VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 2 1994-1995

 

TỜ TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ VỀ DỰ ÁN LUẬT
TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN NHÂN DÂN;
LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN (SỬA ĐỔI)

(Do ông Phan Ngọc Tường, Bộ trưởng,
Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ
đọc tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa IX, ngày 31-5-1994)

Thực hiện chương trình xây dựng luật năm 1993 - 1994 của Quốc hội, Chính phủ đã thành lập Ban soạn thảo và chỉ đạo chặt chẽ quá trình xây dựng hai Dự án Luật; tổ chức nhiều cuộc hội thảo, đi thực tế lấy ý kiến của các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, các Bộ, ngành ở Trung ương, các luật gia, các nhà quản lý để thu thập ý kiến giúp cho việc nghiên cứu sửa đổi hai đạo luật này.

Ngày 11 tháng 4 năm 1994, Dự án Luật đã được đăng báo và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để tiếp tục lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức và nhân dân. Sau khi tổng hợp và tiếp thu các ý kiến đóng góp của các tổ chức và nhân dân; ý kiến chỉ đạo của Ủy ban thường vụ Quốc hội họp ngày 17 và 18 tháng 5 năm 1994; ý kiến của Ủy ban pháp luật của Quốc hội qua nhiều lần thẩm định Dự án Luật (sửa đổi), Ban soạn thảo Dự án Luật cùng với Ủy ban pháp luật của Quốc hội, Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp quán triệt sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và nghiên cứu kỹ Hiến pháp năm 1992, Luật hiện hành năm 1989, Luật tổ chức Chính phủ để kịp thời chỉnh lý, sửa đổi và bổ sung.

Nay, Chính phủ xin trình Quốc hội hai Dự án Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi).

I- SỰ CẦN THIẾT VÀ YÊU CẦU KHÁCH QUAN
SỬA ĐỔI HAI ĐẠO LUẬT

Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã được Quốc hội khóa VIII thông qua ngày 30 tháng 6 năm 1989. Những quy định của hai đạo luật này trong gần 5 năm qua đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng, củng cố và tăng cường tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Để đáp ứng nội dung mới của Hiến pháp năm 1992 cùng với Luật tổ chức Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thì việc sửa đổi hai đạo luật này là hết sức cần thiết nhằm thể chế hóa Nghị quyết Đại hội VII của Đảng: Thực hiện một bước đổi mới một cách căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị và một cuộc cải cách lớn về bộ máy hành chính nhà nước; theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

Sửa đổi hai đạo luật này nhằm xây dựng bộ máy chính quyền địa phương gọn nhẹ nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên những lĩnh vực theo chức năng của các cấp chính quyền địa phương; khắc phục nhược điểm của bộ máy hành chính hiện nay: nặng nề, cồng kềnh, nhiều tầng nấc, kém hiệu lực; đồng thời, phát huy tính chủ động sáng tạo, nhanh nhạy của chính quyền địa phương trong cơ chế quản lý mới góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới của đất nước.

Đổi mới phương thức tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân bảo đảm thực sự dân chủ trong bầu cử, đặc biệt là quyền tự ứng cử và giới thiệu đại biểu của cử tri, tạo mọi điều kiện để cử tri lựa chọn được những người đủ năng lực và tín nhiệm, xứng đáng vào Hội đồng nhân dân các cấp, đại diện cho nguyện vọng, ý chí của nhân dân ở địa phương.

II- NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU CỦA DỰ ÁN LUẬT TỔ CHỨC
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN NHÂN DÂN (SỬA ĐỔI)

A- Về bố cục:

Luật hiện hành năm 1989 có IX chương, 67 điều. Luật sửa đổi lần này xây dựng 5 chương, 68 điều:

Chương I: Những quy định chung: gồm có 10 điều.

Chương II: Hội đồng nhân dân: gồm có 4 mục và 31 điều.

Chương III: Ủy ban nhân dân: gồm có 3 mục và 18 điều.

Chương IV: Những quy định về tổ chức trong trường hợp thay đổi cấp hoặc địa giới của các đơn vị hành chính và trong trường hợp đặc biệt: gồm có 10 điều.

Chương V: Điều khoản thi hành: gồm có 2 điều.

B- Về nội dung:

1. Vị trí, tính chất và nguyên tắc cơ bản tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân:

Dự án Luật đã kế thừa Luật hiện hành và cụ thể hóa Chương IX Hiến pháp năm 1992 về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (điều 119, 120, 123, 124); trong đó, tập trung quy định rõ nội dung tổ chức hoạt động của hai cơ quan chính là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, thể hiện:

Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên (Điều 1). Hội đồng nhân dân vừa phải có biện pháp thi hành Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên vừa phải ra nghị quyết thiết thực đối với sản xuất và đời sống của nhân dân địa phương theo nguyện vọng của nhân dân phù hợp với luật pháp của Nhà nước.

Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; nghị quyết của Hội đồng nhân dân và tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân hoạt động có hiệu quả.

Trong các điều 3, 5, 8 Dự án Luật phân định rõ trách nhiệm của Hội đồng nhân dân là cơ quan ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm chấp hành pháp luật; quyết định các biện pháp nhằm phát huy mọi tiềm năng của địa phương trên các lĩnh vực. Ủy ban nhân dân là cơ quan điều hành, quản lý hành chính nhà nước ở địa phương.

Dự án Luật quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân, Hội đồng nhân dân không hình thành hệ thống dọc. Chính phủ có nhiệm vụ hướng dẫn và kiểm tra việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên (Điều 8).

Để bảo đảm tính nhân dân của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Dự án Luật đã quy định chung: Trong hoạt động của mình, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân liên hệ mật thiết với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội khác và vận động các công dân ở địa phương tham gia rộng rãi vào việc quản lý nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ của mình (Điều 10).

2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân:

Được quy định từ Điều 11 đến Điều 19.

Dự án Luật lần này tập trung quy định nhiệm vụ, quyền hạn chung của Hội đồng nhân dân các cấp theo từng lĩnh vực mà Hội đồng nhân dân cần phải thảo luận, ra nghị quyết bảo đảm thực hiện về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; về chính sách dân tộc, tôn giáo; về khoa học, công nghệ; về thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa; về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương, v.v..

Vấn đề này có ý kiến đề nghị nên ghi nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp Hội đồng nhân dân vào luật. Nhưng trong tình hình thực tế hiện nay, chưa quy định được mà còn phải chờ nghị quyết Trung ương Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền; nội dung cải cách hành chính nhà nước và việc phân cấp nội dung quản lý của Trung ương cho các địa phương. Do đó, Dự án Luật lần này quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân như Luật hiện hành, nhưng có nói rõ nội dung hoạt động chính của Hội đồng nhân dân các cấp. Khi luật (sửa đổi) được thông qua thì việc quy định nhiệm vụ cụ thể của Hội đồng nhân dân mỗi cấp để Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định (Điều 19). Điều đó phù hợp với quy định tại Điều 91 của Hiến pháp năm 1992.

3. Về nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân:

Dự án Luật quy định: Nhiệm kỳ của mỗi khóa Hội đồng nhân dân các cấp là 5 năm (Điều 7). Với quy định này phù hợp với tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân mỗi cấp và đã được khẳng định trong nhiệm kỳ vừa qua.

Nhưng có ý kiến nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân huyện, xã là 2 năm rưỡi để trùng hợp với nhiệm kỳ Đại hội Đảng bầu cấp ủy khi phải thay đổi nhân sự; cũng có một số đề nghị nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân xã là 2 năm rưỡi, ngoài lý do phù hợp với nhiệm kỳ cấp ủy Đảng còn có lý do khác là: 5 năm đối với cấp cơ sở hơi dài, thay đổi nhân sự gặp khó khăn sẽ dẫn đến sự trì trệ ở những nơi còn cơ sở yếu kém. Song qua nhiều lần thảo luận thấy rằng: quy định như vậy làm cho việc sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa kịp ổn định thì đã tiến hành bầu lại; đó là chưa kể tới việc chi phí tốn kém cho việc bầu cử 1 vạn 500 đơn vị hành chính của cấp huyện, quận, thị xã, phường, thị trấn.

4. Về đại biểu Hội đồng nhân dân:

Được quy định tại Điều 20 đến Điều 30.

Trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân được quy định: Trong quá trình hoạt động liên hệ với cử tri, có quyền chất vấn hoặc yêu cầu thủ trưởng các cơ quan giải quyết những kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân.

Trong hoạt động của mình, đại biểu nào không còn xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân thì Hội đồng nhân dân có thể bãi nhiệm hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp. Dự án Luật lần này quy định: đại biểu Hội đồng nhân dân phạm tội, bị kết án thì đương nhiên mất quyền đại biểu Hội đồng nhân dân dù bất kể phải chịu hình phạt gì (Điều 30). Việc quy định như vậy là để đề cao vai trò, tín nhiệm của người đại biểu Hội đồng nhân dân; nhưng cũng có ý kiến cho rằng: chỉ khi bị phạt tù mới mất quyền đại biểu.

5. Về kỳ họp Hội đồng nhân dân:

Quy định tại Điều 31 đến Điều 35.

Theo Luật hiện hành, Hội đồng nhân dân các cấp họp mỗi năm 4 kỳ, thực tế như vậy là nhiều; Dự án Luật lần này quy định Hội đồng nhân dân các cấp họp mỗi năm hai kỳ, khi cần thiết có thể họp bất thường. Việc giảm bớt kỳ họp với mục đích bảo đảm thời gian chuẩn bị tốt cho nội dung các kỳ họp của Hội đồng nhân dân, đồng thời, có thời gian thực hiện triển khai các nghị quyết của kỳ họp trước.

6. Về Thường trực Hội đồng nhân dân:

Được quy định tại Điều 36 đến Điều 38.

Dự án Luật lần này quy định: Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh gồm có Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; ở cấp xã, phường, thị trấn có Chủ tịch Hội đồng nhân dân.

Nhưng có ý kiến cho rằng, Thường trực Hội đồng nhân dân cần có từ một đến hai Phó Chủ tịch; ở cấp xã, phường, thị trấn, nên có thêm một Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Các Trưởng Ban chuyên môn của Hội đồng nhân dân nên hoạt động chuyên trách và tham gia vào Thường trực Hội đồng nhân dân. Nếu quy định như vậy là chưa phù hợp với sự chỉ đạo của Đảng: bộ máy Thường trực Hội đồng nhân dân nên tổ chức gọn nhẹ, chủ yếu là làm các công việc bảo đảm cho Hội đồng nhân dân làm có hiệu quả, giảm tính hình thức của cơ quan Hội đồng nhân dân các cấp.

7. Về các Ban của Hội đồng nhân dân:

Được quy định tại Điều 39 đến Điều 41.

Dự án Luật quy định: Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có ba Ban, nơi nào có nhiều dân tộc và tôn giáo được thành lập thêm một Ban. Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thành lập hai Ban; số thành viên mỗi Ban do Hội đồng nhân dân cùng cấp quy định. Có ý kiến nên quy định Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không nên quy định số Ban chuyên môn như Dự án Luật; ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không có Ban chuyên môn. Vấn đề này Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ bàn bạc, quy định sau.

8. Về Ủy ban nhân dân:

Dự án Luật này tập trung vào hai nội dung chính là:

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân;

- Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân.

a) Về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân:

Được quy định tại Điều 42 đến Điều 50.

Theo quy định tại Điều 124 của Hiến pháp năm 1992 và đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều hành, quản lý của Ủy ban nhân dân cho các cấp chính quyền địa phương thực sự quản lý tốt công việc trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, giáo dục, y tế; quản lý đơn vị hành chính thuộc địa phận được giao, v.v. phải bảo đảm sự quản lý thống nhất của Chính phủ từ Trung ương đến cơ sở.

Về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân mỗi cấp vẫn ghi chung theo lĩnh vực như Luật hiện hành, có quy định rõ hơn và bổ sung thêm các nhiệm vụ mới do thực tiễn cuộc sống đề ra mà Ủy ban nhân dân các cấp phải quản lý nhà nước như: quản lý tổ chức kinh tế của người nước ngoài, chỉ đạo thu thuế và thi hành án.

Nhiệm vụ cụ thể của Ủy ban nhân dân mỗi cấp, Dự án Luật lần này giao cho Chính phủ quy định. Có ý kiến: nên để Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định với hình thức văn bản là Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm tính pháp lý cao hơn.

Để công việc điều hành quản lý nhanh nhạy, Dự án Luật quy định: Giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân được xét và giải quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân (Điều 45). Vấn đề này có ý kiến: Ủy ban nhân dân và Thường trực Hội đồng nhân dân phối hợp giải quyết hoặc chỉ để Thường trực Hội đồng nhân dân giải quyết. Điều 45 của Luật hiện hành và các luật trước đó đều giao cho Ủy ban nhân dân giải quyết nhiệm vụ giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân. Quy định như Dự án nhằm bảo đảm yêu cầu quản lý thông suốt, kịp thời trong điều hành quản lý của cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân.

b) Về tổ chức hoạt động của Ủy ban nhân dân:

Được quy định tại Điều 51 đến Điều 56.

Dự án Luật quy định rõ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức hoạt động của Ủy ban nhân dân. Quy định những vấn đề, thảo luận tập thể của Ủy ban nhân dân (Điều 53). Mặt khác, trên thực tế hiện nay về quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân còn kém hiệu quả, kỷ cương thi hành pháp luật chưa nghiêm; trong đó có việc xác định trách nhiệm của người đứng đầu Ủy ban nhân dân với sự lãnh đạo của tập thể. Vì thế, Dự án Luật có quy định những vấn đề cụ thể thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân nhằm đề cao vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân trong việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân và chủ trương của cơ quan nhà nước cấp trên (Điều 55, 56).

Để tinh giản bộ máy, Dự án Luật quy định giảm số thành viên Ủy ban nhân dân từ 20 đến 30% (Điều 52): tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có từ 9 đến 11 thành viên, thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh không quá 13, trước đây số thành viên này là 9 đến 17. Quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có từ 7 đến 9 thành viên, trước đây là 7 đến 13. Xã, phường, thị trấn, có từ 5 đến 7 thành viên, trước đây là 7 đến 9. Thành viên Ủy ban nhân dân các cấp gồm: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Chủ tịch Ủy ban nhân dân nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Có ý kiến để dễ bố trí cán bộ nên quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân không nhất thiết là đại biểu Hội đồng nhân dân.

Dự án Luật quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Vì với tư cách là người đứng đầu cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân không thể nào không có quyền bàn bạc và biểu quyết các công việc của Hội đồng nhân dân cấp mình. Số Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân do Chính phủ quy định.

Nhằm phát huy vai trò và quyền làm chủ của nhân dân, của các tổ chức đoàn thể, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thành viên của Mặt trận, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành viên này tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội (Điều 54).

Dự án Luật quy định rõ: Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được mời dự các kỳ họp của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân trong Mặt trận Tổ quốc ở địa phương được mời dự các kỳ họp Ủy ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan.

9. Về các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân:

Quy định tại Điều 57 đến Điều 59.

Ủy ban nhân dân có các cơ quan chuyên môn được thành lập theo quy định của Chính phủ giúp Ủy ban nhân dân thực hiện các chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, bảo đảm sự thống nhất, quản lý theo ngành hoặc lĩnh vực từ Trung ương đến cơ sở; chịu sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân và cơ quan chuyên môn cấp trên.

10. Về các quy định tổ chức trong trường hợp thay đổi cấp hoặc địa giới của các đơn vị hành chính và trong trường hợp đặc biệt:

Được quy định tại Điều 60 đến Điều 66.

Vấn đề quy định rõ việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân trong các trường hợp điều chỉnh địa giới:

- Khi có hai hay nhiều đơn vị hành chính sáp nhập lại với nhau.

- Khi có một đơn vị hành chính được phân chia thành hai hay nhiều đơn vị mới.

- Khi có một phần lãnh thổ được điều chỉnh sang đơn vị hành chính khác.

- Khi có một đơn vị hành chính thay đổi cấp.

- Khi thành lập mới đơn vị hành chính.

- Khi có một tập thể dân cư điều động, di chuyển đi nơi khác.

- Khi Hội đồng nhân dân bị giải thể.

Những quy định trên đây đều nhằm đáp ứng yêu cầu của địa phương nhanh chóng sắp xếp tổ chức và ổn định dân cư. Các nội dung trên đã cụ thể hơn so với Luật hiện hành nhằm bảo đảm điều hành công việc hành chính khi có sự thay đổi về các đơn vị hành chính nhà nước được thông suốt liên tục.

Qua tổng hợp ý kiến nhiều địa phương, mong muốn Dự án Luật sớm được Quốc hội thông qua để tạo cơ sở pháp lý cho việc điều hành, quản lý của chính quyền địa phương hiện nay có hiệu quả.

III- NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU VỀ DỰ ÁN LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN (SỬA ĐỔI)

A- Về bố cục

Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành gồm 11 chương và 69 điều. Dự án Luật sửa đổi lần này có 10 chương và 71 điều (bỏ Chương IX của Luật hiện hành về việc bãi miễn đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; nội dung này được chuyển sang quy định trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân).

B- Về nội dung

1. Về quyền bầu cử và ứng cử của công dân:

Dự thảo Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sửa đổi cơ bản giữ nguyên các quy định tại Điều 2 của Luật hiện hành về quyền bầu cử và ứng cử của công dân: "Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc Tòa án tước quyền đó" (Điều 2 của Dự thảo).

Luật hiện hành tại Điều 2 ghi: "Công dân ở trong Quân đội nhân dân có quyền bầu cử và có quyền ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân". Dự thảo sửa đổi đoạn này, vì quân nhân trong Quân đội cũng là công dân vì vậy họ được hưởng quyền bầu cử và ứng cử như những công dân bình thường khác. Tất nhiên, khi cần thiết Bộ Quốc phòng sẽ có văn bản hướng dẫn để các đơn vị quân đội tổ chức thực hiện phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.

2. Về tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân:

Để nâng cao chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với sự nghiệp đổi mới của đất nước, tiêu chuẩn của người đại biểu Hội đồng nhân dân phải bảo đảm về chính trị, có trình độ và kiến thức hiểu biết về quản lý nhà nước, có năng lực thực hiện nhiệm vụ, có phẩm chất đạo đức tốt. Điều 3 của Dự thảo quy định: "Đại biểu Hội đồng nhân dân phải trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, người tiêu biểu trong nhân dân, có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân, có trình độ hiểu biết và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Hội đồng nhân dân, tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, được nhân dân tín nhiệm".

3. Về số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân:

Trong nhiệm kỳ hiện nay (1989 - 1994), tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là 330.000 người. Thực tế cho thấy rằng, số lượng đại biểu như hiện nay là hơi nhiều, có một bộ phận đại biểu không phát huy tác dụng, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chung của Hội đồng nhân dân.Vì vậy, cần giảm số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân để tăng cường chất lượng, tạo điều kiện thuận lợi để cử tri chọn bầu những người có năng lực, thực sự đại diện cho cử tri. Mặt khác, Dự thảo cũng quy định số lượng đại biểu thích hợp để bảo đảm cho các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo có đại diện của mình trong cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Theo hướng đó, Dự thảo sửa đổi đã giảm từ 25 đến 30% số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân ở tất cả các cấp so với Luật hiện hành và quy định mức tối đa, tối thiểu số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cho mỗi cấp.

Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được quy định cụ thể như sau:

- Hội đồng nhân dân cấp xã, phường, thị trấn có từ mười chín đến hai mươi nhăm đại biểu; riêng những xã có từ một nghìn người trở xuống thì được bầu mười lăm đại biểu;

- Hội đồng nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có từ hai mươi nhăm đến ba mươi nhăm đại biểu;

- Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có từ bốn mươi nhăm đến bảy mươi nhăm đại biểu; riêng thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh có từ hai triệu rưỡi người trở lên thì được bầu không quá tám mươi nhăm đại biểu.

Dự án Luật còn quy định Hội đồng nhân dân các vùng miền núi, hải đảo, dân tộc thì giảm bớt số dân quy định cho một đại biểu được bầu để bố trí trong cơ cấu Hội đồng nhân dân có đại diện cho các dân tộc và vùng ít người.

4. Các tổ chức phụ trách bầu cử:

Để tạo điều kiện cho các tổ chức phụ trách bầu cử làm việc, dự thảo sửa đổi, bổ sung một số vấn đề làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức đó (Điều 19); Dự thảo bổ sung một số điều mới (Điều 20) quy định quyền trưng tập cán bộ, nhân viên của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội để giúp các tổ chức phụ trách bầu cử trong công tác bầu cử; quy định thời hạn kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử (Điều 21).

5. Ứng cử, đề cử và hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân:

Tại Chương V của Luật hiện hành có tất cả 5 điều bao gồm các quy định về quy trình hiệp thương, giới thiệu cơ cấu, thành phần người được đề cử và ứng cử. Để tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của mình, trong Dự thảo Luật lần này quy định rõ về quy trình, thủ tục tự ứng cử, đề cử và hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Chương V của Dự thảo cơ bản được viết lại cho phù hợp với tinh thần đó, với các điều quy định về thủ tục và quy trình tự ứng cử, đề cử và hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân; thủ tục công bố danh sách người ứng cử theo từng đơn vị bầu cử; việc giải quyết các khiếu nại, kiến nghị của công dân về danh sách những người ứng cử và quy định về quyền vận động bầu cử của những người được ghi tên trong danh sách ứng cử đã được công bố.

a) Về tự ứng cử:

Luật bầu cử hiện hành chỉ quy định chung là công dân có quyền ứng cử và đề cử. Dự thảo lần này quy định rõ hơn về vấn đề này. Cụ thể là:

Công dân có quyền tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Muốn tự ứng cử thì chậm nhất là 45 ngày trước ngày bầu cử, công dân phải nộp hồ sơ tại Hội đồng bầu cử (Điều 27).

Để bảo đảm cho công dân thực hiện quyền tự bầu cử, Dự thảo Luật quy định công dân tự ứng cử chỉ phải qua hiệp thương vòng cuối cùng do Mặt trận Tổ quốc tổ chức chứ không phải qua các vòng hiệp thương như trước đây (Điều 33).

b) Về đề cử:

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cấp bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tổ chức để các tổ chức thành viên của Mặt trận để cử người của tổ chức mình ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Chậm nhất là 45 ngày trước ngày bầu cử, người được đề cử phải nộp hồ sơ như quy định đối với người tự ứng cử tại Ban Thường trực Mặt trận Tổ quốc ở cấp bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Sau khi lấy ý kiến tại Hội nghị cử tri nơi cư trú hoặc công tác và nếu được Hội nghị tín nhiệm thì được đề cử được đưa vào danh sách hiệp thương để giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân (các điều 29, 30, 31, 32 và 33).

c) Về hiệp thương giới thiệu người ứng cử:

Quy trình hiệp thương giới thiệu người ứng cử do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đảm nhiệm. Mặt trận tổ chức hội nghị hiệp thương để lựa chọn người đủ tiêu chuẩn giới thiệu ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân qua ba vòng; vòng một là hiệp thương để thỏa thuận cơ cấu, thành phần và số lượng người được giới thiệu ra ứng cử của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, cơ quan nhà nước và đơn vị vũ trang nhân dân đóng tại địa phương (Điều 29); vòng hai là vòng hiệp thương để lập danh sách sơ bộ lấy ý kiến cử tri nơi công tác hoặc cư trú của những người được đề cử (Điều 31); vòng ba là vòng hiệp thương chính thức lựa chọn và lập danh sách những người ứng cử (Điều 33).

6. Về kết quả bầu cử:

Trong Dự thảo lần này có những sửa đổi, bổ sung quy định về kết quả bầu cử để phù hợp với thực tế tổ chức bầu cử và bảo đảm tính khách quan trong bầu cử.

Điều 42 của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành quy định những phiếu không hợp lệ bao gồm: phiếu không đúng mẫu quy định do Tổ bầu cử phát ra; nếu không có dấu của Tổ bầu cử; phiếu ghi tên người ứng cử quá số đại biểu được bầu. Tại Điều 47 của Dự thảo Luật này quy định thêm những phiếu không hợp lệ có cả hai loại phiếu gạch, xóa hết tên những người ứng cử. Vấn đề này cũng đã được quy định trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội. Thực chất đây là loại phiếu trắng, nhưng không dùng từ phiếu trắng mà coi loại phiếu này là phiếu không hợp lệ.

Về việc xác định kết quả bầu cử trong trường hợp những người ứng cử có số phiếu bằng nhau, Điều 49 Luật hiện hành quy định: Trong trường hợp những người ứng cử có số phiếu quá bán, số phiếu hợp lệ bằng nhau thì Hội đồng bầu cử xét, quyết định người trúng cử theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và của Ban bầu cử ở đơn vị ấy. Dự thảo lần này cơ bản giữ nguyên quy định này (Điều 53).

7. Về quy định bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân:

Trước đây, việc quy định bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân được quy định tại Điều 42 của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Trong Dự thảo mới, vấn đề này được đưa vào nội dung của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và quy định tại Điều 61: chậm nhất là 30 ngày trước khi bầu cử bổ sung, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định và công bố ngày bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

 8. Xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về bầu cử:

Trong Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành có một điều quy định tại Chương X về việc xử lý những vi phạm Luật bầu cử; Dự thảo lần này có hai điều bổ sung thêm quy định việc xử lý hành vi cản trở hoặc trả thù người tố cáo những việc làm trái pháp luật trong cuộc bầu cử thì tùy theo mức độ nặng hoặc nhẹ mà xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 68, 69).

Kính thưa Quốc hội,

 Như đã trình bày nội dung hai đạo luật: Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (gồm có 68 điều, trong đó có 5 điều giữ nguyên, 53 điều sửa đổi, bổ sung và 10 điều mới); Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (gồm có 71 điều, trong đó 11 điều giữ nguyên, 39 điều sửa đổi, bổ sung và 21 điều mới).

Như vậy, về cơ bản hai đạo luật này đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Hiến pháp năm 1992 và các Luật về tổ chức mà Quốc hội đã ban hành trước đó nên Chính phủ đề nghị Quốc hội thông qua hai đạo luật này là:

- Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi);

- Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi);

Có ý kiến cho rằng: gọi là Luật sửa đổi một số điều như vậy không phù hợp.

Chính phủ xin trình hai Dự án Luật này để Quốc hội xem xét và quyết định.


 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội