VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 2 1994-1995

 

TỜ TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ VỀ DỰ THẢO
LUẬT KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC


(Do ông Đỗ Quốc Sam, Chủ nhiệm Ủy ban
Kế hoạch Nhà nước đọc tại kỳ họp thứ 5,
Quốc hội khóa IX, ngày 03-6-1994)

Thực hiện Nghị quyết về công tác xây dựng pháp luật năm 1994 của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 4 (tháng 12 năm 1993) và Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1 năm 1994), Chính phủ đã giao cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước phối hợp với các cơ quan có liên quan soạn thảo Luật khuyến khích đầu tư trong nước để sớm trình Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 5, nhằm đáp ứng một đòi hỏi bức thiết và cơ bản của sự nghiệp phát triển đất nước.

Dự thảo Luật đã được thảo luận rộng rãi trong các Đoàn đại biểu Quốc hội, các ban, ngành và trên các cơ quan thông tin ngôn luận. Nhiều ý kiến đóng góp đã được tiếp thu.

Dư luận khẳng định sự cần thiết phải ban hành và tổ chức thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Nhiều ý kiến nhấn mạnh, trước tình hình và nhiệm vụ mới hiện nay, Luật khuyến khích đầu tư trong nước có ý nghĩa quan trọng trên nhiều mặt: pháp lý, chính trị, kinh tế và xã hội.

Về mặt pháp lý, sau khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài, cho đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài đã được hưởng một số ưu đãi, và trong chừng mực nhất định đã tạo ra tình trạng kinh doanh không bình đẳng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Vì vậy, việc ban hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước sẽ khắc phục được một phần sự bất hợp lý hiện nay của mặt bằng pháp lý giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.

Về mặt chính trị, trong giai đoạn phát triển mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luật khuyến khích đầu tư trong nước khẳng định tư tưởng độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển kinh tế. Vốn đầu tư nước ngoài tuy quan trọng, nhưng đối với toàn bộ quá trình phát triển, vốn đầu tư trong nước vẫn là yếu tố quyết định. Việc huy động vốn đầu tư trong nước không chỉ nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, mà còn làm tăng thêm sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài vào chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, khuyến khích đầu tư trong nước có hiệu quả cũng là gián tiếp thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài.

Luật khuyến khích đầu tư trong nước nhằm luật pháp hóa quan điểm của Đảng về khuyến khích tiết kiệm, cần kiệm xây dựng đất nước, xây dựng xã hội công bằng, văn minh. Vì vậy, Luật khuyến khích đầu tư trong nước cũng là biểu hiện thái độ dứt khoát của Đảng và Nhà nước không đồng tình với tình trạng tiêu xài hoang phí ở bất cứ đâu trong xã hội chúng ta.

Về mặt kinh tế - xã hội, Luật khuyến khích đầu tư trong nước có tác dụng động viên mọi nguồn vốn tiềm tàng của nhân dân đầu tư phát triển sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành và vùng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống của nhân dân.

Để thực hiện mục tiêu nói trên, Luật khuyến khích đầu tư trong nước đưa ra những biện pháp bảo hộ về mặt pháp lý, các biện pháp hỗ trợ và ưu đãi đầu tư nhằm khích lệ những người có khả năng đầu tư và những người đang đầu tư mở rộng sản xuất và kinh doanh. Những nội dung đó thể hiện cụ thể trong 7 chương, 25 điều của Dự thảo Luật:

Chương I: Những quy định chung

Chương II: Bảo đảm và hỗ trợ đầu tư

Chương III: Ưu đãi đầu tư

Chương IV: Quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư

Chương V: Quản lý nhà nước về khuyến khích đầu tư

Chương VI: Xử lý vi phạm

Chương VII: Điều khoản thi hành.

Sau đây, xin giải trình những nội dung cơ bản quy định trong Dự thảo Luật khuyến khích đầu tư trong nước để Quốc hội xem xét và cho ý kiến:

VỀ TÊN GỌI VÀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA LUẬT KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC
VÀ CÁC LUẬT KHÁC

Dự thảo Luật lấy tên là "Luật khuyến khích đầu tư trong nước" để làm rõ ngay từ đầu mục đích của Luật là khẳng định sự bảo hộ về mặt pháp lý của Nhà nước đối với các hoạt động đầu tư hợp pháp, tăng cường các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích và ưu đãi để động viên mọi nguồn vốn lớn, nhỏ của tất cả các thành phần kinh tế đầu tư dưới mọi hình thức thích hợp do pháp luật quy định theo định hướng của Nhà nước. Còn những vấn đề khác liên quan đến đầu tư như: trình tự, hình thức đầu tư, thủ tục thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh..., thì đã được chế định trong Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân và sẽ được thể hiện trong Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật hợp tác xã, Luật thương mại..., ban hành sau này. Như vậy, nội dung chính của Luật khuyến khích đầu tư trong nước chủ yếu là quy định cụ thể các chính sách hỗ trợ, khuyến khích và ưu đãi đầu tư.

Một số ý kiến đề nghị lấy tên "Luật đầu tư trong nước" cho tương xứng với Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Xét về nội dung, Dự thảo Luật này khác so với Luật đầu tư nước ngoài ở một điểm cơ bản là không quy định cụ thể về tổ chức quản lý các loại hình cơ sở kinh doanh được thành lập trong quá trình đầu tư, như hợp tác xã, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, v.v.. Sở dĩ như vậy là vì, hoàn cảnh soạn thảo và ban hành Luật đầu tư nước ngoài có khác so với hiện nay. Vào năm 1987, môi trường pháp lý cho đầu tư và kinh doanh theo cơ chế mới hầu như chưa có. Luật đầu tư nước ngoài ban hành trong khi không có luật riêng về các xí nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài, cho nên Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải chế định cả các biện pháp bảo hộ, hỗ trợ, ưu đãi đầu tư, cũng như tổ chức quản lý và cơ chế quản lý cụ thể đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, đối với đầu tư trong nước hiện nay thì từng loại hình doanh nghiệp chủ yếu đều đã được hoặc sẽ được luật riêng chế định, như đã trình bày ở trên; cho nên ban hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước không phải để chế định tổ chức và cơ chế quản lý các loại hình tổ chức kinh doanh trong nước, mà trọng tâm được đặt vào mục đích khuyến khích, thúc đẩy huy động vốn đầu tư. Như vậy, yêu cầu đặt ra đối với Luật đầu tư nước ngoài và đối với Luật khuyến khích đầu tư trong nước có khác nhau, và vì thế không nhất thiết phải tương xứng về tên gọi.

Có ý kiến đề nghị lấy tên là "Luật đầu tư trong nước", vì cho rằng chữ "khuyến khích" không thật đúng tầm của Luật. Tuy vậy, kinh nghiệm quốc tế cho thấy chữ "khuyến khích" đã được dùng trong tên gọi của Luật về thúc đẩy đầu tư trong nước ở hầu hết các nước Đông Nam Á và nhiều nước khác.

Xin báo cáo để Quốc hội xem xét và cho ý kiến về tên Luật.

Có nhiều ý kiến đề nghị rất đúng là cần xây dựng một Bộ luật hoàn chỉnh và thống nhất về đầu tư để chủ đầu tư trong và ngoài nước chỉ cần làm theo một Bộ luật duy nhất. Nhưng để làm được việc này cần có thời gian và điều kiện; vì một Bộ luật như vậy sẽ phải tổng hợp và bao gồm cả Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước và có thể bao gồm một số phần của các Luật doanh nghiệp, Luật thương mại.

VỀ CHƯƠNG I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Nội dung cơ bản của Chương I gồm 4 điều quy định về đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật, một số định nghĩa và các hình thức đầu tư được Luật bảo hộ và khuyến khích.

1. Về đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật:

Đối tượng điều chỉnh của Luật này là vốn đầu tư trong nước và vốn của người Việt Nam định cư ở nước ngoài chuyển về nước để đầu tư trực tiếp. Do đó, phạm vi áp dụng của Luật bao gồm: "Các tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam" (Điều 1).

Việc xác định phạm vi đối tượng điều chỉnh như trên của Luật đã được thảo luận nhiều lần trên cơ sở tiếp thu những ý kiến đóng góp nhằm thể hiện được tư tưởng động viên mọi nguồn vốn đầu tư để xây dựng đất nước. Tuy vậy, về vấn đề này hiện nay vẫn còn có ý kiến khác nhau, xin được báo cáo để Quốc hội xem xét:

Một là, có ý kiến phân vân về các khía cạnh pháp lý đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này, vì đã được Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chế định. Do đó, ý kiến này đề nghị hoặc là Luật này chỉ áp dụng cho người có quốc tịch Việt Nam ở nước ngoài, hoặc là loại bỏ đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài ra khỏi phạm vi áp dụng của Luật này.

Thực tế cho thấy, mặc dù người Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể đầu tư về nước theo Luật đầu tư nước ngoài, và Nhà nước đã có chế độ ưu đãi riêng cho họ; nhưng hiện nay, nhiều người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn chuyển vốn về nước để đầu tư theo các quy định về đầu tư trong nước và đứng tên chủ đầu tư trong nước. Việc đáp ứng nguyện vọng chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài muốn chuyển vốn về nước để đầu tư một cách hợp pháp là hoàn toàn phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước; đồng thời, góp phần cụ thể hóa quy định của Hiến pháp: "Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước" (Điều 25 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992). Điều đó cũng phù hợp với mục đích của Luật này là huy động tối đa các nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế đất nước.

Đề nghị Quốc hội ủy quyền cho Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua những quy định cụ thể của Chính phủ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư, đồng thời tránh những sơ hở hoặc lợi dụng có thể xảy ra.

Hai là, về người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam: Việc cho phép người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam được đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam theo Luật này là nhằm tạo điều kiện cho họ kinh doanh hợp pháp và góp phần xây dựng, phát triển kinh tế Việt Nam. Điều này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế là cho phép người nước ngoài cư trú lâu dài được tham gia kinh doanh tùy theo thời gian cư trú, học vấn, năng lực kinh doanh và tiền vốn của họ.

Tuy vậy, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, công dân của một nước cư trú lâu dài ở một nước khác cần có một số điều kiện nhất định mới được quyền đầu tư và kinh doanh. Trong những bản Dự thảo Luật trước đây có ghi những điều kiện cụ thể như vậy. Tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân và của nhiều Đoàn đại biểu Quốc hội là Luật không nên quy định quá chi tiết, do đó, Dự thảo Luật lần này đã dành những quy định như vậy cho Nghị định hướng dẫn thi hành Luật của Chính phủ.

Ba là, về đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước: Để bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các đơn vị kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, thì tất cả các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nhà nước cũng đều phải được áp dụng theo Luật này. Vì vậy, tại Điều 4 của Dự thảo Luật đã quy định: "Đầu tư thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế". Điều này là cần thiết và hợp lý, vì hiện nay nhiều doanh nghiệp nhà nước đã phải tự huy động vốn để hiện đại hóa và mở rộng kinh doanh.

2. Về hình thức đầu tư:

Điều 4 của Dự thảo Luật quy định ba hình thức đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này. Đó là:

- Đầu tư thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế;

- Đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ của các cơ sở sản xuất, kinh doanh hiện có;

- Mua cổ phần của các doanh nghiệp, góp vốn vào các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước được phép đa dạng hóa hình thức sở hữu.

Tiếp thu ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội, quy định về hình thức đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này so với trước đây đã được sửa đổi theo hướng mở ra rộng rãi và bao quát được tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và khu vực kinh tế tư nhân; phạm vi điều chỉnh không chỉ là doanh nghiệp, mà cả các cơ sở kinh doanh quy mô nhỏ, như hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ, v.v..

Đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ cơ sở sản xuất, kinh doanh hiện có sẽ được cụ thể hóa hơn trong nghị định hướng dẫn thi hành Luật của Chính phủ. Nói cách khác, quy mô mở rộng đến đâu, năng lực sản xuất được nâng cao đến mức nào, công nghệ được đổi mới như thế nào mới được coi là đầu tư, sẽ được quy định cụ thể trong Nghị định của Chính phủ.

Mua cổ phần của các doanh nghiệp và góp vốn vào các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp nhà nước được Nhà nước cho phép đa dạng hóa sở hữu đang là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao trình độ quản lý, tạo ra động lực thực sự cho người lao động, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn có tác dụng động viên nhân dân tiết kiệm và sử dụng tiền tiết kiệm để góp vốn đầu tư vào trực tiếp sản xuất hơn là đầu tư vào các hoạt động phi sản xuất dưới hình thức mua bán bất động sản và ngoại tệ, v.v.. Đương nhiên, việc này được tiến hành chặt chẽ nhằm thu hút vốn vào những doanh nghiệp mà Nhà nước xác định không cần nắm giữ 100% sở hữu nhà nước.

VỀ CHƯƠNG II: BẢO ĐẢM VÀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ

Nội dung của Chương II gồm 4 điều, từ Điều 5 đến Điều 8, quy định các biện pháp bảo đảm về mặt pháp lý và hỗ trợ nhiều mặt của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư.

1. Về các biện pháp bảo đảm đầu tư:

Bảo đảm đầu tư là một yếu tố hết sức quan trọng tạo thành môi trường đầu tư thuận lợi. Đây cũng là điều mà các cử tri đã phản ánh và các chủ đầu tư đang thực sự quan tâm. Các Điều 5 và 6 của Dự thảo Luật đã đưa ra hai biện pháp bảo đảm đầu tư có ý nghĩa quan trọng, cụ thể hóa một bước các điều khoản có liên quan trong Hiến pháp năm 1992:

Thứ nhất là, Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư và lợi nhuận hợp pháp của chủ đầu tư.

Thứ hai là, cùng với sự công nhận và bảo hộ quyền sở hữu của chủ đầu tư đối với tài sản, vốn đầu tư và lợi nhuận hợp pháp, Nhà nước không quốc hữu hóa tài sản đó. Nhà nước chỉ trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường trong những trường hợp thực sự cần thiết vì lý do quốc phòng và an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia. Trong trường hợp này, giá trưng mua hoặc mức bồi thường là theo giá thị trường tại thời điểm trưng mua hoặc trưng dụng, và chủ đầu tư còn được tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư ở chỗ khác. Biện pháp bảo đảm này đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992; ở đây được cụ thể hóa thêm một bước và bổ sung nội dung: chủ đầu tư được tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư ở chỗ khác.

2. Về các biện pháp hỗ trợ đầu tư:

Điều 7 đưa ra 7 biện pháp hỗ trợ có liên quan đến 4 yêu cầu căn bản của đầu tư; đó là đất đai, tiền vốn, dịch vụ đầu tư và chuyển giao công nghệ. Những biện pháp này do Nhà nước thực hiện để vừa góp phần giải quyết những khó khăn lớn mà hiện nay nhiều chủ đầu tư đang gặp phải, vừa cùng chia sẻ với họ những rủi ro xảy ra trong đầu tư:

- Giao đất hoặc cho thuê đất cho các chủ đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế sử dụng vào mục đích kinh doanh là một trong những chủ trương lớn của Nhà nước. Kết quả nhiều cuộc điều tra gần đây cho thấy, không có đất để xây dựng nhà máy và làm mặt bằng kinh doanh là một trong những khó khăn cơ bản đang cản trở đầu tư và phát triển kinh tế, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đất đai là nguồn tài nguyên khan hiếm và có giá trị lớn, do đó bản thân biện pháp này đã là một ưu đãi quan trọng.

- Nhà nước trực tiếp lập và khuyến khích các tổ chức khác lập các Quỹ hỗ trợ đầu tư và thực hiện bảo lãnh tín dụng đầu tư là những biện pháp hỗ trợ về vốn rất có ý nghĩa đã được nhiều nước áp dụng. Trong điều kiện của một nước mới bắt đầu phát triển như Việt Nam, mức độ rủi ro của đầu tư còn khá cao, chủ đầu tư còn có tâm lý lo ngại, dè dặt; vì vậy, thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư để cấp tín dụng trung và dài hạn, với lãi suất khác nhau theo định hướng của Nhà nước, và thực hiện bảo lãnh tín dụng đầu tư là những biện pháp hỗ trợ rất quan trọng, nhằm thúc đẩy và khuyến khích những người có ý định đầu tư nhưng còn thiếu vốn, hoặc có đủ vốn nhưng còn chần chừ do dự chưa muốn đầu tư. Vì lợi ích chung của nền kinh tế, Đảng và Nhà nước khẳng định quyết tâm lập các quỹ hỗ trợ đầu tư ngay trong điều kiện ngân sách khó khăn.

Hiện nay, đã có một số Quỹ hỗ trợ đầu tư của nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam.

Chính phủ sẽ ban hành quy định cụ thể về mục đích, nguyên tắc hoạt động, cơ cấu tổ chức, quản lý, kiểm soát Quỹ hỗ trợ đầu tư, để đảm bảo tiền vốn của Quỹ được sử dụng đúng mục đích và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội.

Về quỹ hỗ trợ đầu tư, một số ý kiến tỏ ra phân vân về tính khả thi, đặc biệt là việc tạo nguồn vốn cho Quỹ trong điều kiện ngân sách nhà nước hiện nay còn rất hạn hẹp. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay ở nước ta, đã có khoảng 20 quỹ hỗ trợ khác nhau được hình thành từ ngân sách nhà nước, trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho đầu tư. Việc Luật quyết định thành lập các quỹ hỗ trợ đầu tư vừa nhằm thu hút thêm các nguồn vốn mới, kể cả trong và ngoài nước vừa có tác dụng bổ sung, phối hợp góp phần làm cho nguồn vốn của các quỹ hiện hành được sử dụng có hiệu quả hơn.

- Về bảo lãnh tín dụng đầu tư, có ý kiến cho rằng, biện pháp này còn quá mới mẻ, đồng thời hiện nay, các ngân hàng thương mại và công ty tài chính đã là tổ chức kinh doanh nên Nhà nước không thể can thiệp và buộc các tổ chức đó phải đứng ra bảo lãnh tín dụng đầu tư. Về điểm này xin báo cáo rằng, trong giai đoạn hiện nay vì nhiều lý do, các doanh nghiệp của nước ta chưa phải là khách hàng hấp dẫn đối với những người cho vay ở nước ngoài. Do đó, nếu không được bảo lãnh thì các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể vay được vốn trên thị trường tài chính quốc tế. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã chuẩn bị những văn bản pháp quy về các điều kiện bảo lãnh, thế chấp, v.v. và đang chuẩn bị để thực hiện các quy định đó.

- Nhà nước sẽ góp vốn đầu tư vào các đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác để hình thành các cơ sở hợp doanh với Nhà nước theo hướng hình thành tư bản nhà nước (khoản 4, Điều 7). Tùy theo yêu cầu của nền kinh tế quốc dân, một số doanh nghiệp nhà nước có thể được cổ phần hóa hay huy động thêm vốn như quy định tại khoản 3, Điều 4. Đồng thời, Nhà nước cũng có thể chủ động góp vốn đầu tư vào cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác theo nguyên tắc các bên cùng có lợi. Hai chủ trương này không mâu thuẫn với nhau mà bổ sung cho nhau.

VỀ CHƯƠNG III: ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ

Nội dung của Chương III gồm 3 điều, từ Điều 9 đến Điều 11, xác định các đối tượng được ưu đãi đầu tư và các biện pháp ưu đãi đầu tư với những mức khác nhau nhằm động viên, huy động vốn và định hướng đầu tư vào một số ngành, nghề quan trọng cần ưu tiên phát triển, đầu tư để phát triển những vùng khó khăn của đất nước và đầu tư để tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội.

1. Định hướng chính sách ưu đãi đầu tư:

Một trong những mục tiêu của Luật này là hướng đầu tư vào các lĩnh vực và các vùng cần ưu tiên phát triển để góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành và cơ cấu vùng, bảo đảm sự phát triển nhanh và có hiệu quả của nền kinh tế. Điều 9 Dự thảo Luật thể hiện và cụ thể hóa chính sách khuyến khích đầu tư có định hướng của Nhà nước thông qua việc xác định ba trọng tâm ưu đãi là:

- Ưu đãi những lĩnh vực cần ưu tiên phát triển,

- Ưu đãi những vùng có điều kiện khó khăn và

- Ưu đãi những cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng nhiều lao động.

Thứ nhất, ưu đãi đầu tư vào những lĩnh vực kinh tế - xã hội mà việc phát triển nhanh ở đó có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự ổn định và phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện khai thác lợi thế so sánh của đất nước, góp phần làm cho vốn đầu tư được sử dụng có hiệu quả - một yếu tố quan trọng đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Những lĩnh vực này bao gồm cả các công nghệ và kỹ thuật tiên tiến.

Cùng với quá trình phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế theo ngành và theo vùng cũng thay đổi. Do đó, các lĩnh vực, trước hết là các ngành công nghiệp, cần ưu tiên phát triển cũng không giống nhau ở các thời kỳ khác nhau. Vì vậy, để tránh tình trạng một số nội dung của Luật phải thay đổi cùng với sự chuyển đổi giai đoạn phát triển của nền kinh tế, Điều 9 Dự thảo Luật giao thẩm quyền cho Chính phủ xác định cụ thể các ngành Công nghiệp cần ưu đãi đầu tư. Tuy nhiên, việc thay đổi danh mục các lĩnh vực được ưu tiên phát triển chỉ có nghĩa là thay đổi hướng ưu đãi cho thời gian sau đó, chứ hoàn toàn không phải rút bỏ những ưu đãi đã được chấp thuận trong thời gian trước, để bảo đảm tính nhất quán của Luật.

Thứ hai, ưu đãi đối với những vùng khó khăn: Để thúc đẩy sự phát triển cân đối giữa các vùng trong cả nước, vùng ưu đãi được xác định là các vùng có điều kiện thiên nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hơn các vùng khác. Vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo được xác định là các vùng khó khăn; còn "các vùng khó khăn khác" dự tính bao gồm chủ yếu một số vùng nông thôn sâu và xa, trong đó có cả vùng nông thôn duyên hải ở miền Trung, hiện chưa thu hút được số đầu tư đáng kể. Cũng tương tự như cụ thể hóa các lĩnh vực ưu đãi đầu tư, Dự thảo Luật giao thẩm quyền cho Chính phủ quy định phạm vi các vùng cụ thể được ưu đãi.

Thứ ba, ưu đãi đối với những dự án đầu tư sử dụng nhiều lao động; đây là đối tượng ưu đãi đầu tư được bổ sung thêm so với các Dự thảo luật trước, trên cơ sở tiếp thu ý kiến đóng góp của một số đoàn đại biểu Quốc hội và của nhiều tổ chức và cá nhân ở các địa phương.

Về điểm này, có ý kiến e ngại rằng, liệu làm như vậy có mâu thuẫn với sử dụng công nghệ tiên tiến hay không. Đúng là giữa lao động, vốn đầu tư và công nghệ có mối liên quan chặt chẽ với nhau; nếu tiền lương cao thì các chủ đầu tư có thiên hướng sử dụng công nghệ cao để tiết kiệm lao động, còn nếu tiền vốn khan hiếm, thì người ta sẽ sử dụng công nghệ cần ít vốn nhưng cần nhiều lao động. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, chúng ta vừa phải khuyến khích đi ngay lên hiện đại, vừa phải khuyến khích tạo nhiều công ăn việc làm để thúc đẩy tăng năng suất lao động xã hội. Việc khuyến khích công nghệ cao cấp đã được bao hàm trong hướng ưu đãi theo ngành. Vì vậy, ưu đãi về tạo chỗ làm việc không loại trừ việc vận dụng công nghệ cao.

Thứ tư, ưu đãi đối với các dự án đầu tư nhỏ: quy định tại Điều 4 và Điều 9 có nghĩa là chế độ ưu đãi đầu tư trong Dự thảo Luật dành cho cả các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ trong các lĩnh vực và các vùng lãnh thổ được ưu đãi đầu tư. Tuy vậy, về điểm này có ý kiến e ngại rằng, ưu đãi cho cả các dự án đầu tư nhỏ, thì diện ưu đãi sẽ dàn trải, việc quản lý ưu đãi đầu tư sẽ khó khăn và hiệu quả của chế độ ưu đãi đầu tư có thể bị hạn chế.

2. Các biện pháp ưu đãi:

a) Ưu đãi về thuế:

Điều 10 quy định các khung ưu đãi về thuế, mở rộng và phát triển thêm các chế độ miễn, giảm thuế quy định tại các luật thuế, pháp lệnh thuế hiện hành.

Luật thuế lợi tức đã quy định: "Cơ sở sản xuất mới thành lập được miễn thuế lợi tức hai năm, kể từ khi có lợi tức, và được giảm 50% trong hai năm tiếp theo".

Dự thảo Luật khuyến khích đầu tư trong nước đề nghị đối với các dự án đầu tư vào các ngành, nghề được quy định của từng lĩnh vực, trong phạm vi các vùng lãnh thổ, và sử dụng lao động đến một quy mô nhất định nói tại Điều 9 được ưu đãi thêm là: giảm thuế lợi tức thêm đến hai năm.

Như vậy, đầu tư thành lập cơ sở sản xuất mới hoặc đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ của cơ sở kinh doanh hiện có, nếu thuộc các đối tượng ưu đãi đầu tư thì được hưởng mức ưu đãi tổng cộng của hai Luật là: miễn thuế lợi tức hai năm, kể từ khi có lợi tức và giảm thuế từ hai đến bốn năm tiếp theo.

Riêng dự án đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác được hưởng mức ưu đãi cao hơn. Cụ thể là:

- Giảm thuế lợi tức thêm từ hai năm đến bốn năm;

- Giảm thuế doanh thu thêm đến hai năm. Nếu tính chung cả chế độ giảm thuế quy định ở Luật thuế doanh thu thì thời hạn giảm thuế doanh thu là từ ba đến năm năm, kể từ khi bắt đầu kinh doanh.

Ngoài ra, nếu chủ đầu tư dùng lợi nhuận để tái đầu tư ở những vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác thì được miễn thuế lợi tức cho phần lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư.

 Như vậy, mức ưu đãi được thiết kế theo nguyên tắc: chỉ ưu đãi cho đầu tư vào sản xuất; những dự án đầu tư vào các đối tượng ưu tiên phát triển được hưởng ưu đãi cao hơn; đầu tư vào vùng khó khăn được hưởng ưu đãi cao nhất. Tiếp thu ý kiến đóng góp, chế độ ưu đãi đầu tư trong Dự thảo này được viết lại ngắn gọn hơn, và chỉ xác định khung ưu đãi, chứ không quy định mức ưu đãi cụ thể như những dự thảo trước đây. Ngoài ra, để tránh mâu thuẫn với các luật thuế hiện hành, Dự thảo luật này không thay đổi các mức thuế suất, mà chỉ xác định rõ đối tượng được hưởng ưu đãi, và kéo dài thêm thời hạn ưu đãi mà thôi.

Về chế độ ưu đãi về thuế như trình bày trên đây hiện còn ý kiến khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng, ưu đãi quy định như trong Dự thảo Luật khuyến khích đầu tư trong nước là nghèo nàn, chưa đủ hấp dẫn, và kiến nghị phải khuyến khích mạnh hơn nữa, giảm mạnh hơn về mức thuế, kéo dài hơn thời hạn miễn và giảm thuế sao cho ít nhất cũng phải ngang bằng với đầu tư nước ngoài để thúc đẩy hơn đầu tư trong nước. Việc giảm mức thuế sẽ được bù lại bằng số người tham gia đầu tư nhiều hơn.

Đòi hỏi về đối xử công bằng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài là một đòi hỏi chính đáng và trong tương lai sẽ tiến tới một chế độ thống nhất. Nếu so sánh chế độ hiện hành đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, thì đầu tư trong nước bị bất lợi về mức thuế suất lợi tức, thời hạn miễn, giảm thuế lợi tức và về miễn thuế nhập khẩu; nhưng lại được lợi hơn về giá công nhân, giá thuê đất, giá điện, nước, cước phí vận chuyển và bưu điện được tiêu thụ ở thị trường trong nước, v.v. so với đầu tư nước ngoài.

Hiện nay, việc thay đổi khung thuế suất lợi tức cho ngang bằng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài là chưa thể làm được; mặt khác chưa thể nâng mức giá nhân công, giá điện, nước và một số dịch vụ khác cho đầu tư trong nước lên bằng với mức cho đầu tư nước ngoài. Do đó, mặc dù việc xóa bỏ sự khác biệt cục bộ, tiến tới xây dựng một chế độ ưu đãi đầu tư chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài là cần thiết, nhưng điều đó cần có thời gian và chưa thực hiện được trong thời điểm hiện nay.

b) Về chế độ miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, phụ tùng:

Nhiều ý kiến đề nghị chế độ miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị, phụ tùng nhập khẩu cấu thành tài sản đầu tư đối với đầu tư trong nước phải giống như quy định đối với đầu tư nước ngoài, và nên viết giống như trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Tuy vậy, chế độ miễn thuế nhập khẩu đối với đầu tư nước ngoài không được quy định rõ trong Luật đầu tư nước ngoài cũng như trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, mà được xử lý tại Nghị định số 18/CP ngày 16 tháng 4 năm 1993 của Chính phủ.

Xem xét vai trò của thuế nhập khẩu trong nguồn thu của ngân sách nhà nước thì thấy, trong giai đoạn hiện nay, chưa thể cho tất cả các chủ đầu tư trong nước được hưởng chế độ miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị, các phương tiện sản xuất khác (gồm cả phương tiện vận tải) và các phụ tùng nhập khẩu vào Việt Nam để đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất hoặc để bổ sung thêm tài sản cố định; vì nếu làm đồng loạt ở diện rộng như vậy sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách nhà nước. Do đó, khoản 3 Điều 10 quy định việc cho phép miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, phụ tùng để đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất do Chính phủ xem xét và quyết định trong trường hợp đặc biệt cần khuyến khích, chứ không áp dụng trên diện rộng.

c) Ưu đãi về tín dụng:

Ngoài các ưu đãi đã nói trên, cơ sở sản xuất mới thành lập còn được hưởng biện pháp ưu đãi về tín dụng quy định tại Điều 11. Cụ thể là:

- Cơ sở sản xuất mới thành lập bảo đảm có hiệu quả trong các ngành, nghề quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật này được ưu tiên xem xét cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn từ các Quỹ hỗ trợ đầu tư.

- Cơ sở sản xuất mới thành lập bảo đảm có hiệu quả tại vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các cùng khó khăn khác được ưu tiên xem xét cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn với lãi suất ưu đãi từ các Quỹ hỗ trợ đầu tư.

- Cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu theo yêu cầu của Nhà nước, thì được Nhà nước hỗ trợ bảo lãnh tín dụng và cấp tín dụng xuất khẩu.

Như vậy, chỉ có đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác mới được hưởng lãi suất ưu đãi.

Bảo lãnh tín dụng và cấp tín dụng xuất khẩu là biện pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu áp dụng phổ biến ở Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia... Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài, thì cơ chế cấp tín dụng xuất khẩu đã phát huy hiệu lực rất tốt trong việc đẩy nhanh tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu ở các nước nói trên.

Hoạt động xuất khẩu có đặc điểm là việc thanh toán thường chậm hơn nhiều so với tiêu thụ sản phẩm ở trong nước, mức độ rủi ro trong khâu thanh toán cũng cao hơn. Do đó, thực hiện chế độ cấp vốn tín dụng kịp thời cho hoạt động xuất khẩu là biện pháp hỗ trợ về vốn có ý nghĩa rất lớn đối với các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu và trực tiếp xuất khẩu.

Để hỗ trợ các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, ngân hàng cấp tín dụng tương ứng hoặc theo một tỷ lệ nhất định so với giá trị hàng hóa đã xuất khẩu hoặc đã ký hợp đồng xuất khẩu, ngay khi doanh nghiệp đệ trình hóa đơn, chứng từ và tín dụng thư hoặc hợp đồng đã được ký. Tín dụng xuất khẩu có thể được cấp với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, như một biện pháp trợ cấp gián tiếp cho xuất khẩu.

Biện pháp này được thực hiện vừa góp phần giảm được tình trạng thiếu vốn, đặc biệt là vốn lưu động, đối với các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, do sự chênh lệch khá dài về thời điểm sản xuất, xuất khẩu và thời điểm được thanh toán, vừa thúc đẩy các ngân hàng mở rộng, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ. Tín dụng xuất khẩu được cấp chủ yếu cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu theo yêu cầu của Nhà nước.

VỀ CHƯƠNG IV: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ ĐẦU TƯ

Chương này gồm 6 điều, từ Điều 12 đến Điều 17.

Quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư được quy định trong Dự thảo Luật khuyến khích đầu tư trong nước chủ yếu căn cứ vào các quy định có liên quan của pháp luật hiện hành.

Tiếp thu ý kiến đóng góp, quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư đã được quy định thành từng điều riêng và được bổ sung thêm phù hợp với các quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp quy định trong các Luật khác.

Điều 16 và Điều 17 quy định về chuyển ra nước ngoài lợi nhuận thu được, tiền gốc và lãi của các khoản vay từ nước ngoài, vốn đầu tư đã chuyển hợp pháp vào Việt Nam. Như vậy, việc chuyển các khoản tiền nói trên ra nước ngoài được coi là một quyền riêng của các chủ đầu tư có sử dụng vốn của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Các quy định này tương đương với các quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

VỀ CHƯƠNG V: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ

1. Nội dung của Chương này gồm 2 điều, Điều 18 và Điều 19, quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thúc đẩy, quản lý và giám sát hoạt động đầu tư.

2. Chính phủ sẽ chỉ định cơ quan nhà nước ở Trung ương (không thành lập cơ quan mới) làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về khuyến khích đầu tư; hay nói cách khác, giao thêm chức năng quản lý nhà nước về khuyến khích đầu tư cho cơ quan này.

Chính phủ dự kiến giao cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và hệ thống Ủy ban Kế hoạch tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập một bộ phận chuyên giúp Chính phủ (đối với những ngành, nghề cần Thủ tướng Chính phủ chuẩn y) và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện nhiệm vụ này.

Nhiệm vụ quản lý nhà nước về khuyến khích đầu tư của cơ quan này bao gồm:

- Xây dựng và trình Chính phủ quyết định danh mục các ngành, nghề, phạm vi các vùng, quy mô sử dụng lao động, được hưởng ưu đãi đầu tư.

- Ban hành các thông tư hướng dẫn về hỗ trợ và ưu đãi đầu tư, giám sát Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư, giải quyết hoặc kiến nghị với Chính phủ giải quyết các khiếu nại về ưu đãi đầu tư.

- Xem xét và quyết định cấp chứng nhận về ưu đãi đầu tư (nếu có) cho những doanh nghiệp do Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập.

3. Về cơ bản, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan trực tiếp hoặc ủy quyền xem xét, cấp hoặc từ chối cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư.

Như vậy, trong hệ thống tổ chức quản lý khuyến khích đầu tư thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan trực tiếp thực hiện; còn cơ quan của Chính phủ ở Trung ương được chỉ định hướng dẫn, giám sát và kiểm tra thực hiện theo đúng quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước và của các văn bản khác có liên quan.

VỀ CHƯƠNG VI: XỬ LÝ VI PHẠM

Nội dung của Chương này gồm 3 điều, từ Điều 20 đến Điều 22, xác định các hành vi vi phạm pháp luật của chủ đầu tư, cũng như của những nhân viên nhà nước có liên quan. Có ý kiến đề nghị nên có quy định về xử phạt đối với trường hợp lợi dụng để xin cấp đất, thuê đất sử dụng vào mục đích khác, hay xin cấp hoặc thuê quá mức cần thiết của dự án đầu tư, ý kiến đó là rất xác đáng; nhưng vấn đề này thuộc phạm vi chế định của pháp luật về đất đai. Vì vậy, để tránh trùng lặp, những quy định tương tự đã được loại ra khỏi nội dung của Chương này.

VỀ CHƯƠNG VII: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Tiếp thu ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội về việc phải có đối xử thỏa đáng đối với những người đã bỏ vốn đầu tư trước khi Luật này có hiệu lực, Dự thảo Luật đã bổ sung thêm một số quy định ở Điều 24:

Một là, đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư như quy định tại Điều 9 của Dự thảo Luật đã được thành lập và đi vào hoạt động trước khi Luật này có hiệu lực, nếu khoảng thời gian kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho đến thời điểm Luật này có hiệu lực chưa vượt quá thời hạn hiệu lực của biện pháp ưu đãi, thì cơ sở sản xuất, kinh doanh đó được hưởng ưu đãi trong khoảng thời gian còn lại. Ví dụ, một doanh nghiệp chế biến nông sản được thành lập vào ngày 01-01-1992; ngày 01-01-1995, Luật này có hiệu lực; khoảng thời gian từ 01-01-1992 đến 01-01-1995, là ba năm. Thời hạn theo Luật định là doanh nghiệp này được hưởng ưu đãi về thuế lợi tức là miễn hai năm và giảm trong bốn năm tiếp theo (Điều 10). Ba năm đã trôi qua, nên doanh nghiệp đó chỉ còn được giảm thuế lợi tức trong ba năm còn lại. Đương nhiên, doanh nghiệp sẽ được hưởng những ưu đãi khác mà Luật này không quy định giới hạn về thời hạn có hiệu lực.

Hai là, Nhà nước không hoàn trả các khoản thuế và các nghĩa vụ đóng góp khác mà cơ sở sản xuất, kinh doanh phải thực hiện trong thời gian trước khi Luật này có hiệu lực. Ví dụ, theo quy định của Luật này, cơ sở sản xuất có thể được miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, phụ tùng. Nhưng nếu cơ sở sản xuất đó đã nhập khẩu trước khi Luật này có hiệu lực, thì vẫn phải nộp thuế nhập khẩu, bất kể khoản thuế phải nộp đã được thanh toán cho cơ quan thuế hay chưa.

Sau khi Luật này được thông qua, cần ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành và cần nâng cao hiệu lực tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước liên quan. Hiện nay, Chính phủ đã xem xét và xác định các văn bản dưới luật cần xây dựng, đã phân công cơ quan chịu trách nhiệm chuẩn bị và sẽ khẩn trương cụ thể hóa để Luật khuyến khích đầu tư trong nước phát huy tác dụng sớm và tốt trong cuộc sống.

Xin kính trình Quốc hội xem xét quyết định.

  

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội