VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 2 1994-1995

 

“TIẾN VÀO THỜI KỲ PHÁT TRIỂN MỚI CỦA ĐẤT NƯỚC”

(Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ
Võ Văn Kiệt trình bày tại kỳ họp thứ 6,
Quốc hội khóa IX, ngày 20-10-1994)

 

Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,

Thưa Đoàn Chủ tịch,

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Năm 1994 giữ vị trí quan trọng trong việc củng cố và phát huy những thành tựu mà nhân dân ta đã giành được trong tiến trình đổi mới, tạo đà mạnh mẽ hơn cho việc hoàn thành vượt mức kế hoạch năm năm 1991 - 1995 và đẩy mạnh sự phát triển trong những năm sau.

Năm nay, bên cạnh việc hoàn thành nhiệm vụ thu và chi ngân sách với khối lượng lớn thường dồn vào mấy tháng cuối năm, tiếp tục điều hòa lưu thông tiền tệ, chúng ta còn phải đối phó với những thiệt hại nặng nề do thiên tai gây ra; riêng các cơn bão số 7, 8, và 9 tại nhiều vùng trên miền Bắc, miền Trung và lũ lụt lớn bất thường ở đồng bằng sông Cửu Long từ tháng 9 vừa qua làm tổn thất hàng trăm sinh mạng, gây ngập úng trên nhiều vùng rộng lớn, ngoài ra phá hủy nhiều công trình, nhà cửa và tài sản khác trị giá hàng trăm tỷ đồng. Chính phủ đã chỉ đạo kịp thời và có những biện pháp cứu trợ cấp bách để hạn chế thiệt hại. Các ngành, các đoàn thể cùng đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài đang nhiệt tình chia sẻ hoạn nạn với nhân dân các vùng bị thiên tai, lũ lụt bằng các nghĩa cử góp phần bù đắp tổn thất. Hậu quả nặng nề của đợt thiên tai này còn tác động không nhỏ đến năm 1995 và những năm sau. Việc khôi phục sản xuất và đời sống ở các vùng này còn đòi hỏi nhiều tiền của, công sức và thời gian. Chính phủ hết sức cảm thông những tổn thất rất lớn của đồng bào các tỉnh bị bão lụt, tin tưởng rằng truyền thống “lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta được thể hiện và tiếp tục phát huy sẽ là nguồn hỗ trợ và cổ vũ to lớn để sớm khôi phục và ổn định cuộc sống ở các vùng này.

Chính phủ đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội bản báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội năm 1994 và kế hoạch năm 1995. Dưới đây, tôi xin thay mặt Chính phủ trình bày với Quốc hội những nhận định tổng quát về tình hình năm 1994 và những vấn đề lớn đang đặt ra cho sự phát triển của đất nước trong thời gian tới.

I- ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NĂM 1994

Qua tình hình chín tháng đầu năm và ước tính cả năm, có thể đánh giá khái quát kết quả thực hiện những nhiệm vụ đã được kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khóa IX (tháng 12-1993) đề ra cho năm 1994 như sau:

- Về thành tựu, nổi lên mấy nét chính:

Một là, những thành tựu kinh tế - xã hội của những năm trước được củng cố và phát huy cao hơn, duy trì được tốc độ tăng trưởng khả quan, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô và tăng thêm đầu tư phát triển, đồng thời bước đầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tạo thêm thuận lợi cho sự phát triển của những năm tới.

Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 1994 có khả năng đạt 8,5% (kế hoạch đề ra 8%); sản xuất công nghiệp tăng 13% (kế hoạch 11%), sản xuất nông, lâm nghiệp đạt kế hoạch tăng 4% mặc dù gặp thiên tai lớn; kim ngạch xuất khẩu ước đạt 3,6 tỷ USD, tăng 20,8%. Như vậy, kể từ năm 1989, nền kinh tế liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng trên 5%. Trong bốn năm đầu thực hiện kế hoạch năm năm 1991 - 1995, với tốc độ tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 7,8% (kế hoạch 5-6%), nhiều chỉ tiêu kinh tế quan trọng đề ra cho năm 1995 (tổng sản phẩm trong nước, sản lượng công nghiệp, nông nghiệp, lương thực, dầu thô, xi măng, thép, v.v.) đã đạt và vượt mức vào năm 1994.

Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ ước tăng 79%, với chỉ số giá tăng khoảng hơn 10%. Tỷ giá hối đoái và giá vàng không biến động lớn. Thu ngân sách có thể tăng 27% (vượt 10,8% so với kế hoạch được Quốc hội duyệt). Tín dụng được mở rộng hơn với tỷ trọng cho hộ nông dân và khu vực ngoài quốc doanh vay tăng hơn năm trước. Tuy không kìm được lạm phát ở mức một con số như nghị quyết của Quốc hội, nhưng chỉ số giá cả đến tháng 9 là 9,9% phản ánh đúng thực tế thị trường, trong đó mức tăng cao là giá lương thực thực phẩm có lợi cho nông dân. Nhìn chung, thị trường vẫn ổn định.

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội ước tăng 36%; vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài được thực hiện trong năm tăng 60%. Bên cạnh việc đầu tư vừa và nhỏ của các doanh nghiệp để đổi mới trang thiết bị, mở rộng sản xuất, kinh doanh và của nhân dân vào nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp và dịch vụ, một số công trình quan trọng, nhất là điện, xi măng, giao thông, đã và sắp hoàn thành làm tăng thêm cơ sở vật chất - kỹ thuật cho bước phát triển mới. Hệ thống tải điện 500 kV Bắc - Nam đi vào vận hành, là xương sống tạo ra mạng lưới điện quốc gia thống nhất, góp phần thúc đẩy phát triển những khu công nghiệp và đô thị mới, cải thiện sinh hoạt của nhân dân, tăng thu ngân sách cho Nhà nước và tiết kiệm sử dụng những loại năng lượng khác. Công nghiệp dầu khí tiếp tục tăng sản lượng và đang đứng trước những triển vọng to lớn với việc phát hiện thêm những trữ lượng cả dầu và khí có thể sớm khai thác; đường ống dẫn khí vào bờ sắp hoàn thành. Các ngành hàng không và bưu điện viễn thông có bước phát triển nổi bật. Các ngành vận tải đường sắt, đường biển và đường bộ đều có tiến bộ mới. Trong hợp tác với nước ngoài, đến hết tháng 9-1994 đã cấp 1.000 giấy phép đầu tư, với tổng số vốn đăng ký là 10 tỷ USD. Một số khu công nghiệp mới đang được hình thành, một số dự án đầu tư trực tiếp trong các ngành xi măng, điện tử, cán thép, cơ khí, lắp ráp và chế tạo, chế biến thực phẩm và hàng tiêu dùng, khách sạn du lịch, v.v., đã và sắp hoàn thành, góp phần tăng thêm năng lực sản xuất của nền kinh tế.

Cơ cấu kinh tế sau hơn một thập kỷ hầu như không thay đổi đã bắt đầu chuyển dịch. Tỷ trọng của công nghiệp trong tổng sản phẩm trong nước, từ 18,8% năm 1990, nay đã tăng lên 22%. Trong khoảng thời gian này, các ngành dịch vụ cũng tăng tỷ trọng từ 36,3% lên 39%, nông nghiệp tiếp tục tăng khá về số tuyệt đối, về tỷ trọng từ 40,3% đã giảm xuống còn 35%.

Khi mới chuyển sang cơ chế thị trường, vì phải chấp nhận cạnh tranh và làm ăn có hiệu quả, không ít doanh nghiệp rất lúng túng, gần một nửa số doanh nghiệp nhà nước phải sắp xếp lại hoặc giải thể. Nay ngày càng có nhiều doanh nghiệp, nhờ chấn chỉnh tổ chức và quản lý, khai thác những thuận lợi trong giao lưu kinh tế với nước ngoài, đã từng bước đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường, nhờ vậy chẳng những đứng vững được mà còn phát triển.

Trên cơ sở những chuyển biến này, Chính phủ đã triển khai việc sắp xếp lại các ngành than, điện, xi măng, dệt, cao su, hàng hải, thuốc lá, đường mía, v.v. thí điểm liên kết một số doanh nghiệp nhà nước thành những tổ chức tập đoàn kinh doanh lớn. Trong khi kinh tế cá thể, tư nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp phát triển nhanh hơn các năm trước, kinh tế quốc doanh vẫn tăng tỷ trọng trong nền kinh tế, phát huy tác dụng trong những ngành then chốt, đặc biệt là trong lĩnh vực đáp ứng nhu cầu công cộng về các sản phẩm và dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống của cả xã hội. Trong tiểu thủ công nghiệp, đã xuất hiện một số hình thức hợp tác góp cổ phần được quần chúng hưởng ứng.

Ở nông thôn, quyền tự chủ và tính năng động của kinh tế hộ nông dân được phát huy theo các chính sách mới đã dẫn tới sự hình thành và phát triển phương thức kinh tế hợp tác mới dưới nhiều hình thức tại một số địa phương; ngày nay, các nông, lâm trường quốc doanh và hợp tác xã tập trung chủ yếu vào các khâu dịch vụ cho sản xuất - kinh doanh nông nghiệp ở đầu vào và đầu ra.

Để tạo cơ sở khoa học cho định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất và dân cư ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, năm 1994, đã xúc tiến việc quy hoạch phát triển các vùng, đặc biệt là các địa bàn kinh tế trọng điểm và các đô thị. Trong khi phát huy nhanh lợi thế của các địa bàn trọng điểm, việc hỗ trợ, hướng dẫn sự phát triển của các vùng có nhiều khó khăn, đặc biệt là vùng núi cao, vùng nông thôn sâu được quan tâm hơn trước với nhiều chủ trương, chính sách cụ thể.

Những yếu tố nêu trên cùng với vấn đề lương thực được giải quyết vững chắc trên bình diện cả nước đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất ở nông thôn theo hướng khai thác thế mạnh của từng nơi, tăng nhanh tỷ suất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Sự chuyển dịch này đang được mở rộng ở nhiều vùng, đẩy lùi tình trạng khép kín, tự cấp, tự túc dựa vào thuần nông, độc canh lúa. Có những vùng mới cách đây vài năm còn nghèo khổ, trăm sự trông vào cây lúa nhưng lại rất hiếm ruộng, nay trở thành khá giả và có chiều hướng đi lên, vì đã tìm ra con đường đổi mới cơ cấu sản xuất, mở mang được nhiều nghề mới. Vùng đất trống, đồi núi trọc, trước đây tưởng như chỉ là biểu tượng của sự nghèo khó, khô cằn, ngày nay, một số nơi đang từng bước được phủ xanh với cơ cấu cây trồng thích hợp và được quản lý theo cơ chế mới, tăng nhanh thu nhập của dân cư và góp phần tích cực bảo vệ môi sinh.

Hai là, sự kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết những vấn đề văn hóa, xã hội trong năm qua đã có những nỗ lực mới, đưa lại nhiều kết quả hơn trước.

Tốc độ tăng trưởng và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đi đôi với việc mở rộng quy mô đầu tư đã tăng thêm cơ hội giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, tình trạng thiếu việc làm ở thành thị và nông thôn giảm bớt căng thẳng. Đến nay, mạng lưới điện đã về tới 50% số xã. Nhiều hộ nghèo đói đã nỗ lực vươn lên với sự giúp đỡ có hiệu quả của Chính phủ, các ngành, các đoàn thể và đông đảo nhân dân. Chính sách đối với người có công với nước được bổ sung, góp phần hỗ trợ vật chất và nâng cao giá trị tinh thần. Những vùng nghèo được sự hỗ trợ của Chính phủ đã tích cực tìm phương hướng phát triển mới để xóa đói, giảm nghèo. Nhờ những cố gắng đó, chúng ta đã căn bản chấm dứt được nạn thiếu đói kinh niên khi giáp hạt. Đời sống của đông đảo dân cư trên nhiều vùng được cải thiện; số hộ nghèo giảm và mức khó khăn về đời sống cũng bớt gay gắt hơn trước.

Miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhìn chung, có tiến bộ trên một số mặt trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất, hướng vào khai thác thế mạnh của từng vùng, thực hiện các chương trình bảo vệ, tái sinh rừng và phủ xanh đồi núi trọc đi đôi với chính sách giao đất rừng cho dân (tính đến hết năm 1994, đã giao được 5 triệu ha); xây dựng cơ sở hạ tầng về giao thông, về nước sinh hoạt và về y tế, giáo dục, văn hóa; phát triển các trường dân tộc nội trú và đưa các hoạt động chống dịch bệnh xuống bản làng. Nhờ vậy, đời sống của nhân dân ở một số vùng giảm bớt khó khăn, tăng được số hộ đủ ăn và khá giả, nhất là ở các vùng đổi mới được cơ cấu sản xuất.

Sự nghiệp giáo dục đã bước đầu khắc phục tình trạng giảm sút kéo dài nhiều năm về quy mô và chất lượng dạy học. Nhiều nơi đã tăng thêm được cơ sở vật chất, giảm được tình trạng trường học “ba ca”. Số lượng học sinh các cấp học đều tăng, tỷ lệ học sinh đến tuổi đi học không đến trường và tỷ lệ bỏ học ít hơn trước. Chất lượng giáo dục được coi trọng hơn. Các trường đại học được sắp xếp lại một bước với việc thành lập Đại học Quốc gia ở Hà Nội, xúc tiến thành lập Đại học Quốc gia ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số Đại học khu vực. Việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ, viên chức, nhân viên kỹ thuật được quan tâm. Yêu cầu ngày càng lớn về học nghề, ngoại ngữ, tin học được đáp ứng tốt hơn.

Công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ thu hút được nhiều lực lượng tham gia ở cả các viện, các trường, các cơ quan và một số cơ sở sản xuất, phát huy được tốt sự đóng góp của trí thức ở nước ngoài. Các chương trình trọng điểm được tổ chức và chỉ đạo tập trung; một số kết quả nghiên cứu đã phát huy tác dụng trong cuộc sống, nhất là về ứng dụng công nghệ mới. Sau khi Luật bảo vệ môi trường được ban hành, công tác này đang được triển khai.

Công tác thông tin, văn hóa, thể dục thể thao có những tiến bộ mới trong hoạt động ở cơ sở, mang tính quần chúng rộng rãi cũng như các hình thức chọn lọc ở trình độ cao, chú trọng phát huy văn hóa dân tộc và truyền thống lịch sử, đặc biệt là trong các ngày kỷ niệm lớn. Diện phủ sóng phát thanh và truyền hình tiếp tục được mở rộng, với nội dung chương trình từng bước được cải tiến.

Trong điều kiện rất thiếu thốn, chúng ta đã cố gắng cải thiện một bước mạng lưới y tế, nhất là ở cơ sở. Thực hiện chương trình xóa “xã trắng về cơ sở y tế”, đã có thêm trên 300 trạm xá xã được xây dựng. Các chương trình quốc gia về phòng chống bệnh tật được triển khai có kết quả, nhất là trong việc chống bệnh sốt rét, bệnh bướu cổ, tiêm phòng cho trên 80% trẻ em, tiến tới sớm thanh toán bệnh bại liệt. Công tác kế hoạch hóa gia đình đã có bước tiến bộ đáng kể. Việc tăng kinh phí và phân bổ công khai toàn bộ kinh phí về địa phương theo chương trình mục tiêu, cùng với việc xây dựng mạng lưới đến tận xã, phường đã lần đầu tiên làm cho tỷ lệ sinh đẻ bắt đầu giảm.

Việc giáo dục phòng chống HIV/AIDS được đẩy mạnh thường xuyên hơn. Việc đấu tranh ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn ma túy, mãi dâm, cờ bạc được tiến hành kiên quyết hơn, kết hợp các biện pháp giáo dục, cải tạo với các biện pháp xử lý nghiêm khắc.

Có thể đánh giá khái quát là lĩnh vực văn hóa, xã hội năm 1994 đã đạt được tiến bộ rõ hơn các năm trước.

Ba là, an ninh, quốc phòng được củng cố vững chắc:

Những thành tựu kinh tế - xã hội đạt được trong năm 1994 đã góp phần rất quan trọng củng cố trật tự, an ninh xã hội, củng cố quốc phòng.

Với phương thức củng cố, nâng cao hoạt động an ninh xã hội ngay từ cơ sở, về cơ bản chúng ta đã giữ gìn được trật tự, an ninh xã hội, bảo vệ cuộc sống yên lành của nhân dân, đồng thời, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị. Trong những điều kiện phát triển mới của đất nước, đã xuất hiện những mô hình mới, nhân dân tự đảm nhiệm trật tự và an toàn xã hội trong địa phương của mình, thể hiện phong trào quần chúng tự giác tham gia nhiệm vụ này.

Quân đội ta được tiếp tục bổ sung thêm năng lực mới, chiến lược chiến thuật của chiến tranh nhân dân được hoàn chỉnh thêm, phù hợp với yêu cầu phòng thủ đất nước trong tình hình mới và đã tạo ra sự bố trí lực lượng thích hợp. An ninh quốc gia ở biên giới, biển và đảo luôn luôn được coi trọng.

Trong mọi điều kiện có thể của đất nước, Đảng và Nhà nước đã dành sự quan tâm rõ rệt đối với đời sống của cán bộ, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang, cố gắng thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội và các chính sách đối với thương binh, liệt sĩ, đối với những người và gia đình có công với đất nước.

Bốn là, quan hệ kinh tế với bên ngoài tiếp tục được mở rộng, nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng diễn ra trong năm 1994 đã góp phần nâng cao thêm vị trí nước ta trong các mối quan hệ quốc tế.

Trong năm qua, các lĩnh vực ngoại thương, thu hút đầu tư nước ngoài, vận tải và du lịch, dịch vụ đối ngoại đều tăng trưởng nhanh hơn nhịp độ chung của nền kinh tế.

Chúng ta đã làm nhiều việc để trở thành quan sát viên của tổ chức Hiệp ước chung về thương mại và thuế quan (GATT) và đang tích cực chuẩn bị điều kiện để sớm tham gia tổ chức thương mại quốc tế này. Hiệp định khung cho các mối quan hệ kinh tế giữa nước ta với Liên minh châu Âu (EU) đang đi vào bước hoàn tất để ký kết. Quan hệ với các tổ chức Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á (IMF, WB, ADB) được mở rộng thêm, tạo thuận lợi cho việc tài trợ nhiều công trình quan trọng. Việc đạt được thỏa thuận về xử lý nợ của ta tại Câu lạc bộ Pari và Câu lạc bộ Luân Đôn đã giảm và hoãn được một phần quan trọng nợ phải trả, khai thông được quan hệ thương mại và tín dụng với các nước chủ nợ.

Dư luận thế giới hoan nghênh việc nước ta quyết định gia nhập ASEAN, coi đây là một bước tiến mới của hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực. Chính phủ ta đang khẩn trương tiến hành những chuẩn bị cần thiết cho việc trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức này. Chúng ta hiểu rằng đây là một bước tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực, phù hợp với lợi ích quốc gia của ta đòi hỏi những nỗ lực rất lớn để có thể tham gia có hiệu quả vào các hoạt động theo thể thức của tổ chức này.

Chúng ta đã trở thành thành viên liên kết của Hội đồng hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (PECC), tiếp cận với Hội đồng hợp tác kinh tế lòng chảo Thái Bình Dương (PBEC) và quan tâm mở các mối liên hệ với Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Việc Quốc hội phê chuẩn Công ước quốc tế 1982 về Luật biển khẳng định ý chí của Nhà nước ta tham gia vào hệ thống luật pháp quốc tế, một nhân tố quan trọng để xây dựng trật tự quốc tế mới phù hợp với chủ quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia.

Trong năm 1994, các cuộc đi thăm của lãnh đạo cấp cao nước ta và những cuộc viếng thăm nước ta của lãnh đạo và chính khách các nước đánh dấu sự phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác của nước ta với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Đối với những vấn đề tồn tại do lịch sử để lại hoặc mới nảy sinh trong quan hệ quốc tế có liên quan đến lợi ích của nước ta, bao gồm vấn đề biên giới, lãnh thổ, Việt kiều, người Việt Nam di tản …, thái độ của chúng ta là kiên trì tiến hành đối thoại, đấu tranh đúng mức, phù hợp luật pháp quốc tế và hợp lẽ phải, phản đối dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp đã được đông đảo dư luận trên thế giới đồng tình và đánh giá cao.

Sau khi Chính phủ Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận đối với nước ta, hai bên đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong các cuộc đàm phán về bình thường hóa quan hệ. Việc mở cơ quan liên lạc ở Thủ đô hai nước chỉ còn lại vấn đề kỹ thuật phải giải quyết. Trong thời gian qua, nhiều lần các đại diện Chính phủ Hoa Kỳ lên tiếng đánh giá cao quan điểm nhân đạo và tích cực của ta trong vấn đề người mất tích và tù binh chiến tranh (MIA/POW). Hai nước đã trao đổi nhiều đoàn quan chức và các nhà kinh doanh. Trong bước khởi đầu, các công ty Mỹ đã có 16 dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam được cấp giấy phép với số vốn đăng ký 171 triệu USD. Tiến trình đi tới bình thường hóa quan hệ hai nước đang tiếp diễn theo chiều hướng tích cực, tuy vẫn còn những trở lực phải vượt qua.

Về những thiếu sót:

Những thành tựu giành được trong năm 1994 đáng phấn khởi, tuy nhiên chúng ta vẫn phải thẳng thắn nhìn vào những thiếu sót:

Một là, kinh tế năm 1994 tuy giành được tiến bộ trên nhiều phương diện, tốc độ tăng trưởng tuy khá, nhưng nhìn chung, sự phát triển chưa đủ vững chắc, chất lượng và hiệu quả kinh tế còn nhiều mặt hạn chế. Tình hình này trước hết thể hiện trên các phương diện: những công cụ điều hành vĩ mô còn phải tiếp tục khắc phục những mặt yếu kém, khu vực kinh tế nhà nước, trong đó đặc biệt là kinh tế quốc doanh - chưa vươn lên làm tốt vai trò chủ đạo, khu vực hợp tác xã chậm được đổi mới, thị trường trong cả nước nói chung còn nhiều khâu ở dạng sơ khai và chưa hoàn thiện, năng lực quản lý của bộ máy nhà nước còn những mặt chưa theo kịp với sự phát triển của đất nước.

Chính những yếu kém này làm cho sự phát triển của lực lượng sản xuất còn bị giới hạn, sự tăng trưởng kinh tế chưa gắn với việc thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác, một số vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường nảy sinh chưa được khắc phục kịp thời. Riêng về quan hệ sản xuất, còn thiếu những biện pháp đủ tầm mức nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả của kinh tế quốc doanh, khuyến khích những mô hình kinh tế hợp tác có hiệu quả, hỗ trợ sự năng động của kinh tế hộ, hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển có lợi cho quốc kế dân sinh.

Hai là, hệ thống tài chính tiền tệ chưa theo kịp yêu cầu phát triển của nền kinh tế, lại càng chưa trở thành một trong những công cụ quyết định nhất, hiệu nghiệm nhất cho nhiệm vụ quản lý vĩ mô. Nhìn chung, chúng ta chưa hình thành được một nền tài chính quốc gia phù hợp với nền kinh tế mở vận hành trong cơ chế thị trường, những công cụ quan trọng của nền tài chính quốc gia như thuế, hệ thống kế toán, kiểm toán, hệ thống thanh toán, tín dụng và ngân hàng, v.v. chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển.

Trong vấn đề ngân sách nổi lên những vấn đề như: tỷ lệ bội chi ngân sách còn cao, hiệu quả sử dụng ngân sách còn thấp, tỷ lệ chi sai và thất thoát còn lớn. Không ít các đơn vị kinh tế quốc doanh còn thua lỗ hoặc làm thiệt hại ngân sách nhà nước. Chưa giảm bớt được bao nhiêu tình hình vốn, ngân sách không được sử dụng đúng mục tiêu hoặc bị tiếm dụng. Do thiếu hụt ngân sách, có những công việc tiến hành chậm, dồn vào cuối năm hoặc phải chuyển sang năm 1995, nhất là trong đầu tư xây dựng cơ bản. Thực tế này, cùng với những yêu cầu phải đáp ứng cho xử lý hậu quả của thiên tai lớn năm 1994 sẽ tác động đến ngân sách năm 1995. Ngoài ra, thu ngân sách năm 1994 tuy tăng nhiều, nhưng trong đó có phần quan trọng dựa vào thuế nhập khẩu; không khắc phục tích cực tình hình này sẽ ngày càng khuyến khích nhập siêu và không triệt để khuyến khích huy động mọi nguồn lực cho phát triển sản xuất trong nước, hạn chế sự hòa nhập thị trường nước ta vào thị trường thế giới.

Tình trạng thất thu thuế vẫn còn lớn, chưa làm tốt được việc huy động những nguồn thu trên cơ sở mở rộng sản xuất, kinh doanh. Hệ thống thuế hiện hành vừa quá phức tạp, vừa có nhiều kẽ hở, không ổn định, đang gây ra nhiều trở ngại cho phát triển kinh tế, kinh tế đối ngoại cũng bị ảnh hưởng, đồng thời, không bảo đảm nguồn thu ngân sách.

Trong lúc đất nước còn nghèo, vấn đề tiết kiệm được thường xuyên đôn đốc, nhưng nhiều nơi thực hiện chưa nghiêm túc. Hiện tượng sử dụng những nguồn vốn hiếm hoi cho việc xây dựng trụ sở, mua sắm trang thiết bị đắt tiền, đua nhau tổ chức các hoạt động phô trương, v.v. còn nặng nề. Trong khi đó, không ít ngành, địa phương chưa chú trọng huy động những tiềm lực của bản thân mình đáp ứng cho yêu cầu phát triển, tâm lý trông chờ vào ngân sách nhà nước còn phổ biến. Nhà nước cũng còn thiếu nhiều chế định cần thiết nhằm kiểm soát gắt gao chi tiêu và khuyến khích thực hiện triệt để tiết kiệm.

Phát triển thị trường vốn ngày càng trở thành đòi hỏi rất bức thiết của nền kinh tế nước ta. Những yếu kém trong lĩnh vực này đang kìm hãm việc huy động và sử dụng tối ưu mọi nguồn vốn trong nước và nước ngoài có thể huy động được. Hệ thống tài chính ngân hàng hiện nay chưa cung ứng được những dịch vụ tài chính tín dụng mà nền kinh tế mở đòi hỏi, chưa làm tốt chức năng phát triển thị trường vốn cũng như chức năng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Việc nghiên cứu, tổ chức thực hiện thí điểm cổ phần hóa, mở thị trường chứng khoán và những hình thức huy động vốn khác tiến hành rất chậm… Hiện nay, ngành nào và địa phương nào cũng phải đương đầu với tình trạng thiếu vốn gay gắt, nhiều tiềm năng sản xuất, kinh doanh bị lãng phí.

Ba là, bộ máy quản lý nhà nước còn cồng kềnh, còn nhiều việc chồng chéo và thủ tục rườm ra, hệ thống luật pháp nhà nước đã được phát triển đáng kể nhưng chấp hành không nghiêm, còn nhiều cơ quan quản lý nhà nước chưa đáp ứng tốt những đòi hỏi mới của phát triển kinh tế, xã hội trong nước.

Đứng trước thời kỳ phát triển mới, phải có một hệ thống hành chính quốc gia phù hợp. Hiến pháp mới và những đạo luật vừa được ban hành liên quan đến tổ chức bộ máy chính quyền là những bước tiến quan trọng. Tuy nhiên, Chính phủ mới chỉ làm được một số việc cải tiến ban đầu. Về đại thể, tổ chức và phương thức làm việc của bộ máy hành chính quốc gia hiện nay chưa thông suốt, còn rất yếu trong xử lý những mối quan hệ liên kết dọc và ngang, thậm chí, có nơi, có lúc hiện tượng cục bộ rất nặng nề. Chế độ phân cấp trách nhiệm thiếu rành mạch, làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và dựa dẫm. Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng của tình trạng trì trệ.

Đội ngũ cán bộ, viên chức bộc lộ nhiều mặt chưa đáp ứng với đòi hỏi của những nhiệm vụ xây dựng và quản lý đất nước đang phát triển trong sự nghiệp đổi mới. Yêu cầu về bổ túc, đào tạo và đào tạo lại để nâng cao năng lực quản lý, kỹ năng hành chính và phẩm chất cán bộ, viên chức nhà nước rất cấp thiết, nhưng công việc này chưa được quan tâm đúng mức. Tình trạng tham nhũng và sách nhiễu dân còn phổ biến ở nhiều nơi, trật tự, kỷ cương xã hội có những mặt sa sút, tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội giảm chậm, còn nhiều hiện tượng làm ăn trái phép, nhiều thủ tục hành chính phiền hà gây khó khăn cho công việc làm ăn của nhân dân.

Gần đây Chính phủ thực hiện một số biện pháp cải cách thủ tục hành chính, nhưng công việc mới ở bước đầu, chưa phát huy hiệu quả rõ rệt. Tình hình đó cho thấy sự phát triển của đất nước đang đặt ra yêu cầu gắt gao phải sớm xây dựng một dự án cải cách cơ bản nền hành chính quốc gia, nhằm đáp ứng những yêu cầu quản lý và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, còn nhiều yếu kém trong kinh tế đối ngoại:

Điều cần nhấn mạnh trước tiên là nhiều doanh nghiệp và cơ quan, trước hết là cơ quan quản lý kinh tế đối ngoại, chưa ý thức đầy đủ sự cạnh tranh gay gắt mà đất nước hiện nay phải đương đầu trong quá trình hội nhập vào kinh tế thế giới. Vì lẽ đó, chúng ta chưa khắc phục có hiệu quả những thua kém trong cạnh tranh với bên ngoài trên nhiều mặt: ngoại thương, đặc biệt là xuất khẩu, thu hút đầu tư, mở rộng hợp tác, tranh thủ các nguồn tài trợ, thâm nhập sâu hơn nữa vào thị trường thế giới, khai phá thị trường mới, v.v..

Tình trạng khá phổ biến hiện nay là chúng ta phải nhập khẩu với giá đắt, xuất khẩu với giá rẻ, thua thiệt còn nhiều. Một khối lượng lớn hàng xuất khẩu còn phải bán qua trung gian, tỷ lệ góp vốn của chúng ta trong hầu hết các công trình liên doanh chỉ được khoảng 30%, chúng ta chỉ giành được 1/10 khối lượng vận tải hàng hóa ra vào nước ta… Do đó, phần lãi nước ta thu được rất thấp, không ít lợi ích chính đáng của phía ta bị vi phạm. Tình trạng manh mún, tiêu cực và buôn lậu càng khoét sâu thêm thế yếu này của ta.

Giới kinh doanh nước ngoài phê phán Việt Nam trên thực tế không thực hiện được nguyên tắc “một cửa”, họ kêu ca rất đúng về sự phiền hà, sách nhiễu; nhiều lợi thế của nước ta do đó chưa phát huy tốt tác dụng, một số cơ hội kinh doanh bị bỏ lỡ. Chính phủ đã trực tiếp chỉ đạo các cơ quan nhà nước hữu quan nhanh chóng khắc phục tình trạng này, đặc biệt ở các khâu xét duyệt đầu tư, cho thuê đất, thủ tục xuất nhập cảnh, v.v. và sẽ ban hành những biện pháp mới vào cuối quý IV năm 1994.

Nhìn lại, công tác năm 1994 có thể nói, Chính phủ đã có nhiều cố gắng nâng cao năng lực quản lý vĩ mô, quán triệt những nghị quyết của Đảng và của Quốc hội trong quá trình điều hành đất nước. Trên cơ sở đánh giá đúng đắn thời cơ và những thuận lợi mới, Chính phủ đã tập trung nhiều công sức vào những vấn đề lớn, cố gắng thực hiện nhiều biện pháp dứt điểm trong xử lý công việc, quan tâm đến những vùng còn nhiều khó khăn, tích cực chuẩn bị cho những yêu cầu phát triển mới của đất nước. Công tác điều hành của Chính phủ và của các ngành, các cấp trong năm 1994 có một số tiến bộ mới. Đặc biệt, đã chú trọng nâng cao chất lượng chỉ đạo các khâu công tác xây dựng chính sách, nghiên cứu, bố trí kế hoạch. Trong năm, đã quan tâm xem xét, điều chỉnh quy hoạch phát triển, bao gồm quy hoạch tổng thể và quy hoạch vùng để chuẩn bị cho những năm tới. Trong phương pháp điều hành, đã tăng cường khâu nắm sát tình hình, kiểm tra tại chỗ, chỉ đạo kịp thời những vấn đề cấp bách, dành sự giúp đỡ tích cực cho các ngành, các địa phương trong xử lý những vấn đề của mình, giúp các ngành, các địa phương tăng cường tính chủ động trong công việc, kiên quyết chống những hiện tượng buông lỏng kỷ cương, phân tán, cục bộ.

Chính phủ rất coi trọng tổ chức thực hiện những Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, chống buôn lậu.

Đến nay các Bộ, ngành Trung ương, các Ủy ban nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã có phương án thực hiện tiết kiệm và chống lãng phí. Trong năm, Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp cụ thể, đồng thời chỉ đạo trực tiếp thủ trưởng các ngành và các cấp đấu tranh chống tham nhũng. Đặc biệt, đã xử lý nghiêm khắc nhiều vụ buôn lậu và làm ăn trái phép. Tuy nhiên, kết quả đạt được còn rất hạn chế, tình trạng tiêu cực và tệ nạn tham nhũng, sách nhiễu dân còn nghiêm trọng, đòi hỏi phải đấu tranh bền bỉ, tích cực cải cách hành chính kết hợp với vận động dư luận nhân dân rộng rãi và các phương tiện thông tin đại chúng phê phán và lên án. Tình hình này cũng là một trong các yếu tố khẳng định cải cách hành chính trở thành vấn đề cấp bách.

Những thiếu sót nêu ở phần trên đồng thời nói lên những việc Chính phủ còn chưa làm được và những mặt còn chưa đủ mạnh trong nhiệm vụ điều hành.

II- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LỚN CỦA NĂM 1995

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

 Trong mấy năm qua nhân dân ta đã nỗ lực giành được nhiều thành tựu quan trọng, tăng cường thêm một bước tiềm lực kinh tế của đất nước, củng cố sự ổn định về chính trị, nâng cao vị trí nước ta trong quan hệ quốc tế. Những tiến bộ mới của đất nước ngày càng cổ vũ kiều bào ở nước ngoài hướng về Tổ quốc và cùng chung sức xây dựng đất nước, khuyến khích bè bạn và các đối tượng hợp tác của nước ta phát triển những mối quan hệ mới. Những thành tựu này khẳng định sự nghiệp đổi mới đang tiến triển đúng hướng, tăng cường động lực phát triển của nước ta, làm rõ thêm hướng và khả năng đi lên của đất nước, tạo thêm thuận lợi cho việc tranh thủ cơ hội đưa nước ta vào một thời kỳ phát triển nhanh và bền vững hơn.

Trước khi trình bày một số vấn đề lớn của năm 1995, tôi xin nhấn mạnh tình hình phát triển của đất nước đòi hỏi phải đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới.

Những thành tựu giành được trong những năm từ khi Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta tiến hành sự nghiệp đổi mới cho đến nay đang đặt ra cho toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội nước ta nhiều vấn đề mới.

Nông nghiệp không thể dừng lại ở chỗ xác lập quyền sử dụng ruộng đất của nông dân. Yêu cầu bức xúc của nông dân ngày nay là áp dụng kỹ thuật mới trong phương thức làm ăn của mình. Đó không thể là những phương thức cũ, nhưng chắc chắn cũng không thể là phương thức mạnh ai nấy lo hoặc lại để diễn ra quá trình tích tụ ruộng đất thông qua thôn tính lẫn nhau. Lại cũng không thể phát triển và hiện đại hóa trên cơ sở 10 lao động nông nghiệp làm ăn trên một ha ruộng, mỗi năm người nông dân có bình quân vài tháng nông nhàn. Từ vài năm nay, nhiều vùng nông thôn ngày càng đòi hỏi phát triển kinh tế vườn, cây công nghiệp, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, v.v.. Như vậy, xây dựng những mô hình hợp tác gì là phù hợp, làm gì để đưa thêm nhiều ngành, nghề mới này về nông thôn, làm thể nào để có thể cung cấp thêm đầu vào, bao gồm cả vốn, công nghệ và những dịch vụ cần thiết khác cho quá trình này, sản phẩm mới của nông dân và của lao động trong nông thôn làm ra bán đi đâu? Thật khó hình dung hết sức ép gay gắt của những vấn đề mới này.

Công nghiệp nước ta trong những năm đổi mới và trong cơ chế thị trường đang buộc phải sắp xếp và cơ cấu lại. Hội nghị Trung ương bảy đã đề ra một số nhiệm vụ công nghiệp đến năm 2000 và đã đề cập yêu cầu nghiên cứu chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với nội dung hướng vào xuất khẩu. Ngày nay, xem xét từ bất kỳ góc độ nào, đẩy mạnh công nghiệp hóa đồng nghĩa với yêu cầu phải tham gia ngày càng sâu rộng vào phân công lao động quốc tế, cũng có nghĩa là phải chấp nhận và xử lý được sự cạnh tranh và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng trên thị trường thế giới.

Lịch sử phát triển công nghiệp của nước ta trong bốn thập kỷ vừa qua với nhiều kinh nghiệm sâu sắc có thể giúp chúng ta hình dung được nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa sắp tới của đất nước khó khăn phức tạp như thế nào - đặc biệt là trong một môi trường thế giới ngày nay cách mạng khoa học và công nghệ mang lại những khả năng và thách thức không lường hết được, thị trường thế giới ngày càng toàn cầu hóa đang thúc đẩy hợp tác kinh tế, đồng thời, tạo ra cạnh tranh gay gắt hơn giữa các quốc gia.

Nhìn rộng ra những lĩnh vực khác của cả nước, những yêu cầu của phát triển càng vô cùng bức xúc. So với cách đây 5 năm, tổng sản phẩm trong nước chúng ta làm ra tăng hơn gấp rưỡi, lưu lượng hàng hóa xuất khẩu tăng hơn 3 lần, nhập khẩu tăng hơn 2 lần, … Cũng so với cách đây 5 năm sức mua của dân tăng lên gấp 2 lần, nhu cầu của nền kinh tế về nguyên liệu, năng lượng, giao thông vận tải, dịch vụ đều tăng khá. Trong những năm tới, theo dự tính kế hoạch những chỉ số này còn phải cao hơn nữa. Ví dụ, năm 2000, kim ngạch xuất khẩu phải tăng khoảng 2 - 2,5 lần, nhiều sản phẩm công nghiệp như xi măng, thép xây dựng, … phải tăng gấp 2 - 3 lần, phải chế biến thêm được nhiều mặt hàng lương thực, thực phẩm mới, nhất là dành cho xuất khẩu, v.v.. Sắp tới, đòi hỏi của đất nước về thị trường, vốn, công nghệ, công ăn việc làm cũng như về phát triển giáo dục, y tế và các phúc lợi xã hội khác ngày càng lớn.

Ngày nay, nước ta đã mở ra quan hệ làm ăn buôn bán với trên 100 nước trên thế giới, bản thân nền kinh tế nước ta phải hướng mạnh vào xuất khẩu, do đó chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh trực tiếp với nền kinh tế của 2 tỷ người trong khu vực châu Á. An ninh quốc phòng trong tình hình mới đòi hỏi phải đủ vững mạnh. Trong vòng 5 năm tới, yêu cầu phát triển của nền kinh tế nước ta mỗi năm cần thu hút được 3 đến 5 tỷ USD các nguồn lực từ bên ngoài và nhiều hơn nữa trong những năm sau đó. Điều này cũng có nghĩa phải ra sức huy động những khoản vốn đối ứng rất lớn từ những nguồn lực trong nước, phải làm tốt hơn nữa việc cân đối mối quan hệ tiền - hàng, v.v..

Tình hình năm 1994 cũng cho thấy, chúng ta phải tiếp tục nỗ lực hoàn thiện và phát triển những mối quan hệ sản xuất mới đang hình thành, nhằm tạo ra được những liên kết mới giữa các thành phần kinh tế, giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, cho phép phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước. Đó là điều kiện không thể thiếu được để phát triển nhanh, tăng sức cạnh tranh với thế giới bên ngoài. Mặc dầu công tác kế hoạch hóa gia đình đã và đang được tiếp tục đẩy mạnh, nhưng tỷ lệ tăng dân số nước ta vẫn còn ở mức cao trong vòng 10 năm tới, trong khi đó đất đai nông nghiệp sẽ giảm đi rất nhiều cả về diện tích chung và diện tích tính theo đầu người - vì dân số tăng, vì quá trình phát triển cơ sở hạ tầng và đô thị hóa, v.v..

Có thể khẳng định đất nước ta đang đứng trước cơ hội phấn đấu sớm thoát khỏi số phận nghèo nàn lạc hậu, trở thành một nước văn minh, hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng đồng thời cũng phải nói rằng, sự tụt hậu của chúng ta hiện nay có khả năng hội tụ mọi nguy cơ khác và là thách thức gay gắt nhất đối với đất nước của chúng ta, ngay trong thời bình, giữa lúc nhân dân ta đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước, và trong một thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Lịch sử thế giới trước đây và trong những năm vừa qua đã chứng kiến: sự tồn vong của một quốc gia, dù là nước nhỏ hay là một cường quốc, trước hết phụ thuộc vào khả năng của nó vượt lên trên được hay chịu thua thiệt trước những biến động của thế giới! Dân tộc ta ngày nay phải có câu trả lời!

Giả sử chúng ta đạt được chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước tính theo đầu người vào năm 2000 là 450 USD, khoảng cách phát triển lúc đó giữa nước ta với hầu hết các nước trong khu vực vẫn rộng thêm. Vì vậy, tìm ra con đường và gấp rút chuẩn bị cho sự phát triển cao hơn và bền vững, và để từ những năm sau năm 2000 chúng ta có thể thu hẹp dần khoảng cách phát triển là vấn đề sống còn, đồng thời có như vậy mới tăng thêm thế và lực cho an ninh và quốc phòng của nước ta. Thỏa mãn với thành tựu, bi quan trước những khó khăn, hoặc phân vân không dám có những bước đi quyết đoán trước những thách thức, cả ba thái độ xử sự này đều không thể đưa đất nước ta đi lên.

Trình bày những điều vừa nói trên, tôi muốn nhấn mạnh dứt khoát chỉ có kiên trì đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới tiến lên phía trước chúng ta mới có thể tìm ra con đường thực hiện những yêu cầu phát triển rất thúc bách của đất nước. Tình hình đòi hỏi toàn thể dân tộc ta hơn lúc nào hết phải nỗ lực và quyết tâm cao nhất, tất cả nhằm giữ vững độc lập tự chủ, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Từ cách nhìn như vậy, năm 1995 mang ý nghĩa quyết định cho việc phấn đấu vượt cao những mục tiêu đã đề ra cho kế hoạch 5 năm 1991 -1995, và là năm bản lề cho nhiệm vụ giành lấy sự phát triển xa hơn nữa của đất nước trong những năm còn lại của thế kỷ này. Đấy là quyết tâm chiến lược của toàn Đảng và toàn dân ta.

Trong toàn bộ công việc của năm 1995, tôi xin thay mặt Chính phủ trình bày trước Quốc hội những vấn đề lớn sau đây:

1. Khẩn trương cải cách hệ thống tài chính tiền tệ

Đây là vấn đề bức bách cần thực hiện, nhằm tạo ra những công cụ chủ yếu của kinh tế thị trường, bảo đảm sự quản lý vĩ mô nền kinh tế.

Điều cần chú ý là các nhiệm vụ thu, chi ngân sách năm 1995 rất nặng nề: phần chi phải gánh thêm một số công việc của năm 1994, phải đảm đương việc từng bước khắc phục những hậu quả của thiên tai lớn trong năm 1994, sự thúc bách của tăng chi đầu tư phát triển, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài từ năm 1995 ngày càng lớn hơn. Tình hình đòi hỏi các ngành, các cấp bảo đảm thu đủ, thu đúng theo chính sách, chống thất thu, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu của mình, thực hiện nghiêm ngặt các chỉ tiêu chi, hết sức quán triệt ý thức tiết kiệm, cố gắng tập trung cho đầu tư phát triển. Tất cả các ngành, các cấp cần thông suốt tinh thần này và không chi dàn đều, không bố trí ngân sách chi vào những vấn đề chưa phải cấp thiết nhất. Cả nước phải tuân thủ nguyên tắc chỉ bố trí nguồn chi khi đã được cân đối chắc chắn, đồng thời, có trách nhiệm cùng nhau góp phần vào việc giữ bội chi ở mức Quốc hội đã cho phép.

Thực tế hiện nay là nhu cầu chi đang tăng lên trong quá trình phát triển và do đó mang yếu tố kích thích lạm phát. Nhưng kinh nghiệm của bản thân chúng ta trong những năm vừa qua là nhờ kiên quyết kiềm chế lạm phát nên từng bước đã ổn định nền kinh tế và tạo ra sức phát triển mới như ngày nay. Năm 1995, chúng ta càng phải kiên trì nguyên tắc này, và đây là một trong những yếu tố chính để có thể tăng thêm sự bền vững của tăng trưởng kinh tế.

Về vấn đề vốn, báo cáo của Chính phủ về kế hoạch kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 1995 đã nêu rõ những nguồn vốn có thể huy động được cho năm 1995. Các nguồn thu ngân sách năm 1995 đã được cân nhắc kỹ và đã được trình Quốc hội. Song tình hình đòi hỏi phải có nhiều cố gắng rất lớn, trước hết là nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và thẩm định, tăng cường sự điều phối và quản lý chặt chẽ mọi nguồn vốn trong nền tài chính quốc gia.

Ngạn ngữ ta có câu “trông giỏ, bỏ thóc”. Người có vốn, dù là trong nước hay nước ngoài, nếu họ biết chắc rằng đồng vốn của họ bỏ ra được bảo hộ và sẽ sinh lời, chắc chắn chúng ta sẽ huy động được vốn. Điều quyết định ở đây là, chúng ta phải thay đổi phương thức huy động, ban hành những chính sách khuyến khích, phát triển các dịch vụ thuận lợi trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, cải tiến những thủ tục thẩm định, xét duyệt, v.v. để có thể làm tốt việc huy động vốn.

Về huy động vốn trong dân, cái gốc của vấn đề là các dự án đầu tư phải có tính khả thi, có khả năng tạo ra lãi suất hấp dẫn. Đặc biệt, cần đẩy mạnh nghiên cứu cổ phần hóa có định hướng những xí nghiệp làm ăn có lãi, để những xí nghiệp này phát triển nhanh hơn, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn cho những mục tiêu lớn hơn. Đây cũng là con đường hình thành những xí nghiệp mạnh hoặc những tập hợp kinh tế lớn, đồng thời, thúc đẩy sự phát triển năng động của kinh tế quốc doanh.

Chúng ta cần đẩy mạnh việc phát triển thị trường vốn bằng nhiều hình thức. Trên cơ sở cân nhắc thấu đáo các mặt, cần phải đẩy mạnh hơn nữa sự hợp tác với bên ngoài - trước hết là các tổ chức tài chính và ngân hàng nước ngoài, để phát triển nhanh thị trường vốn ở nước ta.

Những chính sách nói trên chỉ có thể thành công trong quá trình đổi mới triệt để nền tài chính quốc gia, bao gồm cả hệ thống ngân sách quốc gia, chính sách thuế, các chế độ kế toán, kiểm toán, các dịch vụ ngân hàng, v.v. ban hành những chính sách kinh tế tài chính mới phù hợp có liên quan. Năm 1995, phải tạo ra sự chuyển biến lớn trong lĩnh vực này để xử lý vấn đề vốn nói riêng và để nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Quan điểm bao trùm về vấn đề sử dụng vốn trong thời gian trước mắt là ưu tiên cho những công trình đem lại lợi nhuận cao và thu hồi vốn nhanh, đóng góp tích cực vào quá trình tích lũy trong nước.

Đặc biệt, nhằm đáp ứng những đòi hỏi của phát triển kết cấu hạ tầng, những đòi hỏi đầu tư theo chiều sâu cho những cơ sở kinh tế hiện có, chúng ta cần vận dụng nhiều hình thức mới khác trong việc huy động vốn đầu tư gián tiếp hoặc trực tiếp của nước ngoài.

2. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển

Về thực chất, đây là một trong những khâu quyết định của chiến lược phát triển kinh tế. Chúng ta đã làm được một số việc quy hoạch vùng và trong phạm vi cả nước trong khuôn khổ một quy hoạch tổng thể cho hiện tại và cho một vài thập kỷ tới. Tuy nhiên, công tác khảo sát điều tra nghiên cứu còn rất hạn chế, quan điểm chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm cả chiến lược công nghiệp hóa và hiện đại hóa còn đang trong quá trình hình thành, có nhiều vấn đề phải sau Đại hội VIII mới rõ, có nhiều vấn đề phát triển của nền kinh tế còn tùy thuộc vào sự thành công sắp tới của chúng ta trong việc tạo ra động lực phát triển trong nước và thu hút hợp tác quốc tế. Chất lượng công tác quy hoạch ở tầm vĩ mô còn rất có giới hạn, quy hoạch ngành và vùng mới làm được ở mức độ nhất định, luận chứng khả thi của từng công trình còn rất yếu, thứ tự ưu tiên của các công trình chưa có sức thuyết phục cao. Quỹ đất đai của chúng ta rất hạn hẹp, sự phân bổ dân cư không đều, tài nguyên thiên nhiên của nước ta tuy đa dạng nhưng có hạn, nên càng đòi hỏi phải được tính toán, quy hoạch rất nghiêm ngặt.

Trong năm 1995, phải tăng cường hơn nữa công tác quy hoạch, đồng thời, cần tiếp tục ban hành những chính sách ưu đãi kích thích đầu tư phát triển tạo ra những công trình kinh tế và những ngành công nghiệp mũi nhọn cho nền kinh tế quốc dân. Điều này sẽ giúp chúng ta có thêm nhiều thuận lợi trong việc phân bổ đúng đắn và huy động có hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài nước, tránh được những lãng phí nghiêm trọng, tránh trùng lặp và ách tắc, giảm bớt nguy cơ làm ăn không trả được nợ, nâng cao hiệu quả kinh tế và tạo ra được những tiền đề cho việc phát triển nhanh.

3. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế

Để đạt được nhịp độ tăng trưởng cao hơn của nền kinh tế quốc dân, chúng ta cần kiên trì và thực hiện tốt hơn nữa chính sách kinh tế nhiều thành phần, làm cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, của mỗi người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước, làm cho mọi người vì lợi ích và tương lai của bản thân mình, con cháu mình mà tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh.

Chúng ta cần phát huy tốt hơn và nâng cao hơn nữa hiệu quả khu vực kinh tế nhà nước trước đây cũng như trong tương lai, đóng vai trò quan trọng bảo đảm những vị trí then chốt của nền kinh tế quốc dân. Muốn vậy, chúng ta cần tập trung sức kiện toàn những ngành và lĩnh vực then chốt nhất, hình thành những tổ chức kinh tế có khả năng tích tụ và tập trung, đáp ứng kịp thời và có hiệu quả các yêu cầu của nền kinh tế và của thị trường trong nước và nước ngoài. Các tổ chức đó có cơ chế hoạt động tự chủ, bằng cách đó chúng ta có điều kiện từng bước chuyển các Bộ và cơ quan (chủ quản) thành các cơ quan quản lý nhà nước, giảm bớt số các Cục, Vụ, đồng thời, tăng cường thích đáng vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước, kết hợp được cải cách kinh tế với cải cách hành chính.

Về quy hoạch tổng thể, chúng ta phải xác định rõ những ngành nào cần duy trì và phát triển doanh nghiệp nhà nước, những ngành nào, lĩnh vực nào doanh nghiệp nhà nước sẽ được cổ phần hóa bằng các bước đi và hình thức thích hợp, những ngành nào, lĩnh vực nào không cần duy trì, để tập trung các nguồn lực vào những lĩnh vực quan trọng nhất.

Chúng ta phải tạo điều kiện, đồng thời đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu quả cao hơn, tương xứng với tiền vốn và đầu tư đã bỏ ra, đóng góp lợi nhuận tạo ra được vào ngân sách nhà nước, đóng vai trò tích cực vào việc xây dựng những ngành công nghiệp mới, đưa công nghiệp tiên tiến vào nền kinh tế quốc dân.

Theo phương hướng như vậy, chúng ta sẽ thực hiện nhất quán việc phát huy và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư và phát triển kinh doanh như Luật khuyến khích đầu tư trong nước đã bảo đảm.

Chúng ta cần khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng có lợi cho quốc kế dân sinh, mở rộng phạm vi hoạt động phù hợp với điều kiện của Việt Nam và hoàn cảnh quốc tế ngày nay.

Kinh tế sản xuất nhỏ đang phát triển rất năng động, sáng tạo, chúng ta cần dành cho sự hỗ trợ trên mọi phương diện công nghệ, vốn, tiếp thị và những ưu đãi khác có thể được.

Trong khi quá trình tích tụ vốn ở nước ta còn ở giai đoạn thấp, xây dựng và phát triển các mối quan hệ liên kết, liên doanh dưới mọi hình thức linh hoạt và có hiệu quả giữa các thành phần kinh tế chẳng những là con đường tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế nước ta nói chung, giảm bớt được yếu tố tự phát trong cơ chế kinh tế mở đồng thời còn là một bảo đảm quan trọng cho phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

4. Tranh thủ những thuận lợi mới phát triển kinh tế đối ngoại

Đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đang mang lại những yếu tố quan trọng cho việc mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế đối ngoại trên mọi lĩnh vực.

Năm 1995, chúng ta cần tập trung đẩy mạnh xuất khẩu, tăng tốc độ thực hiện những công trình đầu tư đã ký kết với bên ngoài, đưa nhanh vào sử dụng những nguồn tài trợ phát triển đã thỏa thuận được, mở rộng tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, đẩy mạnh công tác tiếp thị để khai phá thị trường mới và tranh thủ thêm đối tượng hợp tác mới.

Về ngoại thương: Nền kinh tế nước ta hiện nay đòi hỏi gay gắt phải đổi mới ngoại thương, với mục tiêu khai thác tối đa mọi tiềm năng xuất khẩu của đất nước, đồng thời quản lý chặt chẽ và có hiệu quả nhập khẩu để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nâng cao hiệu quả sử dụng mọi nguồn lực trong nước hoặc vốn huy động từ bên ngoài.

Cần thay đổi công tác điều hành thương mại theo phương thức quản lý kinh tế vĩ mô trong cơ chế thị trường và chủ yếu bằng các biện pháp kinh tế. Nhưng đồng thời, Bộ Thương mại cũng phải tìm ra được những chính sách và biện pháp hình thành những đơn vị kinh doanh lớn trong lĩnh vực ngoại thương, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các đơn vị kinh tế trong nước thuộc mọi thành phần nhưng không làm suy yếu thế của ta trong làm ăn với bên ngoài.

Chúng ta cần phấn đấu giảm xuống mức thấp nhất buôn bán qua trung gian, đồng thời chấn chỉnh lại hải quan, không thể chấp nhận duy trì tình trạng xuất khẩu manh mún và hàng nhập lậu như hiện nay.

Đặc biệt, Bộ Thương mại cần làm tốt hơn nữa công tác tiếp thị, dự báo những diễn biến của thị trường trong nước và trên thế giới, hỗ trợ đắc lực cho công việc kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Cần tăng cường vai trò các tổ chức nghiệp đoàn của giới kinh doanh, nhằm đẩy nhanh sự trưởng thành của giới kinh doanh nước ta và có thêm thuận lợi mở rộng giao dịch với bên ngoài. Cần khuyến khích những dịch vụ phục vụ ngoại thương, như kiểm tra giá cả, chất lượng, tìm thị trường, tín dụng, pháp lý, v.v..

Về thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài: Nước ta là thị trường đang có sức thu hút đối với nguồn vốn này. Nhưng lợi thế này chỉ có thể phát huy được nếu chúng ta có hướng chiến lược phát triển đúng và loại bỏ được những thủ tục phiền hà, tiêu cực cũng như cách làm việc quá nhiều “cửa” như hiện nay.

Điều cần lưu ý trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài là, phải xử lý hài hòa những yêu cầu khác nhau trong quá trình phát triển hiện nay của nền kinh tế nước ta như đẩy mạnh xuất khẩu, tạo thêm công ăn việc làm, tranh thủ chuyển giao kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu sản xuất thay thế nhập khẩu. Từ thực tiễn và kinh nghiệm trong những năm vừa qua trên lĩnh vực này, Chính phủ đã và đang sửa đổi các quy định có liên quan đến các vấn đề như thẩm định dự án, thủ tục cấp đất, giá thuê đất, cấp giấy phép xây dựng, v.v., thực hiện nguyên tắc một cửa, hướng việc thu hút đầu tư nước ngoài phù hợp hơn nữa với chiến lược phát triển của nước ta, khắc phục tình trạng hiện nay là đầu tư nước ngoài chưa phục vụ tốt yêu cầu hình thành những ngành công nghiệp có lợi thế của nước ta trong tương lai. Chúng ta cũng cần khuyến khích các thành phần kinh tế tích cực tham gia vào quá trình thu hút đầu tư nước ngoài trong khuôn khổ quy hoạch và chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ.

Về thu hút những nguồn vốn tài trợ phát triển: Do triển vọng nền kinh tế Việt Nam và chính sách đối ngoại đúng đắn của nước ta, chúng ta có khả năng mở rộng thu hút nguồn vốn này, tuy nhiên phải tích cực giải quyết những thủ tục chưa thích hợp để việc huy động đạt hiệu quả cao.

Trước hết, cần tích cực làm tốt việc vận động để giành được số lượng vốn lớn hơn và phù hợp với yêu cầu của ta nhiều hơn, bởi vì, nước cung cấp tài trợ phát triển cũng có yêu cầu riêng của họ. Đồng thời, chúng ta cần làm tốt hơn nữa những việc ở các khâu quy hoạch và luận chứng khả thi, chuẩn bị tốt vốn đối ứng cũng như việc cung cấp những yếu tố sản xuất khác phía trong nước (đất đai, nhân lực, nguyên vật liệu, thiết bị trong nước chế tạo được, v.v..).

Chính phủ đã ban hành quy chế vận động và sử dụng nguồn vốn tài trợ phát triển, các ngành, các địa phương cần thực hiện nghiêm túc, tránh những trở ngại, chậm trễ không đáng có như trong năm 1994. Có làm được như vậy mới tăng nhanh khối lượng vốn đưa vào sử dụng và tạo thêm thuận lợi cho việc vận động nguồn tài trợ này cho những năm sau.

5. Tiến hành cải cách hệ thống giáo dục, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng con người

Trước hết, chúng ta cần đẩy mạnh cải tiến và nâng cao nội dung giáo dục ở tất cả các bậc, với mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực rất quý báu của nước ta.

Những việc có thể xúc tiến ngay là điều chỉnh mục tiêu giáo dục tiểu học cho phù hợp với yêu cầu đào tạo và sử dụng sau này, nghiên cứu mở rộng việc phân ban ở phổ thông trung học, nâng cao chất lượng các trường dân tộc miền núi, sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học và đổi mới nội dung giảng dạy, đồng thời, dành nhiều công sức bồi dưỡng, bổ túc, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, viên chức. Công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ cần bám sát hơn nữa những yêu cầu phát triển mới của đất nước, từng bước đưa việc dạy ngoại ngữ vào chương trình giáo dục ngay từ bậc phổ thông, khuyến khích cán bộ, viên chức học ngoại ngữ. Việc đào tạo cán bộ ở nước ngoài cần được quy hoạch và khẩn trương tổ chức thực hiện.

Năm 1995, cần phấn đấu xóa các “xã trắng” về cơ sở y tế, phát triển đội ngũ y tế lưu động chăm lo sức khỏe cho dân ở những vùng cao, hẻo lánh, hải đảo, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh của các bệnh viện, trạm xá. Đặc biệt, từ năm 1995, vận động toàn dân ăn muối iốt để phòng ngừa và khắc phục bệnh bướu cổ, bệnh đần độn, tiếp tục đẩy mạnh chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, phòng, chống các bệnh dịch khác. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình cần tiếp tục thực hiện những nội dung đã được xác định cho thời kỳ 1993 - 1995, phủ kín mạng lưới làm công tác này ở 1/3 số xã, phường còn lại, đặc biệt chú trọng tổng kết và nhân rộng các mô hình.

Chúng ta cần đặc biệt quan tâm gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa và bản sắc dân tộc. Trong quá trình mở rộng giao lưu hợp tác với bên ngoài, đòi hỏi này càng trở nên quan trọng. Bởi vì, đây là một trong những yếu tố quyết định tăng cường sức mạnh của cộng đồng dân tộc ta, một đòi hỏi không thể thiếu được trong hội nhập và đua tranh với thế giới bên ngoài.

Nhìn chung, Chính phủ đã cố gắng bố trí ngân sách cho những lĩnh vực này có mức tăng cao hơn tốc độ tăng ngân sách. Nhưng điều không kém phần quan trọng là phải đẩy mạnh việc huy động sự tham gia đóng góp của nhân dân, cải tiến hơn nữa hệ các trường dân lập, các qũy bảo hiểm, đa dạng hóa các biện pháp thực hiện theo phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm.

6. Cải cách nền hành chính quốc gia gắn với đổi mới kinh tế

Quá trình đổi mới và sự phát triển của nền kinh tế đã đi tới thời điểm buộc phải cải cách rất cơ bản hệ thống và cơ chế hành chính hiện hành. Sự yếu kém của thể chế hành chính hiện nay chẳng những bất cập so với chức năng nhiệm vụ của nó, mà còn có nguy cơ trở thành yếu tố chính kìm hãm hoặc thậm chí đẩy lùi sự phát triển của đất nước.

Yêu cầu trung tâm của cải cách hành chính là nâng cao năng lực quản lý và điều hành đất nước, làm cho các cơ quan chức năng nhà nước và cán bộ viên chức trong biên chế đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ trong tình hình mới. Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng, cải cách hành chính liên quan mật thiết đến cấu trúc kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay và phong tục tập quán của đất nước và là một trong những khâu then chốt bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và luật pháp của Nhà nước trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Không thể hình dung được rằng mọi chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng có thể thực hiện tốt thông qua một bộ máy điều hành đất nước yếu kém.

Nhiệm vụ cải cách hành chính phải tiến hành ngay từ đầu năm 1995, gắn chặt với việc đổi mới kinh tế, đạt được một bước tiến thiết thực trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của nền hành chính quốc gia bằng những biện pháp như sau:

Về quan hệ giữa nền hành chính với nhân dân, phải tiếp tục xúc tiến việc đổi mới thủ tục hành chính, kiên quyết bỏ mọi thủ tục rườm rà, chỉ đạo sát sao và từng bước thông báo kết quả với nhân dân để nhân dân nắm được và giám sát. Phải xây dựng được cơ chế thực hiện quyền tham gia thực sự của dân vào công việc của Nhà nước, thực hiện việc công bố công khai các thủ tục hành chính, mở rộng thông tin công việc của Nhà nước đến dân. Đặc biệt là cần thiết lập cơ quan tài phán hành chính, đó là một thiết chế dân chủ, chống quan liêu, cửa quyền, chống sự lộng hành và vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.

Về quan hệ giữa các ngành, các cấp của nền hành chính quốc gia, cần phải có những đổi mới thiết thực về cơ chế, tổ chức và con người, để làm cho bộ máy hành chính trong sạch, tinh gọn và năng động, chặn đứng và từng bước khắc phục tình trạng phân tán, thiếu kỷ luật, thiếu trách nhiệm, đồng thời khắc phục tình trạng tập trung quan liêu.

Trong bộ máy nhà nước cũng như toàn xã hội năm 1995, phải đánh dấu một bước tiến bộ rõ rệt về trật tự, kỷ cương, tuân thủ pháp luật.

Đội ngũ viên chức nhà nước cần được gấp rút đào tạo lại và đào tạo mới, nhằm thực hiện chế độ công vụ và quy chế công chức mà Chính phủ sẽ phải ban hành và thực hiện.

Về mặt kinh tế, mục tiêu cao nhất của cải cách hành chính là tạo môi trường cho mọi hoạt động, mọi nguồn lực của xã hội phải sinh lời, không được để vốn chết, mọi nguồn lãi thu được phải dành phần thỏa đáng thực hiện các nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách và phúc lợi xã hội, động viên, khuyến khích từng thành viên kinh tế trong xã hội yên tâm tìm hướng làm ăn lâu dài, không áp đặt sự hạn chế nào cho làm giàu nhưng đòi hỏi phải trong khuôn khổ pháp luật. Như vậy, cải cách hành chính còn là công cụ quan trọng thực hiện dân chủ trong kinh tế, làm rõ thêm con đường thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Trong năm 1995, cùng với việc đẩy mạnh cải cách hành chính, chúng ta cần thực hiện mọi biện pháp ra sức vận động tiết kiệm, xây dựng chế độ quản lý ngân sách và tài sản nhà nước, đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh chống tham nhũng và buôn lậu, bằng biện pháp cơ bản là thực hiện những chính sách, cơ chế vừa mở đường cho sản xuất, vừa ngăn cản buôn lậu và tham nhũng, đồng thời phải nghiêm minh xét xử và nghiêm trị những người phạm tội.

Trong diện rộng lớn của các mặt hoạt động kinh tế, xã hội năm 1995, sáu vấn đề tôi vừa trình bày trên đây là những khâu rất quan trọng, thể hiện quan hệ tác động qua lại chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với cải cách hành chính. Việc đẩy mạnh bằng những biện pháp thiết thực sáu loại công việc ấy có tác dụng thúc đẩy toàn bộ tiến trình đổi mới và phát triển của đất nước, mang lại những thành quả cụ thể trong năm 1995 và tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ trong những năm sau.

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

 Thưa toàn thể đồng bào,

Tư chất con người Việt Nam và ý thức đại đoàn kết hòa hợp dân tộc là những yếu tố quyết định nhất tạo nên chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, là nguồn gốc khả năng sáng tạo và sức mạnh tinh thần của dân tộc ta từ thời dựng nước cho đến nay. Trong sự nghiệp đổi mới, tinh thần tự lập tự cường, lòng tự trọng dân tộc, nghị lực phấn đấu và khả năng sáng tạo của con người Việt Nam đang thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước và mở ra tiền đồ phát triển đầy hy vọng.

Trước đây, toàn thể dân tộc ta, không phân biệt thành phần xã hội, chính kiến và tôn giáo, đã cùng nhau chung lưng đấu cật xóa nỗi nhục mất nước. Ngày nay, toàn thể dân tộc ta càng phải đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, cùng nhau phấn đấu ra khỏi tình trạng của nước nghèo, kém phát triển! Hơn lúc nào hết, mỗi người Việt Nam, dù ở trong nước hay định cư ở nước ngoài, cần nâng cao trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của mình đối với vận mệnh của đất nước, tất cả cùng nhau góp công, góp của vào sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội nước ta.

Làm được như vậy chính là Đảng ta và nhân dân ta thừa hưởng tư tưởng vĩ đại của Bác Hồ “Đoàn kết, đại đoàn kết! Thành công, đại thành công !”. Đó là truyền thống, giá trị tinh thần và phẩm chất quý báu của dân tộc Việt Nam ta.

Chính phủ hoan nghênh mọi sáng kiến góp vào các chính sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng các ý kiến khác nhau, vì đó là biểu hiện của một xã hội phát triển, là điều đáng mừng. Đã vì đoàn kết và hòa hợp dân tộc, nhất thiết phải lắng nghe ý kiến của nhau, để tiếp cận lẽ phải. Hãy lấy mục tiêu chung là sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, chấp nhận những điểm khác nhau, miễn là những điểm khác nhau ấy không trái với lợi ích chung.

Thực tiễn năm 1994 càng khẳng định chúng ta chỉ có thể thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới bằng nêu cao đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc trên cơ sở phát huy nền dân chủ của dân, do dân và vì dân phát triển hệ thống luật pháp của Nhà nước pháp quyền, kết hợp hài hòa giữa phát triển đất nước và xây dựng xã hội công bằng và văn minh, giữa phát triển và phúc lợi xã hội, giữa phát triển và xóa đói, giảm nghèo, giữa bảo đảm lợi ích chính đáng và nghĩa vụ của người công dân.

Đó là những yếu tố cần ra sức phát huy, bảo đảm cho nước ta nắm bắt được thời cơ đang đến cho sự nghiệp xây dựng đất nước, hội nhập được vào sự phát triển của thế giới, đồng thời giữ gìn được bản sắc dân tộc, tiến lên nhanh hơn, vững chắc hơn.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam ta tin tưởng và hăng hái tiến vào thời kỳ phát triển mới của đất nước.

Xin cảm ơn các vị đại biểu Quốc hội.

 

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội