VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 2 1994-1995

 

BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ VỀ PHẤN ĐẤU HOÀN THÀNH
NHIỆM VỤ NĂM 1994 THEO NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI

(Do Phó Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải trình bày
tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa IX, ngày 24-5-1994)

Theo sự ủy nhiệm của Chính phủ, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã gửi tới các đồng chí đại biểu Quốc hội bản báo cáo kiểm điểm tình hình thực hiện trong 6 tháng đầu năm Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1994, trong đó đã trình bày sự chỉ đạo của Chính phủ, đánh giá kết quả đạt được và xác định các chủ trương, biện pháp cần tiếp tục phấn đấu thực hiện trên từng lĩnh vực và ngành kinh tế - xã hội. Các báo cáo bổ sung cụ thể hơn về ngân sách nhà nước, về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, về thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, chống buôn lậu và về hoạt động đối ngoại của Nhà nước cũng đã được gửi tới các đồng chí đại biểu.

Trong báo cáo này, tôi xin thay mặt Chính phủ và Thủ tướng nêu những nhận định tổng quát về tình hình hiện nay và trình bày rõ thêm một số vấn đề lớn cần giải quyết trong thời gian tới để thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1994.

I- TÌNH HÌNH TỔNG QUÁT

Từ kết quả thực hiện trong 4 tháng đầu năm và dự báo diễn biến đến tháng 6, có thể nhận định những nét nổi bật của tình hình như sau:

Một là, đà chuyển biến tốt về kinh tế - tài chính của mấy năm trước tiếp tục được duy trì và phát huy trong 6 tháng đầu năm 1994, đưa lại những tiến bộ tương đối toàn diện trong các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, tài chính, tiền tệ và kinh tế đối ngoại, với nhịp độ tăng trưởng cao hơn cùng kỳ mấy năm trước.

Vụ đông xuân có triển vọng đạt sản lượng lương thực cao nhất từ trước tới nay, nhiều hơn năm ngoái 1 triệu tấn (tăng 10%); cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch bước đầu theo hướng tăng tỷ trọng cây công nghiệp, cây đặc sản, chăn nuôi, đặc biệt là nuôi thủy sản và phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp.

So với cùng kỳ năm trước, sản lượng công nghiệp 6 tháng đầu năm nay có thể tăng 12% (chỉ tiêu đề ra cho cả năm tăng 11%), với sự phát triển tương đối đồng đều của các thành phần kinh tế, các thành phố và các trung tâm công nghiệp.

Một số công trình quan trọng về điện, giao thông (tổ máy chót của Thủy điện Hòa Bình, Nhà máy điện tuabin khí Bà Rịa, đường dây 220 kV Bà Rịa - Long Bình, đoạn đường Bắc Thăng Long - Nội Bài...) được hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đặc biệt là công trình đường dây 500 kV, sau hai năm thi công, vượt qua bao khó khăn và trở lực, đã hoàn thành đúng tiến độ với mức cố gắng cao nhất bảo đảm sự vận hành ổn định và an toàn; từ 20-5-1994, bắt đầu thử nghiệm đưa điện lên lưới, và sau đợt kiểm tra, nghiệm thu, đến đầu tháng 6 sẽ chính thức đóng mạch đưa điện từ Bắc vào Nam, phát huy hiệu quả dây chuyền trong nền kinh tế và đời sống nhân dân.

Kim ngạch xuất khẩu ước tăng 27% (mức phấn đấu cả năm tăng 20%), nhập khẩu tăng 23,4%. Nguồn tài trợ chính thức cho phát triển (ODA) đã ký kết trong quý I gấp gần hai lần mức tranh thủ được trong cả năm 1993. Các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép trong 6 tháng, có thể đạt số vốn đăng ký 2 tỷ USD, bằng 2/3 cả năm ngoái; số vốn được thực hiện ước tăng hơn cùng kỳ năm trước 60%.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa dự báo tăng 37,6%, đáp ứng nhu cầu đa dạng của dân cư với thu nhập và sức mua khá hơn trước. Vận tải hàng hóa và hành khách, du lịch trong nước và quốc tế cũng như các dịch vụ khác đều có bước phát triển mới. Chỉ số giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ 4 tháng đầu năm tăng 5,4%, chủ yếu do tăng giá lương thực, thực phẩm trong dịp Tết; từ tháng ba, giá cả trở lại ổn định.

Thu ngân sách trong nước ước tăng 50% so với cùng kỳ năm trước (mức tăng cả năm theo kế hoạch 31,5%). Bước 2 chế độ lương mới, tăng quỹ lương 25%, được triển khai thực hiện từ đầu năm, với cách làm không gây đột biến giá cả. Lưu thông tiền tệ thông suốt hơn trước, không xảy ra căng thẳng về tiền mặt. Tỷ giá hối đoái và giá vàng không có biến động lớn. Tín dụng được mở rộng thêm; số dư nợ ước tăng 23% so với cuối năm 1993; tỷ trọng cho vay khu vực ngoài quốc doanh, chủ yếu là hộ nông dân, từ 30% năm 1993, tăng lên 40% trong 6 tháng đầu năm nay.

Tuy nhiên, những nhân tố bảo đảm sự ổn định kinh tế và những điều kiện cho bước phát triển mới còn nhiều mặt chưa thật vững chắc. Cân đối ngân sách nhà nước đang căng thẳng, nguồn vay trong và ngoài nước để bù đắp bội chi còn khó khăn; lưu thông tiền tệ còn có những yếu tố chưa ổn định, ngoại tệ đang lưu hành ngoài sự kiểm soát còn khá lớn; chính sách và phương thức huy động vốn chỉ mới đáp ứng yêu cầu ở mức thấp; một số nông sản và hàng công nghiệp tiêu dùng gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ; kế hoạch đầu tư của Nhà nước đạt thấp vì thiếu vốn, các dự án đầu tư qua tín dụng và một số dự án liên doanh với nước ngoài chưa đủ vốn để triển khai; việc tổ chức lại và chấn chỉnh quản lý khu vực kinh tế nhà nước, quản lý tài sản công, hướng dẫn, khuyến khích đầu tư trong nước, cải tiến thủ tục đầu tư cho nước ngoài, thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế theo cơ chế thị trường chưa có chuyển biến rõ.

Hai là, cùng với đà tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập của đông đảo nhân dân, các hoạt động văn hóa - xã hội có những tiến bộ rõ hơn.

Các cấp học đều tăng số học sinh và có thêm điều kiện nâng cao chất lượng dạy và học; hệ thống đại học bắt đầu được tổ chức lại với việc thành lập đại học quốc gia và đại học khu vực. Công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ tập trung hơn vào các chương trình trọng điểm, có tiến bộ về quản lý đo lường và chất lượng sản phẩm; hoạt động bảo vệ môi trường được triển khai theo luật mới ban hành. Công tác thông tin - văn hóa hướng nhiều hơn về cơ sở, có nhiều hoạt động giữ gìn truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa dân tộc và mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài; các hoạt động kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ có nhiều hình thức phong phú, sôi nổi, phát huy tốt tác dụng động viên, giáo dục các thế hệ. Các chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, về phòng, chống dịch bệnh, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc bà mẹ trẻ em, các hoạt động thể dục thể thao, các cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa những người có công với nước được triển khai sâu rộng hơn, mang tính chất xã hội hóa rõ nét hơn. Việc chống các tệ nạn xã hội được tăng cường chỉ đạo, với sự phối hợp tốt hơn giữa chính quyền, các đoàn thể, trường học và gia đình.

Đối với miền núi và vùng đồng bào dân tộc ít người, Chính phủ đã bổ sung và triển khai thực hiện một số chủ trương, chính sách cụ thể hỗ trợ sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều tỉnh, huyện miền núi đã xác định hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang phát triển sản xuất hàng hóa trên cơ sở khai thác các lợi thế của mình. Chính phủ trực tiếp chỉ đạo một tỉnh, một huyện làm điểm rút kinh nghiệm. Vốn đầu tư của Nhà nước cho miền núi, kể cả phần phân bố cho ngân sách địa phương và phần thông qua các chương trình, dự án do các Bộ phụ trách, năm nay tăng 2 lần so với năm 1993. Từ đầu năm nay, nhiều công trình và chương trình đầu tư cho miền núi được triển khai, như xây dựng đường giao thông, điện, nước cho sản xuất và đời sống, phát triển cơ sở y tế, chống bệnh sốt rét và bướu cổ, tu bổ và mở thêm trường, lớp, xây dựng trường nội trú cho con em dân tộc, phát triển văn hóa, thông tin. Ngành Thương mại được giao nhiệm vụ tổ chức mạng lưới tiêu thụ hết sản phẩm hàng hóa và cung ứng các hàng hóa thiết yếu (ngoài việc tiếp tục trợ giá cước vận tải 7 mặt hàng cho đồng bào miền núi, Chính phủ quyết định cấp 4 mặt hàng không thu tiền cho nhân dân vùng cao).

Những tiến bộ vừa qua chặn được đà xuống cấp và có bước phát triển mới trong một số lĩnh vực. Tuy nhiên, mức chuyển biến còn thấp so với yêu cầu của chiến lược con người trong thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chưa đủ sức đầy lùi và ngăn chặn các tệ nạn xã hội, làm lành mạnh đời sống tinh thần và đạo đức, tạo môi trường xã hội thuận lợi cho sự phát triển. Sản xuất, lưu thông và đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân miền núi còn nhiều khó khăn.

Ba là, quan hệ quốc tế của nước ta tiếp tục được mở rộng và tăng cường theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa. Trong những tháng đầu năm, các cuộc đi thăm của lãnh đạo cấp cao giữa nước ta và một số nước, đặc biệt là các nước trong khu vực, đã góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, thúc đẩy quan hệ hợp tác về nhiều mặt. Tiếp theo việc các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế khôi phục quan hệ với Việt Nam, việc chính quyền Mỹ bỏ chính sách cấm vận đối với nước ta từ đầu năm nay, đã tạo thuận lợi mới cho tiến trình khai thông quan hệ Việt Nam - Mỹ, thúc đẩy sự hợp tác của các nước khác và các tổ chức quốc tế với nước ta.

Quan hệ quốc tế của nước ta đang tiến triển tương đối nhanh theo chiều hướng tích cực, góp phần tăng cường bối cảnh hòa bình, ổn định, hợp tác cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, vẫn có những diễn biến phức tạp ở biên giới, nổi lên gần đây là những hành động xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nước ta, và tình hình Campuchia đang chứa đựng nhiều nhân tố đáng lo ngại.

Trong thời gian qua, công tác quốc phòng và an ninh tiếp tục được tăng cường, tích cực bảo vệ lãnh thổ, phát hiện và đối phó kịp thời các âm mưu và hành động phá hoại, truy quét bọn côn đồ, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Tình hình mới đòi hỏi Nhà nước và toàn dân ta chăm sóc, hỗ trợ và tạo điều kiện tốt hơn cho lực lượng quốc phòng và an ninh đảm đương nhiệm vụ nặng nề.

Bốn là, hệ thống quản lý nhà nước có bước cải tiến trong sự chỉ đạo, điều hành. Trong khi tăng cường chỉ đạo, xử lý kịp thời những vấn đề trước mắt, Chính phủ đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, giải quyết những vấn đề cơ bản, có ý nghĩa chiến lược đối với thời kỳ mới, như: Xúc tiến cải cách kinh tế kết hợp với cải cách hành chính theo một chương trình tổng thể, đẩy mạnh xây dựng pháp luật; quy hoạch các ngành và địa bàn trọng điểm; xác định các công trình quan trọng phải xây dựng từ nay đến năm 2000... Sự phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và các đoàn thể trong một số lĩnh vực công tác đang đi vào quy chế, đưa tới kết quả tốt hơn.

Tuy nhiên, bộ máy nhà nước đổi mới còn quá chậm. Cuộc cải cách hành chính chưa thật sự khởi động trong cuộc sống. Trong nhiều cơ quan và đội ngũ cán bộ ở các ngành, các cấp, ngày càng bộc lộ rõ tình trạng kiến thức và năng lực yếu, không theo kịp yêu cầu đổi mới, kỷ luật lỏng lẻo, phẩm chất thiếu trong sạch, đặc biệt là tệ tham nhũng, đục khoét và lãng phí của công, sách nhiễu dân. Tình trạng thi hành pháp luật một cách tùy tiện, không tuân thủ các quyết định của Chính phủ diễn ra không chỉ ở cơ sở mà cả ở chính quyền cấp tỉnh. Vì vậy, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không đến được dân, bị thi hành sai lệch hoặc vô hiệu hóa. Những khuyết tật trong bộ máy nhà nước đang là trở lực lớn nhất đối với công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.

Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội qua những tháng đầu năm tiếp tục chuyển biến tốt, tạo khả năng đạt và vượt mức các chỉ tiêu chủ yếu trong nhiệm vụ năm 1994 theo Nghị quyết của Quốc hội. Tuy nhiên, khó khăn còn nhiều và lớn, do một số mặt yếu kém tồn tại từ lâu chậm được khắc phục, do thời kỳ phát triển mới có những yêu cầu cao hơn và do những diễn biến phức tạp mới trong việc bảo vệ sự ổn định và an ninh của đất nước.

II- NHỮNG VẤN ĐỀ LỚN PHẢI TẬP TRUNG CHỈ ĐẠO
TRONG 6 THÁNG CUỐI NĂM

Với kết quả thực hiện nhiệm vụ trong những tháng đầu năm, Chính phủ quyết tâm chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ của Đảng và các nghị quyết kỳ họp thứ 4 của Quốc hội, đưa nền kinh tế tăng trưởng ít nhất 8% trong năm nay và tạo tiền đề tiến tới đạt nhịp độ tăng hai con số một cách lâu bền với hiệu quả cao để thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước xung quanh. Phải khắc phục cho được nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế mới có thể ổn định vững vàng chính trị và xã hội, tăng cường được quốc phòng và an ninh, phát triển được mạnh hơn quan hệ đối ngoại trên cơ sở độc lập, tự chủ.

Theo tinh thần đó, tôi xin trình bày rõ thêm mấy vấn đề lớn đang có nhiều khó khăn, cần bổ sung chủ trương và cách giải quyết để thực hiện tốt nhiệm vụ năm 1994 và chuẩn bị cho năm 1995.

1. Tiếp tục làm lành mạnh và ổn định tài chính, tiền tệ

a) Xử lý cân đối ngân sách:

Báo cáo của Bộ Tài chính đã trình bày rõ những khó khăn về cân đối ngân sách với mức bình quân hằng tháng trong 6 tháng cuối năm so với bình quân hằng tháng đã thực hiện trong 4 tháng đầu năm, về thu gấp 1,5 lần và về chi gấp 1,66 lần.

Việc tăng thu để đáp ứng nhu cầu chi ngân sách đã được Quốc hội duyệt là một yếu tố bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội và góp phần kiềm chế lạm phát.

Hội nghị toàn ngành Thuế họp giữa tháng năm vừa qua, đánh giá có khả năng tăng thu 10% so với tổng số thuế và phí trong kế hoạch đầu năm, nếu tính thêm khả năng tăng thu của ngành Hải quan thì có thể vượt 15%. Tính hiện thực của mức phấn đấu này dựa vào khả năng phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông cùng với việc thực hiện các luật thuế và kỷ luật nộp ngân sách, khắc phục tình trạng thất thu đang còn lớn cả trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tư nhân và cá thể, xí nghiệp liên doanh cũng như việc bán nhà và quyền sử dụng đất không đưa vào công quỹ. Việc thực hiện các luật và pháp lệnh về thuế là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu mà cơ quan chính quyền và tài chính các cấp phải phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể, các hiệp hội nghề nghiệp và nhân dân để chấp hành nghiêm chỉnh và công bằng.

Cần khai thác các khả năng tăng thu lớn dưới đây:

- Thuế xuất, nhập khẩu không những là nguồn thu lớn của ngân sách (chiếm gần 1/4 tổng số thu) mà còn là một biện pháp quan trọng bảo hộ đúng mức sản xuất trong nước. Đi đôi với việc điều chỉnh biểu thuế xuất, nhập khẩu theo Nghị quyết cuối tháng 3 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, cần tiến hành triệt để hơn việc chống buôn lậu ở cửa khẩu và kiểm tra, truy thu thuế những hàng nhập lậu trốn thuế đã đưa vào nội địa, đặc biệt là những mặt hàng làm đình trệ sản xuất trong nước. Việc này cần được tổ chức và chỉ đạo chặt chẽ, tiến hành có trọng điểm, phối hợp tốt giữa các ngành và tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân.

- Việc cho thuê hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển quỹ nhà ở do Nhà nước quản lý sang kinh doanh vừa tạo nguồn thu lớn cho ngân sách, vừa bảo đảm cho những tài sản này được quản lý và sử dụng tốt hơn. Tuy việc thực hiện có nhiều phức tạp, song càng trì hoãn, chần chừ thì tài sản của Nhà nước càng bị đục khoét, lợi dụng. Chính phủ chủ trương tiến hành kiên quyết theo bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và công khai hóa để nhân dân giám sát. Cần kiểm tra và xử lý nghiêm những trường hợp cấp hoặc bán đất trái phép, không nộp tiền vào công quỹ.

- Giá một vài mặt hàng do Nhà nước quy định hoặc khống chế chưa phù hợp với quan hệ cung - cầu (như xăng, điện, xi măng...) cần được điều chỉnh hợp lý để góp phần tiết kiệm tiêu dùng, cân đối cung cầu đồng thời tăng nguồn thu cho ngân sách.

Tăng thu phải đi đôi với tiết kiệm chi theo Nghị quyết của Quốc hội để giảm căng thẳng trong cân đối ngân sách.

Thi hành Nghị quyết của Quốc hội và Quyết định của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, tính đến giữa tháng năm, có 47 Bộ, cơ quan Trung ương và 17 tỉnh, thành phố lập phương án tiết kiệm. Phương án của 10 Bộ, sau khi rà soát lại, đăng ký mức phấn đấu tiết kiệm 1.357 tỷ đồng, gồm 382 tỷ trong xây dựng cơ bản, 943 tỷ trong sản xuất - kinh doanh và 32 tỷ trong chi phí hành chính, sự nghiệp. Chính phủ yêu cầu các ngành và địa phương hoàn chỉnh phương án tiết kiệm của mình trên cơ sở tính toán chặt chẽ và nhất là có biện pháp thực hiện cụ thể. Bộ Tài chính nghiên cứu quy định phương thức hạch toán và nguyên tắc sử dụng số tiền tiết kiệm được, trong đó có phần góp vào việc giải quyết cân đối ngân sách.

Các khoản chi lớn theo kế hoạch, đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ bản cần được bố trí tiến độ phù hợp với tình hình thu ngân sách. Khả năng hiện nay không cho phép giải quyết các nhu cầu chi ngoài kế hoạch. Các khoản chi liên quan đến ban hành chính sách mới hoặc giao nhiệm vụ mới phải tùy theo khả năng tăng thu ngân sách để định thời gian thực hiện.

Tích cực tìm nguồn vay nước ngoài và vay dân để đáp ứng nhu cầu chi cho kế hoạch đầu tư phát triển. Mở rộng các hình thức vay trung hạn, dài hạn trong nước; lãi suất phải có sức thu hút nhân dân cho vay, đồng thời tính tới tác động đối với lãi suất tín dụng của ngân hàng.

b) Tiếp tục ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát ở mức một con số:

Giá cả và giá trị đồng tiền đang chịu tác động hai chiều:

Một mặt, có những nhân tố làm tăng giá cả, giảm sức mua của đồng tiền: Ngân sách tăng chi nhiều làm giảm tăng mức cầu trong những tháng cuối năm. Khối lượng ngoại tệ thu hút từ nhiều nguồn làm tăng khối lượng tiền lưu thông và tăng mức cầu về hàng hóa, tạo thêm áp lực đẩy giá cả lên.

Mặt khác, khó khăn về thị trường tiêu thụ và hàng ngoại nhập lậu cạnh tranh có thể làm giảm quá mức giá nông sản và một số hàng tiêu dùng. Khối lượng ngoại tệ tăng nhiều làm cho giá đồng tiền Việt Nam tăng lên một cách tương đối cũng gây bất lợi cho sản xuất và xuất khẩu.

Chúng ta phải đẩy mạnh sản xuất, mở rộng lưu thông trong nước và với nước ngoài; đồng thời, hết sức tỉnh táo trong việc điều tiết lưu thông tiền tệ, cân bằng cung - cầu với những biện pháp can thiệp cần thiết để kiềm chế lạm phát ở mức một con số, tránh những đột biến về giá hàng hóa và dịch vụ, về giá vàng và USD theo chiều tăng cũng như theo chiều giảm quá mức, khắc phục cánh kéo không hợp lý giữa giá nông sản và giá hàng công nghiệp.

Chính phủ đang sửa đổi cơ chế quản lý ngoại tệ, vừa nhằm ổn định tỷ giá thực tế, vừa thu hẹp dần phạm vi sử dụng của đồng đôla trong nội địa, trước hết trong lĩnh vực tín dụng và trong quan hệ thanh toán trong nước giữa các doanh nghiệp và ngân hàng, tạo điều kiện thực hiện từng bước nguyên tắc trên đất Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam.

2. Bảo đảm tiến độ các công trình quan trọng, tạo thêm điều kiện thúc đẩy đầu tư của các thành phần kinh tế

Trong khi xây dựng đề án và chuẩn bị triển khai thực hiện Nghị quyết kỳ họp sắp tới của Trung ương về định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển công nghiệp đến năm 2000, cần phấn đấu thực hiện tốt kế hoạch đầu tư phát triển năm nay để tạo đà cho những năm tới.

a) Vốn cho đầu tư phát triển đang là vấn đề nổi lên hàng đầu:

Đi đôi với việc tích cực tranh thủ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ngoài nước cho đầu tư phát triển, Chính phủ đang chỉ đạo bổ sung chính sách và phương thức huy động vốn trong nước, tạo dần thị trường vốn.

Điều chỉnh dần lãi suất một cách hợp lý song song với phát triển nhiều hình thức huy động vốn có sức hấp dẫn các đối tượng khác nhau. Phát triển các quỹ bảo hiểm, quỹ tín dụng nhân dân. áp dụng chính sách cho vay vốn căn cứ vào hiệu quả kinh tế - xã hội, không phụ thuộc vào thành phần kinh tế. Từng bước tạo môi trường cạnh tranh trong hoạt động tín dụng.

Xúc tiến xây dựng từ thấp đến cao các thị trường tài chính, mở rộng dần các hình thức trái phiếu, cổ phiếu. Chính phủ đang tổ chức nghiên cứu xây dựng luật pháp về chứng khoán và thị trường chứng khoán, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự ra đời và hoạt động lành mạnh của thị trường chứng khoán ở nước ta.

b) Tích cực giải quyết vốn cho các công trình quan trọng của kế hoạch năm 1994, đặc biệt là các công trình đầu tư qua tín dụng đang thiếu nguồn vốn. Bảo đảm tiến độ các công trình về điện (năm nay huy động một phần công suất các công trình Thủy điện Thác Mơ, Vĩnh Sơn, xây dựng Thủy điện Yaly, chuẩn bị xây dựng các công trình: Nhiệt điện Phú Mỹ, Thủy điện Hàm Thuận, Đa My, Nhiệt điện Phả Lại mở rộng), về giao thông (đường số 5, số 1, đoạn Nam Thăng Long, Ba Đình tiếp theo đoạn Bắc Thăng Long - Nội Bài), về thủy lợi (các công trình Sông Quao, Thạch Nham, Sông Rác, Azun Hạ), đường ống dẫn khí (hoàn thành việc đưa khí từ mỏ Bạch Hổ về Bà Rịa), và một số nhà máy xi măng (mở rộng Nhà máy xi măng Hoàng Thạch, chuẩn bị xây dựng Nhà máy xi măng Bút Sơn và mở rộng Nhà máy xi măng Bỉm Sơn), v.v..

Bảo đảm cấp vốn kịp thời, đúng tiến độ cho các công trình sau khi đã soát xét lại tiến độ theo khả năng nguồn vốn.

Các công trình xây dựng bằng nguồn vốn do Nhà nước cấp phát, cho vay, hoặc bảo lãnh vay nước ngoài đều phải chấp hành nghiêm chỉnh quy định mới của Chính phủ về tăng cường quản lý, chống lãng phí, thất thoát và tiêu cực trong đầu tư xây dựng từ luận chứng, thiết kế, dự toán đến đấu thầu, chọn trúng thầu, giám sát, nghiệm thu và kiểm toán. Việc giải phóng mặt bằng cho các công trình, đặc biệt là công trình giao thông, cần phải được xúc tiến theo đúng chính sách, bảo đảm tiến độ thi công.

c) Tạo thêm điều kiện thúc đẩy đầu tư của các thành phần kinh tế trong toàn xã hội, khuyến khích mọi doanh nghiệp và gia đình tự bỏ vốn phát triển sản xuất - kinh doanh đi đôi với phát triển thị trường vốn.

Dự luật khuyến khích đầu tư trong nước trình Quốc hội trong kỳ họp này được xây dựng theo tinh thần thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư trong nước không kém đầu tư nước ngoài. Việc thi hành Luật này đòi hỏi phải sửa đổi một số điều khoản của các luật khác đã ban hành như Luật đất đai, các luật thuế... Các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành Luật đang được soạn thảo để ban hành kịp thời, bảo đảm cho Luật đi nhanh vào cuộc sống, đáp ứng mong đợi của các nhà kinh doanh trong nước.

d) Cùng với việc ban hành chính sách đầu tư, cần khẩn trương xây dựng quy hoạch phát triển ngành và vùng lãnh thổ, trước hết là quy hoạch các hệ thống kết cấu hạ tầng, các ngành Công nghiệp, các địa bàn trọng điểm, các đô thị, quy hoạch các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung ở từng vùng, từng tỉnh và xây dựng trước cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự hình thành các khu đó. Các quy hoạch nêu trên là cơ sở để bố trí hợp lý các công trình quan trọng trong kế hoạch đầu tư bằng nguồn vốn tập trung của Nhà nước, đồng thời, hướng dẫn và hỗ trợ các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước, khắc phục tình trạng đầu tư tự phát, sinh ra trùng chéo, tranh chấp, kém hiệu quả.

3. Mở rộng quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại

Tình thế hiện nay vừa có cơ hội tăng cường quan hệ quốc tế để đưa đất nước phát triển nhanh và nâng cao khả năng bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vừa chứa đựng những mầm mống gây mất ổn định với nguy cơ đẩy chúng ta tụt hậu xa hơn. Những mối quan hệ đối ngoại phức tạp và nhạy cảm đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo, năng động và sáng tạo hơn trong việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, phát huy sức mạnh của cả dân tộc kết hợp với sức mạnh quốc tế để đương đầu với những thách thức đang đặt ra trước mắt chúng ta và tận dụng được thời cơ, đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chúng ta đang tích cực giải quyết từng bước thông qua thương lượng hòa bình những vấn đề vướng mắc và tranh chấp còn tồn tại với một số ít nước, sẵn sàng tiến tới bình thường hóa quan hệ với Mỹ, sẵn sàng sớm gia nhập ASEAN, tham gia vào các hình thức hợp tác nhiều bên ở khu vực Thái Bình Dương, đồng thời tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế khác.

Đi đôi với việc tăng cường quan hệ nhà nước, cần phát triển các quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn hóa, mở rộng sự tiếp xúc của các tổ chức phi chính phủ, các nhà kinh doanh và nhân dân, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại.

Chính phủ đang chuẩn bị đề án toàn diện về phát triển kinh tế đối ngoại trong tình hình mới. Từ nay đến cuối năm, những việc chính cần xúc tiến là:

a) Chỉ đạo thực hiện quy chế mới ban hành về quản lý và phân phối nguồn tài trợ chính thức cho phát triển (ODA). Nhiều nước và tổ chức quốc tế cam kết tổng số tài trợ, song nguồn vốn này phải thực hiện theo dự án với những yêu cầu chặt chẽ về chất lượng. Do đó, cùng với việc thực hiện nghiêm chỉnh các dự án đã được chấp thuận cấp vốn, việc xây dựng tốt các dự án mới là điều kiện then chốt để sử dụng và tranh thủ thêm nguồn vốn này. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước có trách nhiệm bồi dưỡng cán bộ và hướng dẫn các ngành, các địa phương xây dựng các dự án dựa vào vốn ODA, kết hợp với phương hướng sử dụng các nguồn vốn đầu tư khác, trên cơ sở quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch các địa bàn trọng điểm và các vùng.

Nguồn ODA không hoàn lại cần được dành ưu tiên cho các dự án ở các địa phương có nhiều khó khăn.

b) Tiếp tục cải thiện môi trường thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, trong đó yêu cầu bức xúc phải tiến hành ngay là cải tiến thủ tục đầu tư và các quy định liên quan đến đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các thủ tục về cho thuê đất, về xây dựng, về thuế, theo hướng đơn giản hóa về hành chính nhưng chặt chẽ về pháp luật. Rút ngắn thời gian thẩm định, cấp giấy phép, giải tỏa các trở ngại trong việc thực hiện dự án đã được chấp thuận, nhất là trong việc cho thuê đất, giải phóng mặt bằng. Giá đất, giá thuê nhà, cước phí bưu điện phải tính đến mặt bằng chung ở các nước chung quanh. Các ngành và các địa phương phải thi hành thống nhất, nghiêm chỉnh luật và các văn bản pháp quy trong lĩnh vực này, giáo dục và kiểm tra cán bộ, khắc phục bệnh quan liêu, ngăn chặn cho được tệ cửa quyền, sách nhiễu, gây phiền hà làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài.

Rút kinh nghiệm thời gian qua, cần soát xét, xác định lại các ngành, sản phẩm và danh mục công trình quan trọng cần gọi vốn đầu tư nước ngoài; quy hoạch các khu vực tập trung đầu tư trực tiếp của nước ngoài, trước hết là ở ba địa bàn kinh tế trọng điểm. Bổ sung các chính sách khuyến khích có sức thu hút đầu tư nước ngoài vào những địa bàn có nhiều khó khăn.

Ban hành quy định về quản lý các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng phát huy vai trò và trách nhiệm tự chủ kinh doanh của xí nghiệp đi đôi với bảo đảm vai trò quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng theo pháp luật, không theo cơ chế có một cơ quan hành chính "chủ quản".

c) Chính phủ đã đề ra các chủ trương về xuất, nhập khẩu ngay từ đầu năm, song việc triển khai thực hiện quá chậm. Cần khắc phục ngay khuyết điểm này, tăng cường sự chỉ đạo, điều hành xuất nhập khẩu gắn với điều hòa cung - cầu trong nước về những sản phẩm quan trọng, không để giá cả tăng hoặc giảm đột biến.

Về tỷ giá hối đoái, chúng ta chủ trương ổn định tỷ giá thực tế nhằm bảo hộ lợi ích của người xuất khẩu đồng thời ổn định kinh tế vĩ mô. Tỷ giá thực tế dựa trên sự so sánh sức mua của đồng Việt Nam và ngoại tệ thông qua chỉ số lạm phát và tính đến cung - cầu ngoại tệ trên thị trường.

Bộ Thương mại phải có kế hoạch cụ thể, phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp, các hiệp hội xuất nhập khẩu đẩy mạnh việc tìm thêm thị trường xuất khẩu, nhất là xuất khẩu nông sản, tổ chức nghiên cứu và thông tin về thị trường trong và ngoài nước, giúp các nhà sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu nâng cao năng lực tiếp thị.

Chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu đòi hỏi phải đổi mới nền ngoại thương cho phù hợp, nhằm tăng nhanh kim ngạch đi liền với chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu hàng xuất khẩu, thay đổi căn bản phương thức kinh doanh và quản lý xuất nhập khẩu, chuyển từ cách quản lý nặng về biện pháp hành chính sang cơ chế sử dụng biện pháp kinh tế là chính. Bộ Thương mại cần hoàn chỉnh đề án đổi mới quản lý ngoại thương, đưa ra lấy ý kiến rộng rãi của các nhà kinh doanh trong những tháng tới; trên cơ sở đó, từng bước hình thành hệ thống thể chế nhất quán, ổn định trong quản lý xuất nhập khẩu.

d) Ngành Du lịch đang đứng trước nhu cầu lớn của khách nước ngoài và nhân dân trong nước, đồng thời, có nhiều thuận lợi rất lớn để phát triển: có sẵn khách hàng, vốn đầu tư có thể thu hồi nhanh với tỷ suất sinh lời cao, chưa kể những lợi thế về điều kiện thiên nhiên, cảnh quan, di sản văn hóa, lịch sử. Tuy đã đạt tốc độ tăng trưởng cao, nhưng ngành Du lịch vẫn đuối tầm so với yêu cầu và nhiệm vụ. Tình trạng thiếu khách sạn, không có chỗ ở cho khách quốc tế ngay tại Hà Nội cần được khắc phục sớm. Ngành Du lịch phải coi việc đáp ứng nhu cầu của khách với chất lượng phục vụ tốt không chỉ là nguồn thu nhập của mình mà còn là điều kiện không thể thiếu để mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Trong việc thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về phát triển du lịch, trước mắt cần đẩy nhanh việc xây dựng các cơ sở khách sạn và du lịch, với nguồn vốn đầu tư được khai thác trước hết từ các thành phần kinh tế trong nước bằng nhiều hình thức thích hợp. Ngành Du lịch cùng với các ngành Vận tải, đặc biệt là Hàng không, ngành Hải quan, các ngành đáp ứng các dịch vụ khác, cơ quan an ninh và quản lý xuất nhập cảnh phải có quy chế phối hợp có hiệu quả, vừa tạo sự thoải mái, thuận tiện cho khách du lịch, vừa bảo đảm an ninh trật tự, an toàn cho xã hội và cả cho khách.

4. Tích cực thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu

Chính phủ xác định đây là một trọng tâm trong chương trình công tác của mình và đã họp với Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Hội đồng nhân dân ngay từ đầu năm để triển khai thực hiện. Trong việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết này, đã hình thành nền nếp định kỳ phối hợp giữa Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành thành quy chế. Nhờ vậy, tiến độ điều tra, xử lý các vụ và người vi phạm được xúc tiến nhanh hơn; trong 13 vụ án trọng điểm mà các cơ quan trung ương trực tiếp xử lý, đến nay đã xét xử được 12 vụ. Chính phủ cũng đẩy mạnh việc sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, chi tiêu ngân sách, quản lý thị trường.

Về chống tham nhũng, số vụ được phát hiện trong 4 tháng đầu năm ít hơn cùng kỳ năm trước, song tình trạng tham nhũng vẫn ở mức nghiêm trọng, tập trung ở các lĩnh vực: nhượng, bán nhà, đất; thu, chi ngân sách; tài chính doanh nghiệp nhà nước; quản lý tài trợ của bên ngoài; sách nhiễu, đòi và nhận hối lộ ở nhiều khâu thủ tục hành chính, ở các trạm kiểm soát hàng hóa, kiểm soát giao thông, v.v..

Số vụ buôn lậu được phát hiện và xử lý trong 4 tháng đầu năm nhiều hơn cùng kỳ năm trước 3% về số vụ, 25% về giá trị hàng hóa thu giữ. Buôn lậu qua biên giới đất liền, và bằng đường hàng không giảm hơn trước, song buôn lậu trên biển tiếp tục tăng và phức tạp, nghiêm trọng hơn. Đáng chú ý gần đây là việc hợp pháp hóa, cho đăng ký sử dụng ôtô, xe máy nhập trái phép với mức thuế thấp ở một số tỉnh. Chính phủ đang chỉ đạo xử lý trách nhiệm của Ủy ban nhân dân và các cơ quan chức năng ở các tỉnh vi phạm việc này.

Trong thời gian tới, cần kết hợp chặt chẽ việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội với chương trình tiếp tục cải cách kinh tế và xúc tiến cải cách hành chính, vừa xử lý những hiện tượng phát sinh vừa giải quyết từng bước những vấn đề cơ bản về thể chế và bộ máy.

Kết quả thực hiện phụ thuộc trước hết vào ý thức chấp hành của Thủ trưởng Cơ quan chính quyền các cấp, từ Trung ương đến cơ sở cùng với vai trò của các đoàn thể ở từng nơi. Điều không bình thường là các vụ tham nhũng, buôn lậu đã xử lý hầu hết không phải do cơ quan, đơn vị đang quản lý người vi phạm phát hiện ra. Vì vậy, phải đề cao trách nhiệm của tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể ở tất cả các ngành, các cấp, trước hết là cơ quan và cán bộ lãnh đạo, trong việc giáo dục, kiểm tra đảng viên, cán bộ, phát hiện các vụ vi phạm và xử lý.

Chính phủ cũng đề nghị các đại biểu và Đoàn đại biểu Quốc hội tăng cường trách nhiệm giám sát của mình đối với công tác này, nhất là ở đơn vị công tác và địa phương mình.

Trong cuộc đấu tranh này, Chính phủ hoan nghênh sự đóng góp tích cực của các cơ quan thông tin đại chúng. Rất mong các báo, đài phát huy tốt hơn nữa chức năng theo Luật báo chí, đồng thời chú ý khắc phục những thiếu sót trong việc đưa tin, phản ánh các vụ, việc, góp phần đẩy mạnh hơn nữa sự phối hợp tiếng nói của báo chí, dư luận xã hội với trách nhiệm của cơ quan nhà nước để tăng thêm sức mạnh và hiệu quả của cuộc đấu tranh này.

5. Mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động khoa học, giáo dục, văn hóa, xã hội

Trong việc phấn đấu hoàn thành chương trình công tác năm 1994 nhằm thực hiện nghị quyết của Quốc hội, các ngành trong lĩnh vực này cần cố gắng tạo chuyển biến mạnh hơn trên một số mặt, nhất là ở miền núi và vùng nông thôn sâu. Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, vấn đề kinh tế và các vấn đề văn hóa, xã hội càng gắn chặt với nhau. Vốn đầu tư của Nhà nước cho miền núi, vùng đồng bào dân tộc thể hiện rõ mối quan hệ đó, cần được sử dụng đúng mục tiêu và có hiệu quả, tạo điều kiện cho nhân dân miền núi phát huy thế mạnh của mình để xóa đói, giảm nghèo, dần dần giàu có, nâng cao dân trí, đẩy lùi tật bệnh và nạn ma túy.

Chuẩn bị cho năm học mới 1994 - 1995, trong khi tiếp tục tăng thêm học sinh ở các cấp học, nâng tỷ lệ trẻ em tới trường, phải chú trọng nhiều hơn đến nội dung, chất lượng giáo dục, đào tạo; điều chỉnh mục tiêu giáo dục tiểu học, mở rộng việc phân ban ở phổ thông trung học, đổi mới nội dung các môn khoa học xã hội và nhân văn, sớm ổn định tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia và ba đại học vùng đã thành lập, chuẩn bị khẩn trương thành lập Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ cần góp phần tích cực vào việc hoạch định chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng các quy hoạch phát triển ngành và lãnh thổ, tổng kết công cuộc đổi mới. Các chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ phải tập trung vào trọng điểm phù hợp với các chương trình kinh tế - xã hội, đưa lại hiệu quả thiết thực. Nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước trong việc thẩm định, kiểm soát công nghệ nhập, thực hiện Pháp lệnh về chất lượng hàng hóa, chống hàng giả, thi hành Luật bảo vệ môi trường, đặc biệt là hạn chế ô nhiễm ở đô thị, cải thiện vệ sinh môi trường ở nông thôn.

Hoạt động văn hóa - thông tin cần gắn việc thực hiện ba chương trình cấp nhà nước (chống xuống cấp và tôn tạo các di tích lịch sử; xây dựng và nâng cao hoạt động văn hóa - thông tin ở cơ sở khu vực nông thôn; củng cố và phát triển điện ảnh) với việc tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn bằng nhiều hình thức thu hút đông đảo quần chúng đi đôi với nâng cao chất lượng các chương trình nghệ thuật, sản phẩm văn hóa. Tiếp tục thực hiện quy hoạch hiện đại hóa từng bước hệ thống phát thanh và truyền hình. Tăng cường quản lý văn hóa, nghệ thuật bằng pháp luật, bảo đảm thực hiện tốt các luật đã ban hành.

Công tác y tế hướng mạnh hơn về cơ sở, xóa các "xã trắng về cơ sở y tế", thực hiện tốt các chương trình phòng, chống dịch bệnh, phòng, chống suy dinh dưỡng của trẻ em, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh đi đôi với chấn chỉnh chế độ viện phí và bảo hiểm y tế; xúc tiến việc xây dựng hai trung tâm y tế chuyên sâu ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Xây dựng chính sách quốc gia về thuốc chữa bệnh, hoàn chỉnh đề án xây dựng công nghiệp dược và công nghiệp trang thiết bị y tế. Tăng cường quản lý nhà nước về y tế, triển khai thực hiện pháp lệnh đối với tư nhân hành nghề y, dược.

Sớm phủ kín mạng lưới làm công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình ở tất cả các xã, phường, kết hợp tuyên truyền vận động với mở rộng các dịch vụ thuận tiện để tăng nhanh tỷ lệ người áp dụng các biện pháp tránh thai, giảm tỷ lệ gia đình sinh con thứ ba.

Công tác thể dục - thể thao phải vừa chú trọng phong trào quần chúng, vừa tích cực xây dựng lực lượng vận động viên; tổ chức tốt đại hội thể dục thể thao ở các cấp, tiến tới đại hội toàn quốc vào năm 1995; tích cực tham gia và cố gắng nâng cao thành tích tại các cuộc thi đấu quốc tế và khu vực, đặc biệt là Đại hội thể thao châu Á cuối năm nay.

Nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình về xã hội, nhất là về giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; chuẩn bị điều kiện ban hành Pháp lệnh đối với người có công, thực hiện tốt kế hoạch quy tập mộ liệt sĩ, duy trì và mở rộng các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa".

Triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch về phòng, chống tệ mại dâm, ma túy, nhiễm HIV/AIDS với sự chỉ đạo chặt chẽ, liên tục của các cấp ủy Đảng và chính quyền, nhất là cấp phường, xã, sự phối hợp thành nền nếp thường xuyên giữa chính quyền với Mặt trận, các đoàn thể, các cơ quan thông tin đại chúng. Coi trọng các biện pháp giáo dục, cải tạo, các hình thức phòng ngừa, kết hợp với các biện pháp xử lý cần thiết bằng pháp luật.

6. Đẩy mạnh hơn nữa cải cách kinh tế kết hợp với cải cách hành chính

Trước yêu cầu của thời kỳ phát triển mới, công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa cải cách kinh tế, đồng thời xúc tiến cải cách bộ máy quản lý nhà nước, trọng tâm là cải cách nền hành chính quốc gia, kết hợp chặt chẽ với nhau trong một chương trình tổng thể.

Trên cơ sở những việc đã và đang làm theo chương trình công tác của Chính phủ năm 1994, công cuộc cải cách kinh tế và cải cách hành chính trong thời gian tới tập trung vào một số lĩnh vực chính dưới đây:

a) Xúc tiến quá trình cải cách một bước cơ bản hệ thống tài chính và ngân hàng

Về tài chính, trong năm nay phải xây dựng và triển khai chế độ kế toán mới phù hợp với cơ chế thị trường, phản ánh trung thực tình hình tài sản và hoạt động kinh doanh, thật sự là công cụ đánh giá và kiểm soát đáng tin cậy của Nhà nước và xã hội. Phát triển công tác kiểm toán.

Hoàn thành Dự thảo Luật về ngân sách nhằm thể chế hóa các nguyên tắc, trình tự lập, xét duyệt và chấp hành ngân sách, phân quyền về ngân sách, xác lập chế độ giám sát, thanh tra, kiểm toán ngân sách.

Xúc tiến chương trình nghiên cứu cải cách cơ bản hệ thống thuế phù hợp với bước phát triển mới của nền kinh tế và ngân sách. Xây dựng cơ chế mới về quản lý tài sản công trong các doanh nghiệp.

Về ngân hàng, phương án tiếp tục cải cách hướng vào thực hiện đầy đủ cơ chế ngân hàng hai cấp với sự phân biệt chức năng Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại, hình thành dần thị trường tiền tệ, áp dụng các công cụ điều hòa lưu thông tiền tệ và cơ chế lãi suất phù hợp với kinh tế thị trường, xử lý tỷ giá hối đoái và cải tiến cơ chế quản lý ngoại tệ. Tạo môi trường cạnh tranh để nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng; mở rộng việc sử dụng phương thức thanh toán tiên tiến, hiện đại và bảo đảm chức năng trung tâm thanh toán có tín nhiệm.

Nội dung cải cách nêu trên đang được các ngành liên quan xây dựng phương án để tiến hành một bước trong năm nay và tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh trong quá trình thực hiện.

b) Tiếp tục sắp xếp, chỉnh đốn, nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước thông qua việc chuyển hẳn sang cơ chế kinh doanh thật sự trên thị trường

Phân biệt các doanh nghiệp theo cơ chế kinh doanh mưu cầu lợi nhuận với các đơn vị sự nghiệp kinh tế đáp ứng nhu cầu công cộng không lấy lợi nhuận làm mục đích chính (những đơn vị này cần có cơ chế quản lý riêng của Nhà nước). Trong năm nay, phải ban hành văn bản hướng dẫn và tiến hành việc phân loại này.

Hoàn thành trong năm nay việc thanh toán công nợ giai đoạn 2; tiếp tục xử lý những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài; xúc tiến việc áp dụng chế độ kế toán mới đi đôi với sửa đổi chế độ tài chính doanh nghiệp, bảo đảm cho doanh nghiệp thật sự tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính trong khuôn khổ luật pháp.

Thu hẹp các hình thức độc quyền kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, mở đường cho cạnh tranh lành mạnh. Trong năm nay, tiến hành một bước đối với dịch vụ thông tin liên lạc. Đối với một số trường hợp chưa xóa bỏ được độc quyền của doanh nghiệp, Nhà nước cần có cơ chế quản lý và kiểm soát riêng.

Những biện pháp nêu trên cùng với việc cải cách tài chính - ngân hàng tạo điều kiện cho mỗi doanh nghiệp tự đổi mới và thích nghi trong môi trường cạnh tranh trên thị trường. Thị trường sẽ đánh giá, sàng lọc các doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung, phát triển các hình thức hợp tác, liên kết trên cơ sở tự nguyện, hình thành các tập đoàn kinh doanh lớn. Trên cơ sở đó, từng bước chấn chỉnh một cách căn bản các doanh nghiệp nhà nước, tiến hành cổ phần hóa, xác định rõ người chủ sở hữu trực tiếp tài sản công trong doanh nghiệp, hình thành cơ chế quản lý mới thay thế cơ chế "chủ quản" của cơ quan hành chính đối với doanh nghiệp; từ đó tạo ra một khu vực doanh nghiệp nhà nước với một số công ty, tập đoàn lớn, hoạt động có hiệu quả, thật sự phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, Nhà nước tạo khuôn khổ pháp lý, hướng dẫn và hỗ trợ cho quá trình này tiến triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và phù hợp với quy luật của thị trường.

Việc tiến hành thí điểm trong phạm vi hẹp một số chủ trương: cổ phần hóa doanh nghiệp, lập tập đoàn doanh nghiệp, bỏ chế độ "chủ quản" đối với doanh nghiệp, chủ yếu là nhằm rút kinh nghiệm từ thực tế để mở rộng việc áp dụng khi tạo được điều kiện trên thị trường.

c) Hai nội dung trên đã có sự kết hợp giữa cải cách kinh tế và cải cách hành chính. Tuy nhiên, cải cách hành chính còn có những yêu cầu rộng hơn

Cải cách hành chính có liên quan chặt chẽ đến đổi mới hệ thống chính trị; nhiều vấn đề lớn và cơ bản về cải cách hành chính phải xuất phát từ nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam mà chúng ta đang nghiên cứu, chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương cuối năm.

Trước mắt, cần xúc tiến một số việc cấp bách có điều kiện thực hiện, nhằm cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan và công chức nhà nước với dân và tăng cường hiệu lực quản lý thống nhất của hệ thống hành chính.

Cải cách thủ tục hành chính là khâu đột phá, tập trung vào các lĩnh vực mà dân và các nhà kinh doanh đang chịu nhiều sự phiền hà, sách nhiễu, Nghị quyết của Chính phủ mới ban hành về việc này được nhân dân rất đồng tình. Các Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ cùng với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm trực tiếp thi hành Nghị quyết này; Thủ trưởng các cơ quan đó phải chỉ đạo và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện để tạo được chuyển biến thật sự, không "đánh trống bỏ dùi". Tiếng nói của báo chí, áp lực của dư luận và sự tham gia thiết thực của nhân dân vào việc sửa đổi thủ tục, giám sát sự thi hành của các công sở và công chức là yếu tố rất quan trọng thúc đẩy việc cải cách thủ tục hành chính.

Chính phủ cũng đang soạn thảo quy chế công chức, nghiên cứu xây dựng chế độ công vụ và chuẩn bị thành lập cơ quan tài phán hành chính. Năm nay, phải làm xong dự thảo văn bản để đưa ra lấy ý kiến rộng rãi trước khi xét duyệt, ban hành.

Về mối quan hệ giữa các cơ quan trung ương và địa phương trong hệ thống hành chính, có nhiều vấn đề phải giải quyết, trong đó một phần quan trọng được đề cập ở các Dự thảo Luật về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật về ngân sách, Luật thẩm quyền và trình tự ban hành văn bản pháp quy. Những vấn đề này không thể giải quyết riêng rẽ mà phải đặt trên cơ sở những quan điểm, phương hướng chung về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.

Yêu cầu quan trọng và cấp bách trước mắt là củng cố kỷ luật trong hệ thống hành chính, kiên quyết xử lý những trường hợp cố tình làm trái hoặc làm ngơ quyết định của Chính phủ và cơ quan hành chính cấp trên. Thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên phải tăng cường kiểm tra tại chỗ việc thi hành các quyết định quan trọng, khen thưởng kịp thời những người làm tốt, xử lý ngay cán bộ cấp dưới có sai phạm theo kỷ luật hành chính.

*
*      *

Qua gần nửa năm thực hiện nhiệm vụ năm 1994, cuộc sống càng cho thấy rõ thời cơ và nguy cơ đan xen với nhau đang tạo điều kiện và đòi hỏi đất nước ta bước vào một thời kỳ mới của sự phát triển.

Theo đà chuyển biến tốt về kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện một bước, tính năng động trong xã hội được nâng cao hơn, thể hiện trong những sáng kiến và nỗ lực phát triển của nhiều doanh nghiệp và nhà kinh doanh, của nhiều gia đình ở đồng bằng và miền núi, khắp nông thôn và thành thị. Nguồn sức mạnh và nguồn trí tuệ đó còn có thể được phát huy mạnh hơn nữa thông qua việc tiếp tục triển khai công cuộc đổi mới cả về bề rộng và chiều sâu, trước mắt là đẩy mạnh cải cách kinh tế kết hợp với cải cách hành chính. Đó cũng là nền tảng cho việc tranh thủ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài.

Trong tình hình mới, việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc với tầm cao mới, mà một cột mốc quan trọng là Đại hội sắp tới của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy tài năng và nguồn lực của mọi người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài vì đại nghĩa của Tổ quốc, chắc chắn mở ra triển vọng lớn cho việc thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh trên đất nước ta.

Trong bối cảnh ấy, Chính phủ cùng với Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, trong vị trí và trách nhiệm của mình, ra sức tổ chức, động viên, hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân phấn đấu thực hiện vượt mức nhiệm vụ năm 1994 theo Nghị quyết của Quốc hội, chuẩn bị tốt cho năm 1995 và các năm sau.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội