VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 2 1994-1995


TỜ TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ
VỀ DỰ THẢO BỘ LUẬT DÂN SỰ
CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

(Do ông Nguyễn Đình Lộc, Bộ trưởng Bộ Tư pháp
đọc tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá IX,
ngày 04-4-1995)

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Ngày 06-02-1995, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã quyết định công bố Dự thảo Bộ luật dân sự và kế hoạch tổ chức lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp về Dự thảo Bộ luật. Ngay từ những ngày đầu tiên được công bố, Dự thảo Bộ luật dân sự đã thu hút được sự quan tâm, chú ý sâu sắc của các tầng lớp nhân dân, các ngành, các cấp trong cả nước. Cho đến nay, tuy chỉ mới hơn một tháng triển khai kế hoạch lấy ý kiến, ở hầu khắp các tỉnh, thành, các ngành ở Trung ương và ở một số nơi đến cấp huyện, quận, đợt đóng góp ý kiến đầu tiên đã được tổ chức chu đáo, có kết quả. Dưới đây, Chính phủ xin báo cáo Quốc hội về quá trình chỉnh lý Dự thảo IX từ giữa năm 1994 đến nay và một số vấn đề xin ý kiến Quốc hội về Dự thảo XII Bộ luật dân sự đã được công bố.

I- VỀ VIỆC CHỈNH LÝ DỰ THẢO BỘ LUẬT DÂN SỰ
SAU KHI ĐƯỢC QUỐC HỘI CHO Ý KIẾN
TẠI KỲ HỌP THỨ 5

Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa IX (tháng 6-1994), sau khi thảo luận Tờ trình của Chính phủ và Dự thảo IX Bộ luật dân sự, các đại biểu Quốc hội đã cho nhiều ý kiến và Quốc hội đã có Nghị quyết giao cho 4 cơ quan là Ban soạn thảo, Ủy ban pháp luật của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục nghiên cứu, chỉnh lý Dự thảo.

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội giao, liên tục trong nhiều ngày của tháng 7 và tháng 8 năm 1994, Ban soạn thảo, Thường trực Ủy ban pháp luật của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cùng các chuyên gia của Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội, rà soát lại từng phần, từng chương, từng điều của Dự thảo, sắp xếp lại các chương, mục của Dự thảo sao cho hợp lý.

Sau khi được Thường trực Chính phủ cho ý kiến, thay mặt các cơ quan được Quốc hội giao, Ban soạn thảo đã báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội về nội dung cụ thể từng phần của Dự thảo X và các vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Tại các phiên họp thường kỳ tháng 8, tháng 9 và tháng 11 năm 1994, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã lần lượt cho ý kiến về từng phần của Dự thảo X: Phần thứ nhất, “Những quy định chung” (tháng 8), Phần thứ hai, “Quyền sở hữu” (tháng 9), và các phần còn lại của Dự thảo (tháng 11).

Tại ba phiên họp nói trên, các thành viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội đã xem xét và cho nhiều ý kiến chỉ đạo làm cơ sở cho việc tiếp tục chỉnh lý Dự thảo X.

Trên tinh thần làm việc khẩn trương, nghiêm túc, hợp tác chặt chẽ giữa 4 cơ quan cùng nhiều chuyên gia pháp luật của Ủy ban pháp luật, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, đến cuối tháng 11-1994, Dự thảo XI đã được hoàn thành với sự nhất trí cao về bố cục, phạm vi và từng chế định cụ thể cũng như cách thể hiện.

Ngày 15 và 16 tháng 12 năm 1994, Bộ Chính trị đã xem xét Tờ trình của Đảng đoàn Quốc hội về một số vấn đề chủ yếu của Dự thảo Bộ luật dân sự và đã có kết luận cho ý kiến về tư tưởng chỉ đạo xây dựng Bộ luật dân sự.

Trên cơ sở kết luận của Bộ Chính trị, các cơ quan hữu quan đã khẩn trương tập trung nghiên cứu, chỉnh lý Dự thảo để trình lại Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp tháng 12-1994. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã xem xét kết quả chỉnh lý và đã có kế hoạch công bố Dự thảo Bộ luật để lấy ý kiến nhân dân.

Dự thảo được công bố lấy ý kiến là Dự thảo XII.

So với Dự thảo IX đã trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Dự thảo XII có những điểm sửa đổi, bổ sung chủ yếu như sau:

- Về bố cục: Dự thảo XII gồm 6 phần, 32 chương, 48 mục và 701 điều, tăng 6 chương, 12 mục và 139 điều (Dự thảo IX gồm 6 phần, 28 chương, 36 mục và 562 điều).

- Về Phần thứ nhất, “Những quy định chung”: hai chủ thể hộ gia đình và tổ hợp tác trong Dự thảo IX quy định ở Chương III sau quy định về cá nhân và trước quy định về pháp nhân, nay được tách thành một chương riêng và đặt sau các Chương II - cá nhân, Chương III - pháp nhân để làm rõ đây là loại chủ thể đặc biệt (thực chất là hạn chế, chỉ tham gia giao lưu dân sự trong những trường hợp do pháp luật quy định).

Ở Chương II, Mục 3 về họ, tên có bổ sung những quy định về hình ảnh của cá nhân; tại Mục 5 “Về hộ tịch” cũng có bổ sung các quy định về đăng ký giám hộ, đăng ký việc nhận nuôi con nuôi, đăng ký việc thay đổi quốc tịch.

- Về Phần thứ hai, “Quyền sở hữu”: các hình thức sở hữu trong Dự thảo IX được quy định trong Chương I “Những quy định chung” đã được tách thành các chương riêng, đồng thời sở hữu thuộc tổ chức chính trị - xã hội được quy định thành một hình thức sở hữu độc lập.

- Về Phần thứ ba, “Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự”: vấn đề trách nhiệm dân sự được làm rõ hơn và được tách thành mục riêng (Mục 3), bổ sung Mục 8 “Hợp đồng vận chuyển” vào Chương II “Hợp đồng dân sự thông dụng”, Chương III “Những quy định về chuyển quyền sử dụng đất” tuy các mục vẫn giữ nguyên nhưng được quy định rõ hơn, cụ thể hơn, nhất là các điều kiện chuyển quyền sử dụng đất cũng như cấu trúc được sắp xếp lại chặt chẽ, cụ thể hơn để dễ áp dụng mà không phải viện dẫn các quy định của Luật đất đai. Vì vậy, so với Dự thảo IX, Chương này được bổ sung 19 điều.

- Về Phần thứ tư, “Thừa kế”: Chương V, “Thừa kế quyền sử dụng đất” được quy định cụ thể hơn về điều kiện được thừa kế đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản cũng như đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở và xử lý việc thừa kế quyền sử dụng đất trong trường hợp vượt mức hạn điền.

- Về Phần thứ năm, “Quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp” của Dự thảo IX được bổ sung chế định chuyển giao công nghệ trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển các quy định của Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (năm 1988), mở rộng phạm vi điều chỉnh, bao gồm cả các quy định về chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài cũng như chuyển giao công nghệ giữa các cá nhân và tổ chức trong nước với nhau.

Phần thứ năm được quy định thành 3 chương và phần này có tiêu đề là “Quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ”.

- Về Phần thứ sáu, “Quan hệ dân sự có nhân tố nước ngoài” được chỉnh lý lại cho rõ hơn và chặt chẽ hơn, trong đó có các quy định về nguyên tắc áp dụng pháp luật được viện dẫn, vấn đề về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp có nhân tố nước ngoài.

Ngoài các vấn đề thuộc nội dung, Dự thảo cũng được hoàn thiện thêm một bước về mặt kỹ thuật lập pháp, bảo đảm tính chặt chẽ về mặt pháp lý và cố gắng theo hướng làm cho lời văn của điều luật rõ ràng, dễ hiểu hơn.

II- NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG
BỘ LUẬT DÂN SỰ

Tiếp theo Tờ trình Quốc hội về Dự thảo Bộ luật dân sự tại kỳ họp thứ 5, trong báo cáo này, chúng tôi xin phép trình bày cụ thể hơn về các quan điểm chỉ đạo xây dựng Bộ luật dân sự.

Trong hệ thống pháp luật nước nhà, Bộ luật dân sự không những là một Bộ luật lớn về số lượng chương, điều mà còn là một văn bản pháp luật làm cơ sở cho nhiều văn bản pháp luật khác, bao quát một lĩnh vực rộng lớn các sinh hoạt xã hội là các giao lưu dân sự của các cá nhân, pháp nhân và các chủ thể dân sự khác. Xuất phát từ vị trí đặc thù đó của Bộ luật dân sự cũng như bối cảnh của giai đoạn xây dựng, thi hành Bộ luật dân sự, việc xây dựng Dự thảo Bộ luật đã quán triệt những quan điểm cơ bản chỉ đạo là:

1. Bộ luật dân sự phải quán triệt và thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và các Nghị quyết của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992, bảo vệ lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, bảo đảm tính dân tộc và thời đại

Trong Dự thảo Bộ luật, yêu cầu đó được cụ thể hóa trong các quy định sau đây:

a) Tăng cường bảo vệ sở hữu toàn dân, sở hữu thuộc tổ chức chính trị - xã hội là một trong những nền tảng quan trọng của quan hệ dân sự bằng cách khẳng định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân, Chính phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân, đồng thời, định ra nguyên tắc để các văn bản pháp luật khác cụ thể hóa về phân cấp quản lý, sử dụng tài sản thuộc sở hữu toàn dân (Điều 145), về phạm vi, trình tự chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân (Điều 146).

Dự thảo Bộ luật dân sự đã khẳng định nguyên tắc bảo vệ sở hữu toàn dân, sở hữu thuộc tổ chức chính trị - xã hội không tính thời hiệu (tức vô thời hạn) trong trường hợp bị chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Không ai có thể trở thành chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân, tài sản thuộc sở hữu của tổ chức chính trị - xã hội bị chiếm hữu không có căn cứ pháp luật mặc dù đã chiếm hữu ngay tình, công khai, liên tục, vẫn không kể, không tính thời hạn (Điều 143).

b) Tăng cường khuyến khích, đẩy mạnh giao lưu dân sự bảo đảm đời sống và phát triển sản xuất thông qua các quy định về phân cấp quản lý, sử dụng tài sản thuộc sở hữu toàn dân (Điều 145) nhằm khuyến khích các cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao tài sản phải sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả tài sản đó vì lợi ích của Nhà nước và của tập thể, của toàn xã hội.

Phù hợp với cơ chế kinh tế mới, Dự thảo cũng quán triệt nguyên tắc có bồi hoàn trong giao lưu dân sự, kể cả đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân, không quy định chế độ chuyển giao không mất tiền.

Ngoài ra, chế định bồi thường thiệt hại trong và ngoài hợp đồng được áp dụng đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân, sở hữu thuộc tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu tập thể cũng sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ, khuyến khích việc sử dụng có hiệu quả các tài sản đó.

c) Tăng cường giao lưu dân sự trên cơ sở bảo đảm sự kết hợp hài hòa lợi ích nhà nước, xã hội và lợi ích cá nhân, thông qua các quy định về tự do giao dịch dân sự, miễn là không trái pháp luật và đạo đức xã hội (Điều 278); nguyên tắc hợp tác trong giao lưu dân sự (Điều 2); nguyên tắc hưởng lợi không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả (các điều từ 525 đến 529).

d) Bảo đảm sự quản lý của Nhà nước trong điều kiện xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận thị trường tự do, vô tổ chức bằng việc quy định điều kiện cho một số giao dịch, nhất là giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, sở hữu đối với bất động sản, đăng ký, cấp phép một số giao dịch; hạn chế tệ nạn cho vay nặng lãi bằng việc quy định chặt chẽ về lãi suất; khung giá mua, bán một số tài sản (Điều 308), khung giá thuê nhà (Điều 371).

đ) Bảo đảm thúc đẩy phát triển nền kinh tế theo hướng mở cửa với bên ngoài nhằm thu hút vốn đầu tư, chất xám, kinh nghiệm quản lý bằng những quy định khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, bảo hộ sở hữu công nghiệp và mở rộng phạm vi chuyển giao công nghệ (Phần thứ năm về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ).

2. Bộ luật dân sự phải góp phần bảo đảm tiếp tục giải phóng sức sản xuất, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư sống và làm việc theo pháp luật vì sự nghiệp phát triển đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh

Yêu cầu này được thể hiện trong các quy định:

a) Tạo cơ chế thông suốt, an toàn trong giao lưu dân sự để mọi cá nhân, tổ chức an tâm khi thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự:

b) Nâng cao vai trò của hợp đồng là căn cứ chủ yếu làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên.

c) Khuyến khích sáng tạo, đẩy mạnh nghiên cứu, áp dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật bằng các quy định cụ thể bảo đảm quyền về tinh thần và vật chất của người sáng tạo, người sử dụng thành quả khoa học, kỹ thuật, thừa nhận sản phẩm trí tuệ, trước hết phải là sở hữu của người trực tiếp tạo ra chúng.

d) Khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ thông qua hợp đồng bảo lãnh, cho vay, cho thuê tài sản, dịch vụ, vận chuyển, gia công, gửi giữ tài sản, ủy quyền, v.v..

đ) Khuyến khích thực hiện nghĩa vụ một cách thực tế, chỉ được trả tiền thay cho việc thực hiện nghĩa vụ, nếu được bên có quyền chấp thuận.

e) Khuyến khích kinh tế hộ gia đình, tổ hợp tác bằng việc công nhận hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể đặc biệt của quan hệ dân sự.

g) Cụ thể hóa 5 quyền sử dụng đất bằng cách quy định rõ về điều kiện chuyển quyền, hình thức, nội dung chuyển quyền sử dụng đất, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên tham gia chuyển quyền sử dụng đất.

3. Bộ luật dân sự xây dựng các chuẩn mực pháp lý cho tổ chức, cá nhân khi tham gia quan hệ dân sự nhằm tăng cường quản lý các sinh hoạt xã hội bằng pháp luật theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc ta

Qua các lần chỉnh lý, nhìn chung, các Dự thảo của Bộ luật thể hiện ngày càng rõ nét yêu cầu này. Phần lớn các quy định của Dự thảo, nhất là phần về “Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự” đều đặt lên hàng đầu nguyên tắc thỏa thuận, tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Tuy nhiên, nếu các bên không thỏa thuận được thì các quy định của Bộ luật dân sự sẽ là chuẩn mực làm căn cứ để cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.

Đồng thời, Dự thảo cũng có nhiều quy định, nhất là ở phần “Những quy định chung” và phần về “Quyền sở hữu” mang tính chất bắt buộc phải tuân theo.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đời sống dân sự của Việt Nam và kế thừa, tiếp thu các truyền thống tốt đẹp trong sinh hoạt cộng đồng của xã hội ta về các vấn đề này Dự thảo có các quy định như sau:

- Xem giám hộ không chỉ là việc đại diện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người được giám hộ mà còn bảo đảm việc chăm sóc, giáo dục người được giám hộ (Điều 13); đối với người chưa thành niên dưới 15 tuổi không còn cha mẹ, giám hộ là một quy định có tính chất bắt buộc.

- Giao dịch dân sự bị xem là vô hiệu, nếu việc giao kết do bị đe dọa, lừa dối, nhầm lẫn (Điều 87, Điều 88).

- Tổ chức chính trị - xã hội có thể bảo lãnh bằng tín chấp cho hộ gia đình nghèo vay vốn (Điều 261). (Đây là quy định mới bổ sung so với Dự thảo IX).

- Các bên phải thực hiện hợp đồng theo nguyên tắc tin cậy lẫn nhau (Điều 292).

- Bảo đảm quyền của người thuê nhà được ưu tiên mua nhà khi chủ nhà bán nhà đang cho thuê (Điều 329).

- Người bán có thể chuộc lại tài sản đã bán sau một thời hạn nhất định (Điều 335).

- Người mua tài sản có thể dùng thử tài sản trước khi mua (Điều 339).

- Người vay phải bảo đảm mục đích sử dụng tài sản vay, và bên cho vay có quyền kiểm tra và hướng dẫn cách sử dụng vốn, tài sản trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nếu các bên có thỏa thuận (Điều 354).

- Để bảo vệ quyền lợi của người thuê khoán, nhất là hộ gia đình, trong trường hợp hoa lợi bị mất ít nhất một nửa do sự kiện bất khả kháng (thiên tai, lũ lụt, v.v.) thì bên thuê khoán có quyền yêu cầu giảm tiền thuê khoán (Điều 389).

- Những người có hành vi trái đạo đức, thuần phong, mỹ tục như xâm phạm tính mạng, sức khỏe, ngược đãi, hành hạ người để lại si sản, người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản việc lập di chúc, giả mạo, sửa chữa di chúc để hưởng lợi thì bị tước quyền hưởng thừa kế (Điều 565).

- Người chết có thể để lại một phần di sản để dùng vào việc thờ cúng (Điều 590).

- Người chết có thể di tặng cho người mình có quan hệ thân thiết (Điều 591).

4. Bộ luật dân sự phải góp phần hạn chế tranh chấp, tiêu cực trong các quan hệ dân sự, làm lành mạnh các quan hệ xã hội, bảo đảm dân chủ, công bằng, giữ vững ổn định, phát huy tinh thần phấn khởi, đoàn kết trong nội bộ nhân dân, mỗi người vì cộng đồng và cộng đồng vì mỗi người

Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình hình tranh chấp có xu hướng ngày càng tăng trong các quan hệ dân sự là do chúng ta chưa có đầy đủ các quy định pháp luật dân sự rõ ràng để các tổ chức, cá nhân tự điều chỉnh cách xử sự của mình, đồng thời là căn cứ để các bên hòa giải và cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Bằng việc ban hành Bộ luật này, kết hợp với việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện, đặc biệt là tăng cường hoạt động của các tổ hòa giải, các tranh chấp dân sự sẽ được giải quyết tại cơ sở, bảo đảm sự ổn định của sinh hoạt cộng đồng. Ngoài ra, Dự thảo cũng có một số quy định trực tiếp liên quan đến việc bảo đảm yêu cầu phát huy dân chủ, công bằng xã hội, tinh thần cộng đồng như:

- Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự ngang nhau (Điều 6).

- Các bên giao kết hợp đồng đều bình đẳng với nhau (Điều 278).

- Xác định sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu chung hợp nhất không phân chia (Điều 158).

- Trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng mẫu phải chịu bất lợi xảy ra khi giải thích điều khoản đó (Điều 289).

- Mọi cá nhân có lỗi gây thiệt hại đối với tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của người khác đều phải bồi thường (các điều từ 530 đến 555).

5. Bộ luật dân sự được ban hành phải là một bước quan trọng trong pháp điển hóa pháp luật dân sự của nước nhà theo hướng mở rộng đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Bộ luật với các quan hệ dân sự, khắc phục tình trạng tản mạn không đầy đủ của pháp luật hiện hành trong lĩnh vực dân sự nhằm phát huy vai trò, tác dụng của pháp luật dân sự trong việc đẩy mạnh giao lưu dân sự, tạo cơ sở thuận lợi cho việc áp dụng, thi hành pháp luật

Trong những năm qua, nhất là từ khi Nhà nước và xã hội ta tiến hành công cuộc đổi mới, nhiều văn bản pháp luật thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng vào lĩnh vực giao lưu dân sự như Pháp lệnh hợp đồng dân sự, Pháp lệnh về nhà ở, Pháp lệnh về thừa kế, các Pháp lệnh về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ cùng nhiều văn bản của Chính phủ, các Bộ, ngành đã được ban hành. Ưu tiên nổi bật của các văn bản pháp luật đó là ở tính cập nhật, kịp thời đáp ứng nhu cầu bức xúc của cuộc sống. Nhưng lại có nhược điểm phổ biến ở tính đơn hành và trong nhiều trường hợp là phân tán, tản mạn, không đầy đủ, mâu thuẫn, chồng chéo.

Hơn nữa, xã hội ta hiện đang trong quá trình chuyển đổi giai đoạn, chuyển đổi cơ chế. Có những quan hệ dân sự chỉ mới định hình, chưa thật ổn định. Xây dựng Bộ luật dân sự trong hoàn cảnh đó chỉ có thể là thực hiện một bước quan trọng tập hợp, hệ thống hóa và nâng cao, ở một trình độ cao hơn - pháp điển hóa pháp luật dân sự nước ta tức là xây dựng thành Bộ luật dân sự thu hút bao quát tương đối đầy đủ các quy định của các văn bản hiện hành. Nhưng đây cũng chỉ là một bước và là bước quan trọng pháp điển hóa pháp luật dân sự của nước nhà theo hướng những quan hệ dân sự nào đã rõ, ổn định thì đưa vào Bộ luật dân sự, còn những quan hệ nào chưa thật rõ thì cần cân nhắc, tiếp tục nghiên cứu để bổ sung trong quá trình thực hiện Bộ luật. Không nóng vội nhưng cũng không cầu toàn.

Dự thảo Bộ luật dân sự kế thừa và phát triển những quy định của pháp luật dân sự đã được ban hành và thực hiện trong gần nửa thế kỷ qua của chính quyền nhân dân mà vẫn còn phù hợp với tình hình hiện nay và trong thời gian tới; chú trọng đúc rút, tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật dân sự và công tác xét xử dân sự của Tòa án nhân dân các cấp.

Nhìn chung, Dự thảo Bộ luật dân sự đã cố gắng bao quát hầu hết các vấn đề của quan hệ dân sự, tuy nhiên về quan hệ hôn nhân, gia đình thì cần tiếp tục cân nhắc là có nên đưa toàn bộ các quan hệ này vào Bộ luật dân sự không?

Về các quan hệ liên quan đến quyền tác giả, do có thuận lợi là Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả vừa được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua, nên toàn bộ các vấn đề dân sự về quyền tác giả đã được quy định vào Dự thảo Bộ luật.

Về quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ, các quy định hiện hành về quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ mang tính dân sự và các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung đã được quy định cụ thể trong Dự thảo Bộ luật.

Về các quy định liên quan đến việc chuyển quyền sử dụng đất, Dự thảo Bộ luật đã có sự cố gắng cụ thể hóa theo hướng bảo đảm tính nguyên tắc của các quy định pháp luật đất đai; đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, bảo đảm tính chặt chẽ về điều kiện chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp quyền sử dụng đất, điều kiện thừa kế quyền sử dụng đất.

III- NHỮNG VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN QUỐC HỘI
VỀ DỰ THẢO XII BỘ LUẬT DÂN SỰ

Trong quá trình nghiên cứu, chỉnh lý Dự thảo và bước đầu lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp, nhiều ý kiến thể hiện sự đồng tình, nhất trí không chỉ với chủ trương xây dựng và sớm ban hành Bộ luật dân sự mà cả với bố cục và nội dung chủ yếu của Dự thảo Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, đối với một số vấn đề thì hiện vẫn còn có các ý kiến khác nhau. Chúng tôi xin báo cáo trình Quốc hội cho ý kiến về một số vấn đề chủ yếu đó.

Vấn đề thứ nhất: VỀ PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH
CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ

Trong vấn đề này, ý kiến còn khác nhau chủ yếu là có nên đưa toàn bộ các quan hệ hôn nhân và gia đình vào trong Bộ luật dân sự không?

- Có ý kiến đề nghị toàn bộ các quan hệ hôn nhân và gia đình cần được quy định vào Bộ luật dân sự, vì đây cũng là các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản mang tính chất dân sự gắn liền với mỗi con người. Hơn nữa, khi chưa có Bộ luật dân sự thì quan hệ hôn nhân và gia đình có thể được quy định trong một đạo luật riêng (Luật hôn nhân và gia đình), nay xây dựng Bộ luật dân sự, tức là pháp điển hóa pháp luật dân sự thì phải thu hút vào đây tất cả các quan hệ này.

- Có ý kiến khác lại đề nghị khi đã đưa quan hệ hôn nhân và gia đình vào Bộ luật dân sự thì phải đưa toàn bộ, nếu không thì để hẳn ra thành một luật riêng mà không nên chỉ đưa một số vào Bộ luật dân sự, vì như vậy sẽ rất khó khăn lúng túng trong quá trình áp dụng, thi hành Bộ luật.

Trong Dự thảo Bộ luật dân sự, các quan hệ hôn nhân và gia đình được quy định tại các điều 16, 36, 37, 45, 46, 49, 52, 93, 158, 588, 589, 600 liên quan đến chế độ giám hộ, mất tích, tuyên bố chết, đại diện, sở hữu chung của vợ chồng, di chúc chung, thừa kế, v.v..

Như vậy, Dự thảo Bộ luật dân sự chỉ quy định một số quan hệ về hôn nhân và gia đình có liên quan, còn toàn bộ các vấn đề cụ thể thuộc lĩnh vực này được dành cho Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh.

Ở nước ta, sự phát triển của pháp luật về hôn nhân và gia đình có những nét đặc thù. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, trong khi xã hội ta chưa xây dựng được Bộ luật dân sự, thì ở những thời điểm có tính chuyển đổi giai đoạn của lịch sử đất nước, hai luật hôn nhân và gia đình đã lần lượt được ban hành. Năm 1959, Nhà nước ta đã ban hành Luật hôn nhân và gia đình, đến năm 1986 lại được thay thế bằng Luật mới. Mặt khác, hiện nay Chương trình xây dựng pháp luật năm 1995 đã xác định việc sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thành Luật mới. Sự tồn tại độc lập trong hơn 30 năm nay của Luật hôn nhân và gia đình, một mặt phản ánh con đường phát triển đặc thù của hệ thống pháp luật nước ta, mặt khác, quan hệ hôn nhân và gia đình ở nước ta gắn liền với phong tục, tập quán lâu đời của các dân tộc Việt Nam, trong đó có những truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam hình thành qua nhiều thế kỷ. Có thể nói, trong xã hội ta, quan hệ hôn nhân và gia đình trước hết là quan hệ tình cảm, tình nghĩa, sau đó mới đến quan hệ tài sản. Ngay quan hệ tài sản của vợ chồng cũng được chi phối, thể hiện quan niệm “của chồng, công vợ” “thuận vợ, thuận chồng”. Hơn nữa, sự ra đời sớm của Luật hôn nhân và gia đình ở nước ta ngay sau cải cách ruộng đất còn phản ánh yêu cầu bức xúc giải phóng phụ nữ về mặt xã hội trong các quan hệ hôn nhân và gia đình, xóa bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái (Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959), đồng thời thể hiện yêu cầu xây dựng gia đình mới tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng (Điều 1 của Luật), tạo nên sự ổn định và vững bền của hôn nhân, gia đình mới - với tính cách là một tế bào xã hội, cơ sở của sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Qua đó cho thấy tính đặc thù của quan hệ hôn nhân và gia đình. Cũng phải thấy các quan hệ hôn nhân và gia đình được điều chỉnh không chỉ thuần túy dưới giác độ dân sự mà còn mang tính chất hành chính - tư pháp.

Xét theo tính chất của quan hệ thì trong xã hội ta tuy giao lưu dân sự và hôn nhân, gia đình đều được xây dựng theo nguyên tắc bình đẳng, nhưng nội dung của nguyên tắc bình đẳng của hai loại quan hệ đó có khác nhau. Bình đẳng trong giao lưu dân sự chủ yếu phản ánh quy luật giá trị (ngang giá), còn quan hệ hôn nhân và gia đình chủ yếu dựa trên quan hệ tình cảm, sự tôn trọng và cả tình nghĩa đối với nhau. Một nét đặc thù của quan hệ hôn nhân và gia đình khác với giao lưu dân sự là ngay cả trong trường hợp quan hệ hôn nhân, gia đình đã tan vỡ, bị cắt đứt, hai bên vốn là vợ chồng vẫn tiếp tục có trách nhiệm với nhau, nếu một bên có khó khăn thì bên kia có nghĩa vụ giúp đỡ, cấp dưỡng; vẫn còn trách nhiệm chung trong việc giáo dục, chăm sóc các con, còn quan hệ giữa các bên trong giao dịch dân sự thì khác: giao dịch dân sự kết thúc thì nghĩa vụ của hai bên đối với nhau cũng chấm dứt.

Hiện nay, sau 35 năm phát triển, trên cơ sở Luật năm 1959 và sau đó Luật năm 1996, các quan hệ hôn nhân và gia đình Việt Nam về cơ bản đã là quan hệ hôn nhân, gia đình dân chủ, tiến bộ và các quan hệ dân sự sẽ được Bộ luật dân sự lần này điều chỉnh cũng được xây dựng theo hướng dân chủ, tiến bộ thì vấn đề đặt ra là, có nhất thiết tiếp tục duy trì Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh một mảng lớn các quan hệ có tính chất của quan hệ dân sự là các quan hệ hôn nhân và gia đình, tồn tại song song bên cạnh Bộ luật dân sự vốn có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân mang tính dân sự không? Hay là trên cơ sở tổng kết, khẩn trương sửa đổi, bổ sung và nếu đạt yêu cầu sẽ đưa toàn bộ Luật hôn nhân và gia đình vào thành một nội dung quan trọng của Bộ luật dân sự. Đây là vấn đề Chính phủ xin đề nghị Quốc hội thảo luận, cho ý kiến.

Vấn đề thứ hai: VỀ CHỦ THỂ CỦA QUAN HỆ
PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Dự thảo Bộ luật dân sự quy định 4 loại chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác, trong đó hộ gia đình và tổ hợp tác là các chủ thể đặc biệt, xét theo thực chất là chủ thể hạn chế, chỉ là chủ thể trong các trường hợp được pháp luật quy định, bên cạnh các chủ thể truyền thống, phổ biến trong giao lưu dân sự là cá nhân và pháp nhân.

Có ý kiến cho rằng, hộ gia đình và tổ hợp tác không phải là cá nhân và cũng không phải là pháp nhân và như vậy thì địa vị pháp lý dân sự của hai loại này không rõ ràng. Mặt khác, hộ gia đình chỉ là chủ thể đặc thù trong quan hệ về đất đai, nhất là ở nông thôn chứ ở đô thị thì không có ý nghĩa, còn tổ hợp tác là một tổ chức không bền vững, chỉ mang tính chất “giai đoạn” trong nhiều trường hợp chỉ tồn tại tạm thời “sớm hợp, chiều tan”. Do vậy, không nên đưa hai loại này thành chủ thể của quan hệ dân sự.

Có ý kiến đề nghị hộ gia đình chỉ là chủ thể trong quan hệ đất đai và như vậy chỉ nên quy định trong phần về chuyển quyền sử dụng đất, còn tổ hợp tác thì nên xem như một loại hợp đồng, đây là hợp đồng hợp tác và đưa vào phần về các loại hợp đồng dân sự thông dụng.

Dự thảo Bộ luật dân sự quy định hộ gia đình và tổ hợp tác là các chủ thể của quan hệ dân sự trong những trường hợp do pháp luật quy định là xuất phát từ đời sống thực tế hiện nay cũng như theo quy định của pháp luật hiện hành.

Ở nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vai trò của hộ gia đình và tổ hợp tác trong giao lưu dân sự, kinh tế có ý nghĩa quan trọng. Trên thực tế hộ gia đình và tổ hợp tác là đơn vị kinh tế tự chủ đã và đang tồn tại. Đảng và Nhà nước cũng đã có chủ trương khuyến khích, phát triển các đơn vị kinh tế này không chỉ trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp mà cả trong tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Các đơn vị này cũng đã tham gia vào nhiều quan hệ pháp luật (nhận đất, thuê đất, chuyển quyền sử dụng đất, ký kết hợp đồng, v.v..).

Về hộ gia đình, Điều 21 Hiến pháp quy định: “Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển”. Trong Luật đất đai năm 1993 quy định rõ hộ gia đình là chủ thể của quyền sử dụng đất (không chỉ đối với đất nông nghiệp mà cả đất lâm nghiệp, đất ở, v.v..). Tại Điều 19 của Luật có đến 25 lần đề cập hộ gia đình với tính cách là một chủ thể của quyền sử dụng đất. Với tư cách này, theo Điều 3 của Luật đất đai, hộ gia đình có 5 quyền; và nếu 5 quyền đó được cụ thể hóa trong Bộ luật dân sự thì hộ gia đình sẽ tham gia khá rộng rãi vào các giao lưu dân sự. Hơn nữa, hộ gia đình không chỉ là một chủ thể “tiêu thụ”. Kinh tế gia đình trong tiểu, thủ công nghiệp, trong dịch vụ hiện nay khá phát triển.

Ngoài ra, trong một số quan hệ về thuê nhà, sử dụng nước, sử dụng điện, v.v. thì hộ gia đình cũng tham gia với tư cách là chủ thể.

Về tổ hợp tác, Điều 20 Hiến pháp năm 1992 quy định: kinh tế tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Trong thực tế, các hình thức hợp tác với quy mô khác nhau về vốn, nhân lực, kỹ thuật đã và đang được tổ chức hết sức đa dạng và phong phú.

Thực tế xã hội ta hiện nay cho thấy, bên cạnh hình thức hợp tác với tổ chức chặt chẽ, ổn định có đầy đủ các điều kiện của một pháp nhân thì còn có nhiều tổ chức hợp tác được thành lập với quy mô, mức độ thấp, tổ chức chưa hoàn chỉnh nhằm thực hiện một số loại vụ việc, tồn tại trong một thời gian nhất định. Loại tổ chức này khá phổ biến trong giai đoạn hiện nay, nhất là trong tình hình nhiều hợp tác xã được thành lập trước đây bị giải thể do không còn phù hợp với cơ chế mới, thay vào đó, do nhu cầu tự nhiên của sản xuất, kinh doanh các hình thức liên doanh, liên kết, hợp tác với nhau giữa người sản xuất, kinh doanh cùng nghề và cả trong trường hợp khác ngành nghề trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi đã ra đời, ở trình độ thấp, sơ khai đó là các tổ hợp tác. Các hình thức hợp tác ở mức độ thấp vẫn phát huy tác dụng. Đây là một hình thức tập dượt cho người lao động đi vào con đường làm ăn tập thể. Tuy nhiên, do chưa có pháp luật quy định cụ thể về địa vị pháp lý của loại hình tổ chức hợp tác này nên trong thực tế có hiện tượng tổ hợp tác trá hình, có khi là lừa đảo, làm ăn bất chính mà Nhà nước khó kiểm soát, hướng dẫn. Chính vì vậy, cần xác định rõ tư cách chủ thể với những quy định chặt chẽ nhằm, một mặt khuyến khích loại hình hợp tác này và phát triển đúng hướng, mặt khác, góp phần lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động của các tổ chức kinh tế đang mang tên tổ hợp tác như hiện nay.

Từ đó, cho thấy Bộ luật dân sự cần thừa nhận tư cách chủ thể của hộ gia đình và tổ hợp tác trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và làm rõ địa vị pháp lý của các chủ thể này về các mặt tổ chức, đại diện, tài sản và trách nhiệm dân sự.

Vấn đề thứ ba: QUYỀN SỞ HỮU

Tài sản và quyền sở hữu tài sản là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu đối với phát triển kinh tế - xã hội. Quyền sở hữu cũng là chế định trung tâm của pháp luật dân sự, Bộ luật dân sự phải quy định về quyền sở hữu với ý nghĩa là chế định quan trọng hàng đầu của Bộ luật, có ảnh hưởng và chi phối các chế định về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng, thừa kế, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, v.v..

Nhiều ý kiến thể hiện sự nhất trí với các quy định trong Phần này của Dự thảo. Các ý kiến còn khác nhau, chủ yếu tập trung ở việc xác định các hình thức sở hữu, cũng như vị trí của sở hữu trí tuệ gồm các quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp trong Dự thảo.

Về hình thức sở hữu:

- Có ý kiến đề nghị chỉ có 3 hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân như quy định tại Điều 15 Hiến pháp.

- Có ý kiến đề nghị có 4 hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu chung, còn sở hữu thuộc các tổ chức chính trị - xã hội là một dạng của sở hữu tập thể, mà không nên quy định thành một hình thức sở hữu độc lập. Cũng có ý kiến nhất trí sở hữu thuộc các tổ chức chính trị - xã hội là một hình thức sở hữu độc lập nhưng cần mở rộng phạm vi đối với các các tổ chức xã hội khác như hội, hiệp hội, quỹ.

- Có ý kiến đề nghị chỉ có hai hình thức sở hữu là sở hữu cá nhân (có nội dung như quy định về sở hữu tư nhân trong Dự thảo cộng thêm sở hữu đối với quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp) và sở hữu cộng đồng (bao gồm: sở hữu chung, sở hữu của các tổ chức chính trị - xã hội, hiệp hội, pháp nhân công và pháp nhân tư, hợp tác xã, sở hữu hỗn hợp giữa các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau).

- Cũng có ý kiến đề nghị có 3 hình thức sở hữu là: sở hữu nhà nước, sở hữu cộng đồng và sở hữu cá nhân.

Dự thảo Bộ luật dân sự quy định 5 hình thức sở hữu, bao gồm: sở hữu toàn dân, sở hữu thuộc tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu chung. Việc xác định các hình thức sở hữu như trong Dự thảo là xuất phát từ quy định của Hiến pháp và đặc thù của giai đoạn phát triển ở nước ta hiện nay.

Theo Điều 15 của Hiến pháp 1992, ở nước ta hiện nay, tồn tại 3 chế độ sở hữu: toàn dân, tập thể và tư nhân. Việc xác định 3 chế độ sở hữu là xuất phát từ nội dung kinh tế của sở hữu. Xét về mặt pháp lý, tương ứng với 3 chế độ sở hữu là 3 hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Mặt khác, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, 3 hình thức sở hữu này không tồn tại một cách biệt lập, tách rời nhau mà trong nhiều hoạt động sản xuất - kinh doanh có sự đan xen, liên kết tạo thành các hình thức sở hữu đa dạng, trong đó có hình thức sở hữu chung thuộc nhiều chủ sở hữu khác nhau, không phân biệt thành phần kinh tế.

Dự thảo Bộ luật dân sự khẳng định các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta (bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Công đoàn, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân…) có tài sản thuộc sở hữu của mình để phục vụ cho hoạt động theo mục đích mà chính cương, điều lệ đã quy định. Đây là một vấn đề mới trong quan niệm về sở hữu của các tổ chức này. Trong quá trình đổi mới ở nước ta, các tổ chức chính trị - xã hội đã có tài sản riêng từ các nguồn khác nhau: các thành viên đóng góp, được tặng cho, thừa kế, tài trợ quốc tế, từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, v.v.. Một tổ chức chính trị - xã hội đã được Nhà nước xác nhận, chuyển giao quyền sở hữu đối với một số tài sản nhất định. Do đó, việc quy định sở hữu của các tổ chức chính trị - xã hội trong Dự thảo Bộ luật dân sự là cần thiết. Lần đầu tiên trong pháp luật nước ta, Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận Công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội (Điều 10). Luật Công đoàn được Quốc hội thông qua năm 1990 cũng đã thừa nhận Công đoàn có bất động sản, động sản, v.v. thuộc quyền sở hữu của Công đoàn (Điều 17 Luật Công đoàn).

Mặt khác, cũng không thể xem sở hữu thuộc các tổ chức chính trị - xã hội là sở hữu tập thể, vì theo Điều 20 của Hiến pháp năm 1992 thì kinh tế tập thể và tương ứng với nó là sở hữu tập thể, trong đó loại hình phát triển cao là hợp tác xã là do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức, trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Như vậy, đặc trưng của sở hữu tập thể là sự đóng góp của các thành viên về vốn, về sức. Họ cùng lao động và cùng hưởng lợi từ đó, có thể thấy sở hữu tập thể khác với sở hữu thuộc các tổ chức chính trị - xã hội ở chỗ: tài sản thuộc sở hữu của tổ chức chính trị - xã hội được khai thác, sử dụng nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của tổ chức đó, chứ không phải là do các thành viên cùng góp vốn, góp sức để cùng hưởng lợi do việc khai thác tài sản đem lại.

Từ đó, cần xác định sở hữu thuộc các tổ chức chính trị - xã hội là một hình thức sở hữu độc lập.

Về vị trí của quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ trong bố cục của Dự thảo Bộ luật dân sự:

Có ý kiến đề nghị xem quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp thực chất là sở hữu trí tuệ (sở hữu đối với sáng tạo tinh thần). Do đó, không nên quy định thành một phần riêng và đặt ở phần cuối, tách xa phần II “Quyền sở hữu” như trong Dự thảo mà nên quy định thành một chương trong Phần thứ hai “Quyền sở hữu” của Dự thảo.

Dự thảo quy định quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ trong một phần riêng của Dự thảo (Phần thứ năm) là xuất phát từ những đặc thù của quyền này. Đây là các quyền đối với sáng tạo tinh thần, do đó, các quyền nhân thân của tác giả và các quyền tài sản phát sinh từ các quyền nhân thân có mối quan hệ mật thiết với nhau mà không đơn thuần chỉ là quyền tài sản như trong “Quyền sở hữu”. Vấn đề có tính chất kỹ thuật là cân nhắc, sắp xếp vị trí của phần này như trong Dự thảo hay nên xếp liền kề ngay sau phần “Quyền sở hữu”.

Vấn đề thứ tư: VỀ NGHĨA VỤ DÂN SỰ

Nói đến giao lưu dân sự, thực chất là nói đến nghĩa vụ dân sự. Đó là quan hệ dân sự được pháp luật quy định, theo đó một hoặc nhiều người buộc phải làm một việc hoặc không được làm một việc cho một hoặc nhiều người khác (Điều 170 Dự thảo).

Trong đời sống xã hội, nghĩa vụ dân sự rất đa dạng và phong phú, có thể phát sinh từ hợp đồng dân sự, từ hành vi dân sự đơn phương (như di chúc) từ việc hưởng lợi không có căn cứ pháp luật, từ việc gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật, v.v., trong đó căn cứ phát sinh nghĩa vụ từ hợp đồng có tính chất phổ biến và quan trọng nhất.

Nhiều ý kiến đồng tình với những quy định về hợp đồng dân sự trong Dự thảo và cho rằng Dự thảo đã nêu được nhiều loại hợp đồng thông dụng với những điều khoản cụ thể làm chuẩn mực cho quan hệ hàng ngày trong giao lưu dân sự; tuy nhiên, cũng còn có những ý kiến khác nhau về một số vấn đề mà nổi lên là khái niệm hợp đồng dân sự và vấn đề góp họ (hụi).

Mặt khác, để bảo đảm an toàn trong giao lưu dân sự Dự thảo quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, đặt cược, ký quỹ, bảo lãnh. Việc quy định các biện pháp này rất quan trọng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ về tài sản, đề cao trách nhiệm của người có nghĩa vụ. Ý kiến còn khác nhau trong phần này là vấn đề cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự và vấn đề “tín chấp”.

Trong phần trách nhiệm dân sự (chế tài dân sự) thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chiếm vị trí quan trọng trong Dự thảo (từ Điều 530 đến Điều 555), trong đó đã xác định rõ việc bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp cụ thể và được nhiều ý kiến tán thành. Vấn đề còn có ý kiến khác nhau là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.

1. Về khái niệm hợp đồng dân sự

Có ý kiến cho rằng khái niệm hợp đồng dân sự được quy định trong Dự thảo là đúng nhưng chưa thật rõ, khó phân biệt với khái niệm hợp đồng kinh tế, trong khi đó cần có sự phân biệt này vì trong hệ thống pháp luật hiện hành của nước ta có Pháp lệnh về hợp đồng dân sự, lại có Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế. Khi có tranh chấp về hợp đồng thì lại do hai Tòa chuyên trách trong Tòa án nhân dân giải quyết, đó là Tòa dân sự và Tòa kinh tế, theo hai thủ tục tố tụng khác nhau được quy định trong hai pháp lệnh khác nhau, một là: Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; hai là Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.

Khái niệm hợp đồng dân sự được quy định tại Điều 277 của Dự thảo Bộ luật dân sự như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Quy định này được xây dựng trên cơ sở kế thừa khái niệm hợp đồng dân sự của Pháp lệnh hợp đồng dân sự (ban hành năm 1991), đồng thời cụ thể hóa khái niệm giao dịch dân sự (được quy định tại Điều 76 Dự thảo) có nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của một số nước quy định về hợp đồng trong Bộ luật dân sự.

Khái niệm hợp đồng kinh tế được quy định tại Điều 1 và Điều 2 của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (ban hành năm 1989) theo đó, hợp đồng kinh tế được xác định bởi hai dấu hiệu: (1) Nếu xét về tính chất, đó phải là hợp đồng nhằm mục đích kinh doanh; (2) Chủ thể tham gia hợp đồng là pháp nhân với pháp nhân; pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.

Dựa vào hai dấu hiệu này của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, có thể phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự, từ đó xác định Tòa kinh tế hay Tòa dân sự trong Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh.

2. Về vấn đề cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự

Vấn đề đặt ra là có thể dùng một tài sản để cầm cố, thế chấp nhằm bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự được không?

- Có ý kiến cho rằng, một tài sản chỉ được đem cầm cố hoặc thế chấp bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ để tránh lừa đảo.

- Có ý kiến lại cho rằng, một tài sản có thể được đem cầm cố, thế chấp để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ như Dự thảo đã quy định. Để tránh hiện tượng tiêu cực là lợi dụng việc đem một tài sản cầm cố, thế chấp nhiều lần để lừa đảo, cần quy định cơ chế đăng ký tài sản cũng như việc xác định giá trị tài sản đem bảo đảm phải bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm.

Dự thảo quy định: “Một tài sản có đăng ký theo quy định của pháp luật thì có thể được cầm cố để bảo đảm việc thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu tài sản cầm cố có giá trị bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm” (khoản 3 Điều 215) và “Một tài sản có thể được thế chấp để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu có giá trị bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm” (khoản 3 Điều 231).

Một vấn đề khác đặt ra là, trong trường hợp một tài sản đem bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ trong đó có nghĩa vụ đã đến hạn, nhưng các nghĩa vụ khác lại chưa đến hạn thì xử lý như thế nào? Và thứ tự ưu tiên thanh toán nên như thế nào là hợp lý:

- Có ý kiến đề nghị trong trường hợp này chỉ xử lý nghĩa vụ đến hạn, còn nghĩa vụ chưa đến hạn vẫn có hiệu lực và thứ tự ưu tiên thanh toán được thực hiện theo giá trị của mỗi nghĩa vụ.

- Cũng có ý kiến đề nghị việc thanh toán các nghĩa vụ được tính theo tỷ lệ tương ứng với giá trị của mỗi nghĩa vụ để bảo đảm công bằng cũng như bảo vệ được quyền lợi của cả người đem tài sản bảo đảm và người nhận bảo đảm.

Dự thảo Bộ luật dân sự quy định: trong trường hợp phải xử lý tài sản để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn, thì các nghĩa vụ khác dù tuy chưa đến hạn đều được coi là đến hạn. Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự thời điểm lập văn bản cầm cố hoặc theo thứ tự thời điểm đăng ký việc cầm cố, thế chấp, nếu có đăng ký (khoản 2 Điều 227, khoản 2 Điều 245). Như vậy việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp để bảo đảm việc thực hiện nhiều nghĩa vụ phải được tiến hành công khai, có thông báo cho tất cả những người có quyền đối với tài sản để họ có thể tham gia vào việc xử lý. Tuy nhiên, trên thực tế không phải trong mọi trường hợp các bên có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan đến tài sản cầm cố, thế chấp đều thanh toán nghĩa vụ từ tài sản cầm cố, thế chấp, mà họ có thể thỏa thuận tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đó bằng cách bảo đảm bằng tài sản khác hoặc có biện pháp bảo đảm khác có thể xử lý theo phương thức người mua tài sản cầm cố, thế chấp trở thành người bảo lãnh cho người có nghĩa vụ.

3. Về vấn đề tín chấp

Đây là một vấn đề đã được cân nhắc trong quá trình xây dựng Dự thảo, nhưng chỉ mới được đưa vào Dự thảo XII trên cơ sở đánh giá tác dụng của hoạt động bảo lãnh của các tổ chức chính trị - xã hội cho các hộ gia đình nghèo vay vốn sản xuất đang được áp dụng rộng rãi ở nhiều địa phương của nước ta, nhất là ở nông thôn, đồng thời, cũng phù hợp với truyền thống coi trọng chữ “tín”, tin cậy, giúp đỡ lẫn nhau, phù hợp với chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong việc hỗ trợ phát triển nông thôn, xóa đói, giảm nghèo.

Có ý kiến cho rằng, Dự thảo chỉ nên quy định việc bảo lãnh bằng tài sản hoặc bằng việc thực hiện một công việc mà không nên thừa nhận sự bảo lãnh bằng “uy tín” vì nó không bảo đảm thanh toán nợ.

Dự thảo Bộ luật dân sự có tính đến thực tế này và tại Điều 261 có quy định chặt chẽ về tín chấp: chỉ tổ chức chính trị - xã hội mới được làm người bảo lãnh bằng tín chấp và người được bảo lãnh phải là hộ gia đình nghèo vay vốn để sản xuất và người cho vay chỉ là ngân hàng. Hơn nữa, tổ chức chính trị - xã hội ở đây thường là Hội Phụ nữ, Hội cựu chiến binh. Các tổ chức này thường không chỉ đứng ra bảo lãnh bằng lời mà còn tổ chức, giúp đỡ hướng dẫn cách làm ăn, sử dụng vốn cho người được bảo lãnh. Trên thực tế, cũng đã xảy ra trường hợp người được bảo lãnh không trả được nợ đúng hạn. Trong trường hợp đó, bằng nhiều biện pháp như thương lượng hoãn nợ, tạo điều kiện giúp đỡ người được bảo lãnh tiếp tục ổn định phát triển kinh tế, đời sống để thực hiện nghĩa vụ của mình.

4. Về vấn đề góp họ (hụi)

Trong những năm bắt đầu chuyển đổi cơ chế, trước nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh, tình trạng góp họ có lãi tràn lan một cách tự phát, thiếu sự quản lý chặt chẽ. Không ít người lợi dụng sơ hở của pháp luật để lừa đảo, chiếm dụng vốn của người khác gây nhiều hậu quả tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội, lòng tin của đông đảo nhân dân.

Trong Dự thảo IX đã trình Quốc hội có 2 điều quy định về họ (hụi). Đó là Điều 328 “Vay theo họ (hụi) không có lãi” và Điều 329 “Vay theo họ có lãi”. Tuy nhiên, trong quá trình chỉnh lý Dự thảo có ý kiến tính đến mặt trái của “hụi”, “họ” nên đã có đề nghị không đưa vào Bộ luật mà chỉ nên để cho sự tự điều chỉnh trong dân gian cũng vì vậy, Dự thảo này đã không đưa vào.

Hiện nay, bước đầu tập hợp ý kiến nhân dân tham gia Dự thảo, thấy ý kiến về vấn đề này còn khá khác nhau:

- Bên cạnh ý kiến cho rằng, không nên đưa “góp họ” vào Bộ luật dân sự, vì trong thực tế thường xảy ra hiện tượng trốn nợ, lừa đảo, kinh doanh trá hình và cho vay nặng lãi, cho nên, Bộ luật dân sự không nên hợp pháp hóa một hiện tượng có nhiều tác động tiêu cực đến sự ổn định xã hội, thì vẫn còn ý kiến cho rằng cần phân biệt góp họ không có lãi là một tập quán tốt đẹp và góp họ có lãi là hình thức cho vay nặng lãi dễ bị lợi dụng để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người cho vay. Góp họ không có lãi là một hình thức tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cần được cân nhắc để quy định trong Bộ luật. Còn góp họ có lãi mang yếu tố kinh doanh tiền tệ thì phải tuân theo pháp luật về kinh doanh tiền tệ, pháp luật về ngân hàng, do đó không nhất thiết đưa góp họ có lãi vào Bộ luật dân sự.

- Cũng có ý kiến cho rằng, cần đưa cả hai loại vào Bộ luật và phải có quy chế thật chặt chẽ.

Chính phủ báo cáo xin Quốc hội thảo luận, cho ý kiến.

5. Về vấn đề bồi thường thiệt hại do viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra

Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, trước yêu cầu dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, việc xử lý đúng đắn quan hệ giữa Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước và từng viên chức cụ thể với công dân có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, mặt khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Chương V của Hiến pháp năm 1992 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã khẳng định trách nhiệm của cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước trong quản lý mọi lĩnh vực đời sống xã hội, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân trong đó Điều 72 và Điều 74 quy định trách nhiệm bồi thường khi công dân bị thiệt hại do bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật, bị thiệt hại về vật chất và danh dự do việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.

Vấn đề đặt ra là cần xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan nhà nước và của người thi hành công vụ (nhân viên nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng) như thế nào cho đúng đắn, nhất là trong trường hợp người thi hành công vụ vượt quá quyền hạn được giao gây thiệt hại cho dân?

Có ý kiến đề nghị trong mọi trường hợp viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ được giao mà gây thiệt hại thì cơ quan nhà nước phải trực tiếp bồi thường cho công dân thì mới bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

Dự thảo Bộ luật dân sự đã cụ thể hóa Điều 72 và Điều 74 Hiến pháp tại Điều 545. “Bồi thường thiệt hại do viên chức nhà nước gây ra” và Điều 546 “Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra theo hướng:

- Viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng trong khi thi hành nhiệm vụ mà vượt quá quyền hạn được giao, gây thiệt hại cho người khác thì phải trực tiếp bồi thường.

- Cơ quan nhà nước phải bồi thường thiệt hại do viên chức, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra khi thực hiện nhiệm vụ được giao và yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi hoàn khoản tiền mà cơ quan nhà nước đã bồi thường.

Như vậy, Dự thảo vừa khẳng định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, vừa làm rõ trách nhiệm cá nhân của người vượt quá quyền hạn được giao, ngăn ngừa hiện tượng lạm dụng quyền hạn, gây thiệt hại cho công dân và lợi ích của Nhà nước. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại này là một loại chế tài dân sự (trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng). Do đó, cần được quy định trong Bộ luật dân sự.

Vấn đề thứ năm: CHUYỂN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Luật đất đai đã quy định quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, nhưng chưa quy định cụ thể điều kiện, thủ tục, nhất là quyền và nghĩa vụ của các bên khi thực hiện 5 quyền này. Vấn đề đặt ra là Bộ luật dân sự có nên cụ thể hóa 5 quyền đó hay không?

Trên quan điểm chỉ đạo xuyên suốt là đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quan hệ đất đai cũng đã thay đổi so với trước đây. Từ chỗ theo Luật đất đai năm 1987, quan hệ sử dụng đất thuần túy là một quan hệ hành chính - Nhà nước giao đất cho cá nhân, tổ chức sử dụng bằng quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và thu hồi cũng bằng quyết định hành chính khi không còn sử dụng, đến Luật đất đai năm 1993, quan hệ sử dụng đất đai đã được bổ sung thêm tính chất giao lưu dân sự, vì theo Điều 1, Điều 3 và một số điều khác của Luật đất đai, ngoài chế độ giao đất còn có chế độ cho thuê đất và từ quyền sử dụng, người được giao đất, cho thuê đất còn được quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất.

Vì vậy, Bộ luật dân sự cần điều chỉnh các quan hệ mang tính dân sự, nhất là phải cụ thể hóa quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất liên quan đến việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, để thừa kế quyền sử dụng đất, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các quyền này, nhằm một mặt, vẫn giữ được tính chất sở hữu toàn dân của đất đai, mặt khác tạo cơ chế khuyến khích người sử dụng đất mạnh dạn đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào việc khai thác, sử dụng đất có hiệu quả, đồng thời, lập lại trật tự, kỷ cương trong quy định sử dụng đất, có cơ sở pháp lý ngăn ngừa, hạn chế hiện tượng có nơi, có lúc khá phổ biến là mua bán đất đai trá hình, tăng cường trách nhiệm của người sử dụng đất trong việc sử dụng nguồn tài nguyên quốc gia quý giá này. Dự thảo lần này không chỉ quy định về hình thức, thủ tục mà còn dành nhiều điều mới quy định về điều kiện chặt chẽ đối với việc chuyển quyền sử dụng đất, theo quan điểm chỉ đạo là không để việc chuyển dịch quyền sử dụng đất trên thực tế làm thay đổi, biến dạng, đảo lộn tính chất sở hữu toàn dân đối với đất đai.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị cân nhắc, có nên đưa vấn đề chuyển quyền sử dụng đất vào Bộ luật dân sự hay nên để pháp luật về đất đai quy định, phù hợp với tính chất đặc thù của quan hệ đất đai ở nước ta. Nhưng đa số ý kiến cho rằng, việc thực hiện 5 quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất phải thông qua hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất là một loại hợp đồng có tính dân sự đậm nét. Vì vậy, Dự thảo Bộ luật dân sự đã có một Chương quy định về vấn đề này gồm 5 mục: Những quy định chung; hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; hợp đồng thuê quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất; riêng vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất cũng được quy định thành một chương riêng và đặt trong phần thừa kế. Nói một cách khác, Bộ luật dân sự không dân sự hóa hoàn toàn quan hệ đất đai mà cần cụ thể hóa 5 quyền của người sử dụng đất, nhưng giới hạn trong khuôn khổ của Luật đất đai 1993, của Hiến pháp 1992 khẳng định thuộc tính sở hữu toàn dân của đất đai, bản thân đất đai không phải là một sản vật thuộc đối tượng của hợp đồng mua bán.

1. Về chuyển đổi quyền sử dụng đất

Theo Điều 74 của Luật đất đai thì hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở, do nhu cầu sản xuất và đời sống, được quyền chuyển đổi quyền sử dụng đất nhưng phải bảo đảm sử dụng đất đó theo đúng mục đích, thời hạn được giao.

Vấn đề đặt ra là: việc chuyển đổi quyền sử dụng đất được thực hiện trong khuôn khổ nào?

Có ý kiến đề nghị có thể cho phép chuyển đổi quyền sử dụng đất khác mục đích sử dụng như đổi đất nông nghiệp lấy đất ở, miễn là mục đích sử dụng của từng loại đất đó không thay đổi; có thể chuyển đổi đất có diện tích, giá trị chênh lệch nhau và trong trường hợp đó chỉ phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất đối với phần chênh lệch; có thể chuyển đổi đất ở những địa bàn khác nhau, dù khác tỉnh, khác huyện.

Xuất phát từ nguyên tắc mà Luật đất đai đã quy định là chỉ cho phép chuyển đổi quyền sử dụng đất để phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống, hạn chế việc lạm dụng quyền chuyển đổi, chuyển đổi trá hình mà thực chất là chuyển nhượng (mua bán) trá hình, Điều 476 của Dự thảo quy định điều kiện chuyển đổi quyền sử dụng đất gồm:

- Việc chuyển đổi nhằm tạo thuận tiện cho sản xuất đời sống;

- Đất chuyển đổi có cùng mục đích sử dụng;

- Diện tích, giá trị đất chênh lệch nhau không quá 20%.

- Đất được chuyển đổi phải trong phạm vi xã, đối với đất đai ở nông thôn; trong phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, đối với đất đai ở đô thị.

2. Về chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp đồng mà trong đó người sử dụng đất giao đất và quyền sử dụng đất cho người được chuyển nhượng, còn người được chuyển nhượng phải trả tiền (Điều 481).

Về hình thức: hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép và được đăng ký tại Ủy ban nhân dân huyện đối với đất nông thôn, tại Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với đất đô thị. Quy định này phù hợp với khoản 2 Điều 31 và khoản 2 Điều 75 của Luật đất đai.

Về điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tinh thần của Luật đất đai chỉ cho phép khi có lý do chính đáng, không chấp nhận việc mua đi bán lại quyền sử dụng đất, biến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thành kinh doanh trá hình bất động sản. Vì vậy, Điều 482 của Dự thảo quy định về điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất như sau: chỉ những người có quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở mới có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong các trường hợp:

+ Chuyển đến nơi cư trú khác để sinh sống, sản xuất, kinh doanh.

+ Chuyển sang làm nghề khác không phải là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp.

+ Không còn khả năng trực tiếp lao động hoặc hết tuổi lao động.

+ Người sử dụng đất ở được chuyển quyền sử dụng đất khi chuyển chỗ ở hoặc không có nhu cầu sử dụng đất đó.

Về giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Dự thảo quy định nguyên tắc các bên thỏa thuận về giá chuyển nhượng, nhưng phải trên cơ sở bảng giá do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định theo khung giá của Chính phủ ban hành, vì cho rằng, riêng đối với lĩnh vực đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước có thể can thiệp về giá nhằm ngăn ngừa hiện tượng tăng giá bất hợp lý và bảo vệ lợi ích của những người có nhu cầu trực tiếp sử dụng đất.

Tuy nhiên, cũng còn ý kiến cho rằng quy định như vậy là chưa phù hợp với thực tế chuyển nhượng quyền sử dụng đất hiện nay, khi: giá chuyển nhượng hoàn toàn do các bên thỏa thuận căn cứ vào quan hệ cung - cầu trên thị trường.

Nội dung quan trọng của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là các nghĩa vụ và quyền của người chuyển nhượng và của người được chuyển nhượng tại các điều từ Điều 485 đến Điều 489 của Dự thảo. Những quy định này bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đồng thời phù hợp với chính sách chung của Nhà nước về việc quản lý và sử dụng đất đai.

3. Về thuê quyền sử dụng đất

Theo quy định tại Điều 1, khoản 2 Điều 3 và Điều 78 của Luật đất đai thì có hai loại cho thuê quyền sử dụng đất, đó là: Nhà nước cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất, và về phần mình hộ gia đình, cá nhân cũng được quyền cho thuê quyền sử dụng đất với những điều kiện nhất định. Vậy, Dự thảo Bộ luật dân sự có quy định cả hai loại cho thuê này không?

Có ý kiến cho rằng, quan hệ thuê đất giữa Nhà nước và tổ chức, cá nhân được thuê theo quy định tại Điều 1 của Luật đất đai cũng là quan hệ dân sự cần được quy định trong Bộ luật dân sự.

Dự thảo Bộ luật dân sự chỉ mới điều chỉnh mối quan hệ giữa người được quyền sử dụng đất với người thuê phù hợp với những quy định của pháp luật về đất đai thông qua hợp đồng thuê quyền sử dụng. Bên cạnh đó, Dự thảo cũng có 2 điều về cho thuê lại (Điều 504) và Hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất (Điều 505) cụ thể hóa quy định của Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài được Nhà nước cho thuê đất tại Việt Nam vừa được Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành.

Trong Dự thảo, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất được quy định từ Điều 490 đến Điều 505 quy định cụ thể về điều kiện cho thuê, hình thức, nội dung hợp đồng, nghĩa vụ và quyền của các bên, v.v..

Về điều kiện cho thuê quyền sử dụng đất, Điều 491 quy định:

“1- Chỉ những hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản mà pháp luật cho phép cho thuê quyền sử dụng đất mới có quyền cho thuê quyền sử dụng đất.

2- Người có quyền cho thuê được cho thuê quyền sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:

a) Hoàn cảnh gia đình neo đơn, khó khăn do thiếu lao động, thiếu vốn;

b) Chuyển sang làm nghề khác không phải là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản nhưng chưa ổn định sản xuất;

3- Thời hạn cho thuê quyền sử dụng đất do các bên thỏa thuận nhưng không được quá ba năm; nếu đặc biệt khó khăn, thời hạn cho thuê có thể kéo dài hơn nhưng không được quá sáu năm.”

Nghĩa vụ và quyền của các bên trong hợp đồng thuê quyền sử dụng đất được Dự thảo quy định từ Điều 485 đến Điều 498. Vấn đề đặt ra là: người thuê quyền sử dụng đất có quyền cho thuê lại không?

Có ý kiến cho rằng nên dành cho người thuê quyền cho thuê lại, miễn là được người cho thuê đồng ý nhằm bảo đảm lưu thông dân sự và khai thác lợi ích của đất đai.

Dự thảo Bộ luật dân sự quy định: người thuê quyền sử dụng đất không được cho người khác thuê lại quyền sử dụng đất, trừ trường hợp pháp luật có quy định (khoản 5 Điều 497 Dự thảo).

Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì việc cho thuê lại quyền sử dụng đất chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã được Nhà nước cho thuê quyền sử dụng đất để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trong khu chế xuất, khu công nghiệp. Chỉ sau khi hoàn thành việc xây dựng kết cấu hạ tầng họ mới có quyền cho các tổ chức, cá nhân khác thuê lại quyền sử dụng đất có kèm theo kết cấu hạ tầng đã được xây dựng. Bên thuê lại không được cho người khác thuê lại quyền sử dụng đất (Điều 504 Dự thảo).

4. Về thế chấp quyền sử dụng đất

Thế chấp quyền sử dụng đất là việc người sử dụng đất dùng quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định tại Điều 77 của Luật đất đai. Người thế chấp quyền sử dụng đất phải là người có giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất và đất không có tranh chấp (Điều 507).

Dự thảo còn phân biệt việc thế chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở, việc thế chấp quyền sử dụng đất đối với tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc thông qua hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất; thế chấp quyền sử dụng đất có nhân tố nước ngoài tại Việt Nam (các điều từ Điều 506 đến Điều 512).

Cụ thể như sau:

- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng được thế chấp quyền sử dụng đất tại Ngân hàng Việt Nam, tại các tổ chức tín dụng Việt Nam để vay vốn sản xuất (Điều 508).

- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở do nhu cầu sản xuất và đời sống được thế chấp quyền sử dụng đất ở với các tổ chức kinh tế, cá nhân Việt Nam ở trong nước (Điều 509).

- Tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất được thế chấp quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản của mình có trên đất đó tại Ngân hàng Việt Nam để vay vốn sản xuất, kinh doanh (Điều 510).

- Tổ chức trong nước được chuyển giao quyền sử dụng đất từ người khác thông qua hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất bằng vốn không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước được thế chấp quyền sử dụng đất tại Ngân hàng Việt Nam để vay vốn sản xuất, kinh doanh (Điều 511).

- Tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê quyền sử dụng đất tại Việt Nam được thế chấp quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc sở hữu của mình có trên đất đó tại Ngân hàng Việt Nam trong thời hạn thuê đất để vay vốn sản xuất, kinh doanh (Điều 512).

Vấn đề đặt ra là: người thế chấp quyền sử dụng đất có quyền thế chấp lại quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác hay không, nhất là trong trường hợp giá trị quyền sử dụng đất đem thế chấp lại lớn hơn nhiều so với nghĩa vụ được bảo đảm?

Có ý kiến cho rằng, nên dành quyền này cho người thế chấp, vì một tài sản có thể đem thế chấp để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, nếu giá trị tài sản bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị nghĩa vụ được bảo đảm.

Về vấn đề này, Dự thảo quy định: người thế chấp quyền sử dụng đất không được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê hoặc thế chấp lại quyền sử dụng đất để bảo đảm các nghĩa vụ dân sự khác (khoản 3 Điều 515), với tinh thần là quản lý chặt chẽ và ngăn ngừa tình trạng đất được sử dụng sai mục đích, sai đối tượng do pháp luật quy định hoặc lợi dụng thế chấp để chuyển nhượng trá hình, v.v..

Vấn đề thứ sáu: THỪA KẾ

Qua hơn bốn năm thực hiện, thực tế cho thấy, Pháp lệnh thừa kế ban hành năm 1990 đã đi vào cuộc sống và về cơ bản vẫn phù hợp với thực trạng các quan hệ thừa kế hiện nay, bảo đảm được quyền thừa kế của công dân, được các tầng lớp nhân dân chấp nhận.

Do đó, các quy định của Dự thảo Bộ luật dân sự chủ yếu đã kế thừa và phát triển các quy định của Pháp lệnh thừa kế; ngoài ra, có bổ sung một số vấn đề mới trong lĩnh vực thừa kế, đặc biệt là việc thừa kế quyền sử dụng đất của cá nhân và thành viên của hộ gia đình.

Ý kiến hiện nay còn khác nhau là về khái niệm di sản thừa kế, hàng thừa kế và vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất.

1. Về khái niệm di sản

Khái niệm di sản có ý nghĩa rất quan trọng, vì từ khái niệm này mà xác định phạm vi quyền, nghĩa vụ thuộc người quá cố có thể được chuyển giao cho người thừa kế.

Điều 559 của Dự thảo quy định di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác, các quyền và nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại. Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế, nếu pháp luật cho phép được chuyển cho người thừa kế.

Có ý kiến đề nghị, không nên đưa yếu tố nghĩa vụ dân sự vào nội dung của khái niệm di sản do người chết để lại.

Đa số ý kiến cho rằng, trong quan hệ dân sự mà người quá cố đã xác lập, thông thường làm phát sinh không chỉ quyền mà cả nghĩa vụ đối với người đó. Khi vấn đề thừa kế được đặt ra, nếu người được thừa kế nhận thừa kế về quyền thì cũng đương nhiên phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trong cùng một quan hệ dân sự. Có như vậy, việc thừa kế mới thực sự có ý nghĩa là sự tiếp tục các quan hệ dân sự. Vì vậy, việc Dự thảo quy định nghĩa vụ về tài sản của người chết cũng thuộc nội dung di sản thừa kế là cần thiết, thích đáng.

Tuy nhiên, người thừa kế chỉ phải thực hiện những nghĩa vụ về tài sản trong phạm vi giá trị di sản mà mình được hưởng. Ngoài ra, những nghĩa vụ gắn liền với nhân thân người chết như nghĩa vụ cấp dưỡng, sáng tác, v.v. thì không thuộc di sản thừa kế.

2. Về hàng thừa kế theo pháp luật

Việc quy định hàng thừa kế chủ yếu căn cứ vào quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống giữa người chết với người thừa kế theo pháp luật.

Dự thảo Bộ luật dân sự kế thừa Pháp lệnh thừa kế, quy định ba hàng thừa kế theo pháp luật là:

+ Hàng thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

+ Hàng thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết.

+ Hàng thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột, cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.

Có ý kiến đề nghị, cần bổ sung hàng thừa kế sao cho những người cùng huyết thống với người chết, dù xa đến đâu cũng được quyền thừa kế, ví dụ chút, chít (đời thứ 5) cũng nên cho được hưởng thừa kế di sản, bảo đảm nguyên tắc còn người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản thì còn quan hệ thừa kế.

Có ý kiến lại đề nghị, chỉ cần thu hẹp số người thừa kế trong mỗi hàng thừa kế, ví dụ, hàng thừa kế thứ nhất chỉ nên gồm vợ hoặc chồng, các con của người để lại di sản, hàng thứ hai gồm cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, v.v.. Quy định như vậy mới phù hợp với mức độ gần gũi của quan hệ huyết thống, đồng thời tránh tình trạng làm di sản bị phân chia quá manh mún cho những người trong cùng hàng thừa kế.

Nhưng có ý kiến đề nghị, chỉ nên quy định hai hàng thừa kế như trước đây trong một thời gian dài, trước khi có Pháp lệnh thừa kế, đã được áp dụng nhiều năm và cũng được thực tế chấp nhận và cũng phù hợp với tâm lý của người Việt Nam ít có yêu cầu hưởng thừa kế giữa người cách xa trên 3 đời.

Dự thảo quy định 3 hàng thừa kế vì cho rằng, vấn đề này đã được cân nhắc khi xây dựng Pháp lệnh thừa kế và cũng phù hợp với thực tế về thừa kế của nước ta. Do điểm đặc thù của thừa kế theo pháp luật là nếu không còn người hưởng di sản ở hàng thừa kế trước thì di sản mới được chia cho hàng thừa kế tiếp sau, nên việc quy định hàng thừa kế thứ tư, thứ năm trên thực tế ít có ý nghĩa. Qua tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài cho thấy, mặc dù một số nước có mở rộng diện người thừa kế đến người có quan hệ huyết thống cuối cùng, nhưng trên thực tế họ lại dùng thuế chuyển dịch tài sản thừa kế với mức rất cao, (thông thường là 50%) như ở Thụy Điển, Nhật Bản, để đến lần thừa kế thứ hai thì hầu như toàn bộ giá trị di sản thuộc về Nhà nước.

3. Về thừa kế quyền sử dụng đất

Luật đất đai đã quy định quyền để thừa kế quyền sử dụng đất. Vấn đề đặt ra mà Bộ luật dân sự phải giải quyết là việc thừa kế quyền này được thực hiện như thế nào, có gì khác so với việc thừa kế nói chung không? Khác với Dự thảo IX, Dự thảo XII đã được bổ sung nhiều quy định về điều kiện thừa kế quyền sử dụng đất để có thể thực hiện trên thực tế mà không phải viện dẫn đến pháp luật về đất đai.

Về điều kiện được thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản. Dự thảo quy định: chỉ người đang sử dụng đất nông nghiệp, sống bằng nghề nông và cư trú cùng xã, phường, thị trấn với người để lại thừa kế quyền sử dụng đất mới được thừa kế và chỉ được thừa kế trong mức hạn điền mà pháp luật về đất đai đã quy định.

Có ý kiến đề nghị, không nên quy định điều kiện được thừa kế quyền sử dụng đất và nên theo quy định về thừa kế nói chung.

Về thừa kế theo di chúc đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, khác với thừa kế theo di chúc nói chung, Dự thảo quy định chỉ những người ở hàng thừa kế thứ nhất, và tiếp đó, những người ở hàng thừa kế thứ hai mới có quyền thừa kế, không đặt vấn đề thừa kế theo di chúc đối với hàng thừa kế thứ 3 cũng như những người ngoài hàng thừa kế theo pháp luật.

Có ý kiến đề nghị không nên hạn chế việc thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc trong phạm vi hàng thừa kế theo pháp luật, càng không nên bó hẹp trong hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai vì Dự thảo đã quy định điều kiện được thừa kế thì bất kỳ ai có đủ điều kiện đó đều được thừa kế quyền sử dụng đất theo ý nguyện của người lập di chúc.

Về thừa kế quyền sử dụng đất theo pháp luật đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, khác với thừa kế theo pháp luật nói chung có 3 hàng, Dự thảo quy định chỉ những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, hàng thừa kế thứ hai mới được quyền thừa kế quyền sử dụng đất.

Có ý kiến khác đề nghị vẫn nên theo 3 hàng thừa kế như thừa kế nói chung.

Về những vấn đề nói trên, chúng tôi thấy, tinh thần của Luật đất đai là thừa kế quyền sử dụng đất cần phải có những điều kiện chặt chẽ hơn thừa kế nói chung vì đối tượng thừa kế ở đây là quyền sử dụng đất mà đất đai thuộc sở hữu toàn dân, mà người để thừa kế chỉ được giao hoặc thuê để sử dụng. Khác với các tài sản thuộc sở hữu của người chết là hoàn toàn do công sức người đó tạo lập nên, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhiều thế hệ khai phá, giữ gìn, bảo vệ mà có. Vì vậy, quyền định đoạt quyền sử dụng đất của người để lại di sản cũng như quyền thừa kế của người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc bị hạn chế hơn so với thừa kế nói chung, cũng là hợp lý. Hơn nữa, đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chủ yếu được Nhà nước giao cho người có nhu cầu sản xuất nông nghiệp và cũng là loại đất cần được đặc biệt bảo vệ, giữ gìn trước hết dành cho những người sản xuất nông nghiệp, sống bằng nghề nông, bảo đảm nguyên tắc “người cày có ruộng” không nên cho phép thừa kế rộng rãi như thừa kế nói chung, chẳng hạn, một người sống bằng nghề khác, nhất là ở thành phố lại được hưởng quyền thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp ở nông thôn.

Về việc xử lý quyền sử dụng đất vượt mức hạn điền đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản. Dự thảo quy định: nếu diện tích đất mà người thừa kế được sử dụng sau khi được thừa kế vượt quá mức hạn điền trên 20% thì Nhà nước thu hồi phần diện tích đó và bồi thường cho người thừa kế theo quy định của pháp luật.

Có ý kiến đề xuất phương án xử lý khác là trong trường hợp đó, nên để cho người thừa kế được quyền tiếp tục sử dụng nhưng chuyển qua hình thức thuê quyền sử dụng phần diện tích đất đó đối với Nhà nước.

Cũng có ý kiến đề nghị không nên cho phép thừa kế quyền sử dụng đất trên mức hạn điền.

Theo quy định của Luật đất đai thì mức hạn điền được áp dụng không phân biệt quyền sử dụng đất phát sinh từ việc giao đất, thuê đất. Vì vậy, nếu không giới hạn mức diện tích đất trên cơ sở mức hạn điền thì quy định về hạn điền của Luật đất đai sẽ không còn ý nghĩa đối với quyền sử dụng đất được thừa kế. Nhưng nếu không được thừa kế quyền sử dụng đất trên mức hạn điền với một tỷ lệ vừa phải, hợp lý thì quyền thừa kế sẽ không được thực hiện trong trường hợp người được thừa kế đã sử dụng đất đủ mức hạn điền. Vì vậy, kết hợp quy định của Luật đất đai về hạn điền và về thừa kế quyền sử dụng đất, Dự thảo giới hạn mức 20%.

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Trên đây là tình hình, kết quả chỉnh lý Dự thảo Bộ luật dân sự sau khi được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5 và một số vấn đề chủ yếu tiếp tục xin ý kiến Quốc hội về nội dung của Dự thảo XII đã công bố lấy ý kiến nhân dân. Chính phủ xin trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến chỉ đạo để tiếp tục hoàn chỉnh Dự thảo trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân, các ngành, các cấp.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội