THUYẾT TRÌNH CỦA ỦY BAN KINH TẾ VÀ
NGÂN SÁCH CỦA QUỐC HỘI VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC
NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1994;
VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ DỰ TOÁN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1995
(Do ông Lý Tài Luận, Phó Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội
đọc tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa IX, ngày 21-10-1994)
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Để chuẩn bị kỳ họp thứ 6 của Quốc hội khóa IX, Thường trực Ủy ban kinh tế và ngân sách đã làm việc với nhiều Bộ, cơ quan có liên quan ở Trung ương và một số tỉnh, thành phố. Sau đó, ngày 15 và 16 tháng 9 năm 1994, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban đã họp toàn thể thành viên, có đại diện Hội đồng dân tộc và các Ủy ban khác của Quốc hội tham dự để nghe Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước báo cáo và thảo luận về tình hình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 1994 và phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 1995.
Qua quá trình làm việc và nghe báo cáo của Chính phủ, Ủy ban kinh tế và ngân sách có một số ý kiến trình Quốc hội xem xét và quyết định như sau:
PHẦN THỨ NHẤT
VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI
I- VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ
KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1994
1. Mặc dù đến nay mới có số liệu thống kê 9 tháng, Ủy ban kinh tế và ngân sách cơ bản nhất trí với Chính phủ về dự kiến kết quả thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội cả năm 1994 với nhận định chung: Phát huy những chuyển biến và thành tựu đã đạt được của các năm trước, năm 1994, kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục có thêm những chuyển biến tích cực và đạt được những thành tựu mới.
Dự kiến hầu hết các mục tiêu và chỉ tiêu chủ yếu đều có khả năng đạt và vượt mức Nghị quyết của Quốc hội đề ra đầu năm: tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8,5% so với năm 1993, vượt mức dự kiến 0,5%; giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 13%, vượt kế hoạch 2% giá trị tổng sản lượng nông, lâm nghiệp tăng 4,5%; kim ngạch xuất khẩu đạt mức kế hoạch 3,6 tỷ đôla, v.v..
Sản xuất nông nghiệp vụ Hè - Thu và vụ Mùa thời tiết không thuận, hạn hán, lụt, bão làm giảm sản lượng ở một số địa phương, nhưng vụ Đông - Xuân được mùa trong cả nước, sản lượng lương thực cả năm có khả năng tăng nhưng không đáng kể so với năm 1993. Nhiều cây công nghiệp và chăn nuôi gia súc, gia cầm tiếp tục phát triển. Sản lượng thủy hải sản tăng. Công tác bảo vệ rừng, trồng rừng, phủ xanh đồi núi trọc có tiến bộ.
Sản xuất công nghiệp tiếp tục có tốc độ tăng trưởng khá, nhất là các sản phẩm quan trọng: điện, dầu thô, thép, xi măng, phân hóa học, hàng may mặc xuất khẩu, đường, sữa, bia, chè, chế biến… Một số sản phẩm đã có khả năng cạnh tranh trên thị trường nhờ chú trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, công nghệ. Công nghiệp địa phương, kể cả ngoài quốc doanh, ở một số thành phố và tỉnh đã bước đầu tăng so với mấy năm trước.
Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng, thị trường xuất, nhập khẩu tiếp tục được củng cố và phát triển sang một số khu vực mới.
Lưu thông hàng hóa trong nước ngày càng phát triển. Riêng chỉ số tăng giá hàng hóa và dịch vụ khó có khả năng đạt được mục tiêu dưới 10% theo Nghị quyết của Quốc hội.
Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, xã hội đều có những cố gắng và tiến bộ.
Đời sống nhân dân nhìn chung từng bước được ổn định và cải thiện. Riêng ở một số vùng miền núi và một số nơi bị lũ lụt nặng, nhất là ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, miền Trung, đời sống nhân dân gặp khó khăn, cần phải có những biện pháp cứu trợ khẩn cấp.
Đến nay, nhìn lại tình hình kinh tế - xã hội 4 năm qua (1991-1994), thành tựu nổi bật nhất là nước ta đã và đang hình thành và phát triển một bước nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế - xã hội đã có những chuyển biến tích cực, có tốc độ phát triển khá lên. Đến năm 1994, hầu hết các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 đều đã đạt, vượt mức đề ra: tổng sản phẩm trong nước (GDP) liên tục tăng và đạt mức tăng bình quân 7,8%/năm; nông nghiệp tăng 4,2%/năm, công nghiệp tăng 13,1%/năm; các ngành dịch vụ tăng 12%/năm; kim ngạch xuất khẩu tăng trên 20%/năm và tổng số trong 4 năm đã đạt 11,2 tỷ USD, v.v.. Đó là những mức phát triển mà trước đây chưa từng đạt được.
Có được những thành tựu đó trước hết là kết quả của việc quán triệt đường lối, chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước; những nỗ lực lớn lao của các tầng lớp nhân dân cả nước trong lao động sản xuất; những cố gắng và tiến bộ của Chính phủ, các ngành, các cấp trong quản lý, chỉ đạo điều hành thực hiện; đặc biệt là liên tục trong những năm qua Nhà nước đã ban hành, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật và các cơ chế chính sách theo tinh thần đổi mới, tuy chưa thật hoàn chỉnh và đồng bộ, nhưng đã có tác dụng tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển đúng hướng và ngày càng có hiệu quả, góp phần khai thác tiềm năng kinh tế đất nước, từng bước lập lại trật tự, kỷ cương trong sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội, làm cho nhân dân ngày càng yên tâm, tin tưởng vào sự phát triển của đất nước.
Ủy ban chúng tôi đề nghị Quốc hội khẳng định và ghi nhận những thành tựu và chuyển biến tích cực về tình hình kinh tế - xã hội của đất nước trong năm 1994 và những năm qua.
2. Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ quan trọng như trên, tình hình kinh tế -xã hội nước ta đến nay vẫn đang đứng trước những khó khăn và tồn tại rất đáng quan tâm:
- Trước hết, tuy nền kinh tế đến nay đã được cải thiện thêm một bước quan trọng, có tốc độ tăng trưởng khá, nhưng căn bản vẫn còn là một nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, năng suất, chất lượng và hiệu quả còn thấp, cơ cấu kinh tế còn bất hợp lý. Nguy cơ tụt hậu vẫn đang là một thách thức lớn đối với nước ta.
- Vốn là một vấn đề gay gắt và bức xúc hàng đầu hiện nay, song chính sách huy động vốn trong và ngoài nước chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, cơ chế quản lý và sử dụng vốn thiếu chặt chẽ, chậm đổi mới nên kết quả còn nhiều hạn chế. Việc lập kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản năm 1994 chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay trong nước và ngoài nước không được tính toán chặt chẽ, thiếu tính khả thi mà đã đề ra danh mục công trình quá nhiều, nhất là nguồn vốn tín dụng, đã gây khó khăn lớn cho việc quản lý và điều hành thực hiện, kém hiệu quả và gây lãng phí lớn. Riêng vốn đầu tư từ nguồn ngân sách đã hạn hẹp nhưng việc phân bổ và sử dụng còn phân tán, một lượng vốn không nhỏ lại sử dụng vào xây dựng những công trình và mua sắm chưa thật cấp thiết, không ít trường hợp còn mang tính phô trương, không đem lại hiệu quả thiết thực. Một điều rất đáng quan tâm là năm nay, chúng ta thiếu những công trình gối đầu tạo ra năng lực sản xuất mới có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế cho năm sau.
Việc huy động vốn trong dân cũng còn gặp nhiều khó khăn do thiếu cơ chế chính sách đủ sức hấp dẫn để khuyến khích mạnh nhân dân đầu tư vào phát triển sản xuất; phần lớn vốn trong dân chủ yếu dùng vào kinh doanh, dịch vụ, xây dựng nhà ở.
- Công tác quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng còn lúng túng là một khó khăn lớn cho các địa phương và các đơn vị cơ sở trong việc xác định phương hướng sản xuất, kinh doanh và gọi vốn đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt là việc quy hoạch và nâng cấp, phát triển kết cấu hạ tầng ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp tập trung đã và đang trở thành yêu cầu cấp bách, nhưng chưa được quan tâm đúng mức, nhất là đối với thủ đô Hà Nội.
- Trong nông nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu gắn quy hoạch phát triển sản xuất các cây trồng, vật nuôi với công nghiệp chế biến chưa có chuyển biến đáng kể và còn lúng túng; chưa quan tâm đầu tư đúng mức xây dựng vùng nguyên liệu phù hợp với quy mô các cơ sở công nghiệp chế biến; cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn lạc hậu, vật tư cung ứng cho sản xuất và thị trường tiêu thụ nông sản chưa thật ổn định; việc huy động, phân bổ và sử dụng vốn, cả vốn ngân sách và vốn tín dụng cho nông dân vay tuy có tiến bộ bước đầu nhưng vẫn còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới.
Về lâm nghiệp, rừng vẫn bị phá nghiêm trọng, gây hậu quả bất lợi lớn và lâu dài cho đất nước. Mức đầu tư cho các dự án về phủ xanh đồi núi trọc tuy còn thấp so với yêu cầu, nhưng việc quản lý lại phân tán, kém hiệu quả.
Ngành Thủy sản đã được phát triển khá, nhưng khả năng đầu tư còn có hạn, là một trở ngại lớn cho bước phát triển nhanh hơn trong những năm sau, kể cả việc nuôi trồng, phòng dịch bệnh, cũng như việc đánh bắt xa bờ.
Một điều rất đáng quan tâm là thiên tai, lũ lụt, bão trong những tháng vừa qua gây thiệt hại nặng ở nhiều địa phương. Ủy ban chúng tôi hoan nghênh Chính phủ, các cấp, các ngành, các đoàn thể và nhân dân các địa phương trong cả nước đã có những biện pháp cứu trợ khẩn cấp nhằm giúp nhân dân các vùng này sớm khắc phục hậu quả, nhanh chóng ổn định đời sống, bảo đảm điều kiện khôi phục và phát triển sản xuất. Đề nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo kiểm tra đánh giá đúng mức, đầy đủ tình hình thiệt hại để có những biện pháp tích cực giải quyết trong những tháng cuối năm 1994 và chủ động bố trí trong kế hoạch năm 1995.
- Sản xuất công nghiệp đạt mức tăng trưởng khá, chủ yếu là nhờ kết quả đầu tư của những năm trước như dầu khí, xi măng, điện, v.v. hoặc có điều kiện thu hút vốn đầu tư tập trung vào một số sản phẩm như vật liệu xây dựng, hàng may mặc, bia, sữa, thuốc lá, hàng xuất khẩu,…Nhưng còn một số ngành và sản phẩm công nghiệp vẫn đang trong tình trạng bế tắc và đình trệ sản xuất. Nhiều xí nghiệp lâm vào tình cảnh làm ăn thua lỗ hoặc kém hiệu quả, nhất là một bộ phận đáng kể các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương và đặc biệt là ngành Cơ khí.
Ngành Điện đã có nhiều cố gắng tập trung hoàn thành về cơ bản đường dây tải điện 500 kV Bắc - Nam và tăng nguồn điện đáng kể. Ủy ban chúng tôi lưu ý tới việc xây dựng không đồng bộ, thiếu cân đối trong ngành Điện, việc củng cố và cải tạo mạng lưới điện chưa được quan tâm đúng mức, công tác quản lý và phân phối điện còn nhiều yếu kém, tiêu cực. Mặt khác, việc cung ứng điện không ổn định đã gây thiệt hại cho sản xuất và người sử dụng điện. Tỷ lệ tổn thất điện, tuy đã có giảm so với trước, nhưng vẫn còn quá cao. Tuy có quan tâm mở rộng mạng lưới điện phục vụ các vùng nông thôn, nhưng vấn đề nổi cộm ở nhiều nơi về nguồn vốn đầu tư xây dựng, về giá điện,… cần có chính sách và biện pháp chấn chỉnh.
Ủy ban chúng tôi tán thành với chủ trương của Chính phủ về việc chấn chỉnh và tổ chức lại quản lý ngành Than. Trong đó, chúng tôi xin lưu ý cần có biện pháp tích cực để từng bước giải quyết khối lượng bốc đất đá từ nhiều năm để lại, tạo điều kiện phát triển trong những năm sau và cần chấn chỉnh, sớm chấm dứt tình trạng khai thác than bừa bãi.
- Kinh tế đối ngoại, hoạt động xuất, nhập khẩu tuy đã có những chuyển biến quan trọng, nhưng vẫn thấp xa so với tiềm năng và nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Việc điều hành xuất, nhập khẩu chưa nhạy bén, trong năm đã để xảy ra tình trạng thừa thiếu, giá cả tăng giảm thất thường đối với một số hàng hóa, vật tư như: đường, giấy, xi măng, phân bón, v.v.. Giá cà phê mấy năm trước sụt xuống thấp nên ở một số nơi đã xảy ra hiện tượng dân phá bỏ cà phê để trồng cây khác, nhưng năm 1994, giá mới tăng lên thì lại đưa ra phụ thu đến 20%, nhiều ý kiến cho rằng không hợp lý, làm ảnh hưởng đến việc khuyến khích phát triển sản xuất và kinh doanh xuất khẩu. Đó là những việc cần rút kinh nghiệm cho công tác điều hành các năm sau. Vấn đề tiếp tục đổi mới chính sách khuyến khích xuất khẩu, hoàn thiện cơ chế quản lý xuất, nhập khẩu, tăng cường công tác thông tin và dự báo thị trường, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống buôn lậu, v.v. cũng là những vấn đề thời sự cần được quan tâm giải quyết.
- Việc tổ chức sắp xếp lại và đổi mới cơ chế quản lý các doanh nghiệp nhà nước thực hiện quá chậm, đến nay vẫn là một tồn tại lớn trong nền kinh tế. Trong thực tế, chúng ta vẫn đang ở trong tình trạng rất lúng túng từ chủ trương cho đến biện pháp thực hiện. Đặc biệt là khá nhiều doanh nghiệp vẫn còn tình trạng hoạt động biến dạng, kém hiệu quả hoặc lâm vào tình trạng phá sản, mà không có biện pháp xử lý dứt điểm nên vẫn đang gây hậu quả không lành mạnh trong đời sống xã hội. Việc thực hiện thí điểm cổ phần hóa chưa đem lại kết quả mong muốn, cần có chủ trương và giải pháp cụ thể.
Việc thanh toán công nợ giai đoạn 2 (chỉ đối với số nợ tính đến tháng 4 năm 1993) cho đến nay, vẫn chưa được giải quyết dứt điểm, chưa kể những khoản nợ phát sinh và hậu quả của nợ nần lẫn nhau không thanh toán được từ sau đó đến nay. Đây cũng là một vấn đề cần được tập trung giải quyết sớm để lập lại trật tự lành mạnh trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế và cả với các cơ quan nhà nước.
- Mấy năm qua, chúng ta đã thành công lớn trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy vậy, vẫn còn những yếu tố bất ổn định, cần rất tỉnh táo và nhạy bén trong điều hành. Năm 1994, theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, chỉ số tăng giá hàng hóa và dịch vụ đến tháng 9 đã tới 9,9%, trong đó giá lương thực, thực phẩm tăng 16,1%. Từ nay đến cuối năm, tình hình còn diễn biến phức tạp do tác động của nhiều yếu tố: các khoản chi dồn nhiều vào cuối năm, nhất là chi đầu tư xây dựng cơ bản; ảnh hưởng của lũ lụt; biến động của giá cả thị trường thế giới, v.v.. Vì vậy, cần có các biện pháp tích cực, đồng bộ, có hiệu quả về nhiều mặt, nhất là trong việc điều hành cung - cầu, hàng hóa - tiền tệ để giữ cho được chỉ số tăng giá trong cả năm chỉ dừng lại ở mức khoảng 12% - 13%, vì nếu để vượt quá giới hạn đó sẽ dẫn đến hậu quả bất lợi.
Hoạt động tín dụng ngân hàng đã có những tiến bộ, góp phần vào sự phát triển kinh tế -xã hội. Tuy vậy, việc tiếp tục mở rộng màng lưới hoạt động, đặc biệt là việc huy động vốn bằng các hình thức thích hợp đồng thời với việc tiếp tục điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với thực tế và việc tăng nhanh mức tín dụng trung và dài hạn, tín dụng xây dựng cơ bản là một yêu cầu cấp bách trong tình hình hiện nay.
- Các lĩnh vực khoa học, giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, xã hội, đã có những tiến bộ nhất định. Tuy vậy, Ủy ban chúng tôi cho rằng đang tồn tại nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Tỷ lệ tăng dân số vẫn còn cao, hoạt động khoa học - kỹ thuật nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu đối với sự phát triển của đất nước, các tệ nạn xã hội chưa giảm.
- Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống buôn lậu, chống tham nhũng là một vấn đề mà Quốc hội đặc biệt quan tâm và đã có Nghị quyết. Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ đã tích cực giám sát, kiểm tra và chỉ đạo việc tổ chức thực hiện. Nhờ vậy, việc thực hành tiết kiệm bước đầu đã được quán triệt trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của các ngành và các địa phương. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu cũng đem lại một số kết quả nhất định. Tuy vậy, kiểm điểm lại với tinh thần nghiêm túc, Ủy ban chúng tôi thấy rằng, kết quả đạt được vẫn còn thấp so với yêu cầu đề ra. Đặc biệt là tệ tham nhũng, buôn lậu vẫn tiếp tục phát triển và diễn biến phức tạp, các vụ việc lớn lại thường xảy ra trong các doanh nghiệp nhà nước và có liên quan tới một số người trong bộ máy nhà nước. Nhưng việc xử lý thiếu kiên quyết, thường chậm trễ, kéo dài và chưa đạt mức nghiêm minh theo phép nước. Quần chúng nhân dân chưa thật sự tin tưởng và yên tâm đối với kết quả đạt được trong việc thanh trừng các tệ nạn nghiêm trọng này, đặc biệt là từ trong các doanh nghiệp và cơ quan nhà nước.
II- VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1995
1. Năm 1995 là năm cuối của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1991-1995.
Trên cơ sở những nỗ lực và thành tựu đạt được trong 4 năm qua, năm 1995, chúng ta có thêm những thuận lợi và thời cơ mới, nhưng đồng thời cũng vẫn đang đứng trước những khó khăn, thử thách lớn, mà thử thách lớn nhất là nguy cơ tụt hậu.
Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra cho năm 1995 là phải củng cố những thành quả đổi mới đã đạt được, tập trung sức phấn đấu tiếp tục tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao hơn các năm trước trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị, tăng cường ổn định kinh tế -xã hội; tiếp tục kiềm chế lạm phát; tạo cho được những chuyển biến cần thiết trên các lĩnh vực hoạt động khoa học - kỹ thuật, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, xã hội, đẩy lùi một bước các nhân tố bất ổn định về kinh tế, có bước tiến đáng kể trong việc lành mạnh hóa xã hội; đồng thời, tích cực chuẩn bị các tiền đề cần thiết cho những năm tới (1996-2000) phát triển cao hơn theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
2. Về nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch năm 1995, Ủy ban chúng tôi cơ bản nhất trí với báo cáo của Chính phủ, trong đó xin nhấn mạnh các mục tiêu chủ yếu sau đây:
- Giữ vững ổn định và lành mạnh hóa kinh tế và xã hội, phấn đấu tạo cho được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các năm trước và tạo thêm điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm nâng cao thêm một bước hiệu quả kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư trong nước, đồng thời tận dụng mọi thời cơ thuận lợi, mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu để tăng nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, tăng mức đầu tư của Nhà nước và các thành phần kinh tế cho phát triển kinh tế - xã hội, trong đó ưu tiên trước hết cho các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, các công trình kinh tế then chốt và cho việc trang bị thiết bị, công nghệ tiên tiến trong các ngành kinh tế, chú trọng đối với các ngành và đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu.
- Ổn định và cải thiện nền tài chính quốc gia, củng cố sức mua của đồng tiền, tiếp tục kiềm chế lạm phát, giữ cho được tốc độ tăng giá hàng hóa và dịch vụ ở mức khoảng 10%.
- Tiếp tục triển khai mạnh mẽ, có hiệu quả thiết thực các hoạt động khoa học - kỹ thuật, các chương trình xã hội và những vấn đề cấp bách về giải quyết việc làm, giáo dục và đào tạo, văn hóa, văn nghệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số, v.v..
- Thiết lập cho được trật tự, kỷ cương trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội; tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý và chính sách kinh tế; thực hiện một bước cải cách và nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý nhà nước các cấp, các ngành, tạo môi trường thuận lợi và lành mạnh cho sự phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, giữ vững trật tự, an toàn xã hội. Năm 1995, phải tạo cho được một bước chuyển biến rõ rệt trong việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội.
3. Về các chỉ tiêu chủ yếu: sau khi nghiên cứu và thảo luận, Ủy ban chúng tôi nhất trí với dự kiến của Chính phủ về tốc độ tăng trưởng năm 1995 so với năm 1994 về tổng sản phẩm trong nước: 9-10%; nông, lâm nghiệp: 4,5 - 5%, công nghiệp: 13-14%; các ngành dịch vụ: 12-13%; kim ngạch xuất khẩu: 4,5 tỷ đôla, tăng 25%; kim ngạch nhập khẩu: 5,5 tỷ đôla, tăng 22%, v.v..
Thực hiện các mục tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội năm 1995 - năm cuối của kế hoạch 5 năm 1991-1995 như báo cáo của Chính phủ đã nêu, là cần thiết để cải thiện một bước tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân, đồng thời, tạo thêm tiền đề thuận lợi khi bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000.
Tốc độ tăng trưởng của nông, lâm nghiệp 4,5 - 5%, trong đó sản lượng lương thực dự kiến 26,5 - 27 triệu tấn. Để đạt được tốc độ tăng trưởng đó, phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa cơ chế chính sách, trong đó phải hoàn thành cho được việc giao đất, giao rừng cho nông dân yên tâm sử dụng lâu dài theo hướng đẩy mạnh thâm canh, có chất lượng và hiệu quả cao hơn gắn với việc tiếp thu những tiến bộ mới của khoa học - kỹ thuật, có sự chuyển dịch nhất định về cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp và phát triển một bước công nghiệp chế biến nông sản.
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp dự kiến 13-14% cũng đặt ra yêu cầu phải phát triển nhanh hơn nữa các ngành điện, khai thác dầu khí, thép, xi măng và các vật liệu xây dựng khác…; đồng thời, phải chú trọng tăng cường huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, nhất là đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, công nghệ trong các ngành sản xuất nhằm thực hiện cho được một bước đổi mới, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, vươn lên đáp ứng ngày càng tăng với chất lượng cao hơn nhu cầu tiêu dùng trong nước và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu trong điều kiện thị trường mở cửa, có sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại nhập. Trong việc giải quyết theo phương hướng nói trên, Ủy ban chúng tôi lưu ý, cần đặc biệt quan tâm đối với các ngành, mà cho đến nay vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng đình trệ, bế tắc, nhất là ngành Cơ khí.
Sự cố gắng vươn lên đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn của các ngành dịch vụ (vận tải, bưu điện, thương nghiệp, du lịch) cũng là yêu cầu bức thiết khách quan hiện nay cho tương ứng với các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1995 và cả những năm sau. Vì vậy, việc kiện toàn tổ chức, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng hợp lý và tăng cường đầu tư vốn cho xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, đổi mới thiết bị công nghệ,… cho các ngành này cũng phải được quan tâm bảo đảm với mức cần thiết trong khả năng cho phép của năm 1995.
4. Về các chủ trương và các giải pháp lớn
Ủy ban chúng tôi cơ bản tán thành với những giải pháp mà Chính phủ đã nêu ra, ở đây chỉ xin nhấn mạnh một số vấn đề:
a) Động viên và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là khâu có tính chất quyết định bảo đảm yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội như dự kiến. Vì vậy, phải tiếp tục nghiên cứu để sớm bổ sung, hoàn chỉnh các cơ chế chính sách và có biện pháp hữu hiệu để một mặt, tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, trong đó dành một phần thích đáng cho đầu tư phát triển, mặt khác, động viên cho được các nguồn vốn của các doanh nghiệp và các nguồn vốn trong nhân dân đầu tư trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh hoặc thông qua các hình thức tín dụng. Một vấn đề đáng quan tâm là nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển năm 1995 mới bố trí được trên 1/3 yêu cầu vốn cần vay của các thành phần kinh tế; vốn cho các công trình ngành điện theo cơ chế “tự vay tự trả” cũng chưa có cơ sở vững chắc đến gần 50% số vốn cần thiết cho năm 1995. Vì vậy, Ủy ban chúng tôi tán thành chủ trương xúc tiến tạo các điều kiện cần thiết để mở rộng và phát triển thị trường vốn, trước mắt cần có ngay các cơ chế, chính sách khuyến khích các ngành, các doanh nghiệp huy động vốn, vay vốn để đầu tư chiều sâu, mở rộng phát triển sản xuất, bảo đảm có hiệu quả, có nguồn để trả nợ.
Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tiến hành sơ kết đánh giá tình hình hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài trong những năm qua để bổ sung, hoàn thiện Luật đầu tư nước ngoài, có chủ trương nhất quán, cải thiện môi trường đầu tư đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, nhanh chóng cải tiến các thủ tục hành chính, khắc phục cho được các tệ nạn tiêu cực, phiền hà trong lĩnh vực hợp tác và đầu tư để có thể thu hút thêm nguồn vốn nước ngoài.
Trong thực tế, nguồn vốn huy động được chắc chắn vẫn thấp so với nhu cầu, kể cả nguồn từ ngân sách, từ tín dụng ngân hàng cũng như vốn từ nước ngoài. Vì vậy, một yêu cầu bức thiết cũng cần đặt ra là phải phân bổ và sử dụng các nguồn vốn đó sao cho hợp lý và đem lại hiệu quả cao. Năm 1995, phải khắc phục cho được tình trạng đầu tư phân tán, thi công dây dưa kéo dài, gây lãng phí và kém hiệu quả. Cần tập trung trước hết cho các công trình trọng điểm và đem lại hiệu quả nhanh; cần tổ chức kiểm tra chặt chẽ để khắc phục một cách cơ bản việc không tuân thủ trình tự, thủ tục và tình trạng lãng phí, tham ô khá nghiêm trọng trong lĩnh vực này.
b) Tập trung chỉ đạo việc tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước:
Trên cơ sở xác định rõ các loại doanh nghiệp cần được giữ lại hình thức doanh nghiệp nhà nước, phải có ngay các biện pháp hữu hiệu về các mặt, nhất là về bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản trị doanh nghiệp, củng cố các doanh nghiệp này để nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
Cương quyết xử lý dứt điểm đối với số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài và không cần thiết giữ lại hình thức quốc doanh bằng cách cho giải thể, sáp nhập, chuyển hình thức sở hữu… Đồng thời, cần rút kinh nghiệm việc thí điểm cổ phần hóa vừa qua, làm rõ nguyên nhân để từ đó có những biện pháp và cơ chế thích hợp tiếp tục cổ phần hóa một bộ phận các doanh nghiệp nhà nước nhằm thu hút vốn của các thành phần kinh tế và nhân dân trong nước và cả nước ngoài, tạo điều kiện phát triển sản xuất - kinh doanh. Về vấn đề này, Ủy ban chúng tôi cho rằng, nên chăng cần ban hành Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội để làm cơ sở đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa.
Việc thành lập các tập đoàn kinh doanh lớn, các tổng công ty cần chú ý giảm các khâu quản lý trung gian; đề nghị Chính phủ tổ chức chỉ đạo điểm, xây dựng mô hình, rút kinh nghiệm trước khi mở rộng diện.
Năm 1995, phải ban hành cho được Luật doanh nghiệp nhà nước.
Một trong những cản trở lớn đến việc tổ chức lại sản xuất và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước là việc nợ nần giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế. Đề nghị Chính phủ cần có các chủ trương và giải pháp xử lý cụ thể, kiên quyết và dứt khoát trong việc thanh toán nợ nần giai đoạn 2 và cả cho đến nay.
c) Tiếp tục sửa đổi, bổ sung các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật: đồng thời tăng cường kiểm tra, bảo đảm quán triệt chấp hành nghiêm các cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật Nhà nước trong các cấp, các ngành và trong các đơn vị sản xuất - kinh doanh, trong nhân dân. Đó cũng là yêu cầu cấp thiết trong năm 1995 và cả cho các năm sau, cũng là đòi hỏi của quảng đại quần chúng nhân dân đối với Nhà nước. Cũng với tinh thần đó, năm 1995, phải tổ chức thực hiện chương trình xây dựng pháp luật mà Quốc hội đã thông qua và tăng cường chỉ đạo, giám sát việc thực hiện các luật đã ban hành.
d) Cải cách một bước bộ máy hành chính: thực hiện cho được việc tách chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sản xuất - kinh doanh; từng bước thực hiện việc xóa bỏ cơ chế Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước các cấp đối với các cở sở sản xuất - kinh doanh, đồng thời, nâng cao ý thức trách nhiệm, chủ động, sáng tạo của các doanh nghiệp. Xúc tiến việc chọn lựa và đào tạo lại đội ngũ cán bộ các cấp.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu để thanh lọc cho được những phần tử xấu, trước hết trong bộ máy nhà nước và trong các doanh nghiệp nhà nước.
PHẦN THỨ HAI
VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I- VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1994
Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa IX đã thông qua dự toán ngân sách nhà nước năm 1994 với:
- Tổng số thu: 38.660 tỷ đồng.
- Tổng số chi: 46.510 tỷ đồng (không kể trả nợ gốc).
- Mức thiếu hụt: 7.850 tỷ đồng, bằng 5,23% GDP.
Ngay sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban kinh tế và ngân sách đã cùng với Chính phủ (trực tiếp là Bộ Tài chính) xem xét việc tổ chức thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách nhà nước năm 1994. Sau khi phương án phân bổ ngân sách đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét nhất trí, Chính phủ đã giao chính thức nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho các Bộ, ngành Trung ương và các địa phương.
Trong quá trình thực hiện, hàng quý, 6 tháng, Thường trực Ủy ban hoặc Ủy ban đã nghe Chính phủ báo cáo về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước. Thường trực Ủy ban cũng đã tổ chức nhiều đoàn của Ủy ban đi làm việc với một số địa phương và một số Bộ, ngành ở Trung ương để nắm tình hình thực hiện ngân sách nhà nước ở các nơi đó. Qua các đợt nghe báo cáo và đi địa phương, Ủy ban đã có ý kiến đề nghị Chính phủ quan tâm giải quyết những vấn đề cấp bách trong quá trình điều hành thực hiện ngân sách.
Qua tình hình thực hiện ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm, nguồn bù đắp thiếu hụt ngân sách gặp khó khăn, khả năng vay trong và ngoài nước bị hẫng hụt lớn, không bảo đảm vốn cho đầu tư phát triển; Chính phủ đã họp với lãnh đạo các ngành và các địa phương (theo vùng) trong cả nước để tổ chức quán triệt và bàn biện pháp bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ theo Nghị quyết của Quốc hội. Sau khi tính toán các khả năng và biện pháp tổ chức thực hiện, Chính phủ đã giao thêm nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước cho một số ngành và địa phương 4.100 tỷ đồng, đồng thời, giao nhiệm vụ tiết kiệm chi theo Nghị quyết của Quốc hội.
Đến nay, qua kết quả thực hiện 8 tháng đầu năm, Chính phủ dự kiến khả năng thực hiện ngân sách nhà nước cả năm 1994 như sau:
- Tổng số thu: ước đạt 42.830 tỷ đồng, bằng 110,8% dự toán Quốc hội đã thông qua, vượt 4.170 tỷ đồng, tăng 32,7% so với năm 1993.
- Tổng số chi: ước đạt 44.830 tỷ đồng, bằng 96,4% dự toán Quốc hội thông qua (giảm 1.680 tỷ đồng), tăng 14,7% so với năm 1993.
- Số thiếu hụt ngân sách nhà nước: ước 2.000 tỷ đồng, bằng 1,2% GDP, giảm 5.850 tỷ đồng so với số Quốc hội cho phép (nếu kể cả trả nợ gốc bằng nguồn vay trong và ngoài nước thì thực tế số thiếu hụt ngân sách lên đến 6.060 tỷ đồng, bằng 3,56% GDP).
Nếu đến cuối năm, tình hình thực hiện ngân sách nhà nước, nhất là tổng số thu và chi đạt được kết quả như trên, là một cố gắng lớn của Chính phủ và các cấp, các ngành, nhất là hệ thống tài chính trong cả nước.
Tuy nhiên, trong việc lập và điều hành thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 1994, Ủy ban chúng tôi cũng như đại diện các Ủy ban khác của Quốc hội, qua thảo luận đã có nhiều ý kiến cần lưu ý và rút kinh nghiệm cho các năm sau. Dưới đây là một số ý kiến chính:
1. Trước hết là việc lập dự toán ngân sách nhà nước năm 1994 thiếu cơ sở vững chắc, không sát với thực tế và khả năng hiện thực, đã gây nên những đảo lộn, lúng túng lớn trong quá trình thực hiện ở các cấp, các ngành và cả cho việc chỉ đạo điều hành ngay từ đầu năm cho đến cuối năm, thậm chí, còn để lại hậu quả không nhỏ cho năm sau. Thể hiện rõ nét nhất là việc lập dự toán ngân sách không tính toán kỹ mà còn dựa quá nhiều vào khả năng không chắc chắn về vay trong nước và ngoài nước để bố trí các yêu cầu chi vượt lên quá xa so với khả năng hiện thực và số thiếu hụt ngân sách vẫn còn đến 7.850 tỷ đồng, trong khi đó còn các khoản nợ gốc đến hạn nhất thiết phải trả trong năm: trong nước 2.300 tỷ đồng, ngoài nước 1.760 tỷ đồng và một bộ phận vốn đáng kể (khoảng 3.000 tỷ đồng) cho các công trình xây dựng cơ bản của ngành Điện mà các năm trước vẫn chi từ ngân sách nhà nước nhưng năm 1994, chuyển sang cơ chế “tự vay tự trả” nhưng chưa được chuẩn bị đầy đủ từ trước. Thực tế diễn ra đã chứng minh rõ, nguồn thu từ vay trong nước chỉ thực hiện được khoảng 40% và từ vay ngoài nước càng thấp hơn, chỉ đạt được 17,6% so với dự kiến đầu năm.
Việc triển khai các công trình xây dựng cơ bản ngành Điện, chủ yếu dựa trên việc huy động vốn vay trong và ngoài nước cũng không thực hiện được và do đó trong 8 tháng đầu năm, cũng buộc phải tạm ứng vốn từ ngân sách để cấp nhỏ giọt, vừa làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công, vừa gây khó khăn, lúng túng hơn cho việc điều hành thực hiện các nhiệm vụ khác.
Nhiều ý kiến đề nghị Chính phủ cần xem xét giải quyết cho hợp lý, tránh gây bị động cho địa phương trong việc thực hiện kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng bằng nguồn thu tiền giao quyền sử dụng đất mà đầu năm đã quy định để lại 100%, đến giữa năm lại có quyết định điều về Trung ương 50% trong khi nhiều địa phương đã thu, đã sử dụng nên không còn nguồn để nộp.
2. Về thu: ước thực hiện cả năm 42.830 tỷ đồng, bằng 110,8% kế hoạch đầu năm và tăng 32,7% so với năm 1993, nhưng trong đó còn nhiều yếu tố tăng thu chưa có cơ sở chắc chắn, số ước thu trên còn dồn lại 4 tháng cuối năm tới gần 50% (trong đó thu trong nước còn 48%, riêng thu về tiền giao đất và bán nhà công còn trên 71%, thuế xuất - nhập khẩu còn trên 53%, thu khấu hao cơ bản còn 47,5%, v.v..).
Tuy nhiên, qua kết quả thu 8 tháng đầu năm cho thấy, tình trạng thất thu vẫn còn lớn, nhất là thuế xuất - nhập khẩu, đặc biệt thuế nhập khẩu qua biên giới (tiểu ngạch) rất thấp so với trước đây; thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vẫn thất thu đáng kể cả về số hộ và doanh số (vì chủ yếu vẫn dựa trên hình thức “khoán thu”) và cả đối với khu vực kinh tế quốc doanh, nhất là thuế lợi tức không kiểm soát được chặt chẽ. Tình trạng nợ đọng thuế vẫn còn khá phổ biến, nhất là khá nhiều doanh nghiệp lợi dụng việc chậm nộp thuế để giải quyết tình trạng thiếu vốn trong kinh doanh. Khoản thu về cấp quyền sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất và bán nhà công còn thấp xa so với dự kiến, do có phần triển khai chậm, công tác địa chính và kiểm kê, kiểm soát đất đai tiến hành lúng túng và thiếu chặt chẽ trong khi thực tế có nhiều đơn vị, nhiều cấp ở nhiều địa phương đã làm tùy tiện, thu tiền chi tiêu không kiểm soát được, nộp vào ngân sách không được bao nhiêu.
Tình hình trên cho thấy, nhiệm vụ từ nay đến cuối năm còn rất nặng, cần có sự chỉ đạo điều hành kiên quyết của Chính phủ và các địa phương, tăng cường mạnh mẽ các biện pháp quản lý sát sao hơn, chống thất thu một cách quyết liệt hơn, tận thu các khoản phát sinh còn tồn đọng thì mới có khả năng hoàn thành được số thu như ước tính. Nhưng nếu không đạt mức thu như dự kiến và không có những giải pháp hữu hiệu khác thì sẽ không bảo đảm được các yêu cầu chi để hoàn thành các nhiệm vụ đề ra, hơn nữa sẽ còn để lại những hậu quả bất lợi cho năm 1995.
3. Về chi: dự kiến thực hiện đến cuối năm 44.830 tỷ đồng, bằng 96,4% dự toán Quốc hội đã thông qua và tăng 14,7% so với năm 1993. Sở dĩ có tình hình này chủ yếu do nguồn thu không đủ bảo đảm yêu cầu chi và thực tế có nhiều khoản chi phát sinh phải chuyển sang năm sau mới thanh toán được, nhất là khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản.
Tuy vậy, nếu nhìn lại tình hình thực hiện những tháng đầu năm thì tình hình thu như trên chủ yếu mới bảo đảm được các yêu cầu chi thường xuyên tối thiểu cần thiết và các khoản chi nhất thiết không trì hoãn được như trả nợ đến hạn trong và ngoài nước; còn nhiều khoản chi khác thì đạt rất thấp so với dự toán đầu năm. Đặc biệt, các khoản chi về đầu tư phát triển theo số ước 9 tháng cũng mới đạt 52,6%, trong đó chi về đầu tư xây dựng cơ bản chỉ đạt 51,3% … Điều rất đáng quan tâm là chi cho Chương trình 327, chi sắp xếp lao động và giải quyết việc làm, các chương trình xã hội khác trong thực tế cũng đạt mức rất thấp; mặt khác về cơ chế quản lý đối với các chương trình này cũng cần được nghiên cứu, chấn chỉnh lại, tập trung đầu mối quản lý để tránh cho được các tệ tham ô, lãng phí và kém hiệu quả.
4. Về thiếu hụt ngân sách: dự kiến cả năm 2.000 tỷ đồng, thấp xa so với số dự toán đầu năm (7.850 tỷ đồng).
Ủy ban chúng tôi thấy rằng, số thiếu hụt ngân sách năm 1994 giảm đáng kể so với số Quốc hội cho phép đầu năm. Đây là hiện tượng không bình thường, thực chất là do thiếu nguồn để đáp ứng các nhiệm vụ, ngân sách trong năm luôn luôn căng thẳng, mặc dù thu trong nước có tăng khá, nhưng yêu cầu chi tăng thêm cũng nhiều, kể cả chi hành chính sự nghiệp trong khi thực hiện tiết kiệm kết quả chưa được bao nhiêu, vốn dành cho đầu tư phát triển không được nhiều. Điều đó cũng thể hiện rõ tính thiếu thực tế của dự toán đầu năm, sự yếu kém trong quản lý, điều hành ngân sách. Trong tình hình đó, việc giảm bội chi ngân sách không có ý nghĩa tích cực và chưa phải là lành mạnh. Ủy ban chúng tôi xin lưu ý, đó mới chỉ là số bội chi dự kiến trên những số thu, chi ước tính vẫn còn những yếu tố chưa thật vững chắc, còn tùy thuộc vào kết quả phấn đấu thực hiện từ nay đến cuối năm. Nếu thực hiện không đạt được mức dự kiến thì ắt sẽ để lại hậu quả nặng nề cho năm sau và ảnh hưởng đến việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, nhất là trong lĩnh vực đầu tư phát triển và kiềm chế lạm phát.
II- VỀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1995
Theo báo cáo của Bộ Tài chính tại cuộc họp toàn thể thành viên Ủy ban kinh tế và ngân sách vào trung tuần tháng 9 năm 1994 và báo cáo của Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp cuối tháng 9 năm 1994 về dự toán ngân sách nhà nước năm 1995 với:
- Tổng số thu: 53.550 tỷ đồng, bằng 125% số ước thực hiện năm 1994; trong đó thu từ thuế và phí 51.000 tỷ đồng.
- Tổng số chi: 53.950 tỷ đồng, bằng 120% số ước thực hiện năm 1994 (không kể trả nợ gốc); 61.280 tỷ đồng (kể cả trả nợ gốc).
- Mức thiếu hụt ngân sách nhà nước: 400 tỷ đồng (không kể trả nợ gốc), bằng 0,2% GDP; 7.730 tỷ đồng (kể cả trả nợ gốc), bằng 3,6% GDP.
Sau khi nghiên cứu, xem xét, Ủy ban chúng tôi đã có ý kiến cụ thể về các khoản thu, chi và cân đối ngân sách trong bản trình Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tiếp thu ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Ủy ban chúng tôi, Chính phủ đã rà soát, tính toán lại và trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước năm 1995:
- Tổng số thu: 54.550 tỷ đồng, bằng 127,4% số ước thực hiện năm 1994; trong đó thu từ thuế và phí 52.000 tỷ đồng.
- Tổng số chi (kể cả trả nợ gốc): 62.280 tỷ đồng, bằng 127,4% số ước thực hiện năm 1994.
- Mức thiếu hụt ngân sách nhà nước (kể cả trả nợ gốc): 7.730 tỷ đồng, bằng 3,6% GDP.
Ủy ban chúng tôi xin trình Quốc hội một số ý kiến nổi lên như sau:
1. Ủy ban kinh tế và ngân sách nhất trí những nhận định về thuận lợi, khó khăn và những nhiệm vụ đặt ra cho năm 1995 và cũng tán thành với những quan điểm, nguyên tắc chủ yếu trong bố trí ngân sách nhà nước năm 1995 như báo cáo của Chính phủ.
2. Về việc tính toán cân đối ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách nhà nước năm 1995, chúng tôi xin nêu một số vấn đề cần xem xét:
a) Rút kinh nghiệm về việc lập dự toán ngân sách nhà nước và quá trình điều hành thực hiện ngân sách năm 1994, việc cân đối ngân sách năm 1995 cần rà soát kỹ các nguồn thu, kể cả các khoản tiền vay bù đắp thiếu hụt ngân sách, bảo đảm có cơ sở tương đối chắc chắn để bố trí, phân bổ cho các nhiệm vụ chi phù hợp với thực tế nhằm thực hiện các nhiệm vụ đề ra cho năm 1995, đặc biệt, cần bố trí dành vốn khá hơn cho đầu tư phát triển, tạo điều kiện tăng nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội năm 1995 và các năm tiếp theo.
Ủy ban chúng tôi nhận thấy, trong thực tế nguồn đi vay thường là khả năng, còn trả nợ đến hạn là hiện thực nên việc ghi cụ thể số vay và số trả nợ gốc vào dự toán ngân sách nhà nước để có cơ sở theo dõi liên tục các khoản vay và có biện pháp trả nợ các khoản vay (kể cả vay trong nước và vay ngoài nước) là hợp lý. Ủy ban chúng tôi hoan nghênh sự cố gắng của Chính phủ đã rà soát tính toán lại đưa số thu từ thuế và phí tăng thêm 1.000 tỷ đồng để có nguồn bổ sung vốn đầu tư phát triển.
b) Theo phương án tính toán, Chính phủ dự kiến tổng số thu ngân sách nhà nước năm 1995 là 54.550 tỷ đồng, tăng 27,4% so với ước thực hiện năm 1994, trong đó, thu về thuế và phí 52.000 tỷ đồng, tăng 34,2% và bằng khoảng 24% GDP. Tỷ lệ động viên này nếu so với các nước đang phát triển thì cũng là cao, nhưng nhiều ý kiến cho rằng việc tính toán GDP và các nguồn thu ngân sách gắn với GDP của ta có lẽ chưa được chuẩn xác vì trong thực tế vẫn còn thất thu nhiều, nhất là ở lĩnh vực xuất - nhập khẩu, kinh tế ngoài quốc doanh. Nhiều ý kiến cho là vẫn còn có khả năng tăng thu hơn nếu có các biện pháp chống thất thu triệt để, tận thu các nguồn thu khác như về lệ phí giao thông, về nhà, đất, v.v. nhưng cần có chính sách thu thích hợp và có sự kiểm kê, kiểm soát chặt chẽ để có nguồn bổ sung thêm vốn đầu tư phát triển và đưa thêm vào dự bị phí để chủ động điều hành trong năm.
c) Về chi ngân sách nhà nước năm 1995 theo dự toán bố trí 62.280 tỷ đồng (kể cả trả nợ gốc), tăng 27,4% so với số ước thực hiện năm 1994. Việc bố trí chi trong dự toán ngân sách nhà nước năm 1995 theo hướng tích cực hơn, đã dành được khoảng 30% số thu từ thuế và phí cho đầu tư phát triển và trả nợ (tỷ lệ này năm 1994 khoảng 26%). Theo phương án này, mức thiếu hụt ngân sách 7.730 tỷ đồng, bằng 3,6% GDP nhưng nhiều ý kiến còn băn khoăn là vốn dành cho đầu tư phát triển vẫn còn hạn chế, nhất là vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung còn phải thanh toán khối lượng nợ năm trước. Chi thường xuyên tuy có tăng khoảng 20% so với ước thực hiện năm 1994 nhưng nếu loại trừ các khoản tăng chi do thực hiện các chính sách mới ban hành thì thực chất cũng chỉ tăng được tương ứng với mức trượt giá dự kiến năm 1995 lại còn phải dành vốn tiếp tục khắc phục hậu quả lũ, lụt gây thiệt hại nặng ở một số địa phương. Do vậy, Ủy ban chúng tôi cho rằng, yêu cầu bức thiết đặt ra là cần quán triệt ngay từ đầu năm trong việc phân bổ, sắp xếp bố trí chi tiêu ngân sách phải hết sức tiết kiệm, bảo đảm chặt chẽ, tránh tình trạng dự toán thấp khi thực hiện tùy tiện, tăng lên quá cao, nhất là chi quản lý hành chính, chi xây dựng, mua sắm những thứ đắt tiền, chưa thật cần thiết trong điều kiện ngân sách còn khó khăn.
Mặt khác, trong quá trình điều hành cần tiếp tục tìm nguồn tăng thu, kể cả nguồn thu trong nước và vay ODA nước ngoài để có vốn bổ sung cho những khoản bố trí còn eo hẹp như vốn đầu tư xây dựng cơ bản, chi cho sửa chữa đường sá, chi cho công tác khuyến nông gắn với chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp, chi cho giáo dục, giải quyết việc làm, phủ xanh đồi núi trọc, chi cho miền núi, cho vùng bị lũ lụt gây thiệt hại nặng, chi bảo quản vũ khí, khí tài và trang thiết bị cần thiết cho quốc phòng - an ninh. Tuy vậy, việc vay phải tính đến hiệu quả, bảo đảm khả năng trả nợ và chỉ trong phạm vi mức thiếu hụt ngân sách được Quốc hội cho phép. Theo chúng tôi, tỷ lệ này trong tình hình hiện nay không được vượt quá 5% GDP.
3. Ủy ban chúng tôi tán thành những biện pháp để thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 1995 trong báo cáo của Chính phủ và xin nhấn mạnh thêm một số điểm:
a) Tập trung khai thác tốt các nguồn thu. Trên cơ sở khuyến khích mạnh mẽ sản xuất - kinh doanh phát triển, thực hiện thu đúng, thu đủ theo pháp luật Nhà nước; đồng thời phải quản lý chặt chẽ nguồn thu, mọi khoản thu đều phải qua ngân sách nhà nước. Số thu tăng thêm được trong năm chủ yếu đưa vào quỹ dự trữ tài chính, có thể dành một phần bổ sung tăng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Cần khẩn trương nghiên cứu để sớm ban hành các văn bản dưới luật để triển khai thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, công nghệ bằng cách để lại toàn bộ vốn khấu hao cơ bản và cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn, vay vốn bằng các hình thức thích hợp để phát triển sản xuất, tạo nguồn thu tăng thêm cho ngân sách nhà nước; đồng thời, cũng cần có chính sách, cơ chế tạo nguồn cho doanh nghiệp trả nợ khi đến hạn.
b) Đề nghị Chính phủ sớm bổ sung các cơ chế và có biện pháp hữu hiệu trong việc quản lý chi tiêu ngân sách nhà nước, bảo đảm chi có hiệu quả, tiết kiệm, hạn chế đến mức tối đa tệ tùy tiện lãng phí và tham ô. Thực hiện chế độ kiểm toán nhà nước đối với các khoản chi từ ngân sách nhà nước.
Ủy ban chúng tôi cũng đề nghị việc bố trí kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản từ vốn ngân sách nhà nước nhất thiết phải bảo đảm tính hiện thực, tính khả thi, tính hiệu quả gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Cần hết sức hạn chế việc thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản của các công trình sang năm sau. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ đấu thầu trong xây dựng cơ bản, quản lý theo dự án, chú trọng chất lượng công trình.
Đối với các chương trình mục tiêu quốc gia, đang có quá nhiều chương trình mà việc quản lý thiếu chặt chẽ, qua nhiều đầu mối, gây thất thoát và kém hiệu quả; đề nghị Chính phủ chỉ đạo rà soát lại toàn bộ các chương trình mục tiêu để đầu tư tập trung, bảo đảm có hiệu quả. Nhiều việc có tính thường xuyên (như chống xuống cấp…) thì không nên để thành chương trình mục tiêu quốc gia. Đồng thời, phải xác định thật rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý và cơ chế kiểm tra để bảo đảm hiệu quả thật sự của vốn đầu tư. Năm 1995, phải khắc phục cho được tình trạng không rõ ràng, thiếu trách nhiệm, gây lãng phí và tệ cửa quyền, tham nhũng trong việc phân bổ, cấp vốn và sử dụng vốn.
Tiếp tục quán triệt chủ trương tiết kiệm chi tiêu trong ngân sách nhà nước và cả trong các lĩnh vực xây dựng, sản xuất và tiêu dùng.
c) Đề nghị Chính phủ tính toán phân bổ ngân sách cho các Bộ, ngành và địa phương trong phạm vi dự toán ngân sách nhà nước đã được Quốc hội thông qua; chính sách tài chính và cơ chế phân cấp quản lý ngân sách phải nhất quán, ổn định ngay từ đầu năm; xác định rõ nhiệm vụ thu, chi ngân sách của Trung ương, ngành và địa phương, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương, các ngành nhằm tạo nguồn thu và tăng thu, tiết kiệm chi.
d) Cần khẩn trương nghiên cứu để có được chính sách tài chính quốc gia phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội nước ta hiện nay. Tăng cường hơn nữa trách nhiệm kiểm tra giám sát của các cơ quan Tài chính các cấp, từng bước thực hiện kiểm soát trước khi cấp phát.
Hoàn thiện Dự án Luật ngân sách nhà nước để trình Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý trong việc lập, phân bổ và điều hành ngân sách nhà nước, thiết lập cho được kỷ cương pháp luật trong lĩnh vực này.
4. Cuối cùng, do chậm xác định chính thức số thu và số chi đối với từng Bộ, từng địa phương nên trong báo cáo Chính phủ chưa phân bổ ngân sách cụ thể đến từng Bộ, ngành Trung ương và từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mà mới dự kiến các nguồn thu và số chi cho từng lĩnh vực. Trong tình hình khó khăn đó, Ủy ban chúng tôi đề nghị Quốc hội sau khi phê chuẩn tổng dự toán ngân sách nhà nước năm 1995, giao trách nhiệm cho Chính phủ phân bổ cụ thể ngân sách cho các Bộ, các tỉnh, thành phố có sự tham gia của Ủy ban chúng tôi và ủy quyền cho Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Trên đây là một số ý kiến chính của Ủy ban kinh tế và ngân sách về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1994 và phương hướng, nhiệm vụ năm 1995; về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 1994 và dự toán ngân sách nhà nước năm 1995, trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội