VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 2 1994-1995

 

TỜ TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ VỀ DỰ ÁN BỘ LUẬT DÂN SỰ
CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

(Do ông Nguyễn Đình Lộc, Bộ trưởng Bộ Tư pháp
đọc tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa IX, ngày 07-6-1994)

Kính thưa Quốc hội,

Thực hiện chương trình của kỳ họp này của Quốc hội, được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền, chúng tôi xin báo cáo Quốc hội về Dự án Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xin ý kiến của các vị đại biểu. Ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội sẽ là căn cứ hết sức quan trọng chỉ đạo việc tiếp tục xây dựng, chỉnh lý Dự án Bộ luật dân sự đầu tiên này của nước ta.

Sau đây, chúng tôi xin phép báo cáo Quốc hội Tờ trình của Chính phủ về Dự án Bộ luật.

I- THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ CỦA NƯỚC TA
TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHẢI BAN HÀNH BỘ LUẬT DÂN SỰ

Không lâu sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 10-10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 90/SL "giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ luật mới áp dụng cho toàn quốc". Phù hợp với quy định của Sắc lệnh này, Bộ luật dân sự Bắc kỳ ban hành năm 1931, Bộ luật dân sự Trung kỳ ban hành năm 1936 và Bộ dân luật giản yếu Nam kỳ năm 1883 vẫn có hiệu lực thi hành ở Việt Nam sau ngày thành lập chính quyền nhân dân.

Ngày 22-5-1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh mới, Sắc lệnh số 97/SL, tuy vẫn tiếp tục cho phép áp dụng các luật lệ cũ, nhưng với điều kiện, nếu không trái với các nguyên tắc do chính Sắc lệnh này quy định. Xét theo ý nghĩa lịch sử quan trọng của nó, những quy định do Sắc lệnh số 97 đề ra đã đặt cơ sở cho sự hình thành, phát triển của một nền luật dân sự mới Việt Nam với những nguyên tắc thực sự dân chủ, tiến bộ, với tính nhân dân sâu sắc và đến nay tuy đã gần nửa thế kỷ vẫn còn nguyên giá trị chỉ đạo cho công việc xây dựng Bộ luật dân sự ngày nay. Đó là các nguyên tắc: "Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành xử nó đúng với quyền lợi của nhân dân" (Điều 1); "Người ta chỉ được hưởng dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không gây thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân" (Điều 12); "người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt hộ" (Điều 6); "Khi lập ước mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch thì khế ước có thể coi là vô hiệu" (Điều 13).

Năm 1959, Tòa án nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 772/CT-TATC về việc đình chỉ áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến.

Từ đầu những năm 60 đến đầu những năm 80, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ nhân thân và tài sản giữa công dân với nhau, giữa công dân với Nhà nước, giữa các tổ chức kinh tế với Nhà nước và giữa các tổ chức kinh tế với nhau. Nhìn chung các văn bản pháp luật lúc bấy giờ được ban hành nhằm thực hiện chủ trương xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện công hữu hóa về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, thực hiện quản lý kinh tế bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Do đó, để điều tiết các quan hệ kinh tế dân sự Nhà nước đã phải sử dụng rộng rãi biện pháp hành chính - mệnh lệnh; các biện pháp dân sự, kinh tế ít được chú ý, các nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện của cá nhân và tổ chức tham gia các quan hệ dân sự cũng ít được xem trọng đầy đủ.

Từ giữa những năm 80 khi nước ta thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng trong công cuộc đổi mới về kinh tế, xã hội nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chính sách mở cửa đối với bên ngoài, đặt con người vào vị trí trung tâm của các chính sách kinh tế và xã hội. Đã có nhiều văn bản pháp luật được ban hành để điều chỉnh từng mảng lớn các quan hệ xã hội của đời sống dân sự, kinh doanh như: Luật hôn nhân và gia đình (1986), Pháp lệnh hợp đồng dân sự (1991), Pháp lệnh thừa kế (1990), Pháp lệnh nhà ở (1991), Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp (1989), Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987), Luật doanh nghiệp tư nhân (1990), Luật công ty (1990), Luật đất đai (1987, 1993), Luật phá sản doanh nghiệp (1993), Luật bảo vệ môi trường (1993), Pháp lệnh về hôn nhân và gia đình của công dân Việt Nam với người nước ngoài (1993), v.v..

Các văn bản pháp luật được ban hành trong thời kỳ này thường có hình thức pháp lý cao (luật hoặc pháp lệnh), có nhiều nội dung phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo đường lối Đổi mới, nhiều quy định đã thể hiện được những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, kinh tế là tự nguyên, bình đẳng, hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên, so với nhu cầu của các giao lưu dân sự của xã hội thấy vẫn còn có nhiều vấn đề rất cơ bản trong đời sống dân sự chưa được pháp luật điều chỉnh. Điều này đã gây không ít khó khăn cho hoạt động dân sự không những của các công dân mà cả các tổ chức kinh tế quốc doanh, tập thể, và đặc biệt cho các cơ quan xét xử có chức năng giải quyết kịp thời, đúng đắn các tranh chấp tài sản và nhân thân phi tài sản trong đời sống dân sự. Các Tòa án nước ta cho đến nay vẫn phải vận dụng báo cáo tổng kết ngành Tòa án hàng năm và các báo cáo chuyên đề, các Thông tư hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao trong hoạt động xét xử để bù lấp chỗ trống trong pháp luật. Đây là một tồn tại kéo dài đã nhiều năm tạo ra một tình hình không hoàn toàn bình thường, nhất là không phù hợp với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Cũng do thiếu pháp luật dân sự nên trên thực tế đã xảy ra không ít những trường hợp xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp, gây thiệt hại cho tài sản cá nhân, tập thể và Nhà nước, xúc phạm danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức mà chưa được Nhà nước bảo hộ một cách thích đáng, độ an toàn pháp lý của mỗi công dân và tổ chức trong sinh hoạt cộng đồng còn thấp, ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với chính quyền, gây nên sự hiểu lầm về bản chất của chế độ.

Thực tế phát triển của các quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài cũng cho thấy, pháp luật trong nhiều vấn đề chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra, nhất là các vấn đề về xác định địa vị pháp lý của người nước ngoài tại Việt Nam, đa dạng hóa hơn nữa các hình thức đầu tư, vấn đề thuê đất, sở hữu và thừa kế tài sản  của người nước ngoài tại Việt Nam làm ảnh hưởng trực tiếp đến độ tin cậy của môi trường pháp lý - một yếu tố rất quan trọng không thể thiếu của môi trường đầu tư, kinh doanh nói chung.

Tình hình nêu trên cho thấy cần thiết phải sớm ban hành Bộ luật dân sự nhằm:

1) Tiến hành pháp điển hóa một bước quan trọng pháp luật dân sự nước nhà, tạo ra một văn bản pháp luật thống nhất, có hiệu lực pháp lý cao nhằm khắc phục tình trạng tản mạn, trùng lặp, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ của pháp luật dân sự hiện nay và tiến tới hoàn thiện lĩnh vực này, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay cũng như trong nhiều năm tiếp theo;

2) Tạo ra các chuẩn mực về cách ứng xử của cá nhân, tổ chức khi tham gia quan hệ dân sự; kịp thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích xã hội; đồng thời tạo cơ sở pháp luật hết sức cần thiết cho công tác xét xử của các cơ quan tài phán, bảo đảm xét xử công minh, khách quan và đúng pháp luật; đồng thời, tiến hành một bước cơ bản tiêu chuẩn hóa các khái niệm và phạm trù pháp lý dân sự, một tiền đề không thể thiếu cho sự phát triển lâu dài khoa học pháp luật dân sự, làm cơ sở xây dựng ngành pháp luật dân sự hoàn chỉnh, thực sự trở thành công cụ quan trọng thúc đẩy nền kinh tế thị trường văn minh phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa;

3) Tạo tiền đề cho pháp luật dân sự nước ta vừa tính đến, tiếp thu những thành tựu - tinh hoa của pháp luật dân sự ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, vừa thể hiện đầy đủ các đặc thù của tình hình và giai đoạn phát triển hiện nay của xã hội ta theo đường lối đổi mới, vận dụng, kế thừa các truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc hình thành qua nhiều thế hệ trong sinh hoạt dân sự cộng đồng truyền đến ngày nay, kịp thời và đúng đắn xử lý các vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra; phục vụ có hiệu quả chủ trương đẩy mạnh giao lưu quốc tế, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội.

II- QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ DỰ ÁN BỘ LUẬT DÂN SỰ

Ban Dự thảo Bộ luật dân sự được thành lập từ năm 1980 (theo Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 350/CP ngày 03-11-1980). Ban Dự thảo do Bộ Tư pháp chủ trì cùng các cơ quan tham gia thành viên Ban Dự thảo: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Luật gia Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam phối hợp cùng các cơ quan hữu quan (Ban Nội chính Trung ương, Ban Kinh tế Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước, Ủy ban pháp luật của Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Viện Nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, v.v..).

Sau khi thành lập, Ban Dự thảo đã khẩn trương chuẩn bị được "Đề cương Dự thảo Bộ luật dân sự Việt Nam" và "Những vấn đề cần nghiên cứu phục vụ soạn thảo Bộ luật dân sự Việt Nam".

Vì là một công việc mới mẻ và rất phức tạp đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo, nhất là trong cơ chế cũ trước đây, việc định hướng xây dựng Bộ luật dân sự về mặt phạm vi, quy mô điều chỉnh không tránh khỏi lúng túng, khó khăn trong một khoảng thời gian tương đối dài, lúc đầu đã được giành cho việc chuẩn bị các điều kiện làm việc ban đầu là soạn thảo đề cương, các phương án khác về cơ cấu, bố cục, phạm vi Bộ luật dân sự.

Từ 1981 đến 1991, Bộ Tư pháp, Ban Dự thảo Bộ luật dân sự đã tích cực, chủ động triển khai chuẩn bị những công việc phục vụ thiết thực như cho dịch thuật những tài liệu tham khảo là các Bộ luật dân sự của các nước: Cộng hòa Dân chủ Đức, Cộng hòa Liên bang Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hunggari, Trung Quốc; Bộ luật dân sự của một số nước có nền kinh tế thị trường phát triển như Pháp, Đức, Canađa, Nhật Bản, Thái Lan. Nhiều hội thảo khoa học đã được tổ chức với các đề tài về các lĩnh vực sở hữu, thương nghiệp, dịch vụ, hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thừa kế, hệ thống hóa pháp luật dân sự, bảo hiểm, v.v.. Bộ Tư pháp đã mời chuyên gia pháp luật của một số nước như Cộng hòa Dân chủ Đức (1982), Cộng hòa Liên bang Nga (1983), Pháp (1991 - 1992) và Nhật Bản (1993) đến Việt Nam để cùng tham gia hội thảo khoa học, trao đổi kinh nghiệm xây dựng Bộ luật dân sự cũng như đóng góp ý kiến cho Dự thảo Bộ luật dân sự Việt Nam; các đoàn gồm cán bộ, chuyên viên pháp luật của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và một số cơ quan hữu quan cũng được cử đi một số nước như Cộng hòa Liên bang Đức, Pháp để trao đổi kinh nghiệm, nghiên cứu quá trình Dự thảo Bộ luật dân sự của các nước đó; các đợt khảo sát thực tế cũng đã được tổ chức ở một số địa phương thuộc miền Bắc, miền Trung và miền Nam nhằm phục vụ cho việc chuẩn bị dự thảo phù hợp với các quan hệ và đời sống dân sự Việt Nam.

Trong khoảng thời gian từ năm 1986 - 1991, theo sự chỉ đạo của Hội đồng Nhà nước trước đây là cùng với việc tiếp tục nghiên cứu, khẩn trương chuẩn bị Dự thảo Bộ luật dân sự cần khẩn trương ban hành một số luật, pháp lệnh về dân sự nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội phát sinh trong công cuộc Đổi mới (đã ban hành Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (1989), Pháp lệnh thừa kế (1990), Pháp lệnh nhà ở (1991), Pháp lệnh hợp đồng dân sự (1991)), v.v..

Trong năm 1991, Ban dự thảo đã xây dựng được Dự thảo lần thứ nhất Bộ luật dân sự. Từ Dự thảo lần thứ 4 đã được gửi đi để lấy ý kiến ở các cơ quan, ban ngành Trung ương và địa phương. Ở địa phương, việc tổ chức lấy ý kiến do các Sở Tư pháp chủ trì có sự phối hợp với cơ quan tòa án, kiểm sát và các cơ quan, ban ngành khác.

Ở Trung ương, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội luật gia, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số các cơ quan khác đã nhiều lần tổ chức thảo luận lấy ý kiến của đông đảo cán bộ trong ngành, cơ quan.

Đa số ý kiến về cơ bản đã nhất trí với đối tượng, phạm vi điều chỉnh, cơ cấu và nội dung chủ yếu của Bộ luật dân sự, đồng thời đã đóng góp nhiều ý kiến về những vấn đề cụ thể trong Dự thảo để tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh.

Sau mỗi đợt lấy ý kiến, Ban Dự thảo đã tổng hợp, tổ chức thảo luận tiếp thu ý kiến để chỉnh lý. Đến nay, Dự thảo trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến là Dự thảo IX. Dự thảo này được chỉnh lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Chính phủ (tại phiên họp ngày 27-4-1994), ý kiến của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội (tại phiên họp ngày 29 - 30-4-1994) và kết luận của Ủy ban thường vụ Quốc hội (tại phiên họp ngày 12-5-1994) về một số vấn đề lớn trong nội dung của Dự thảo Bộ luật dân sự.

III- NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CỤ THỂ XÂY DỰNG
 BỘ LUẬT DÂN SỰ

Kính thưa các đồng chí đại biểu,

Trong hệ thống pháp luật nước nhà, Bộ luật dân sự không những là một bộ luật lớn mà đồng thời còn là một văn bản pháp luật nền tảng làm cơ sở cho nhiều văn bản pháp luật khác trong một lĩnh vực rộng lớn của sinh hoạt xã hội là các giao lưu dân sự của các cá nhân, pháp nhân và các chủ thể dân sự khác. Chúng tôi nghĩ, do vị trí quan trọng đặc thù nói trên của Bộ luật dân sự, việc xây dựng Bộ luật phải quán triệt những quan điểm cơ bản, thể hiện thành các phương hướng chủ yếu sau đây:

1) Bộ luật dân sự phải thể hiện được tư tưởng con người ở vị trí trung tâm của phát triển xã hội.

Con người với sự phát triển toàn diện, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Các quyền dân sự của con người phải được pháp luật bảo vệ khi được hành xử đúng, phù hợp với lợi ích của nhân dân.

Các quyền dân sự - kinh tế hợp pháp được Nhà nước công nhận và bảo hộ. Một trong các quyền quan trọng nhất là quyền được sở hữu tài sản nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển của cá nhân, quyền dùng tài sản vào mục đích sản xuất kinh doanh và hưởng lợi, quyền để lại di sản, v.v.. Bộ luật dân sự phải tạo ra khung pháp lý mềm dẻo không đơn thuần chỉ có tính chất bắt buộc mà còn phải mang tính chất hướng dẫn các chủ thể của các quyền dân sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình nhằm phát huy tối đa tính năng động, sáng tạo của con người, miễn là không xâm hại đến quyền lợi của người khác, trật tự công cộng cũng như lợi ích quốc gia. Vấn đề cơ bản là Bộ luật dân sự tạo ra được môi trường, không gian pháp lý đáng tin cậy cho con người hưởng các quyền dân sự và thực hiện các nghĩa vụ dân sự có hiệu quả xã hội cao. Bộ luật dân sự phải đưa ra được những quy định phù hợp để các chủ thể các quan hệ dân sự có thể tự bảo vệ lợi ích của mình. Trong trường hợp quyền dân sự bị vi phạm, Bộ luật dân sự phải cung cấp những khả năng để khôi phục lại quyền dân sự bị vi phạm bằng cách đưa ra được các chế tài phù hợp, vừa có tính chất bắt buộc nhưng cũng có tính chất giáo dục, hướng dẫn cách xử sự. Pháp luật dân sự phải góp phần vào việc khai thác mọi tiềm năng về người và của để phát triển sản xuất, kinh doanh, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất và tinh thần của nhân dân, góp phần ổn định và lành mạnh hóa các quan hệ xã hội (quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản).

2) Bộ luật dân sự phải thể hiện tư tưởng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Các quan hệ dân sự chủ yếu, phổ biến cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Các định hướng của Đảng, Nhà nước nhằm đạt các mục tiêu và chính sách kinh tế xã hội phải được quy định rõ trong luật. Nhà nước không sử dụng biện pháp hành chính - mệnh lệnh để điều chỉnh các quan hệ dân sự, kinh tế, trừ trường hợp để bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự công cộng. Mọi chủ thể của các quan hệ dân sự không phân biệt đó là cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi hành vi xâm phạm các quyền dân sự của các chủ thể dân sự đều phải được ngăn ngừa, xử lý thích đáng.

Viên chức nhà nước, nếu vi phạm pháp luật hoặc lạm dụng quyền hạn gây thiệt hại cho dân thì phải bồi thường thiệt hại về vật chất và khôi phục danh dự cho người bị hại.

3) Bộ luật dân sự phải thể hiện rõ quan điểm tự nguyện, bình đẳng, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của các cá nhân, tổ chức tham gia các quan hệ dân sự thể hiện được tính cộng đồng và lòng nhân ái, vị tha của con người Việt Nam. Đây là nguyên tắc quan trọng của pháp luật dân sự. Các giao dịch dân sự phải thể hiện đúng ý chí của chủ thể. Giao dịch dân sự có thể bị coi là vô hiệu, nếu người thực hiện giao dịch đó bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa hoặc bị lợi dụng hoàn cảnh khó khăn.

Chủ sở hữu tự quyết định về việc chiếm hữu, sử dụng, hưởng hoa lợi và định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình. Các quan hệ trong quá trình sản xuất, lưu thông, dịch vụ được hình thành trên nguyên tắc thỏa thuận của các bên tham gia các quan hệ đó. Nội dung thỏa thuận của các bên tham gia các quan hệ dân sự nếu không trái pháp luật thì có giá trị bắt buộc thi hành.

Nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng luôn đi kèm với nguyên tắc hợp tác, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau. Hợp tác, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau theo tinh thần thiện chí là cơ sở cho việc xác lập, ổn định và tăng cường tính lành mạnh của các quan hệ dân sự.

4) Bộ luật dân sự phải thể hiện tính thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ của công dân và tổ chức, gắn quyền lợi với trách nhiệm của chủ thể. Các quyền dân sự không tách rời nghĩa vụ dân sự và đều được pháp luật bảo vệ và tạo điều kiện thực hiện. Việc sử dụng các quyền dân sự sao cho không xâm phạm, cản trở hoặc hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, không xâm hại đến trật tự công cộng và lợi ích của Nhà nước. Người nào lạm dụng quyền dân sự của mình mà gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường.

5) Bộ luật dân sự kế thừa và phát triển những quy định của pháp luật dân sự đã được ban hành và thực hiện trong gần nửa thế kỷ qua của chính quyền nhân dân và cả những tập quán, truyền thống tốt đẹp trong sinh hoạt dân sự của cộng đồng các dân tộc Việt Nam hình thành trong lịch sử lâu dài của đất nước mà vẫn còn phù hợp với hiện nay và trong thời gian tới, chú trọng những đúc rút, tổng kết từ thực tiễn xét xử.

6) Bộ luật dân sự phải tạo được môi trường pháp lý đáng tin cậy để đẩy mạnh hợp tác, giao lưu quốc tế.

Trong Bộ luật phải chứa đựng những quy định điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Những quy định pháp lý của Bộ luật phải mềm dẻo, phù hợp với điều kiện phát triển trong nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, đồng thời phù hợp với tập quán và thông lệ quốc tế, tạo điều kiện để khuyến khích mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dân sự - kinh tế, văn hóa - xã hội.

IV- CƠ CẤU VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA
DỰ THẢO BỘ LUẬT DÂN SỰ

Cơ cấu Dự thảo Bộ luật dân sự:

Bộ luật gồm có Lời nói đầu, 6 phần và 562 điều.

Lời nói đầu

Phần thứ nhất: Những quy định chung (Điều 1-91)

Phần thứ hai: Quyền sở hữu (Điều 92-138)

Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự (Điều 139-478)

Phần thứ tư: Thừa kế (Điều 479-530)

Phần thứ năm: Quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp (Điều 531-550)

Phần thứ sáu: Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 551-562)

Bố cục của Dự thảo được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu bố cục, truyền thống của các bộ luật dân sự của nước ta từ trước đến nay, tham khảo bộ luật dân sự của một số nước trên thế giới như của Pháp, Đức, Thái Lan, Nhật Bản, Trung Quốc, Canađa và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây: Cộng hòa Dân chủ Đức, Cộng hòa Liên bang Nga, Ba Lan, v.v..

V- NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA DỰ THẢO
BỘ LUẬT DÂN SỰ

1. Lời nói đầu

Bộ luật dân sự là một trong những đạo luật quan trọng, bao gồm nhiều vấn đề lớn có nội dung khác nhau. Do vậy, cần có Lời nói đầu thể hiện mục đích, quan điểm tư tưởng cơ bản, nhằm định hướng cho việc quy định các quan hệ dân sự trong Bộ luật.

Bộ luật dân sự phải bảo đảm nguyên tắc định hướng xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định tại Điều 15 Hiến pháp năm 1992. Việc cụ thể hóa nguyên tắc này là yêu cầu và quan điểm mấu chốt khi soạn thảo Bộ luật. Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, mà Bộ luật dân sự là một trong những công cụ pháp lý quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Cho nên, thông qua Bộ luật dân sự phải đạt được mục đích cao nhất, đó là: bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, pháp nhân, lợi ích Nhà nước và lợi ích công cộng; tạo ra sự an toàn pháp lý cho các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các tiềm năng vật chất và trí tuệ; đề cao trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự; từ đó góp phần đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.

2. Phần thứ nhất: Những quy định chung

Phần này gồm 8 chương và 91 điều.

Nội dung chủ yếu của phần này là xác định địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác khi tham gia các quan hệ dân sự. Đồng thời quy định những nguyên tắc cơ bản trong việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự, là nền tảng của các quy định cụ thể trong toàn Bộ luật. Ngoài ra, phần này còn quy định các quan hệ nhân thân của cá nhân như họ tên, nơi cư trú, tuyên bố mất tích, tuyên bố chết và các vấn đề về hộ tịch; căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự thông qua các giao dịch dân sự; vấn đề đại diện; thời hạn và thời hiệu khởi kiện trước Tòa án.

a) Về phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự:

Việc xác định đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự là cần thiết nhằm phân biệt Bộ luật này với các đạo luật khác, tránh trùng lặp chồng chéo trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội và tạo ra sự thống nhất trong hệ thống pháp luật. Đối tượng điều chỉnh của Bộ luật dân sự là các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và tương trợ lẫn nhau. Cụ thể, Dự thảo Bộ luật dân sự quy định những vấn đề chủ yếu sau đây:

- Địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác khi tham gia quan hệ dân sự.

- Cơ sở pháp lý xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ nhân thân như quyền về họ tên, nơi cư trú, tuyên bố mất tích, tuyên bố chết và các vấn đề khác về hộ tịch; bảo vệ danh dự, nhân phẩm của cá nhân, uy tín của tổ chức.

- Các quan hệ sở hữu tài sản, đặc biệt là mối quan hệ giữa con người với nhau đối với tài sản, sự đan xen các loại sở hữu trong nền kinh tế nhiều thành phần và vai trò của các hình thức sở hữu cơ bản (sở hữu toàn dân, tập thể và tư nhân); các quyền nghĩa vụ của chủ sở hữu.

- Xác lập, thực hiện, thay đổi và chấm dứt các nghĩa vụ dân sự, trong đó có trách nhiệm bồi thường do gây thiệt hại.

- Quy định chung về hợp đồng và một số loại hợp đồng thông dụng, cụ thể trong đời sống kinh tế - xã hội.

- Những quan hệ về thừa kế theo di chúc và theo pháp luật.

- Quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp, bao gồm những quyền gắn với bản thân tác giả và các quyền về tài sản, phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp.

- Nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự Việt Nam đối với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

b) Những nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật dân sự:

Bộ luật dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản thể hiện quan điểm chủ đạo xuyên suốt toàn bộ Bộ luật và được cụ thể hóa trong các quy định cụ thể. Bộ luật kế thừa những nguyên tắc cơ bản đã được quy định trong Sắc lệnh số 97 ngày 22-5-1950:

- "Những quyền dân sự đều được Luật bảo vệ khi người ta hành xử nó đúng với quyền lợi của nhân dân" (Điều 1).

- "Người ta chỉ được hưởng dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không gây thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân" (Điều 12).

Đồng thời khái quát hóa những nguyên tắc đã được thể hiện trong các văn bản pháp luật dân sự đã ban hành như Pháp lệnh hợp đồng dân sự, Pháp lệnh thừa kế, Pháp lệnh nhà ở, v.v..

Bộ luật cũng cụ thể hóa một số nguyên tắc trong Hiến pháp năm 1992, như: bảo vệ các quyền dân sự (Điều 50); mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 52); tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều 57); quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác (Điều 58); quyền bình đẳng về mọi mặt (Điều 63); nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân (Điều 74); nguyên tắc tuân theo Hiến pháp và pháp luật (Điều 79), v.v..

Từ đó, Bộ luật dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản sau đây (Điều 2):

- Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, trung thực và có thiện chí;

- Mọi giao dịch dân sự của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể dân sự khác đều không được trái pháp luật và đạo đức xã hội;

- Mọi thỏa thuận hợp pháp đều phải được nghiêm chỉnh thực hiện;

- Không ai được xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng;

- Bất kể người nào vi phạm pháp luật dân sự đều phải chịu trách nhiệm dân sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường;

- Pháp luật bảo vệ các quyền dân sự. Nếu các quyền này bị xâm phạm, thì người có quyền bị vi phạm có thể yêu cầu Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ.

3. Phần thứ hai: Quyền sở hữu

Phần này gồm 5 chương và 47 điều, quy định về đối tượng quyền sở hữu; phân biệt các loại tài sản; quy định các hình thức sở hữu; các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản của họ và đối với người khác trong các quan hệ có liên quan đến tài sản của họ; nghĩa vụ của chủ sở hữu; các hạn chế nhất định đối với việc thực hiện quyền sở hữu vì lợi ích của cộng đồng; nguồn gốc, cách thức xác lập quyền sở hữu và vấn đề bảo vệ quyền sở hữu tài sản của toàn dân, cá nhân và tổ chức.

Quyền sở hữu là chế định trung tâm của Bộ luật dân sự.

Tài sản và quyền sở hữu tài sản cũng là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, các quan hệ về tài sản và sở hữu đã được nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh, trước hết phải kể đến Hiến pháp năm 1992, đồng thời được xác định rõ trong các văn kiện quan trọng của Đảng như: "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2000". Qua thực tiễn những năm phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận thức về chế độ sở hữu có bước phát triển mới. Theo Điều 15 Hiến pháp 1992 thì ở nước ta hiện nay tồn tại 3 chế độ sở hữu: toàn dân, tập thể và tư nhân. Việc xác định 3 chế độ sở hữu là xuất phát từ nội dung kinh tế của sở hữu. Còn xét về mặt pháp lý thì tương ứng với 3 chế độ sở hữu là 3 hình thức sở hữu cơ bản: hình thức sở hữu toàn dân, hình thức sở hữu tập thể và hình thức sở hữu tư nhân. Mặt khác, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì 3 hình thức sở hữu này không tồn tại một cách biệt lập, tách rời nhau, mà trong nhiều hoạt động sản xuất - kinh doanh có sự đan xen, liên kết tạo thành các hình thức sở hữu đa dạng, trong đó có hình thức sở hữu chung thuộc nhiều chủ sở hữu khác nhau, không phân biệt thành phần kinh tế. Trong Dự thảo Bộ luật dân sự có quy định các hình thức sở hữu này. Ngoài ra, Dự thảo còn quy định sở hữu của các tổ chức chính trị, xã hội và việc công nhận, bảo vệ tài sản hợp pháp của các tổ chức chính trị, xã hội đó.

Chủ trương của Nhà nước ta là khuyến khích, tạo điều kiện phát triển và bảo vệ mọi hình thức sở hữu hợp pháp. Các chủ sở hữu thuộc mọi hình thức sở hữu đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp pháp của mọi thành phần kinh tế, không phân biệt kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể hay quốc doanh đều được pháp luật bảo vệ (Điều 22 Hiến pháp 1992). Cùng với chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam, Nhà nước ta bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của họ (Điều 25 Hiến pháp 1992).

Quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 58 Hiến pháp 1992. Ngoài ra, Điều 23 Hiến pháp còn khẳng định: Tài sản hợp pháp của cá nhân và tổ chức không bị quốc hữu hóa. Chỉ trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước mới trưng mua hoặc trưng dụng nhưng có bồi thường theo thời giá thị trường. Chủ sở hữu có nghĩa vụ khi thực hiện quyền sở hữu của mình không được xâm phạm đến quyền và lợi ích của người khác, lợi ích của Nhà nước và trật tự công cộng.

4. Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng

Phần này gồm 6 chương và 340 điều.

Nội dung chủ yếu bao gồm những quy định chung về xác lập, thực hiện, thay đổi và chấm dứt nghĩa vụ dân sự và hợp đồng; những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự; 12 loại hợp đồng thông dụng; quy định về các hình thức chuyển quyền sử dụng đất; thực hiện công việc vì lợi ích của người khác nhưng không có sự ủy quyền; trách nhiệm do hưởng lợi không có căn cứ pháp luật và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Nghĩa vụ dân sự là sự ràng buộc một hay nhiều người phải làm một việc hoặc không được làm một việc để mang lại lợi ích cho một hay nhiều người khác trong quan hệ dân sự. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự rất đa dạng, song có thể khái quát bao gồm tài sản, công việc phải làm hoặc không được làm. Tài sản và công việc phải được xác định cụ thể, được phép đem giao dịch hoặc thực hiện.

Việc xác lập và thực hiện nghĩa vụ dân sự: phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản sau đây:

- Tự nguyện, tự chịu trách nhiệm;

- Trung thực, hợp tác;

- Thực hiện đúng với cam kết;

- Không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Những nguyên tắc này thể hiện tư tưởng chủ đạo của toàn bộ các quy định về nghĩa vụ dân sự.

Dự thảo phân biệt 7 loại nghĩa vụ dân sự chủ yếu (Điều 139) và cụ thể hóa tại các điều từ 143 đến 166 nhằm xác định chính xác, phương thức thực hiện từng loại nghĩa vụ và trách nhiệm khi có vi phạm. Tuy nhiên, trong số các quy định này có khá nhiều quy định không mang tính chất bắt buộc, vì tôn trọng ý chí của người có nghĩa vụ. Họ có thể lựa chọn cách thức thực hiện, chuyển quyền và nghĩa vụ cho người khác, thậm chí có thể thỏa thuận cả về trách nhiệm khi có vi phạm. Đồng thời, Dự thảo cũng quy định những biện pháp cần thiết để hướng hành vi của người có nghĩa vụ vào khuôn khổ pháp luật.

5. Phần thứ tư: Thừa kế

Phần này gồm 4 chương và 52 điều, quy định những nguyên tắc về thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật, nhằm bảo hộ quyền thừa kế của công dân đã được khẳng định tại Điều 58 Hiến pháp 1992. Những vấn đề này về cơ bản đã được điều chỉnh trong Pháp lệnh thừa kế (30-8-1990).

Qua gần 4 năm thực hiện Pháp lệnh thừa kế và thực tiễn xét xử cho thấy Pháp lệnh này đã đi vào cuộc sống, tương đối phù hợp với thực trạng quan hệ thừa kế hiện nay, bảo đảm được quyền thừa kế của công dân. Do đó, về cơ bản Dự thảo Bộ luật dân sự kế thừa và nâng cao các quy định của Pháp lệnh thừa kế hiện còn phù hợp và phát huy tác dụng tốt trong thực tế thành các quy định của Bộ luật. Ngoài ra, Dự thảo có bổ sung một số quy định mới về thủ tục lập di chúc và phân chia di sản thừa kế, quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản, di chúc chung của vợ chồng. Đặc biệt, Dự thảo Bộ luật dân sự đã có các quy định về quyền thừa kế quyền sử dụng đất là một loại quy định rất đặc thù của pháp luật dân sự nước ta.

6. Phần thứ năm: Quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp

Phần này gồm 2 chương và 20 điều.

Quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp là đối tượng của quyền sở hữu nói chung. Tuy nhiên, các quyền này gắn nhiều tới nhân thân của chủ sở hữu và có đặc thù riêng, do đó, Dự thảo dành một phần riêng để điều chỉnh về vấn đề này.

Ở nước ta, mọi công dân đều có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa khác. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các hoạt động trên phát triển, nhằm mở mang dân trí, tạo tiền đề khoa học - kỹ thuật để phát triển nhanh chóng nền kinh tế - xã hội. Điều 60 Hiến pháp 1992 quy định Nhà nước bảo hộ quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Đó cũng là một trong những quyền cơ bản của công dân.

a) Chương I "Quyền tác giả" quy định về quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, nhằm bảo hộ quyền lợi chính đáng về tinh thần và vật chất cho những tác giả đã bằng tài năng, trí tuệ của mình sáng tạo ra tác phẩm, đồng thời khuyến khích họ sáng tác ra nhiều tác phẩm có giá trị.

Nội dung cơ bản của Chương này gồm các khái niệm về tác giả, đối tượng của quyền tác giả, các quyền của tác giả nói chung và trong một số trường hợp cụ thể, thời hạn bảo hộ quyền tác giả và trách nhiệm của người vi phạm quyền này.

b) Chương II "Quyền sở hữu công nghiệp": Dự thảo Bộ luật dân sự quy định vấn đề này nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân trong hoạt động sở hữu công nghiệp, khuyến khích hoạt động sáng tạo, áp dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học - kỹ thuật và góp phần mở rộng quan hệ với nước ngoài trong lĩnh vực kinh tế, khoa học - kỹ thuật.

Về cơ bản, Dự thảo kế thừa quan điểm chủ yếu trong Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp khái quát thành những nguyên tắc chung, không cụ thể như trong Pháp lệnh.

Nội dung chủ yếu của Chương này như sau: khái niệm về tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp; các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được Nhà nước bảo hộ; quyền và nghĩa vụ của chủ văn bằng bảo hộ và trách nhiệm dân sự của người vi phạm quyền sở hữu công nghiệp.

7. Phần thứ sáu: Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

Phần này gồm 12 điều, quy định về việc áp dụng pháp luật đối với các quan hệ dân sự có cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia. Về nguyên tắc, Dự thảo bảo đảm chủ quyền của Nhà nước ta đối với công dân và chủ quyền về lãnh thổ, đồng thời chú trọng tới quan hệ các Nhà nước khác đối xử với công dân, pháp nhân Việt Nam như thế nào thì công dân, pháp nhân của họ cũng được hưởng các quyền và có nghĩa vụ tương tự tại Việt Nam.

Những quy định này đáp ứng nhu cầu trong giai đoạn thực hiện chính sách "mở cửa" của Nhà nước ta, khuyến khích đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức nước ngoài tại nước ta, tăng cường đoàn kết, hữu nghị với các dân tộc trên thế giới và tôn trọng chủ quyền của các nước đó.

Phần này có nội dung chủ yếu sau đây:

- Ưu tiên áp dụng các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia trong trường hợp nội dung của điều ước đó khác với các quy định của Bộ luật này. Điều này phù hợp với nguyên tắc phổ biến áp dụng pháp luật của các nước trên thế giới.

- Nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam: Pháp luật của nước ngoài được chỉ dẫn trong Bộ luật dân sự chỉ được áp dụng, nếu có nội dung phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

- Năng lực hưởng quyền dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước nơi cá nhân đó cư trú; của pháp nhân thì theo pháp luật nơi pháp nhân đó hoạt động.

- Năng lực hành vi của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà cá nhân đó có quốc tịch, trừ việc giao kết các hợp đồng về bất động sản và thực hiện các giao dịch đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày.

- Ngoài ra, phần này còn quy định việc áp dụng pháp luật trong các trường hợp cụ thể khác như: tuyên bố một người bị mất tích hoặc tuyên bố một người là đã chết; quyền sở hữu tài sản; quan hệ hợp đồng; chuyển giao quyền sở hữu và quyền tài sản; bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; thừa kế; công nhận quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp.

IV- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHỦ YẾU
CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU

1. Về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự:

Nhìn chung, qua các lần dự thảo và tổ chức lấy ý kiến tuyệt đại đa số ý kiến thể hiện sự đồng tình với đối tượng, phạm vi, cơ cấu cũng như nội dung chủ yếu của Dự thảo Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, cũng còn ý kiến băn khoăn về một số vấn đề, trong đó có vấn đề có nên đưa toàn bộ các quan hệ về hôn nhân và gia đình vào trong Bộ luật dân sự hay không?

Loại ý kiến thứ nhất đề nghị Bộ luật dân sự cần bao gồm toàn bộ các quy định về hôn nhân và gia đình (quan hệ về kết hôn, ly hôn, quan hệ về tài sản và nhân thân giữa vợ chồng, cha, mẹ và con cái...) vì thực chất đây là các quan hệ dân sự, mà lại là những quan hệ chủ yếu gắn liền với mỗi con người. Ở hầu hết các nước (trừ các nước xã hội chủ nghĩa trước đây) vấn đề hôn nhân và gia đình đều được quy định thành một phần riêng của Bộ luật dân sự.

Nhưng có ý kiến khác lại đề nghị trước mắt chưa nên đưa các quan hệ hôn nhân và gia đình vào Bộ luật dân sự vì ở nước ta hiện nay đang có Luật hôn nhân và gia đình riêng. Luật hôn nhân và gia đình đã và đang đi vào cuộc sống, nhân dân cũng đã quen áp dụng. Vì vậy, không nhất thiết phải đưa vào Bộ luật dân sự.

Dự thảo Bộ luật dân sự thể hiện quan niệm xem quan hệ về hôn nhân - gia đình xét theo tính chất, về cơ bản cũng là các quan hệ dân sự, do đó Dự thảo Bộ luật dân sự đã có các quy định về quan hệ hôn nhân và gia đình như các quy định về nhân thân, giám hộ, tài sản chung, thừa kế... Tuy nhiên, do ở nước ta trong mấy chục năm qua, các quan hệ về hôn nhân và gia đình vẫn do một đạo luật riêng quy định (Luật hôn nhân và gia đình các năm 1960, 1986). Pháp luật về hôn nhân và gia đình ở nước ta lại có những đặc thù so với nhiều nước, nhất là vấn đề kết hôn, con nuôi, giám hộ không thuần túy là một quan hệ dân sự mà còn có tính chất hành chính - tư pháp, thực hiện thông qua một thủ tục hành chính, trong khi đó ở nhiều nước kết hôn được xem là một hợp đồng dân sự. Hơn nữa, trong quan niệm truyền thống mà hiện nay vẫn được tôn trọng của người Việt Nam, hôn nhân và gia đình không đơn thuần là một quan hệ pháp lý, quan hệ tài sản mà trước hết là quan hệ đạo đức, tình nghĩa. Luật hôn nhân và gia đình nước ta năm 1960 và 1986 đều có những quy định rất đậm nét về mặt này. Thực hiện chương trình xây dựng pháp luật 1994-1995 của Quốc hội, hiện nay Chính phủ cũng đang phối hợp với Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chuẩn bị tổng kết 8 năm thi hành Luật hôn nhân và gia đình. Mặt khác, việc xây dựng và hoàn thiện Bộ luật dân sự cũng phải có một quá trình. Do đó, trước mắt các quan hệ hôn nhân - gia đình vẫn nên để một đạo luật riêng quy định, qua một số năm rút kinh nghiệm, nếu cần thiết sẽ xem xét việc đưa vào Bộ luật dân sự.

2. Về hộ gia đình, tổ hợp tác:

Chủ thể của các quan hệ pháp luật dân sự là cá nhân, pháp nhân. Vậy hộ gia đình, tổ hợp tác có phải là chủ thể của quan hệ dân sự không?

Có ý kiến cho rằng hai loại này không phải là pháp nhân và cũng không phải là cá nhân, do đó không nên quy định trong Bộ luật dân sự. Cũng có ý kiến cho rằng đây là những vấn đề pháp lý còn rất mới đối với ta. Do vậy cần có thời gian nghiên cứu, tổng kết nên trước mắt chưa nên quy định trong Bộ luật dân sự.

Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng hộ gia đình và tổ hợp tác là các đơn vị kinh tế tự chủ đã và đang tồn tại và được khuyến khích phát triển không chỉ trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp mà cả trong tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Các đơn vị này cũng tham gia vào quan hệ dân sự (nhận đất, thuê đất, chuyển quyền sử dụng đất, vay vốn ngân hàng, ký kết các hợp đồng, v.v..). Hộ gia đình và tổ hợp tác khi tham gia các quan hệ dân sự, kinh tế không phải là pháp nhân, vì chưa đủ các điều kiện để trở thành pháp nhân, nhưng cũng không hẳn là cá nhân, do đó phải coi hộ gia đình và tổ hợp tác là chủ thể đặc biệt của quan hệ dân sự.

Trong Dự thảo Bộ luật dân sự hộ gia đình và tổ hợp tác được quy định thành một chương riêng (Chương III, Phần thứ nhất) sau chương về "Cá nhân", đồng thời sẽ được tiếp tục nghiên cứu để làm rõ hơn địa vị pháp lý của hai loại chủ thể này.

3. Về quyền sở hữu:

Về hình thức sở hữu, có ý kiến đề nghị ngoài sở hữu toàn dân, tập thể tư nhân còn có sở hữu hỗn hợp (giữa các chủ sở hữu của các thành phần kinh tế khác nhau), sở hữu chung (giữa các chủ sở hữu là cá nhân), sở hữu cộng đồng (làng xóm, họ tộc, tôn giáo, v.v.) và sở hữu của các tổ chức chính trị, xã hội.

Dự thảo Bộ luật dân sự khi quy định về hình thức sở hữu là cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 1992. Tương ứng với ba chế độ sở hữu xét theo nội dung kinh tế, về mặt pháp lý có quy định ba hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể, tư nhân. Ngoài ra, còn có hình thức sở hữu chung thuộc nhiều chủ sở hữu khác nhau không phân biệt thành phần kinh tế.

Mặc khác, các tổ chức chính trị, xã hội ở nước ta (tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, v.v.) đều có tài sản của tổ chức mình nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động của tổ chức. Điều 17 Luật Công đoàn đã ghi: "Các bất động sản, động sản, các quỹ công đoàn, các phương tiện hoạt động và tài sản khác do công đoàn tạo nên, do nước ngoài viện trợ cho công đoàn là tài sản thuộc quyền sở hữu của Công đoàn".

Vì vậy, Bộ luật dân sự có quy định pháp luật tôn trọng và bảo vệ tài sản hợp pháp của các tổ chức chính trị, xã hội, còn vấn đề sở hữu của các cộng đồng: làng xóm, họ tộc, tôn giáo thì cần được tiếp tục nghiên cứu.

4. Về quyền sử dụng đất:

Luật đất đai 1992 đã quy định năm quyền của người sử dụng đất (chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê, thế chấp, thừa kế). Vậy trong Bộ luật dân sự có nên quy định không và quy định như thế nào?

Có ý kiến cho rằng, vấn đề chuyển quyền sử dụng đất không nên quy định trong Bộ luật dân sự mà nên để cho Luật đất đai và những văn bản hướng dẫn dưới luật quy định. Hơn nữa, đây là vấn đề rất mới mẻ, có thể có những thay đổi, chưa ổn định. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng cần cụ thể hóa hơn nữa các hình thức chuyển quyền sử dụng đất trong Bộ luật dân sự, có thể quy định trong một phần riêng vì đây là các quyền mang tính chất dân sự rất rõ nét và cũng rất đặc thù của pháp luật nước ta, cần được quy định vào Bộ luật dân sự để bảo đảm đủ độ tin cậy, làm cho người được Nhà nước giao đất sử dụng một cách hợp pháp yên tâm, chủ động trong việc sử dụng đất, khai thác hiệu quả sử dụng đất đai.

Dự thảo Bộ luật dân sự quy định về chuyển quyền sử dụng đất trong một chương riêng (Chương III, Phần thứ ba). Riêng thừa kế quyền sử dụng đất được quy định trong phần "Thừa kế", với tinh thần là các quyền của người sử dụng đất được quy định trong Luật đất đai xét theo thực chất đó đều là các quyền dân sự. Mặt khác, Luật đất đai mới chỉ quy định trên nguyên tắc các quyền này (Điều 3, Luật đất đai), còn việc thực hiện các quyền này ra sao, theo trình tự nào, hình thức pháp luật như thế nào, việc xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên nên ra sao thì Luật đất đai chưa quy định. Vấn đề này cần được cụ thể hóa trong Bộ luật dân sự.

*
*       *

Kính thưa Quốc hội,

Trên đây là nội dung chủ yếu của Dự thảo Bộ luật dân sự và một số vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau, Chính phủ xin trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến chỉ đạo công việc xây dựng, tiếp tục hoàn chỉnh Dự thảo Bộ luật dân sự.

 

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội