơ bản.

- Chỉ số giá tăng cao hơn cùng kỳ năm trước.

- Trật tự, an toàn xã hội diễn biến phức tạp; tham nhũng, buôn lậu vẫn tiếp diễn nghiêm trọng; số vụ phạm pháp tăng, trong đó có nhiều vụ trọng án; tai nạn giao thông xảy ra nhiều, riêng 2 tháng đầu năm gần 2.000 vụ, làm chết 741 người, bị thương hơn 2.000 người, gây nhiều thiệt hại về tài sản.

Nghị quyết về nhiệm vụ năm 1995 được Quốc hội thông qua từ kỳ họp tháng 10 năm 1994 tạo điều kiện về thời gian cho Chính phủ tiến hành sớm hơn mọi năm việc hoạch định chương trình công tác, giao chỉ tiêu kế hoạch và ngân sách, họp bàn với lãnh đạo các ngành, các địa phương. Việc triển khai thực hiện đang được xúc tiến tích cực trên tất cả các lĩnh vực hoạt động theo các chủ trương, biện pháp đã đề ra. Trong tình hình kinh tế - xã hội, nổi lên một số vấn đề có ý nghĩa then chốt, cần được phân tích sâu hơn và tập trung chỉ đạo để bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ và những chỉ tiêu chủ yếu của năm 1995 theo Nghị quyết của Quốc hội.

II- MẤY VẤN ĐỀ LỚN TRONG CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1995

1. Đầu tư phát triển là nhân tố quyết định trực tiếp nhịp độ tăng trưởng kinh tế, đáp ứng yêu cầu bức bách của thời kỳ phát triển mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khắc phục từng bước tình trạng tụt hậu về kinh tế.

Báo cáo của Chính phủ trình kỳ họp thứ 6 của Quốc hội đã đề ra các chủ trương, biện pháp huy động tổng lực đầu tư phát triển của toàn xã hội bằng cả nguồn vốn trong nước và thu hút từ bên ngoài, trên cơ sở thực hành tiết kiệm, trước hết là đối với chi tiêu của Nhà nước.

Chính phủ đã ban hành quy định mới về quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước, thành lập Tổng cục Đầu tư phát triển thuộc Bộ Tài chính để quản lý nguồn vốn này, tiếp tục tranh thủ nguồn tài trợ chính thức của các nước và các tổ chức quốc tế, đơn giản thủ tục và cải thiện thêm một bước môi trường đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Từ năm 1995, các doanh nghiệp nhà nước được giữ lại khấu hao cơ bản để sử dụng đúng mục đích vào tái đầu tư. Chủ trương thu tiền giao quyền sử dụng đất và bán nhà do Nhà nước quản lý cho những người đang thuê bắt đầu được thực hiện để tạo thêm nguồn vốn đầu tư, dành chủ yếu cho các địa phương.

Các hình thức trái phiếu, cổ phiếu được mở rộng từng bước, bao gồm cả việc bán trái phiếu ra nước ngoài; chủ trương cổ phần hóa được xúc tiến dựa trên kinh nghiệm thành công của mấy doanh nghiệp nhà nước làm thí điểm, đi đôi với khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp mới, kể cả doanh nghiệp nhà nước, theo hình thức công ty cổ phần. Những biện pháp đó tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển thị trường vốn trung, dài hạn. Ủy ban chứng khoán quốc gia đang được xúc tiến thành lập để xây dựng luật lệ và chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự ra đời của thị trường chứng khoán.

Việc xây dựng và xét duyệt quy hoạch các địa bàn trọng điểm, các thành phố, thị xã, các khu chế xuất và khu công nghiệp được xúc tiến khẩn trương để định hướng và tạo thuận lợi cho đầu tư phát triển. Ngân sách năm nay dành cho chi phí về thiết kế, quy hoạch gấp đôi năm ngoái.

Trong việc đáp ứng yêu cầu đầu tư phát triển để thực hiện nhiệm vụ năm 1995, khó khăn gay gắt nhất là thiếu vốn. Hướng giải quyết đối với các nguồn tạo vốn và thu hút vốn như sau:

a) Vốn đầu tư của Nhà nước thông qua ngân sách và tín dụng đầu tư chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm nay, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách tăng hơn năm ngoái 30%; kế hoạch tín dụng đầu tư của Nhà nước dựa trên nguồn vốn đã xác định được, gấp hơn 3 lần năm 1994, nhưng mới đáp ứng khoảng một nửa nhu cầu đã đăng ký của các Bộ và địa phương. Cả hai hình thức đầu tư của Nhà nước đều tập trung chủ yếu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội theo các mục tiêu đã trình Quốc hội trong kỳ họp trước. Một số công trình có khả năng thu hồi vốn không được giải quyết đủ nhu cầu đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước mà phải tự huy động thêm trong ngành và tìm nguồn vay khác.

Vấn đề nổi lên hiện nay là thu ngân sách đầu năm đạt thấp, không có dự trữ gối đầu để trang trải 1.360 tỷ đồng khối lượng xây dựng cơ bản đã hoàn thành năm 1994 chưa được ngân sách thanh toán và để bảo đảm cấp phát đúng tiến độ cho các công trình xây dựng theo kế hoạch năm 1995. Chính phủ đã quyết định biện pháp cụ thể trang trải cho các công trình hoàn thành xây dựng năm 1994, đẩy mạnh thu ngân sách và tìm thêm nguồn vốn cho các công trình tiếp tục xây dựng trong năm 1995. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính soát xét lại các công trình mới khởi công năm nay để định tiến độ thực hiện phù hợp với khả năng giải quyết vốn. Trong trường hợp không bảo đảm đủ vốn theo kế hoạch, phải tập trung ưu tiên cho các công trình trọng điểm về điện, giao thông, thủy lợi, xi măng, thép. Bằng giải pháp đó, năm 1994 tuy thiếu vốn nhưng những công trình trọng điểm vẫn bảo đảm được tiến độ đề ra.

Từ nhiều năm nay, việc cấp phát vốn đầu tư của ngân sách thường không đủ và không kịp thời cho các công trình theo kế hoạch đã phân bổ. Kế hoạch đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách thường chịu sức ép rất lớn về nhu cầu của các ngành, các địa phương, trong đó có những công trình đã khởi công từ trước, cần có vốn làm tiếp. Trước áp lực đó, việc bố trí kế hoạch thiếu vững chắc, không sát với khả năng thực hiện về nguồn vốn. Tình trạng này kéo dài gây lãng phí và khó khăn cho các công trình và làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. Biện pháp khắc phục trước tiên là kế hoạch đầu tư phải kiên quyết bố trí đúng khả năng thực tế, có vốn dự phòng, bảo đảm chắc chắn việc thanh toán kịp thời khối lượng hoàn thành của các công trình đã được duyệt trong kế hoạch. Sự đồng tình, thông suốt của các ngành, các địa phương và sự ủng hộ của Quốc hội sẽ hỗ trợ tích cực cho Chính phủ thực hiện chủ trương này.

Trong nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, có phần tài trợ chính thức cho phát triển (ODA) của bên ngoài. Qua hai kỳ hội nghị các nhà tài trợ họp cuối năm 1993 và 1994 tại Pari, các Chính phủ và các tổ chức quốc tế cam kết dành cho Việt Nam mức tài trợ đáng kể. Năm 1994, nguồn vốn này đưa vào sử dụng chỉ đạt 60% dự kiến đầu năm, trong đó, nguồn quan trọng nhất là các dự án vay nợ chỉ đạt 22%.

Qua năm đầu tiên thực hiện các dự án tài trợ, chúng ta đã rút được kinh nghiệm bước đầu về điều kiện, phương thức và quy trình sử dụng nguồn vốn này. Cần gấp rút xây dựng chương trình và mở các lớp tập huấn cho cán bộ lãnh đạo và cán bộ nghiệp vụ về xây dựng, thẩm tra và thực hiện các dự án ODA. Việc giải phóng mặt bằng là một khâu quan trọng và phức tạp, cần phải rút kinh nghiệm để bổ sung chính sách cụ thể, phân định rõ trách nhiệm giữa chủ dự án và chính quyền địa phương, áp dụng quy chế tiến hành công khai, ngăn chặn tình trạng không công bằng và hà lạm tiền đền bù. Kinh nghiệm cũng cho thấy việc nước ngoài thực hiện cam kết tài trợ phải trải qua nhiều vòng đàm phán mà ta cần chủ động thúc đẩy, không bị động ngồi chờ. Đối với vốn vay ODA bằng ngoại tệ mạnh, phải tính đến lãi suất thực tế khi ngoại tệ đó lên giá.

Năm 1995, kế hoạch sử dụng vốn ODA cho đầu tư phát triển gấp hai lần năm trước, song còn có khả năng tăng thêm nếu làm tốt các khâu trong quy trình sử dụng nguồn vốn này, đặc biệt là việc chuẩn bị dự án. Điều này còn tạo cơ sở cho việc thu hút vốn các năm sau.

b) Đầu tư của doanh nghiệp và nhân dân bằng nguồn vốn tự khai thác chiếm khoảng 1/3 tổng đầu tư toàn xã hội. Phải hết sức coi trọng nguồn đầu tư này vì nó còn nhiều tiềm năng và có tỷ suất sinh lời cao nhất. Có hai vấn đề lớn phải giải quyết:

Một là, tạo thị trường vốn thuận lợi cho mọi nỗ lực đầu tư phát triển. Chính phủ đang chỉ đạo việc mở rộng các hình thức trái phiếu (kể cả trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh), cổ phiếu và huy động tiền gửi trung, dài hạn, giảm chi phí ngân hàng và xét miễn thuế doanh thu đối với các ngân hàng thương mại để hạ lãi suất cho vay. Nguồn ngoại tệ thu được qua chuyển đổi sẽ tăng nhanh do thu hút vốn bên ngoài và kiều hối, cần được sử dụng ưu tiên, với chính sách ưu đãi vào việc đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp cần nhập thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất, đi đôi với biện pháp bảo đảm tiền vay được sử dụng đúng mục đích.

Hai là, tăng cường hướng dẫn, hỗ trợ đầu tư phát triển đúng hướng, đặc biệt là đầu tư vào sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu.

Trên cơ sở các quy hoạch đô thị, quy hoạch công nghiệp đã được xây dựng, xét duyệt bước đầu và nghị định cụ thể hóa Luật khuyến khích đầu tư trong nước, cần tổ chức và giao trách nhiệm rõ ràng cho các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng hướng dẫn, tư vấn đầu tư cho các nhà kinh doanh trong nước cũng như đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp đang phản ánh những khó khăn nảy sinh khi thực hiện Nghị định số 18/CP của Chính phủ ban hành tháng 2 năm 1995 quy định chi tiết việc thi hành Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất. Chính phủ đã báo cáo để Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét vấn đề này.

Mặt khác, cần bổ sung chính sách và biện pháp, xóa bỏ sự phân biệt đối xử theo cách nhìn cũ, tạo ra tâm lý xã hội yên tâm, tin tưởng vào tính nhất quán của chính sách kinh tế nhiều thành phần, trọng thị các nhà đầu tư vào sản xuất, kinh doanh lâu dài, làm giàu theo pháp luật, khắc phục tâm trạng nghi ngại và cách làm giàu “chụp giật, ăn xổi ở thì”.

c) Đầu tư trực tiếp của nước ngoài đang tăng nhanh cả về số vốn đăng ký với nhiều dự án lớn và về khối lượng vốn đầu tư thực hiện, chiếm 1/3 khối lượng đầu tư của toàn xã hội. Năm nay, dự tính khối lượng thực hiện tăng 20%, với nhiều công trình được đưa vào sử dụng, tăng thêm năng lực sản xuất một số sản phẩm quan trọng như dầu thô, khí đồng hành, thép và sản phẩm thép, xi măng, bóng đèn hình, hàng may mặc, da giày, v.v. và có thêm một số khách sạn tiêu chuẩn cao; kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên 500 triệu USD. Vấn đề lớn đặt ra là đi đôi với việc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, phải tổ chức và phân công hợp lý công tác quản lý nhà nước đối với việc thực hiện các dự án đã được cấp phép và các cơ sở đã đi vào hoạt động, vừa bảo đảm chấp hành đúng pháp luật Việt Nam, vừa chú trọng hiệu quả và lợi ích trong việc chuyển giao công nghệ, sử dụng và đào tạo nhân lực, thâm nhập thị trường bên ngoài và phân phối lợi nhuận.

2. Cân đối thu, chi ngân sách

Trong việc thực hiện nhiệm vụ năm 1995, đây là vấn đề căng thẳng nhất đối với sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và cơ quan chính quyền các cấp.

Theo Nghị quyết kỳ họp thứ 6 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành quyết định về các chủ trương, biện pháp thu, chi và điều tiết ngân sách nhà nước năm 1995. Khâu quyết định trước mắt là tăng thu theo đúng pháp luật hiện hành. Trước tình hình thu ngân sách đạt rất thấp trong mấy tháng đầu năm, Thủ tướng đã chỉ đạo các Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực tiếp làm việc với các doanh nghiệp có nguồn thu lớn để tháo gỡ những vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh, xác định mức phấn đấu nâng cao hiệu quả, tăng nguồn thu cho ngân sách. Các ngành và các địa phương phải kiên quyết thực hiện các biện pháp chống thất thu, chống trốn, lậu thuế cả trong các doanh nghiệp nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh, như đã trình bày trong báo cáo bổ sung về ngân sách.

Những chủ trương và biện pháp tiết kiệm chi đã được Quốc hội và Chính phủ đề ra cần được đôn đốc và kiểm tra ráo riết việc thực hiện. Việc chống lãng phí của công phải có những biện pháp rất cụ thể và kiểm tra chặt chẽ, trước hết nhằm vào những trường hợp đang trở thành lệ, như: dùng tiền của công để biếu xén, tặng quà trong dịp Tết, ngày lễ, kỷ niệm ngày thành lập tổ chức một cách hình thức, tốn kém…, chi tiêu hội nghị, hội thảo vượt ngoài chế độ. Bộ Tài chính phải bổ sung quy định chặt chẽ về chế độ chi tiêu và tăng cường kiểm tra việc sử dụng ngân sách, không chấp nhận thanh toán những trường hợp chi sai chế độ. Cơ quan Kiểm toán Nhà nước phải triển khai hoạt động, tích cực góp phần tăng cường kỷ luật thực hiện chế độ tài chính công.

Một ngân sách lành mạnh khi lập dự toán phải lượng thu mà chi, khi thực hiện thì chỉ chi trong số thu được, không ỷ lại vào việc vay dân và vay nước ngoài, vì không dễ vay và vay rồi phải trả cả gốc lẫn lãi. Do cân đối ngân sách năm nay rất khó khăn, việc giải quyết những khoản chi mới hoặc chi đột xuất phải phù hợp với mức thu. Chính phủ sẽ không giải quyết những đề nghị chi bổ sung ngoài kế hoạch. Ngân sách Trung ương cũng như ngân sách các địa phương không đạt được kế hoạch thu phải cắt giảm chi tương ứng. Hàng quý, Bộ Tài chính và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước phải soát xét cân đối ngân sách, đề ra kế hoạch chủ động cắt giảm chi cụ thể đối với những nơi thu không đạt kế hoạch. Năm nay, cần cố gắng bổ sung quỹ dự phòng để có nguồn tài chính gối đầu, bảo đảm cho việc triển khai thực hiện kế hoạch ngay từ những tháng đầu năm sau. Chính phủ đề nghị số thu vượt kế hoạch đã giao cho các ngành và các địa phương sẽ dành phần thỏa đáng khuyến khích nơi vượt thu, và quy định một tỷ lệ trích cho quỹ dự phòng.

Nhìn xa hơn, phải xúc tiến việc cải cách chính sách thuế, bộ phận quan trọng hàng đầu trong chính sách tài chính quốc gia. Chính sách thuế càng rườm rà, nhiều thuế suất, thuế chồng lên thuế, mức thuế không hợp lý, không ổn định thì càng khó thu, không nuôi dưỡng, mở rộng được nguồn thu, còn tạo kẽ hở cho hành vi trốn lậu thuế và tham nhũng. Năm nay, sẽ ban hành chế độ kế toán mới, đáp ứng yêu cầu kiểm toán và thanh tra tài chính, tạo cơ sở cho việc đổi mới phương thức thu thuế. Đó là những việc lớn và phức tạp; Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo cải cách thuế để xây dựng đề án và dự luật trình Quốc hội.

3. Xuất, nhập khẩu

Năm 1994, xuất khẩu đạt mức kế hoạch 3,6 tỷ USD như dự kiến đã trình Quốc hội trong kỳ họp trước. Hai tháng đầu năm nay, xuất khẩu tăng 44% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dầu thô tăng 17%, than đá tăng 50%, gạo tăng 20%, cao su tăng 34,5%, hạt điều gấp gần 2,5 lần, thủy sản tăng 27%, hàng may mặc gấp hơn 3 lần.

Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 1994 là 5 tỷ USD, cao hơn mức dự kiến đã trình Quốc hội, trong đó có 738 triệu là thiết bị, vật tư thuộc dự án đầu tư nước ngoài. Cơ cấu nhập khẩu gồm 87,5% là thiết bị, vật tư cho sản xuất (kể cả nguyên liệu để sản xuất hàng tiêu dùng), 12,5% là hàng tiêu dùng trực tiếp. Tuy kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng không tăng hơn năm trước và chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong nhập khẩu chính ngạch, nhưng việc nhập lậu, chủ yếu là hàng tiêu dùng vẫn chưa ngăn chặn được, vừa gây thiệt hại cho sản xuất trong nước, vừa tạo ra thói quen tiêu dùng không phù hợp với hoàn cảnh đất nước còn nghèo. Đi vào công nghiệp hóa, phải đề cao ý thức và ráo riết thực hành tiết kiệm tiêu dùng, tiết kiệm ngoại tệ để xây dựng cơ sở vật chất và phát triển sản xuất.

Năm nay, Chính phủ đã quyết định sớm chủ trương và biện pháp điều hành xuất, nhập khẩu và quy định hạn ngạch đối với một số mặt hàng. Việc phân bổ hạn ngạch được cải tiến, tập trung một mức nhất định cho một số đơn vị đầu mối đối với từng mặt hàng, đồng thời, chuẩn bị điều kiện cho việc áp dụng cơ chế đấu thầu. Về thủ tục, việc cấp giấy phép xuất khẩu theo chuyến được bãi bỏ, song còn phải tiếp tục cải tiến thủ tục hải quan. Việc theo dõi, điều hành xuất, nhập khẩu để cân đối chung hàng - tiền và cân đối cung - cầu một số mặt hàng quan trọng cần phải sát sao, chặt chẽ hơn để tránh những cơn sốt trên thị trường do thiếu hoặc thừa hàng. Phải kiên quyết ngăn chặn buôn lậu, trước hết là đối với các tổ chức và doanh nghiệp nhà nước trực tiếp làm hoặc tiếp tay cho con buôn. Năm vừa qua, khi hai vùng vựa lúa bị thiên tai, mất mùa, Chính phủ đã có lệnh tạm dừng xuất gạo chính ngạch, cấm xuất theo đường tiểu ngạch, nhưng một số doanh nghiệp vẫn hám lợi, bất chấp lợi ích quốc gia tìm mọi cách xuất khẩu lậu qua biên giới. Từ nay, những trường hợp cố tình làm trái lệnh của Chính phủ phải bị xử lý nghiêm. Các vụ buôn lậu đã phát hiện phải bị tịch thu hàng hóa và truy cứu trách nhiệm hành chính hoặc hình sự.

Cán cân ngoại thương năm 1994 nhập siêu lớn, tới 1,4 tỷ USD, song nhìn vào cơ cấu thì hơn một nửa là thiết bị, vật tư nhập bằng vốn đầu tư của nước ngoài. Tính chung cán cân thanh toán quốc tế, bao gồm cả vốn đầu tư của nước ngoài đưa vào, chênh lệch thu chi về du lịch, dịch vụ, kiều hối, vay và trả nợ…, thì chúng ta bù đắp được nhập siêu và tăng thêm một ít dự trữ ngoại tệ.

Năm nay, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và nguồn ngoại tệ đưa vào nước ta sẽ tăng hơn; kim ngạch nhập khẩu có khả năng vượt con số 5,5 tỷ USD đã trình Quốc hội. Trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa, khó tránh khỏi nhập siêu, song điều quan trọng là cơ cấu nhập khẩu phải phục vụ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu và mức nhập siêu có nguồn trang trải lành mạnh. Vì vậy, việc theo dõi, chỉ đạo chặt chẽ cơ cấu nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế là một yêu cầu quan trọng đối với sự điều hành của Chính phủ.

Một vấn đề lớn tác động trực tiếp tới xuất, nhập khẩu là tỷ giá hối đoái, chủ yếu là giữa đồng Việt Nam với đôla Mỹ. Từ năm 1992 đến nay, tỷ giá tăng chậm hơn tốc độ lạm phát trong nước, trong khi đồng đôla Mỹ giảm sức mua ở mức thấp, nên trong thực tế, đồng Việt Nam tăng giá so với đôla Mỹ. Điều đó không lợi cho việc khuyến khích xuất khẩu, tiết chế nhập khẩu. Chúng ta đã áp dụng cơ chế tỷ giá hình thành theo quan hệ cung - cầu ngoại tệ. Vừa qua, số cung ngoại tệ từ nhiều nguồn tăng nhanh và trong những năm tới sẽ tiếp tục tăng. Chính phủ đã chỉ đạo ngân hàng mua ngoại tệ để hạn chế sự tăng giá của đồng Việt Nam so với đôla Mỹ, nhích dần tỷ giá nhưng không gây biến động đột ngột có hại cho việc kiềm chế lạm phát; đồng thời mở rộng việc tìm kiếm thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu. Việc xử lý tỷ giá hối đoái phải gắn với chính sách, biện pháp quay vòng có hiệu quả ngoại tệ mua vào ngân hàng, tăng dự trữ ngoại tệ, thu hẹp việc dùng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán, tín dụng trên đất Việt Nam, tăng tính chuyển đổi của đồng Việt Nam và phải theo dõi sát biến động và tỷ giá ngoại tệ trên thị trường quốc tế. Chính phủ nhận thức đây là vấn đề rất nhạy cảm, lại càng phức tạp khi khả năng kiểm soát lạm phát chưa vững chắc; do đó, cách xử lý phải thận trọng, đi từng bước.

4. Kiểm soát lạm phát

Năm 1993, chỉ số hàng hóa và dịch vụ tăng 5,2%. Báo cáo của Thủ tướng Chính phủ trong kỳ họp thứ 4 của Quốc hội (tháng 12 năm 1993) đánh giá việc đẩy lùi lạm phát là một thành tích quan trọng, song vẫn nhận định: “Mối đe dọa tái lạm phát không thể xem thường”. Nhận định đó xuất phát từ tình trạng ngân sách còn bội chi lớn, công tác quản lý tài chính - tiền tệ còn những mặt yếu kém và việc kiềm chế chỉ số giá năm 1993 chứa đựng những yếu tố không bình thường, nổi lên là cánh kéo giá cả bất lợi cho nông dân. Năm 1994, chỉ số giá tăng 14,4%, không kìm giữ được ở mức một con số theo Nghị quyết của Quốc hội. Báo cáo bổ sung về kế hoạch đã phân tích toàn diện nguyên nhân làm tăng lạm phát và biện pháp khắc phục. Ở đây, xin trình bày rõ thêm một số vấn đề, chủ yếu là về chỉ đạo, điều hành.

a) Trong chỉ số giá năm 1994, đáng chú ý là giá lương thực, thực phẩm tăng 23,6%, riêng lương thực tăng 39%, trong khi hàng công nghiệp chỉ tăng 5,9%; qua hai tháng đầu năm nay, giá lương thực, thực phẩm tiếp tục tăng 12,4%, hàng công nghiệp tăng 3%. Nếu so với năm 1990 thì đến nay, chỉ số giá hàng nông sản mới ngang với chỉ số giá hàng công nghiệp. Mặc dù vậy, việc để xảy ra cơn sốt giá lương thực ở các vùng phía Bắc (từ khu 4 cũ đến đồng bằng và trung du, miền núi Bắc bộ, giá gạo năm 1994 tăng từ 47,5% đến 67,2%) trong khi cân đối lương thực trong cả nước còn dư cho xuất khẩu, là một khuyết điểm đáng lẽ có thể tránh được. Chính phủ thường xuyên quan tâm đến dự trữ quốc gia, song tổ chức này không có mạng lưới bán lẻ; các công ty lương thực Nhà nước chỉ chú ý kinh doanh gạo xuất khẩu, coi nhẹ, thậm chí bỏ trống thị trường trong nước. Nhà nước có lực lượng, nhưng không tác động kịp thời vào thị trường cả khi giá gạo lên cũng như khi giá gạo xuống quá thấp. Trước mắt, để kiềm chế việc tăng giá gạo ở miền Bắc và ngăn chặn sự giảm giá lương thực quá mức ở phía Nam, Chính phủ đã quyết định mua gạo ở đồng bằng sông Cửu Long để bổ sung dự trữ quốc gia, và đưa 15 vạn tấn gạo ra Bắc kịp đáp ứng nhu cầu những tháng giáp hạt; gấp rút tổ chức lại với sự phân công, phối hợp giữa dự trữ quốc gia với dự trữ lưu thông và mạng lưới bán lẻ của các tông ty nhà nước kinh doanh lương thực ở các tỉnh, thành phố, để bảo đảm kịp thời việc điều hòa cung cầu lương thực, tính đến đặc điểm tiêu dùng gạo ở các vùng; đồng thời, tiếp tục miễn thuế buôn chuyến đối với lương thực, thực phẩm đưa vào các đô thị, bảo đảm lưu thông thông suốt nhằm ngăn chặn đột biến giá cả trên thị trường.

Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu cây trồng ở nông thôn, diễn ra tình trạng đất nông nghiệp bị giảm mỗi năm hàng vạn hécta. Để bảo đảm an toàn lương thực trong mọi tình huống, Chính phủ đã quyết định ngừng việc cho phép chuyển ruộng lúa thành đất sử dụng vào mục đích khác; trường hợp đặc biệt cần giải quyết thì phải trình Thủ tướng quyết định.

b) Việc tăng tiền lương theo quyết định của Quốc hội là một chủ trương đúng không thể trì hoãn lâu hơn. Tuy Chính phủ đã dãn tiến độ thực hiện trong hai năm, nhưng phần lớn tiền lương mới bao gồm cả tiền truy lĩnh được chi trả vào thời gian trước và sau Tết năm 1994; tiền lương cộng với tiền thưởng cuối năm dồn vào thời điểm có nhu cầu chi lớn đã tăng thêm sức ép mạnh đối với giá cả hai tháng đầu năm. Bài học kinh nghiệm này cần được lưu ý cho việc giải quyết tiền lương những lần sau.

Mức lạm phát năm 1994 tăng thêm khó khăn cho những người có thu nhập cố định, đặc biệt là những người lương thấp. Có ý kiến đề nghị bù lại cho người ăn lương tương ứng với chỉ số giá. Đó là một yêu cầu chính đáng, nhưng nếu giải quyết vào lúc ngân sách đang bội chi lớn và không thể cắt giảm các nhu cầu khác, thì có nguy cơ tái lạm phát ở mức cao hơn. Chúng ta sẽ lại vướng vào vòng xoáy đã từng diễn ra trước đây: tăng lương kéo theo tăng giá, làm mất ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế đầu tư phát triển và giải quyết việc làm, rút cuộc đời sống người ăn lương càng thêm khó khăn. Chính phủ đề nghị Quốc hội giữ nguyên quyết định mà Chính phủ đã trình tháng 10 năm 1994 là chưa tăng lương và điều chỉnh hệ số tiền lương, chỉ bổ sung chính sách đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, giáo viên sư phạm (thực hiện trước ở miền núi và vùng có nhiều khó khăn), quy định cụ thể chính sách giải quyết tiền lương đối với công nhân, viên chức ở các doanh nghiệp nhà nước theo hiệu quả kinh doanh và năng suất lao động.

Bằng những nỗ lực đẩy mạnh nhịp độ tăng trưởng và hiệu quả của nền kinh tế, tăng nguồn thu ngân sách, chấn chỉnh tổ chức và biên chế bộ máy theo chương trình cải cách hành chính, chúng ta sẽ tạo điều kiện vững chắc cho việc thực hiện tiếp cải cách tiền lương, nâng mức lương khởi điểm và mở rộng hệ số tiền lương.

c) Việc quản lý, điều hành tài chính - tiền tệ là nhân tố thường xuyên và quan trọng hàng đầu để kiểm soát lạm phát ở tầm vĩ mô.

Về tài chính, khâu trọng tâm là điều hành ngân sách nhà nước không vượt mức bội chi đã được Quốc hội cho phép, phấn đấu giảm dần mức bội chi trong những năm sau. Năm 1994, lúc nguồn thu quá khó khăn, đã buộc phải cho phép ngân sách tạm vay ngân hàng để đáp ứng những nhu cầu chi bức bách, nhưng việc hoàn trả đã không thực hiện được trong năm như dự định, dẫn tới hệ quả tương tự như phát hành tiền để chi ngân sách. Thực tế cho thấy, việc sử dụng biện pháp này thiếu chặt chẽ sẽ trở thành một nhân tố gây lạm phát, cần phải tránh.

Ngân hàng Nhà nước phải tiếp tục đổi mới mạnh hơn cơ chế quản lý lưu thông tiền tệ, quản lý ngoại hối, kiểm soát chặt chẽ lạm phát. Chấm dứt việc cấp tín dụng cho ngân hàng thương mại không có thanh khoản đối ứng; kế hoạch mua ngoại tệ phải đi liền với kế hoạch sử dụng ngoại tệ, dành ưu tiên cho việc nhập khẩu thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất và chú ý bảo đảm cân đối tiền - hàng. Ngân hàng Nhà nước cùng với Ủy ban Kế hoạch và Bộ Thương mại phải có quy chế định kỳ phối hợp phân tích, dự báo cân đối tiền - hàng, đề ra biện pháp chủ động khắc phục tình trạng hàng hóa, dịch vụ chưa đáp ứng đủ mức tăng nhu cầu có khả năng thanh toán của toàn xã hội. Mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt; bảo đảm chi trả nhanh chóng, thuận tiện, an toàn; quy định chặt chẽ phương thức thanh toán đối với các cơ quan và doanh nghiệp, giảm nhanh tỷ trọng tiền mặt trong khối lượng tiền tệ lưu thông.

d) Chính phủ nhận thức rõ việc kiềm chế lạm phát ở mức một con số theo Nghị quyết của Quốc hội là một yếu tố quan trọng hàng đầu để ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư phát triển sản xuất và cải thiện đời sống. Chương trình năm 1995 của Chính phủ hết sức coi trọng việc tăng cường và cải tiến sự chỉ đạo, điều hành bằng các biện pháp nêu trên để thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kiềm chế lạm phát.

Tuy nhiên, có những biện pháp chưa thể đưa lại kết quả trong một thời gian ngắn. Mặt khác, mức lạm phát còn chịu tác động của một số nhân tố mà khả năng kiểm soát và ngăn ngừa của chúng ta chỉ có giới hạn:

Một là, kinh tế thế giới đang đi vào thời kỳ phục hồi với nhịp độ tăng trưởng khá hơn; do đó nhu cầu về thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu tăng lên dẫn tới chiều hướng tăng giá; nhu cầu về vốn cũng lớn hơn làm cho lãi suất tín dụng trên thị trường quốc tế nhích dần lên. Tình hình đó tác động đến mặt bằng giá của nước ta trên hai mặt: giá vật tư nhập khẩu tăng, trong đó có những mặt hàng quan trọng tăng giá rất cao như phân urê từ 120 USD/tấn hồi đầu năm 1994, nay vọt lên 270 USD, bông xơ từ 1.300 USD/tấn nhẩy lên 1.900 USD,v.v.. Chi phí đầu vào cao hơn sẽ làm tăng giá sản phẩm. Mặt khác, một số mặt hàng xuất khẩu quan trọng của ta được giá cao hơn (gạo, cà phê, hạt điều, v.v.) cũng gây biến động cho mặt bằng giá trong nước. Những sự cố trên thị trường tiền tệ thế giới như các vụ vỡ nợ lớn, sự tăng giá đột ngột một số ngoại tệ mạnh cũng có ảnh hưởng nhất định đến tài chính, tiền tệ nước ta.

Hai là, đất nước chuyển vào thời kỳ mới của sự phát triển thì khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản bằng cả nguồn vốn trong và ngoài nước phải tăng nhanh. Một phần quan trọng (trên dưới một nửa) vốn của các công trình dành cho chi trả công, đền bù giải phóng mặt bằng, mua vật liệu trong nước. Phần chi đó làm tăng nhu cầu có khả năng thanh toán trong khi các công trình phải sau một thời gian xây dựng xong, mới tạo ra sản phẩm và dịch vụ cho nền kinh tế. Sự mất cân đối càng gay gắt khi cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế không hợp lý, xây dựng dở dang nhiều, tỷ lệ huy động thấp. Ngoài ra, còn một khối lượng ngoại tệ không nhỏ của người Việt định cư ở nước ngoài gửi về cho nhân thân và khách du lịch quốc tế đưa vào trong nước tiêu dùng cũng chuyển thành sức mua bằng tiền Việt Nam. Tổng cầu với cơ cấu đa dạng hơn trước tăng vượt tổng cung, tạo ra áp lực đẩy giá cả lên. Yêu cầu và thực trạng của nền kinh tế cũng không cho phép giải quyết theo cách giảm bớt đầu tư phát triển hoặc hạn chế nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư. Chính phủ thấy rõ tính chất gay gắt trong quan hệ tiền - hàng, tích cực thực hiện các chủ trương, biện pháp khắc phục tình trạng mất cân đối, song điều kiện và khả năng của ta chưa cho phép giải quyết một cách chủ động và chắc chắn.

Vì những lẽ đó, trong khi tích cực thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát theo Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ thấy cần báo cáo rõ tình hình và khả năng thực tế để tránh bị động, bất ngờ trong chỉ đạo, điều hành. Thực tế cho thấy đối với nước ta, mức lạm phát năm 1994, tuy có một số tác động tiêu cực, nhưng nói chung không gây biến động lớn trên thị trường và tâm lý xã hội, không làm nản chí các nhà đầu tư.

5. Cải cách hành chính

Vấn đề cải cách hành chính đã được Chính phủ đề ra từ năm 1994, mở đầu bằng việc cải cách thủ tục hành chính được coi là khâu đột phá. Sang năm nay, công cuộc cải cách được đặt ở tầm cao hơn, toàn diện hơn trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính Nhà nước. Chính phủ đã lập kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng trên cả ba mặt:

- Cải cách thể chế của nền hành chính, tập trung trước hết vào cải cách thủ tục hành chính; chấn chỉnh trật tự, kỷ cương xã hội; giải quyết các khiếu kiện của dân; mở rộng thông tin cho dân và tăng tính công khai trong hoạt động hành chính; đổi mới quy trình và nâng cao chất lượng lập pháp, lập quy.

- Điều chỉnh từng bước bộ máy hành chính nhà nước trên cơ sở xác định rõ chức năng quản lý nhà nước trong kinh tế thị trường, nhiệm vụ, thẩm quyền của chính quyền từng cấp, trên từng lĩnh vực; thông qua việc sắp xếp lại và chấn chỉnh quản lý các doanh nghiệp nhà nước, bỏ chế độ “chủ quản” của cơ quan hành chính đối với doanh nghiệp.

- Xúc tiến việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, công chức hành chính, làm trong sạch một bước bộ máy hành chính trên cơ sở chế độ công vụ và quy chế công chức.

Cùng với việc phổ biến kế hoạch trên để các ngành và các địa phương lập chương trình tiến hành cải cách hành chính trong phạm vi trách nhiệm và thẩm quyền của mình, Thủ tướng đã mời Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở phía Bắc về Hà Nội trong một tuần giữa tháng 3 để nghe trình bày và trao đổi các vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước và quản lý hành chính gắn với công cuộc đổi mới về kinh tế. Đợt nghiên cứu này sẽ được tổ chức tiếp với các đồng chí lãnh đạo chính quyền các tỉnh, thành phố ở phía Nam.

Trong chương trình cải cách hành chính, tôi xin báo cáo rõ thêm một số vấn đề mà nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm:

a) Về cải cách thủ tục hành chính:

Từ tháng 5 năm 1994, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về cải cách một bước thủ tục hành chính và trực tiếp chỉ đạo triển khai trong 7 lĩnh vực có nhiều vấn đề bức xúc nhất: đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách; đầu tư trực tiếp của nước ngoài; cho thuê đất và cấp giấy phép xây dựng ở đô thị; xuất - nhập khẩu; xuất - nhập cảnh; thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Đến nay, các thủ tục trong những lĩnh vực này đã được soát xét, giảm bớt các khâu phải xin phép, loại bỏ những thủ tục không cần thiết; một số quy định mới đã được ban hành. Quy định mới của Ủy ban Hợp tác và Đầu tư về thủ tục đầu tư nước ngoài đã được công bố cùng với thông tư hướng dẫn của các Bộ Tài chính, Xây dựng, Thương mại về các thủ tục có liên quan, được các nhà đầu tư nước ngoài hoan nghênh. Điều lệ mới về quản lý đầu tư và xây dựng đã được ban hành. Thủ tục cấp giấy phép xây dựng, sửa chữa nhà cửa được đơn giản hóa. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy định mới về thủ tục xuất - nhập cảnh, giảm bớt những giấy tờ kê khai, xác nhận không cần thiết, loại bỏ những khâu xét duyệt trùng lặp hoặc không đúng chức năng, rút ngắn thời gian giải quyết. Việc kê khai, xét hành lý qua cửa khẩu nhẹ nhàng hơn trước nhiều. Việc cấp giấy phép xuất khẩu từng chuyến được bãi bỏ. Việc thẩm định hồ sơ xin phép thành lập doanh nghiệp và việc cấp đăng ký kinh doanh được giải quyết thống nhất ở một nơi, cùng một lúc. Pháp lệnh về lệ phí đang được chuẩn bị trình Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Trong thời gian tới, Chính phủ và các Bộ sẽ ban hành tiếp quy định mới về những thủ tục đã được soát xét, sửa đổi, công bố rộng rãi để mọi người biết và chấp hành, đồng thời, giám sát việc thực hiện của cơ quan, công chức khi giải quyết công việc của dân. Tổ chức thu thập ý kiến của các đối tượng phải thi hành từng loại thủ tục để tiếp tục cải tiến các thủ tục đó.

Thực tế cho thấy, việc sửa đổi thủ tục không đơn giản, nhưng việc bảo đảm thực hiện nghiêm túc các quy định mới về thủ tục, chống gây phiền hà, sách nhiễu còn khó khăn hơn. Trong năm nay, cần ban hành chế độ công vụ và xúc tiến thành lập Tòa án hành chính để tăng cường cơ sở pháp lý cho việc giải quyết công việc và xử lý các khiếu kiện của dân đối với cơ quan nhà nước.

b) Về chống tham nhũng, lãng phí của công:

Việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về vấn đề này có một yếu tố mới là cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí của công được đặt trong nội dung cải cách hành chính, gắn với hàng loạt chủ trương, biện pháp như cải cách thể chế và thủ tục hành chính, chấn chỉnh bộ máy và áp dụng chế độ công vụ, quy chế công chức, thiết lập Tòa án hành chính… Điều đó cho phép đưa cuộc đấu tranh vào chiều sâu với những biện pháp ngăn chặn từ gốc.

Chính phủ đã đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể nhằm triển khai có hiệu quả hơn cuộc đấu tranh này, trong đó có quy định người vi phạm phải bồi hoàn thiệt hại cho Nhà nước, kể cả trong trường hợp bị lừa đảo. Cán bộ lãnh đạo, công chức nhà nước trực tiếp vi phạm nghiêm trọng hoặc do quản lý kém để xảy ra tham nhũng, thất thoát, lãng phí lớn tài sản của Nhà nước, thì phải tức thời cách chức, giáng chức hoặc đình chỉ công tác trước khi áp dụng các biện pháp xử lý khác. Chính phủ cũng đề nghị cơ quan Đảng và các đoàn thể ở Trung ương quy định hình thức xử lý tương ứng với mức độ trách nhiệm của tập thể và cá nhân có cương vị chủ chốt của tổ chức Đảng và tổ chức đoàn thể ở đơn vị xảy ra tham nhũng hoặc có lãng phí của công nghiêm trọng.

Tinh thần chỉ đạo của Chính phủ là cuộc đấu tranh này phải được tiến hành kiên quyết, bền bỉ trong hành động; làm nhiều nói ít tốt hơn là ngược lại.

c) Tập trung giải quyết một số điểm nóng về trật tự, kỷ cương xã hội:

Trong một thời gian dài, trật tự kỷ cương xã hội bị buông lỏng. Cơ chế điều khiển xã hội bằng mệnh lệnh hành chính không còn thích hợp, nhưng cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật đang trong quá trình hình thành, chưa đồng bộ, còn nhiều khe hở. Công tác giáo dục tư tưởng, xây dựng ý thức tự giác chấp hành pháp luật trong xã hội vừa thiếu hình thức thích hợp, vừa chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, việc thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật là một quá trình bền bỉ, liên tục, lâu dài.

Kinh nghiệm thành công của việc cấm đốt pháo nổ cho thấy cách làm có hiệu quả là tập trung giải quyết dứt điểm những vấn đề nóng bỏng mà nhân dân mong đợi, đòi hỏi, với chủ trương thống nhất, sự chỉ đạo kiên quyết, triệt để, chế độ trách nhiệm rõ ràng, kỷ luật nghiêm minh và tranh thủ được sự đồng tình của xã hội, huy động được sức mạnh tổng hợp của các ngành, các đoàn thể ở các cấp và sự tham gia rộng rãi của nhân dân. Điều này không xa lạ với truyền thống lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta. Thực tế cũng cho thấy, khi có chủ trương đúng, phương pháp đúng thì hoàn toàn có thể khơi dậy ý thức của nhân dân tôn trọng phép nước, đẩy lùi tình trạng vô kỷ luật.

Bài học thực tiễn này đang được vận dụng trong việc giải quyết tình trạng xây dựng nhà trái phép ở một số khu vực đê xung yếu của Hà Nội, vi phạm nghiêm trọng Pháp lệnh bảo vệ đê điều. Vấn đề không chỉ là bảo vệ an toàn cho Hà Nội trước hiểm họa lũ lụt mà còn có ý nghĩa rộng lớn hơn đối với hiệu lực của chính quyền trong việc giữ nghiêm phép nước không riêng trên địa bàn Hà Nội. Quyết định xử lý của Thủ tướng Chính phủ với các giải pháp có lý, có tình được đông đảo nhân dân đồng tình, ủng hộ. Chính phủ quyết tâm cùng đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết tốt vấn đề này, chuyển một việc xấu thành gương tốt của Thủ đô đối với cả nước.

Chính phủ cũng đang tích cực chuẩn bị giải quyết tiếp việc thiết lập trật tự, an toàn giao thông, trước hết là ở các thành phố lớn nhằm giảm nhanh tai nạn giao thông, khắc phục tình trạng lộn xộn và ùn tắc giao thông ở một số thành phố và tuyến đường bộ, tăng thêm ý thức giữ gìn kỷ cương, trật tự xã hội. Công việc này phải được chuẩn bị tốt cả về luật lệ, về phương tiện vật chất, về lực lượng tham gia, về tuyên truyền, giáo dục ý thức và phải tiến hành tập trung, bền bỉ, liên tục, tạo cho được nền nếp mới về trật tự, an toàn giao thông, trước hết là ở đô thị.

Bộ Chính trị đã giao trách nhiệm cho các cấp ủy và tổ chức Đảng chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nhà nước kết hợp chặt chẽ với chỉnh đốn Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy và tổ chức Đảng. Công cuộc cải cách hành chính đáp ứng yêu cầu và phục vụ lợi ích của dân; do đó, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội và nghề nghiệp, các cơ quan thông tin đại chúng có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp nguyện vọng và trí tuệ của các tầng lớp nhân dân, cùng với bộ máy chính quyền động viên nhân dân tham gia tiến trình cải cách bằng nhiều hình thức thích hợp, giám sát hoạt động của các cơ quan, công chức hành chính. Sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc cải cách hành chính.

Các lĩnh vực hoạt động khác đã được đề cập trong Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1995 và được cụ thể hóa trong chương trình công tác của Chính phủ. Một số công tác lớn như phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội ở miền núi; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu; ngăn chặn và bài trừ tệ nạn xã hội v.v. đang được Chính phủ chỉ đạo tiến hành sơ kết, rút kinh nghiệm để bổ sung chủ trương, biện pháp xúc tiến mạnh mẽ hơn.

III- MẤY NÉT LỚN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI

Từ kỳ họp lần trước của Quốc hội tới nay, hoạt động đối ngoại của Nhà nước ta không ngừng được triển khai một cách tích cực, chủ động, có trọng tâm và thu được kết quả quan trọng.

Việc tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực tiếp tục được đặt ở vị trí ưu tiên.

Quan hệ Việt - Lào ngày càng được thắt chặt thông qua cuộc gặp gỡ trao đổi thường kỳ giữa lãnh đạo cấp cao nhất của hai nước và cuộc họp Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật với việc ký kết thỏa thuận chiến lược hợp tác hai nước từ nay đến năm 2000.

Cuộc đi thăm Việt Nam của Thủ tướng thứ nhất Campuchia Ranarít góp phần tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau, đạt được một số thỏa thuận quan trọng thúc đẩy sự hợp tác trong nhiều lĩnh vực, tạo điều kiện xúc tiến việc giải quyết vấn đề người Việt ở Campuchia, vấn đề biên giới và việc sử dụng sông Mê Kông.

Ta với Thái Lan đang tiến hành đàm phán phân định vùng thềm lục địa chồng lấn. Hai nước đã đạt được một số thỏa thuận về biện pháp thiết lập trật tự trên biển và đánh bắt hải sản ở vùng Vịnh Thái Lan. Sau nhiều vòng đàm phán, ta đã cùng với các nước Thái Lan, Lào và Campuchia thỏa thuận Hiệp định về hợp tác và phát triển bền vững lưu vực sông Mê Kông và sẽ ký chính thức vào tháng 4 tới.

Cuộc đi thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Mianma và kỳ họp đầu tiên Ủy ban hỗn hợp Việt Nam - Mianma đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa hai nước.

Các cuộc đi thăm của Bộ trưởng Ngoại giao ta ở Philíppin, Ôxtrâylia, Xingapo, của Bộ trưởng Quốc phòng ta ở Mianma, Thái Lan, Xingapo, cùng với cuộc đi thăm, làm việc của Đoàn quan chức kinh tế cấp cao ASEAN ở nước ta vừa tăng cường quan hệ song phương, vừa góp phần chuẩn bị cho nước ta tham gia ASEAN với tư cách thành viên chính thức.

Sau khi Chủ tịch Giang Trạch Dân sang thăm chính thức Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục được cải thiện với các cuộc đi thăm lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác của các đoàn đại biểu các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân hai nước và với những hoạt động kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Tiếp tục kiên trì giải quyết các vấn đề tồn tại, chúng ta đã cùng Trung Quốc đàm phán vòng 4 ở cấp chuyên viên về biên giới trên bộ và đang tiến hành đàm phán vòng 4 về phân định vịnh Bắc Bộ. Đối với những tranh chấp trên biển Đông, trước sau như một, chúng ta chủ trương giải quyết thông qua kiên trì thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng nguyên trạng, các bên tự kiềm chế, không làm gì phức tạp thêm tình hình, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển theo đúng quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.

Quan hệ với Nhật Bản và Hàn Quốc tiếp tục phát triển tốt. Chuyến thăm chính thức đầu tiên của Tổng Bí thư Đỗ Mười tới hai nước này đang được chuẩn bị tích cực. Ta đã cử đoàn cấp Bộ trưởng tham gia Hội nghị phát triển toàn diện Đông Dương do Chính phủ Nhật Bản chủ trì, đang tìm biện pháp bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay viện trợ phát triển của Nhật trong điều kiện đồng Yên tăng giá và phía Nhật nâng thêm lãi suất.

Quan hệ hợp tác toàn diện với ấn Độ được thúc đẩy và nâng cao hiệu quả trên cơ sở đổi mới cơ chế thông qua “nhóm làm việc chung Việt - Ấn”.

Trung thành với truyền thống hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Cuba, chúng ta rất thông cảm với những khó khăn của nhân dân Cuba, sẵn sàng trao đổi kinh nghiệm, cố gắng hỗ trợ theo khả năng cho phép và đã phát động phong trào quyên góp ủng hộ Cuba, được nhân dân cả nước hưởng ứng nhiệt tình, đạt kết quả vượt dự kiến.

Sau khi ta và Mỹ ký Hiệp định chuyển giao tài sản ngoại giao, Hiệp định giải quyết các khiếu nại về tài sản, hai bên đã chính thức mở cơ quan liên lạc tại thủ đô hai nước, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ đầy đủ giữa hai nước. Thiện chí của ta trong việc giải quyết vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh đã được thừa nhận rộng rãi và đánh giá cao không những trong dư luận thế giới và nhân dân Mỹ mà cả trong một bộ phận quan trọng của chính giới Mỹ. Tuy nhiên, vẫn còn một số thế lực thiếu thiện chí tiếp tục gây trở ngại cho việc bình thường hóa quan hệ hai nước.

Quan hệ hợp tác giữa nước ta với Liên minh châu Âu và một số nước châu Âu nói riêng đã được tăng cường qua các cuộc đi thăm của Chủ tịch Quốc hội, các Phó Thủ tướng Chính phủ và một số Bộ trưởng ta tới các nước đó cũng như các chuyến đến thăm Việt Nam của Tổng thống Áo, Thái tử Lucxămbua và các đoàn cấp Bộ trưởng của một số nước cùng với việc ký kết nhiều hiệp định hợp tác song phương.

Cuộc đi thăm của Phó Chủ tịch Quốc hội nước ta ở một số nước Trung Đông và của Bộ trưởng Ngoại giao nước ta tới một số nước Nam phần châu Phi đánh dấu một bước mới trong việc mở rộng và tăng cường quan hệ giữa nước ta với các nước ở các khu vực này.

Chúng ta đã cử nhiều đoàn tham dự và đóng góp tích cực vào các hội nghị, hội thảo quốc tế, tăng cường quan hệ làm việc thiết thực với các tổ chức của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác. Bên cạnh hoạt động đối ngoại theo quan hệ nhà nước, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ của nước ta đã mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, giao lưu văn hóa, thể thao với các tổ chức tương ứng ở nước ngoài, góp phần tăng cường sự hiểu biết và tình đoàn kết giữa nhân dân ta và nhân dân thế giới.

Thông qua các hoạt động đó, quan hệ của nước ta với các nước trên thế giới không ngừng phát triển cả bề rộng và chiều sâu, vừa củng cố và tăng cường các quan hệ đã có, vừa mở thêm quan hệ mới trên nhiều địa bàn, với nhiều đối tượng. Quan hệ chính trị, ngoại giao gắn với sự hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật và cả quốc phòng, an ninh, tạo môi trường hòa bình và điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, đặc biệt là góp phần mở rộng thị trường, tranh thủ vốn, công nghệ cho sự phát triển kinh tế. Nét nổi bật trong thời gian gần đây là quan hệ với các nước Đông Nam Á bước sang giai đoạn mới với việc nước ta tích cực chuẩn bị gia nhập ASEAN, quan hệ với Mỹ được khai thông một bước quan trọng, quan hệ với các trung tâm chính trị - kinh tế lớn và với các nước khác ở khắp năm châu tiếp tục được củng cố và mở rộng.

Chính sách đối ngoại rộng mở và hoạt động đối ngoại chủ động, tích cực cùng với những thành tựu đổi mới của đất nước đã cải thiện rõ rệt vị trí quốc tế của nước ta. Việt Nam ngày càng thể hiện rõ vai trò là một nhân tố tích cực trong sự nghiệp hòa bình, độc lập, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Tuy nhiên quan hệ đối ngoại của nước ta không chỉ tiến triển thuận chiều. Những tranh chấp về biên giới và lãnh hải đang chứa đựng những yếu tố có thể diễn biến phức tạp, đòi hỏi phải tỉnh táo và kiên trì giải quyết thông qua thương lượng để bảo đảm sự ổn định ở khu vực. Vấn đề người Việt ở nước ngoài, trong đó có vấn đề những người di tản, đang được giải quyết trên cơ sở thỏa thuận với các nước sở tại về những nguyên tắc hợp tình, hợp lý, cùng với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, song còn phải xử lý nhiều vấn đề cụ thể, phức tạp. Tuy Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước, nhưng vẫn còn những thế lực bên ngoài thiếu thiện chí, không muốn Việt Nam ổn định và phát triển, tìm cớ can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Việc nước ta gia nhập ASEAN cũng đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết trong quá trình hội nhập nhằm phát huy thuận lợi mới, khắc phục dần thế yếu trong hợp tác và cạnh tranh quốc tế.

Tuy đã có bước tiến rõ rệt nhưng công tác đối ngoại còn phải nỗ lực hơn nữa để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ quan công tác đối ngoại ở trong và ngoài nước chưa ngang tầm với sự mở rộng nhanh chóng quan hệ với bên ngoài cả về địa bàn, đối tượng và lĩnh vực hợp tác.

Chúng ta vui mừng về những thành tựu trong lĩnh vực đối ngoại, song cần nhận rõ những vấn đề phức tạp còn phải giải quyết và những mặt yếu kém cần phải ra sức khắc phục trong thời gian tới.

Nhìn chung lại, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng tình hình kinh tế - xã hội và quan hệ quốc tế của nước ta đang tiếp tục phát huy đà chuyển biến tốt của các năm trước. Trên cơ sở đánh giá tình hình và phân tích, giải trình thêm một số vấn đề đã nêu trên, Chính phủ khẳng định quyết tâm chỉ đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1995, tạo thêm thế và lực cho bước phát triển mạnh mẽ, vững chắc hơn trong 5 năm kết thúc thế kỷ này.

Xin cảm ơn các đồng chí.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội