TỜ TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ
VỀ
DỰ ÁN LUẬT DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
(Do ông Đỗ Quốc Sam, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban
Kế hoạch Nhà nước đọc tại kỳ họp thứ 7,
Quốc hội khoá IX, ngày 28-3-1995)
Không ngừng tăng cường năng lực, hiệu quả và phát huy vai trò chủ đạo của
doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân là đường lối chiến lược
trong phát triển các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Từ trước
đến nay, kể cả trong những năm đổi mới vừa qua, doanh nghiệp nhà nước đã có
những đóng góp tích cực cho nền kinh tế quốc dân, bảo đảm nhiều cân đối chủ
yếu, tư liệu sản xuất, hàng hóa và dịch vụ, nguồn thu ngân sách, cán cân
xuất - nhập khẩu, việc làm cho người lao động, thúc đẩy khoa học - công
nghệ, thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước về văn hóa -xã hội, quốc phòng, an
ninh v.v..
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã tiến hành công cuộc đổi mới, áp
dụng các chính sách nhằm khắc phục những yếu kém, sử dụng đầy đủ hơn năng
lực sẵn có, tạo quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, đổi mới cơ chế quản lý,
mô hình tổ chức và quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp… Những chủ
trương, chính sách đó đã được thể hiện trong nhiều văn bản do Chính phủ ban
hành như Quyết định 217/HĐBT ngày 14-11-1987 về các chính sách đổi mới kế
hoạch hóa và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, Nghị định 50/HĐBT ngày
22-3-1988 ban hành Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, Nghị định
27/HĐBT ngày 22-3-1989 ban hành Điều lệ Liên hiệp xí nghiệp quốc doanh, Nghị
định số 98/HĐBT ngày 02-6-1988 về quyền làm chủ của tập thể công nhân viên
trong xí nghiệp quốc doanh, Nghị định 196/HĐBT ngày 11-12-1989 quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý nhà nước của các Bộ, Nghị định
388/HĐBT ngày 20-11-1991 về thành lập, giải thể doanh nghiệp nhà nước và các
văn bản khác bổ sung, sửa đổi các quy định đã ban hành cho phù hợp với tình
hình mới.
Tình
hình kinh tế và công cuộc đổi mới đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước phải vươn
lên đáp ứng những yêu cầu mới. Việc thực hiện các chủ trương, chính sách nêu
trên đã giúp cho doanh nhiệp nhà nước có những chuyển biến tích cực. Tiến bộ
trong những năm qua của doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa quan trọng nhưng
chưa tương xứng với yêu cầu và năng lực sẵn có. Trong quản lý doanh nghiệp
nhà nước, một mặt còn nhiều sơ hở, gây thất thoát tài sản của Nhà nước, mặt
khác, có không ít gò bó, gây phiền hà cho doanh nghiệp nhà nước. Trong vài
năm qua, Quốc hội đã ban hành các Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty,
Luật đầu tư nước ngoài, đã có tác dụng kích thích các thành phần kinh tế này
đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Việc ban hành một đạo luật về doanh
nghiệp nhà nước, thành phần kinh tế chủ đạo của nền kinh tế quốc dân là rất
cần thiết và cấp bách nhằm bảo đảm quyền tự chủ thực sự cho các doanh nghiệp
nhà nước, tăng cường trách nhiệm quản lý, tạo thêm động lực để nâng cao hiệu
quả kinh tế đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Dự
án Luật doanh nghiệp nhà nước được soạn thảo từ đầu năm 1993. Tháng 6-1993,
Dự án Luật này đã được Chính phủ trình xin ý kiến của các đại biểu Quốc hội.
Trên cơ sở nghiên cứu các ý kiến góp ý của các đại biểu Quốc hội, Ban soạn
thảo đã tiến hành sửa đổi, bổ sung, lấy ý kiến thêm của các cơ quan, ban,
ngành và địa phương, ý kiến của các chuyên gia và của các doanh nghiệp nhà
nước. Dự án Luật doanh nghiệp nhà nước đã được Chính phủ, Ủy ban thường vụ
Quốc hội xem xét nhiều lần. Ban soạn thảo đã tiếp thu các ý kiến chỉ đạo của
Bộ Chính trị về đổi mới doanh nghiệp nhà nước để chỉnh lý Dự án Luật này.
Những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và những nội dung chủ yếu của Dự án Luật
doanh nghiệp nhà nước trình ra kỳ họp này của Quốc hội như sau:
I-
NHỮNG QUAN ĐIỂM, TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.
Cơ sở để soạn thảo Dự án Luật này
là các định hướng và đường lối của Đảng và Nhà nước về đổi mới khu vực doanh
nghiệp nhà nước nêu trong các văn kiện của Đảng, Hội nghị Trung ương, Hội
nghị Đảng giữa nhiệm kỳ, Nghị quyết của Quốc hội và ý kiến của Bộ Chính trị
về phương hướng đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Dự án Luật doanh nghiệp nhà
nước cũng được xây dựng trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm quá trình đổi mới
quản lý doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua.
2.
Những yêu cầu cơ bản được quán triệt trong xây dựng Dự án Luật này,
gồm:
a)
Thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về đổi
mới doanh nghiệp nhà nước.
b)
Tạo cơ sở pháp lý để doanh nghiệp nhà nước hoạt động tự chủ, tự chịu trách
nhiệm phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng hợp tác với nước ngoài, bảo đảm sự bình đẳng
với các loại hình doanh nghiệp khác.
c)
Bảo đảm vai trò chủ đạo của khu vực doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế
quốc dân.
d)
Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp nhà nước, quy định rõ
trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động kinh doanh phù hợp với
phương hướng hoạt động, mục tiêu, nhiệm vụ Nhà nước giao cho từng loại hình
doanh nghiệp, không đồng nhất hóa các loại doanh nghiệp thực hiện các mục
tiêu khác nhau.
d)
Bộ máy quản lý doanh nghiệp nhà nước được thành lập để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ phù hợp với các loại hình doanh nghiệp, theo các chuẩn mực do
pháp luật quy định.
e)
Xác định chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước là Chính phủ và thông qua các cơ
quan do Chính phủ quy định để thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu.
g)
Xác định đúng đắn vai trò của người lao động trong doanh nghiệp nhà nước,
tạo động lực để các nhà quản lý doanh nghiệp và tập thể công nhân viên chức
doanh nghiệp phát huy sáng tạo, gắn bó xây dựng và phát triển doanh nghiệp,
khuyến khích người lao động vừa lao động có kỷ luật và thụ hưởng thỏa đáng
kết quả lao động của họ, vừa tham gia quản lý, kiểm soát doanh nghiệp.
h)
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo - Giám đốc điều hành và
sự tham gia quản lý của người lao động trong doanh nghiệp nhà nước.
3.
Việc ban hành và thực thi Luật doanh nghiệp nhà nước phải đi kèm với một
loạt các biện pháp khác không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp
nhà nước:
Trong thực tế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn nổi lên một
số vấn đề về chính sách, chế độ quản lý ngoài phạm vi áp dụng của Luật này
như cần tích cực sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, tạo dựng thị trường vốn
dài hạn để thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước bán cổ phiếu, trái phiếu và huy
động vốn để tránh ỷ lại vào nguồn vốn ngân sách, giảm lãi suất tín dụng ngân
hàng, cải cách hệ thống ngân hàng, tinh giản thủ tục ngân hàng, bảo đảm hiệu
quả và thu hồi vốn cho vay theo dự án, giải quyết thanh toán nợ vòng hai,
cải cách hệ thống thuế, cải cách hệ thống thương mại và xuất, nhập khẩu theo
quy chế dân chủ, bình đẳng, tạo cho các doanh nghiệp nhà nước tham gia xuất,
nhập khẩu có hiệu quả, kiện toàn hệ thống hải quan, giảm phiền hà trong thủ
tục hành chính, bồi dưỡng cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước v.v.. Đây là
những vấn đề cần giải quyết sớm nhưng không thuộc phạm vi của Luật doanh
nghiệp nhà nước, không thể đưa vào nội dung Luật này để xử lý được. Trong
quá trình chuẩn bị thi hành Luật này (dự kiến có hiệu lực từ ngày 01-01-1996
nếu được Quốc hội thông qua kỳ họp này) Chính phủ sẽ khẩn trương tiến hành
các biện pháp để đổi mới các chính sách, chế độ quản lý trên đây.
II-
KẾT CẤU VÀ NỘI DUNG CHÍNH CỦA DỰ ÁN LUẬT DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Dự
án Luật gồm Lời mở đầu, 7 chương, 57 điều:
-
Mục tiêu cơ bản của Luật doanh nghiệp nhà nước nêu ở trong Lời mở đầu là xây
dựng cơ sở pháp lý bảo đảm thực hiện đúng đắn vai trò chủ đạo của doanh
nghiệp nhà nước, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp nhà
nước, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả và thực hiện
đúng mục tiêu Nhà nước giao cho doanh nghiệp, góp phần tăng cường quản lý
của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước.
-
Chương I “Những quy định chung”,
gồm 5 điều, quy định về: khái niệm doanh nghiệp nhà nước, phạm vi áp dụng
của Luật, nghĩa vụ chung của doanh nghiệp nhà nước, trách nhiệm của Nhà nước
đối với doanh nghiệp nhà nước, vị trí của tổ chức Đảng, đoàn thể trong doanh
nghiệp nhà nước và một số khái niệm dùng trong Luật này.
Luật
doanh nghiệp nhà nước không chỉ điều chỉnh doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư
của Nhà nước mà gồm cả những điều khoản quy định về quản lý cổ phần của Nhà
nước trong các doanh nghiệp đa sở hữu, trong đó cổ phần của Nhà nước là cổ
phần chi phối hay cổ phần đặc biệt.
Có
hai loại doanh nghiệp nhà nước: doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh
và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích (bao gồm cả các doanh nghiệp
phục vụ quốc phòng, an ninh).
Luật
có các quy định cụ thể áp dụng đối với từng loại doanh nghiệp: doanh nghiệp
nhà nước hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích,
doanh nghiệp nhà nước độc lập, doanh nghiệp nhà nước là thành viên của tổng
công ty nhà nước và doanh nghiệp nhà nước là tổng công ty.
Các
tổ chức Đảng và đoàn thể trong doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo Hiến
pháp và pháp luật, Điều lệ và các quy định của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng.
-
Chương II “Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước”,
gồm 2 mục, 7 điều, quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước
hoạt động kinh doanh vì lợi nhuận và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công
ích không vì mục đích lợi nhuận. Nhà nước xác định và giám sát việc thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Nhà nước giao cho doanh nghiệp. Nhiệm vụ chủ yếu
của doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh là kinh doanh có lãi, nếu có
hoạt động công ích thì được thực hiện theo chính sách của Nhà nước. Nhiệm vụ
chủ yếu của doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích là thực hiện các hoạt
động công ích theo chính sách của Nhà nước, nếu còn dư năng lực thì được tổ
chức kinh doanh, nhưng phải được hạch toán riêng và đóng thuế theo pháp
luật. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh được tự chủ hoạt động theo
cơ chế thị trường, thực hiện các nhiệm vụ chính do Nhà nước giao, nhằm mục
tiêu cơ bản là tối đa hóa lợi nhuận và các khoản nộp ngân sách. Doanh nghiệp
nhà nước hoạt động công ích hoạt động theo định hướng kế hoạch nhà nước và
nhiệm vụ Nhà nước giao, kể cả kế hoạch sản xuất, tiêu thụ, dịch vụ. Trong
khuôn khổ mục tiêu, nhiệm vụ được giao, doanh nghiệp nhà nước có quyền tự
chủ lập kế hoạch, tổ chức sản xuất, kinh doanh, tự quyết định đầu vào và đầu
ra. Các doanh nghiệp nhà nước đều phải có nghĩa vụ bảo toàn và phát triển
vốn, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên Nhà nước giao, thực hiện
nghĩa vụ với người lao động, bảo vệ môi trường, bảo vệ quốc phòng, an ninh
quốc gia.
-
Chương III “Thành lập, tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước”,
gồm 2 mục, 12 điều, quy định:
+
Việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước được hướng vào các ngành, nghề,
lĩnh vực quan trọng, tạo điều kiện để phát triển, hướng dẫn các thành phần
kinh tế, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế.
+
Điều kiện thành lập doanh nghiệp nhà nước, trình tự, thủ tục thành lập do
Chính phủ quy định. Doanh nghiệp phải đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
+
Doanh nghiệp nhà nước có thể áp dụng các biện pháp tổ chức lại, bao gồm sáp
nhập, chia nhỏ doanh nghiệp nhà nước và các biện pháp khác thay đổi công
nghệ, mục tiêu hoạt động và hình thức pháp lý của doanh nghiệp nhà nước. Nếu
tổ chức lại mà doanh nghiệp thay đổi, bổ sung ngành, nghề kinh doanh thì
phải đăng ký lại hoặc bổ sung ngành, nghề kinh doanh. Nếu tổ chức lại dẫn
đến thay đổi sở hữu thì phải làm thủ tục đăng ký theo các luật tương ứng về
loại doanh nghiệp đó và chấm dứt hoạt động theo Luật này.
+
Doanh nghiệp nhà nước bị xem xét giải thể khi hết thời gian hoạt động, thua
lỗ kéo dài không khắc phục được, hoặc Nhà nước thấy không cần duy trì. Khi
đó doanh nghiệp được Hội đồng giải thể xem xét kiến nghị để Nhà nước quyết
định giải thể. Việc giải thể phải theo quy định của Luật này và quy định chi
tiết do Chính phủ ban hành để bảo đảm quyền lợi các bên.
Việc
phá sản doanh nghiệp nhà nước thực hiện theo Luật phá sản doanh nghiệp.
-
Chương IV “Quản lý nhà nước và thực hiện quyền sở hữu nhà nước đối với doanh
nghiệp nhà nước”,
gồm 3 mục, 9 điều, quy định:
+
Nhà nước thực hiện quyền chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước, trong đó
bao gồm một số quyền quan trọng như quyết định thành lập, giải thể, tổ chức
lại; quyết định mục tiêu, phương hướng hoạt động; quyết định chuyển đổi sở
hữu; quyết định giao vốn, đầu tư, liên doanh, tăng giảm vốn đầu tư; quyết
định tỷ lệ khấu hao và tỷ lệ phân chia lợi nhuận, chế độ lương, thưởng cho
người quản lý doanh nghiệp; quyết định mô hình quản lý cho các loại doanh
nghiệp, ban hành điều lệ mẫu, tổ chức kiểm tra, giám sát doanh nghiệp nhà
nước.
+
Chính phủ là người tổ chức thực hiện quyền sở hữu nhà nước đối với doanh
nghiệp nhà nước. Các quyền của chủ sở hữu được Chính phủ trực tiếp thực hiện
hoặc phân cấp và ủy quyền cho các Bộ quản lý ngành. Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ Tài chính thực hiện.
+
Nhà nước nắm quyền sở hữu cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt trong một
số doanh nghiệp quan trọng (do Chính phủ quyết định cụ thể từng doanh
nghiệp) để hướng dẫn những doanh nghiệp đó hoạt động theo định hướng của Nhà
nước. Nhà nước cử người đại diện sở hữu và quản lý trực tiếp cổ phần chi
phối và cổ phần đặc biệt tại doanh nghiệp. Ở các doanh nghiệp này, Nhà nước
có quyền chi phối một số quyết định quan trọng của doanh nghiệp như chiến
lược, kế hoạch năm năm và hàng năm, đầu tư, chuyển đổi hình thức pháp lý của
doanh nghiệp, phê duyệt, công bố quyết toán tài chính năm, chỉ định chức
danh quản lý chủ chốt.
+
Việc quản lý các phần vốn góp khác của Nhà nước như góp vốn vào liên doanh,
mua cổ phần ở doanh nghiệp khác: Nhà nước chỉ quản lý với tư cách là chủ sở
hữu phần vốn góp đó, không quản lý cả doanh nghiệp.
-
Chương V “Tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước”,
gồm 4 mục, 21 điều, quy định:
+
Tổng công ty và các doanh nghiệp nhà nước độc lập quy mô lớn được tổ chức
theo mô hình có Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị thực hiện chế độ tập
thể lãnh đạo, là cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất ở doanh nghiệp,
chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về những chủ trương,
quyết định lớn của doanh nghiệp, bảo đảm cho doanh nghiệp thực hiện đúng
định hướng nhiệm vụ Nhà nước giao, cùng với giám đốc nhận vốn và tài nguyên
Nhà nước giao để bảo toàn và phát triển, giám đốc là người có quyền điều
hành cao nhất trong doanh nghiệp để thực hiện các nghị quyết và quyết định
của Hội đồng quản trị, Hội đồng quản trị không can thiệp vào việc điều hành
của Giám đốc trong khuôn khổ nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
+
Đối với doanh nghiệp nhà nước độc lập có quy mô nhỏ cũng được áp dụng mô
hình có Hội đồng quản trị. Tuy nhiên, Hội đồng quản trị ở các doanh nghiệp
này chỉ là cơ quan quản lý vốn, tài sản và giám sát hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, giám sát việc bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp.
Giám đốc là người điều hành cao nhất đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp theo chế độ một thủ trưởng. Giám đốc chịu trách nhiệm toàn diện về
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
+
Người lao động trong doanh nghiệp nhà nước tham gia quản lý doanh nghiệp
thông qua Đại hội công nhân viên chức, cử đại diện tham gia Hội đồng quản
trị và các quyền khác được quy định tại Bộ luật lao động và Luật công đoàn.
-
Chương VI “Xử lý vi phạm”
gồm 2 điều, quy định về các hành vi vi phạm và xử lý vi phạm.
-
Chương VII “Điều khoản thi hành”
gồm 1 điều, quy định về việc thi hành Luật này.
III-
NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU
1.
Về khái niệm doanh nghiệp nhà nước:
Còn
có ý kiến phân vân về các tiêu chí để xác định khái niệm doanh nghiệp nhà
nước, trong đó có hai loại ý kiến khác nhau về mục tiêu hoạt động:
+
Loại ý kiến thứ nhất: chỉ coi những tổ chức kinh tế của Nhà nước làm nhiệm
vụ kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận là doanh nghiệp nhà nước.
+
Loại ý kiến thứ hai: đề nghị mở rộng khái niệm doanh nghiệp nhà nước đối với
cả doanh nghiệp kinh doanh vì mục tiệu lợi nhuận và các tổ chức kinh tế của
Nhà nước làm nhiệm vụ kinh tế - xã hội (doanh nghiệp công ích), trong đó gồm
cả các đơn vị vừa làm nhiệm vụ kinh tế, vừa làm dịch vụ phi vụ lợi (như các
xí nghiệp vệ sinh môi trường, cấp thoát nước, công ty thủy nông, v.v..). Các
tổ chức hoạt động công ích như trường học, bệnh viện, tuy có thêm nguồn thu
phụ nhưng không coi là doanh nghiệp công ích.
Dự
thảo Luật này được xây dựng theo loại ý kiến thứ hai.
2.
Về phạm vi áp dụng của Luật doanh nghiệp nhà nước:
a)
Dựa vào tỷ lệ vốn nhà nước trong doanh nghiệp
có
ba loại ý kiến:
-
Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư của Nhà nước là doanh nghiệp nhà nước.
-
Doanh nghiệp có trên 50% vốn đầu tư của Nhà nước là doanh nghiệp nhà nước.
-
Doanh nghiệp có cổ phần chi phối của Nhà nước là doanh nghiệp nhà nước,
trong đó cổ phần chi phối của Nhà nước không nhất thiết là trên 50%.
Dự
thảo Luật này được xây dựng trên cơ sở coi doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư
của Nhà nước (vốn điều lệ) là doanh nghiệp nhà nước đích thực. Mặt khác,
Luật cũng đưa ra những quy định bảo đảm quyền quản lý của Nhà nước đối với
các doanh nghiệp có cổ phần chi phối hay cổ phần đặc biệt của Nhà nước. Một
khi doanh nghiệp đã có cơ cấu đa sở hữu thì ngoài các điều khoản tương ứng
trong Luật doanh nghiệp nhà nước còn phải áp dụng các điều khoản quy định về
hình thức tổ chức quản lý theo Luật công ty hoặc xí nghiệp liên doanh.
Trong Dự thảo Luật đưa ra khái niệm và điều khoản quy định về cổ phần đặc
biệt của Nhà nước. Đây là khái niệm mới chưa áp dụng trong thực tiễn nước
ta. Trong thời gian tới, trong những trường hợp thật cần thiết khi thực hiện
cổ phần doanh nghiệp nhà nước hoặc khi Nhà nước thấy cần tham gia cổ phần
vào doanh nghiệp tư nhân hay công ty trách nhiệm hữu hạn mà không cần có cổ
phần chi phối, Nhà nước có thể thông qua thỏa thuận áp dụng hình thức này.
b)
Việc áp dụng Luật doanh nghiệp nhà nước đối với tổng công ty và doanh
nghiệp thành viên của tổng công ty.
Có hai loại ý kiến về vấn đề này:
- Ý
kiến thứ nhất cho rằng, Luật doanh nghiệp nhà nước phải quy định chi tiết để
áp dụng cho cả Tổng công ty và đơn vị thành viên của tổng công ty.
- Ý
kiến thứ hai cho rằng, Dự luật chỉ nên quy định chung tổng công ty và đơn vị
thành viên của Tổng công ty đều tuân theo Luật này, còn những quy định cụ
thể về quan hệ giữa tổng công ty và đơn vị thành viên do Chính phủ hướng dẫn
trong Điều lệ tổng công ty ban hành trên cơ sở Luật này.
Ban
soạn thảo cho rằng doanh nghiệp thành viên và tổng công ty đều là doanh
nghiệp nhà nước. Vì vậy, Luật doanh nghiệp nhà nước phải được áp dụng đối
với cả hai loại doanh nghiệp nhà nước đó. Tuy nhiên, doanh nghiệp là thành
viên của tổng công ty bên cạnh việc tuân thủ Luật này, còn phải tuân thủ
những quy định trong nội bộ tổng công ty do Điều lệ tổng công ty quy định.
Vì vậy, Luật này chỉ quy định những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt
động của tổng công ty; doanh nghiệp thành viên của tổng công ty thực hiện
theo Luật này và Điều lệ tổng công ty do Chính phủ ban hành trên cơ sở Luật
này.
3.
Về mở rộng quyền tự chủ và tạo động lực cho doanh nghiệp nhà nước:
- Dự
luật đã mở rộng nhiều quyền và tạo động lực cho doanh nghiệp nhà nước như:
sử dụng và quản lý tài sản, cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng bán trên cơ
sở bảo tồn vốn, đầu tư, liên doanh, góp cổ phần, tăng tích lũy tại doanh
nghiệp bằng nguồn khấu hao cơ bản và lợi nhuận tái đầu tư, tự quyết định quy
mô kinh doanh phù hợp với mục tiêu doanh nghiệp, chủ động tổ chức sản xuất,
kinh doanh đổi mới công nghệ, tự quyết định giá (trừ một vài sản phẩm, dịch
vụ đặc biệt), xuất, nhập khẩu, tự tuyển chọn, thuê mướn lao động, trả lương
cho người lao động trên cơ sở một số chuẩn mực về tiền lương trong giá thành
sản phẩm hoặc chi phí dịch vụ do Chính phủ quy định và hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp, v.v..
- Dự
thảo Luật này còn quy định thêm một số điểm như sau:
+
Quyền của doanh nghiệp nhà nước tự nguyện tham gia các hình thức liên hiệp,
tổng công ty, nhưng trừ một số tổng công ty đặc biệt quan trọng (có tầm vóc
quốc gia, cần phối hợp chặt hơn trong hoạt động, nhà nước cần nắm trực tiếp
các công ty này), do Chính phủ trực tiếp quyết định thành lập.
+ Để
kích thích và tạo động lực cho những người lãnh đạo doanh nghiệp (Hội đồng
quản trị và giám đốc) cũng như bộ máy quản lý doanh nghiệp, Dự thảo Luật quy
định chế độ thu nhập của Giám đốc, bao gồm lương cơ bản, phụ cấp lương và
thưởng. Phần lương cơ bản được sắp xếp theo ngạch bậc viên chức nhà nước để
làm cơ sở cho tính thu nhập về lương, phụ cấp lương, tiền thưởng, tiền lương
bảo hiểm xã hội, v.v.. Phần phụ cấp lương và tiền thưởng chủ yếu phụ thuộc
vào năng suất lao động, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và mức tăng thu
nhập bình quân của người lao động. Quy định như vậy có thể khuyến khích Giám
đốc phát huy hết tài năng của mình, đồng thời bảo đảm sự phân phối hợp lý
trong doanh nghiệp. Luật chỉ quy định nguyên tắc phân phối, Chính phủ sẽ quy
định chi tiết, cụ thể.
+
Giám đốc có quyền bổ nhiệm Trưởng, Phó phòng (ban) thuộc doanh nghiệp, có
quyền đề nghị bổ nhiệm Phó Giám đốc.
+
Luật còn quy định doanh nghiệp có quyền sử dụng số lợi nhuận còn lại (sau
khi đã nộp thuế và lập quỹ phát triển sản xuất (tái đầu tư), quỹ dự phòng)
để khen thưởng, sử dụng vào phúc lợi tập thể hoặc chuyển thành cổ phần của
công nhân viên chức, tạo điều kiện cho công nhân viên chức trở thành cổ đông
của doanh nghiệp. Luật chỉ quy định nguyên tắc, Chính phủ sẽ thực hiện thí
điểm và ban hành quy chế cụ thể.
4.
Về vấn đề đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước:
Dự
luật này xây dựng theo tinh thần của chủ trương từng bước bỏ chế độ chủ quản
trực tiếp đối với các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng khi xử lý vấn đề này còn
có ý kiến khác nhau về việc phân cấp để thực hiện quyền của chủ sở hữu:
- Có
ý kiến cho rằng, chỉ nên tập trung quyền chủ sở hữu ở một số cơ quan như
Chính phủ, Bộ Tài chính, Hội đồng quản trị.
-
Loại ý kiến khác cho rằng, trong điều kiện hiện nay vẫn còn vai trò của Bộ
quản lý ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Vì
vậy, cần có phân cấp cho các cơ quan này trong việc quản lý doanh nghiệp nhà
nước, nhất là đối với doanh nghiệp hoạt động công ích.
Dự
thảo này quy định quyền của chủ sở hữu do Chính phủ thống nhất tổ chức thực
hiện. Vì vậy, việc phân cấp là tùy thuộc Chính phủ xem xét vị trí, quy mô
của doanh nghiệp nhà nước để giao cho Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ Tài chính, Hội đồng quản trị thực
hiện một số chức năng, nhiệm vụ của chủ sở hữu do Chính phủ phân cấp và ủy
quyền.
5.
Về tổ chức quản lý của doanh nghiệp:
-
Trong quá trình soạn thảo có nhiều ý kiến thảo luận về vai trò, chức năng,
nhiệm vụ, trách nhiệm và tên gọi của bộ máy quản lý doanh nghiệp, nhất là về
Hội đồng quản trị. Trong nhiều lần Dự thảo đã quy định doanh nghiệp nhà nước
lớn và Tổng công ty được áp dụng mô hình Hội đồng quản lý, còn doanh nghiệp
nhỏ, áp dụng mô hình Hội đồng doanh nghiệp. Hội đồng quản lý làm chức năng
đại diện chủ sở hữu, còn Hội đồng doanh nghiệp làm chức năng giám sát là chủ
yếu. Để thống nhất tên gọi và nhất quán với mọi loại hình doanh nghiệp, Dự
thảo này quy định tất cả các doanh nghiệp đều áp dụng mô hình Hội đồng quản
trị. Tuy nhiên, Hội đồng quản trị ở các Tổng công ty và doanh nghiệp nhà
nước độc lập có quy mô lớn được ủy quyền thực hiện một số chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn do các cơ quan đại diện chủ sở hữu giao, còn Hội đồng quản trị
ở doanh nghiệp nhỏ có chức năng giảm sát là chủ yếu. Quy định như vậy là phù
hợp với phương hướng của Nhà nước nhằm giảm bớt và tiến tới xóa bỏ dần chế
độ chủ quản, đồng thời cũng phù hợp với quy mô của các loại doanh nghiệp nhà
nước.
- Để
tránh tình trạng Hội đồng quản trị trở thành cấp trung gian, Dự thảo Luật
quy định:
+
Hội đồng quản trị chủ yếu là các thành viên làm việc chuyên trách, trong đó
có Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Hội đồng; khi cần thiết có thể có một số thành
viên kiêm nhiệm là người của doanh nghiệp hoặc ngoài doanh nghiệp.
+
Giám đốc (Tổng Giám đốc) là thành viên đương nhiên của Hội đồng quản trị để
gắn Hội đồng quản trị với Giám đốc và doanh nghiệp.
+
Hội đồng quản trị và Giám đốc cùng chịu trách nhiệm trước Chính phủ về các
chủ trương lớn trong quản lý doanh nghiệp mà Hội đồng quản trị và Giám đốc
đều có quyền tham gia quyết định. Song có sự tách bạch rõ Hội đồng quản trị
chịu trách nhiệm về quyết định những chủ trương, Giám đốc chịu trách nhiệm
điều hành, tổ chức thực hiện. Giám đốc chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản
trị về trách nhiệm điều hành doanh nghiệp, có quyền bảo lưu ý kiến và kiến
nghị cấp trên xử lý khi cần thiết.
+
Hội đồng quản trị chủ yếu sử dụng bộ máy, con dấu của doanh nghiệp, có một
số chuyên viên giúp việc.
6.
Về việc ai là người nhận vốn trước Nhà nước, có hai loại ý kiến:
- Có
ý kiến đề nghị: Hội đồng quản trị và Giám đốc đồng nhận vốn và chịu trách
nhiệm trước Nhà nước về bảo toàn và phát triển vốn.
- Ý
kiến khác cho rằng, Hội đồng quản trị nhận vốn rồi giao lại cho Giám đốc.
Giám đốc chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn trước Hội đồng quản
trị, Hội đồng quản trị có quyền bổ nhiệm, bãi miễn Giám đốc.
Dự
thảo Luật quy định Hội đồng quản trị và Giám đốc đồng nhận vốn và cùng chịu
trách nhiệm trước Nhà nước, vì Giám đốc do Nhà nước bổ nhiệm và cũng là
thành viên của Hội đồng quản trị. Quy định như vậy nhằm gắn trách nhiệm của
Hội đồng quản trị với doanh nghiệp.
7.
Về vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có cổ phần chi
phối của Nhà nước:
Có ý
kiến đề nghị quy định trong Luật những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần
nắm giữ 100% sở hữu thì Nhà nước có quyền bán cổ phần cho người ở trong,
ngoài doanh nghiệp, kể cả người nước ngoài.
Dự
thảo Luật không quy định việc bán cổ phần vì đây là vấn đề phức tạp cần quy
định ở Luật về cổ phần hóa. Tuy nhiên, trong Dự luật có một mục quy định
riêng về việc quản lý các cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp có cổ
phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt của Nhà nước. Những doanh nghiệp này sẽ
hoạt động theo Luật công ty hoặc luật khác tương ứng với loại doanh nghiệp
đó.
Chính phủ xin trình Quốc hội xem xét quyết định để tạo cơ sở pháp lý cho
doanh nghiệp nhà nước hoạt động.
Lưu tại
Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội