TỜ TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC TIẾP THU Ý KIẾN
NHÂN DÂN HOÀN CHỈNH DỰ ÁN BỘ LUẬT LAO ĐỘNG
(Do ông Trần Đình Hoan, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
đọc tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa IX, ngày 28-5-1994)
Dự án Bộ luật lao động đã được Chính phủ trình ra Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 (12-1993). Trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo việc tu chỉnh Dự án và quyết định công bố để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 10-4-1994 tới nay.
Đồng thời, trong thời gian này, Chính phủ cũng đã chỉ đạo Ban dự thảo Bộ luật lao động chủ động tổ chức hoặc phối hợp với các ngành có liên quan tổ chức lấy ý kiến đối với các đối tượng chính nằm trong diện điều chỉnh của Bộ luật lao động cả trong Nam và ngoài Bắc.
Ngày 17-5-1994, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã họp để xem xét việc tiếp thu ý kiến nhân dân và cho ý kiến để hoàn chỉnh bản Dự thảo Bộ luật lao động trình Quốc hội.
Được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền, tôi xin báo cáo với Quốc hội kết quả lấy ý kiến của nhân dân đóng góp xây dựng Dự án Bộ luật lao động và Dự án chỉnh lý sau khi tiếp thu ý kiến của nhân dân.
I- TÌNH HÌNH NHÂN DÂN ĐÓNG GÓP Ý KIẾN VÀO
DỰ ÁN BỘ LUẬT LAO ĐỘNG
Mặc dù thời gian ngắn và rất gấp, cần góp ý cho nhiều Dự án Luật, lại phải chuẩn bị tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, nhưng các địa phương, các ngành, các đoàn thể nhân dân đã tích cực tuyên truyền, phổ biến Dự án Bộ luật lao động, có nhiều hình thức tổ chức để nhân dân đóng góp ý kiến và đã thu được kết quả tốt.
Đã thu hút được khá rộng rãi những người lao động và những người sử dụng lao động trong và ngoài quốc doanh, các cán bộ cơ quan nhà nước, cán bộ công đoàn, cán bộ làm công tác pháp luật, công tác Đảng, cán bộ, công nhân đã nghỉ hưu tham gia nghiên cứu, thảo luận và đóng góp ý kiến.
Nhiều đoàn thể như Công đoàn, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Luật gia, Hội Công nghệ kỹ gia Thành phố Hồ Chí Minh, v.v. đã tổ chức thảo luận và đóng góp nhiều ý kiến thiết thực.
Những ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân rất phong phú, cụ thể và có chiều sâu, từ những vấn đề chung về quan điểm, tư tưởng, mục đích và yêu cầu của việc ban hành Bộ luật lao động đến nội dung cụ thể của từng chương, điều và cả về kỹ thuật lập pháp, cách thể hiện, từ ngữ...
Tính đến ngày 18-5-1994, đã có văn bản của 38 Ban chỉ đạo tỉnh và thành phố, 15 cơ quan trung ương tập hợp ý kiến của nhân dân gửi về Văn phòng Quốc hội, đồng gửi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
II- NHỮNG Ý KIẾN ĐÓNG GÓP VỀ NỘI DUNG
DỰ ÁN BỘ LUẬT LAO ĐỘNG
A- Các vấn đề chung
1. Tính cấp thiết của việc ban hành Bộ luật lao động:
Tất cả các ý kiến đều hoan nghênh việc Ủy ban thường vụ Quốc hội công bố Dự án Bộ luật lao động để lấy ý kiến nhân dân và đều có chung nguyện vọng đề nghị Quốc hội sớm ban hành Bộ luật lao động tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa IX.
Các ý kiến đều cho rằng, Dự án Bộ luật lao động đã được chuẩn bị công phu trong nhiều năm, đã tổng kết, rút kinh nghiệm quá trình xây dựng và thực hiện các chính sách chế độ về lao động từ trước đến nay, nhất là đã pháp điển hóa những văn bản pháp luật lao động được ban hành trong vài ba năm trở lại đây; Dự án đã thể hiện được tinh thần đổi mới và cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực lao động - xã hội.
Đa số ý kiến cũng cho rằng ngày nay, từng bước quan hệ lao động trong các thành phần kinh tế đều đã chuyển vào quỹ đạo của cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tình hình lao động đã có những chuyển biến mới và sẽ phát triển nhanh chóng, nhất là trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong các khu chế xuất và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc ban hành Bộ luật lao động đã trở thành một yêu cầu cấp thiết của người lao động và người sử dụng lao động và của cả việc quản lý nhà nước trong nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần. Tình hình hiện nay đã có những điều kiện chín muồi cho việc ban hành Bộ luật lao động.
2. Bộ luật lao động đã thể hiện đúng mức sự bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các thành phần kinh tế:
Về vấn đề này, hầu hết các ý kiến đều nhất trí với những quan điểm thể hiện trong Dự án Bộ luật lao động. Việc tạo lập một mặt bằng pháp luật chung ở mức tối thiểu làm nền để áp dụng chung cho tất cả các thành phần kinh tế, không phân biệt trong quốc doanh và ngoài quốc doanh, là rất cần thiết và sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích các tổ chức, cá nhân bỏ vốn kinh doanh, sử dụng nhiều lao động. Việc tạo lập mối quan hệ pháp lý thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế sẽ làm cho cả người sử dụng lao động và người lao động, nhất là ở khu vực ngoài quốc doanh yên tâm và phấn khởi hơn, tạo ra một động lực mới nhằm đạt năng suất, chất lượng và tiến bộ xã hội trong lao động sản xuất, hiệu quả trong việc sử dụng và quản lý lao động. Quan điểm này phù hợp với chủ trương đổi mới và đường lối phát triển kinh tế đã được thể hiện trong Nghị quyết các Đại hội Đảng lần thứ VI, VII và Nghị quyết Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ của Đảng.
Tuy vậy, qua những buổi thảo luận của nhân dân, của đại diện người lao động và người sử dụng lao động cũng còn tồn tại một số vấn đề cần nghiên cứu tiếp thu chỉnh lý và xin ý kiến Quốc hội như:
a) Tổng Liên đoàn và nhiều cán bộ công đoàn cho rằng những quy định về Công đoàn trong Dự án Bộ luật lao động cơ bản là phù hợp với Hiến pháp năm 1992 và các văn bản pháp luật khác đã ban hành trong thời gian gần đây, đồng thời, thể hiện những chuyển biến mới của tình hình quan hệ lao động đang phát triển nhanh hiện nay. Tuy vậy, Tổng Liên đoàn chưa hoàn toàn nhất trí về quyền công đoàn thể hiện trong một số điều của Dự án, đề nghị phải ghi rõ quyền đại diện của Tổng Liên đoàn trong một số điều và quyền thỏa thuận của Công đoàn cơ sở tại Điều 38 của Dự thảo Bộ luật lao động theo Điều 12 của Luật Công đoàn.
b) Những người sử dụng lao động cho rằng, Bộ luật lao động bảo vệ người lao động là đúng đắn nhưng cũng cần bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của người sử dụng lao động, nhất là trong tình hình bức thiết về giải quyết việc làm và bước đầu khuyến khích đầu tư trong nước; người sử dụng lao động ở ta nhìn chung còn nhỏ bé, lại phải hoạt động trong cơ chế thị trường nên cần được Nhà nước khuyến khích trong những năm đầu khi mới bỏ vốn vào kinh doanh. Dự án có phần đặt nhẹ yêu cầu này.
3. Nhiều cán bộ phụ nữ rất hoan nghênh Dự án có một chương riêng về lao động nữ, nhất trí về các quyền lợi của lao động nữ ghi trong Dự án. Nhiều ý kiến đồng tình phải quan tâm đến lực lượng lao động nữ theo cách đặt vấn đề trong Dự án nhưng vẫn còn băn khoăn e rằng khó thực thi và trên thực tế sẽ bất lợi cho lao động nữ trong yêu cầu giải quyết việc làm. Vì vậy, phải có giải pháp quá độ đối với số lao động nữ hiện nay đang làm những công việc nặng nhọc độc hại như có kế hoạch đào tạo, đào tạo nghề lại để từng bước chuyển chị em làm các nghề khác, hoặc phải có biện pháp cải thiện điều kiện lao động, an toàn và vệ sinh lao động.
Mặc dầu vậy, hầu hết ý kiến đóng góp đều thừa nhận là Dự án Bộ luật lao động đã phản ánh được quan điểm và đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với tình hình đặc điểm mới của đất nước đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
4. Về tổ chức thực hiện:
Nhiều ý kiến đề nghị phải nhanh chóng kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy ngành Lao động - Thương binh và Xã hội để đáp ứng việc thực thi Bộ luật lao động, nhất là hệ thống Thanh tra Nhà nước về lao động phải được tổ chức chặt chẽ, vững mạnh, được quản lý thống nhất với đầy đủ chức năng và quyền hạn mới bảo đảm thực hiện được những yêu cầu đặt ra trong tình hình mới.
Để Bộ luật lao động có hiệu lực và thực thi trong cuộc sống, sau khi được ban hành, đề nghị cần phải gấp rút soạn thảo các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật lao động.
Những vấn đề trên đây, Chính phủ đã tiếp thu các ý kiến đóng góp và đã hoàn chỉnh Dự thảo Bộ luật lao động và đang chỉ đạo khẩn trương soạn thảo các văn bản chi tiết hóa Bộ luật.
B- Các vấn đề cụ thể:
1. Về vai trò vị trí của Công đoàn:
Qua ý kiến của các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 4
(12-1993) và tổng hợp ý kiến nhân dân, có thể thấy rằng về cơ bản, các ý kiến đều nhất trí với cách đặt vấn đề về vai trò, vị trí của Công đoàn trong quan hệ lao động đã được thể hiện trong Dự án Bộ luật lao động.
Quá trình đổi mới chuyển đổi cơ cấu và cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, Công đoàn - nhất là tổ chức Công đoàn cơ sở có vai trò, vị trí rất quan trọng trong việc đại diện và bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động. Công đoàn càng vững mạnh trong từng đơn vị cơ sở thì càng bảo vệ tốt quyền và lợi ích chính đáng của người lao động, càng giúp Đảng và Nhà nước hướng dẫn và trực tiếp giám sát, để người sử dụng lao động thực hiện đúng pháp luật, chung sức xây dựng đất nước, phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh sản xuất, hoàn thành nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, Dự thảo Bộ luật lao động trình Quốc hội lần này đã bổ sung thêm một điều rất quan trọng - đó là Điều 153 có quy định chậm nhất sau 6 tháng kể từ ngày doanh nghiệp bắt đầu hoạt động, người sử dụng lao động phải tạo điều kiện để người lao động lập Công đoàn tại doanh nghiệp theo đúng Luật Công đoàn và Điều lệ Công đoàn Việt Nam. Ở những nơi chưa có tổ chức Công đoàn thì Công đoàn cấp trên tổ chức người lao động thành lập tổ chức Công đoàn lâm thời để đại diện cho quyền lợi của tập thể lao động. Tổng Liên đoàn Lao động ban hành quy chế hoạt động của Công đoàn lâm thời.
Về quyền Công đoàn trước khi quyết định các vấn đề về thi hành kỷ luật đến mức sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn.
Trước khi thi hành kỷ luật đến mức sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn người sử dụng lao động phải thảo luận nhất trí với Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở; trong trường hợp không nhất trí thì hai bên phải báo cáo với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải trả lời. Trên cơ sở ý kiến của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền người sử dụng lao động có quyền quyết định theo pháp luật và chịu trách nhiệm về quyết định của mình, còn Công đoàn có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định (Điều 38).
Chính phủ cho rằng, quy định này trong Dự thảo không hoàn toàn trái với Điều 12 của Luật Công đoàn, nhưng có điểm phát triển Điều 12 của Luật Công đoàn trong tình hình mới vì hai lẽ:
Thứ nhất là, Bộ luật lao động ra sau Luật Công đoàn, trong Bộ luật lao động có một số điều quy định giám đốc doanh nghiệp được sa thải và chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp nào? Như Điều 36 quy định hợp đồng lao động được chấm dứt khi nào? Điều 38 quy định người sử dụng lao động có quyền chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp nào? Điều 39 quy định người sử dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp nào?
Thứ hai là, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại không có cấp trên trực tiếp và theo tinh thần của Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ thì các doanh nghiệp quốc doanh rồi đây cũng đổi mới theo hướng bỏ dần cách quản lý theo Bộ chủ quản.
Từ hai lẽ trên đây, Dự thảo Bộ luật lao động phát triển Điều 12 của Luật Công đoàn là trong trường hợp không có sự nhất trí của công đoàn về các vấn đề thi hành kỷ luật đến mức sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn thì giải quyết theo như đã quy định tại Điều 38.
2. Về tuổi tối thiểu được nhận vào làm việc:
Một số ý kiến cho rằng, nên quy định từ tuổi 16 để phù hợp với thể trạng trẻ em Việt Nam, nhất là để phù hợp với Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Nội dung Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em chủ yếu là nhằm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Còn tuổi tối thiểu được nhận vào làm việc thì theo Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em mà Nhà nước ta đã phê chuẩn ngày 20-2-1990, không bị ràng buộc bởi Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Nhiều nước chung quanh ta còn quy định thấp hơn tuổi 15. Thực tế ở nước ta, trẻ em có khả năng lao động rất sớm, mỗi năm có 1,5 - 1,8 triệu em ở độ tuổi này, trong đó, một bộ phận không nhỏ đã thôi học và cần có việc làm phù hợp. Chính phủ đề nghị giữ tuổi 15 và quy định chặt chẽ việc sử dụng lao động chưa thành niên theo Điều 121 và Điều 122 của Dự án.
3. Về hợp đồng miệng:
Cho đến nay vẫn có ý kiến băn khoăn về hợp đồng miệng, thậm chí, có người cho rằng không có nước nào trên thế giới quy định như vậy. Thực tế thì ngược lại, pháp luật lao động hầu hết các nước, vùng lãnh thổ trên thế giới đều quy định có thể tùy theo thời hạn hợp đồng mà áp dụng hợp đồng lao động bằng miệng hoặc bằng viết (trong đó có Malaixia, Xingapo, Liên bang Nga, Philíppin, Hương Cảng,...). Ở nước ta, Sắc lệnh 29/SL (1947) ghi rõ "có thể giao kèo bằng miệng, hoặc ký kết trên mặt giấy" và "Nếu chỉ giao kết bằng miệng thì coi như chủ với công nhân đã theo những điều khoản ấn định trong Sắc lệnh này và những tục lệ riêng của nơi sở tại". Trong thực tế, có nhiều trường hợp chỉ thỏa thuận bằng miệng.
Tuy vậy, thể theo đề nghị của một số ý kiến, Chính phủ đã cho tu sửa theo hướng quy định chặt chẽ hơn, chỉ giao kết hợp đồng lao động bằng miệng trong một số trường hợp như khi thuê người giúp việc gia đình, khi giao kết hợp đồng để làm những công việc có tính chất tạm thời theo mùa vụ, hoặc với thời hạn ngắn dưới 3 tháng.
4. Về sử dụng lao động nữ:
- Việc quy định một số nghề, công việc thích hợp với lao động nữ là rất khó xác định và khó thi hành trên thực tế. Nhiều ý kiến đề nghị chỉ nên quy định cấm không được sử dụng một số nghề đối với lao động nữ là đủ. Do vậy, Dự án đã sửa lại, chỉ nêu nguyên tắc là Chính phủ có chính sách ưu đãi, xét giảm, miễn thuế đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ.
- Về vấn đề không sử dụng lao động nữ làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc độc hại, ý kiến của những người lao động nữ rất hoan nghênh. Tuy nhiên, hiện tại có các doanh nghiệp đang sử dụng lao động nữ làm một số công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại. Nếu tất cả đều căn cứ vào quy định này thì sẽ phải cho số chị em này thôi việc hàng loạt. Do vậy, sau khi cân nhắc kỹ, Chính phủ thấy nên có một giải pháp có tính quá độ là: doanh nghiệp nào đang sử dụng lao động nữ làm các công việc nói trên phải có kế hoạch đào tạo nghề, có thời hạn để chuyển dần lao động nữ sang làm các công việc khác phù hợp hơn, hoặc phải tăng cường các biện pháp bảo vệ sức khỏe, cải thiện điều kiện làm việc hoặc giảm bớt thời giờ làm việc cho lao động nữ đang làm các công việc nói trên.
5. Về điều kiện hưởng chế độ hưu trí:
Dự án quy định phải có đủ hai điều kiện: tuổi đời 60 đối với nam, 55 đối với nữ và có từ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên mới được hưởng chế độ hưu trí hằng tháng; nếu chỉ có một trong hai điều kiện thì chỉ được nhận trợ cấp một lần.
Nhiều ý kiến cho quy định như vậy là cứng, không hợp lý đối với những người tuổi đã cao (từ 50 tuổi trở lên) làm công việc sản xuất trực tiếp tại doanh nghiệp, bản thân bị hạn chế về sức khỏe, muốn được nghỉ để làm việc khác một cách tự do, mà người sử dụng lao động cũng có khó khăn trong việc giải quyết việc làm phù hợp cho họ. Thực tế đó rất đáng lưu ý. Do vậy, Chính phủ đã cho bổ sung một quy định mới: Những người lao động có đủ một trong hai điều kiện sau đây cũng được hưởng chế độ hưu trí hằng tháng, nhưng với mức trợ cấp thấp hơn so với những người có đủ cả hai điều kiện về tuổi đời và về số năm đóng bảo hiểm xã hội quy định:
1. Đủ điều kiện về tuổi đời nhưng chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội (ít nhất phải đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội);
2. Đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội nhưng chưa đủ điều kiện về tuổi đời mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên (ít nhất phải đủ 50 tuổi đối với nam, 45 tuổi đối với nữ).
6. Về đình công:
Các ý kiến đều nhất trí cần phải quy định quyền đình công của người lao động trong Bộ luật lao động, và đa số tán thành phải quy định chặt chẽ, theo hướng chỉ nên sử dụng quyền này khi không còn giải pháp nào khác, vì đình công không chỉ thiệt hại cho người sử dụng lao động mà cho cả người lao động, cho cả Nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên, có hai kiến nghị cần được xem xét thêm:
- Có ý kiến cho rằng, trong trường hợp người lao động đình công được kết luận là đúng, tức là người sử dụng lao động có sai phạm, thì người sử dụng lao động phải trả lương cho người lao động trong thời gian đình công. Nói "trả lương" thì không thích hợp, vì tiền lương chỉ phải trả khi có làm việc theo hợp đồng. Đình công không phải là chấm dứt hợp đồng nhưng là không làm việc. Tuy nhiên, nếu người lao động đình công được kết luận là đúng, thì theo pháp luật, đương nhiên người sử dụng lao động phải đáp ứng yêu sách chính đáng của người lao động, đồng thời, phải bồi thường thiệt hại cho những người lao động đình công. Tiền bồi thường có thể tương đương với tiền lương trong thời gian đình công, cũng có thể được giải quyết thỏa đáng thông qua việc tiếp tục thương lượng giữa hai bên trong quá trình đình công hoặc khi cuộc đình công kết thúc.
Đây là những quy định cụ thể, sẽ được xử lý trong Dự án Pháp lệnh về quy định và giải quyết các cuộc đình công đang được chuẩn bị trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, ban hành sau khi thông qua Bộ luật lao động.
- Về vấn đề bảo vệ quyền lợi người lao động trong những doanh nghiệp thuộc danh mục cấm đình công, tiếp thu ý kiến của nhân dân, Dự án đã bổ sung: Các Cơ quan quản lý nhà nước hữu quan phải có chế độ định kỳ làm việc với các doanh nghiệp thuộc danh mục cấm đình công để nghe ý kiến của tập thể người lao động và của người sử dụng lao động để kịp thời giúp đỡ và giải quyết những yêu cầu chính đáng của tập thể lao động. Trường hợp có tranh chấp tập thể nếu không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài sẽ do Tòa án nhân dân giải quyết.
Ngoài ra, trong tình hình đặc biệt vì lợi ích quốc gia mà phải ra lệnh cấm đình công, nhiều ý kiến đề nghị giao quyền này cho Ủy ban thường vụ Quốc hội mới đúng thẩm quyền theo tinh thần điểm 9 và điểm 10 Điều 91 của Hiến pháp. Tuy nhiên, đây là trường hợp đặc biệt, coi tình trạng khẩn cấp và được xử lý theo Pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp.
*
* *
Bản Dự án Bộ luật lao động trình ra Quốc hội lần này trên cơ sở tiếp thu ý kiến dân nhân đã được sửa đổi, bổ sung một cách nghiêm túc, tổng cộng tới 97 điều trong đó có 55 điều sửa về nội dung, 42 điều sửa về từ ngữ, từ Lời nói đầu đến từng chương, điều khoản cụ thể. Tuy nhiên do các quan hệ lao động hiện nay, trong quá trình đổi mới và phát triển nên một số chi tiết chưa thể đưa ngay vào Bộ luật mà sẽ được quy định trong những văn bản hướng dẫn thi hành.
Cùng với việc trình Dự án Bộ luật lao động ra Quốc hội, Chính phủ xin kèm theo 2 Dự án Pháp lệnh: Pháp lệnh quy định và giải quyết các cuộc đình công, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án lao động, và Dự thảo Nghị định quy định về xử phạt vi phạm pháp luật lao động để Quốc hội cho ý kiến.
Bộ luật lao động đã được chuẩn bị trong nhiều năm, là công sức đóng góp của các ngành, các cấp. Trải qua nhiều lần lấy ý kiến và đã được chỉnh lý, tu sửa nhiều lần, đã được Chính phủ cho ý kiến để trình Quốc hội, được Quốc hội thảo luận cho ý kiến trong kỳ họp lần thứ 4 (tháng 12-1993), được Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến nhiều lần và quyết định công bố lấy ý kiến nhân dân và chỉ đạo sát sao việc tiếp thu chỉnh lý. Chúng tôi xin báo cáo Quốc hội xem xét và quyết định việc thông qua Bộ luật lao động tại kỳ họp thứ 5 này, Bộ luật lao động đầu tiên của nước ta.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội