BÁO CÁO THẨM TRA CỦA ỦY BAN PHÁP LUẬT CỦA QUỐC HỘI
VỀ BÁO CÁO CỦA CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH TÒA ÁN, BÁO CÁO CỦA VIỆN TRƯỞNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO VỀ TÌNH HÌNH CHẤP HÀNH
PHÁP LUẬT VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH KIỂM SÁT NĂM 1994, BÁO CÁO
CỦA CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC THỰC HIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ CÁC
TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG VỀ MẶT TỔ CHỨC VÀ CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN
(Do ông Nguyễn Văn Yểu, Phó Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội
đọc tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá IX, ngày 22-10-1994)
Kính thưa Đoàn Chủ tịch,
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Ủy ban pháp luật của Quốc hội được giao nhiệm vụ thẩm tra báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về hoạt động của ngành Tòa án, báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tình hình chấp hành pháp luật và hoạt động của ngành Kiểm sát năm 1994, báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện công tác quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và công tác thi hành án trình Quốc hội tại kỳ họp lần này.
Để có thêm những thông tin cần thiết cho việc thẩm tra, Ủy ban Pháp luật đã phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp tiến hành tìm hiểu tình hình thực tế ở một số địa phương như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Bắc, Sông Bé về hoạt động xét xử, kiểm sát, việc thực hiện công tác quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về tổ chức và công tác thi hành án.
Trong các ngày 17 và 18 tháng 10 năm 1994, Ủy ban pháp luật đã họp để thẩm tra các báo cáo nói trên. Tham dự phiên họp có đồng chí Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Văn Tửu và đại diện các cơ quan: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ. Sau khi nghe đại diện các cơ quan trình bày báo cáo, ý kiến phát biểu của các cơ quan tham dự, các thành viên của Ủy ban pháp luật đã thảo luận và nêu nhiều ý kiến đối với các báo cáo.
Thay mặt Ủy ban pháp luật, chúng tôi xin báo cáo Quốc hội một số ý kiến của Ủy ban như sau:
Ủy ban pháp luật nhận thấy, mặc dù thời gian chuẩn bị phục vụ kỳ họp lần này là rất khẩn trương, nhưng các cơ quan đã có nhiều cố gắng trong việc chuẩn bị các báo cáo trình Quốc hội và về cơ bản các báo cáo đã phản ánh khá đầy đủ các mặt hoạt động theo chức năng của ngành mình, về tình hình chấp hành pháp luật cũng như tình hình vi phạm pháp luật và diễn biến tội phạm, nhất là các tội phạm về tham nhũng, buôn lậu. Đồng thời, các báo cáo cũng đã nêu ra được một số nguyên nhân cơ bản cũng như những điều kiện phát sinh vi phạm pháp luật và tội phạm trong thời gian qua.
Qua các báo cáo và trên thực tế cho thấy, mặc dù trong điều kiện còn có nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động và về đội ngũ cán bộ nhưng các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có nhiều cố gắng trong công tác phòng, chống, phát hiện và xử lý nghiêm minh đối với những hành vi vi phạm luật và tội phạm, đã bám sát vào nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 đã đề ra là giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, kiên quyết đấu tranh chống tệ tham nhũng, buôn lậu và làm trong sạch đội ngũ cán bộ trong các cơ quan nhà nước. Chính vì vậy, công tác của các cơ quan này trong năm qua đã có những chuyển biến tích cực, tiến bộ đáng kể.
Về cơ bản, Ủy ban pháp luật nhất trí với nội dung được đề cập trong các báo cáo. Tuy nhiên, qua đợt đi kiểm tra thực tế ở một số địa phương cũng như qua ý kiến của các thành viên Ủy ban tại cuộc họp thẩm tra, chúng tôi thấy rằng các báo cáo tập trung nhiều vào việc nêu tình hình, số liệu về các công việc đã làm mà chưa đi sâu đúng mức vào việc đánh giá tình hình và phân tích nguyên nhân của những mặt làm được và chưa làm được để trên cơ sở đó đề ra những biện pháp hữu hiệu thiết thực nhằm nâng cao chất lượng hoạt động theo chức năng của mình.
I- VỀ BÁO CÁO CỦA CHÁNH ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Trong 9 tháng đầu năm 1994, các Tòa án đã tích cực triển khai các hoạt động xét xử về hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình và thi hành án phạt tù, đồng thời, tập trung triển khai việc thi hành Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, tổ chức thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân mà nội dung chủ yếu là tổ chức thành lập các Tòa kinh tế.
Tòa án nhân dân tối cao đã hướng nhiệm vụ của toàn ngành vào việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về củng cố an ninh quốc phòng, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, nhất là đối với cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác.
Công tác xét xử các vụ án hình sự đã có những chuyển biến tích cực, trong đó các vụ án tham nhũng, buôn lậu được xét xử kịp thời và nghiêm minh hơn, đã xét xử đạt tỷ lệ 73% về số vụ và 70% về số bị cáo. Điều quan trọng ở đây là trong số các bị cáo đã bị xét xử về tội tham nhũng và buôn lậu thì số bị kết án phạt tù giam chiếm 86%, đây là tỷ lệ án phạt tù giam cao so với các tội phạm khác. Thông qua việc xét xử các vụ án nêu trên đã có tác dụng nhất định trong việc phòng ngừa tội phạm, được quần chúng nhân dân đồng tình.
Để góp phần vào cuộc vận động phòng, chống các tệ nạn xã hội đang được triển khai trên cả nước, việc xét xử các tội về ma túy, mại dâm cũng được thực hiện kịp thời và nghiêm khắc.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và Chỉ thị 135 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nay là Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới, Tòa án các cấp đã xét xử nghiêm khắc bọn lưu manh, côn đồ, tội phạm nguy hiểm gây tội ác với nhân dân, xâm phạm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tính mạng và tài sản của nhân dân.
Đối với việc giải quyết các vụ án về dân sự, trong điều kiện có nhiều khó khăn do các quy định của pháp luật còn thiếu nhiều, nhưng Tòa án nhân dân tối cao đã quan tâm tổng kết thực tiễn xét xử, để tự mình hoặc cùng với các ngành hữu quan hướng dẫn các Tòa án trong việc áp dụng pháp luật, nhằm từng bước khắc phục dần tình trạng tồn đọng án.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, chúng tôi thấy còn một số vấn đề cần đi sâu phân tích và làm rõ như sau:
Trong báo cáo của đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tối cao mới nêu tình hình, số lượng vụ việc xét xử mà chưa đi sâu phân tích đánh giá về chất lượng xét xử các vụ án hình sự, dân sự của Tòa án các cấp (Tòa án cấp huyện, cấp tỉnh và Tòa án tối cao). Đối với Tòa án nhân dân tối cao, với tư cách là cơ quan xét xử cao nhất, thông qua việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật cho các Tòa án, cần có sự phân tích đánh giá về chất lượng xét xử, nguyên nhân chủ quan và khách quan của những tồn tại trong hoạt động xét xử hiện nay của các Tòa án. Như vậy mới có căn cứ để đánh giá chất lượng hoạt động của ngành Tòa án nói chung và năng lực, phẩm chất của đội ngũ Thẩm phán nói riêng, đồng thời mới đề ra những biện pháp hữu hiệu để khắc phục.
Báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao chưa nêu được số lượng các bản án của Tòa án cấp dưới bị Tòa án cấp trên kháng nghị và chất lượng của việc xét xử các án hình sự, dân sự theo trình tự giám đốc thẩm và tái thẩm của Tòa án cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao, chưa nêu rõ việc thực hiện chức năng giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đối với Tòa án các cấp. Một vấn đề đáng quan tâm là qua báo cáo, cũng như qua việc kiểm tra, giám sát tại một số địa phương, chúng tôi thấy, tình trạng án tồn đọng và thời hạn giải quyết kéo dài (nhất là án dân sự) còn khá nhiều, do đó, có không ít bị cáo bị tạm giam quá thời hạn luật định; đối với các vụ án dân sự, trong đó có nhiều vụ án về tranh chấp nhà, đất do nhiều nguyên nhân khác nhau đã xét xử chậm, kéo dài, có vụ xét xử nhiều lần, nhiều cấp không được giải quyết dứt điểm, dẫn đến tình trạng đương sự khiếu nại đến nhiều cơ quan nhà nước, gây phiền hà, tốn kém cho các đương sự và làm cho nhân dân phàn nàn.
Một vấn đề khác cần làm rõ để có biện pháp khắc phục là qua thực tế kiểm tra ở một số địa phương và trong báo cáo của Chính phủ về công tác thi hành án phạt tù thì tình trạng Tòa án chuyển án văn và quyết định đưa bản án ra thi hành án đối với các bản án phạt tù đã có hiệu lực pháp luật còn chậm, chưa kịp thời gửi cho cơ quan Công an để thi hành, làm cho việc thi hành án bị chậm trễ hoặc người bị kết án bỏ trốn không chấp hành hình phạt.
Về tình hình áp dụng án treo, qua công luận và qua trực tiếp kiểm tra ở một số địa phương cho thấy, tuy Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn, uốn nắn về việc này nhưng trên thực tế, việc áp dụng án treo ở một số địa phương cũng còn những biểu hiện sai lệch, tùy tiện, có trường hợp án treo được áp dụng ngay đối với cả bị cáo phạm tội nghiêm trọng. Đây cũng là vấn đề cần được Tòa án nhân dân tối cao tổng kết, rút kinh nghiệm để có sự uốn nắn kịp thời.
Báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao chưa đề cập và đánh giá đối với đội ngũ Hội thẩm, Luật sư tham gia tố tụng. Đây là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức, bởi vì: theo quy định của pháp luật khi xét xử thì Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán; đối với phiên tòa xét xử sơ thẩm thì trong hầu hết các trường hợp Hội thẩm chiếm đa số trong thành viên Hội đồng xét xử. Vì vậy, đi đôi với việc tăng cường số lượng Hội thẩm cần chú trọng đến chất lượng đội ngũ Hội thẩm (về trình độ chuyên môn và tư cách đạo đức), quan tâm tạo điều kiện và có chính sách, chế độ thích hợp đối với đội ngũ Hội thẩm, bảo đảm cho Hội thẩm tham gia một cách thiết thực và có hiệu quả vào hoạt động xét xử.
Về công tác xây dựng ngành trong sạch, vững mạnh, chúng tôi cho rằng đây là một vấn đề cần đặc biệt quan tâm. Chúng tôi đề nghị Tòa án nhân dân tối cao theo chức năng cần tự mình triển khai, đồng thời phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Tòa án và tăng cường công tác kiểm tra, xử lý kịp thời, đúng mức các cán bộ vi phạm để xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án trong sạch, vững mạnh.
II- VỀ BÁO CÁO CỦA VIỆN TRƯỞNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Trong năm qua, ngành Kiểm sát đã có sự phối hợp với các cơ quan Công an, Tòa án trong việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 15 của Bộ Chính trị, và Nghị quyết kỳ họp thứ 4 của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu.
Một trong những chức năng quan trọng của ngành Kiểm sát là kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các văn bản của các cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương. Phát huy kết quả đã đạt được ở những năm trước, năm nay, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã tập trung tiến hành kiểm sát văn bản. Qua công tác này, Viện kiểm sát các cấp đã phát hiện được nhiều văn bản vi phạm pháp luật và đã có nhiều văn bản kháng nghị yêu cầu sửa chữa hoặc hủy bỏ những văn bản có vi phạm pháp luật, nhiều kháng nghị của Viện kiểm sát đã được các cơ quan hữu quan tiếp thụ, sửa chữa.
Trong công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã tiến hành kiểm sát ở các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý sử dụng đất đai, quản lý thị trường, thu thuế xuất - nhập khẩu, v.v.. Ở từng lĩnh vực, Viện kiểm sát đã phát hiện được nhiều vi phạm trong việc quản lý kinh tế, quản lý đất đai, sử dụng vốn ngân sách và vi phạm về quản lý hành chính nhà nước. Thông qua việc phát hiện các vi phạm trên, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã kháng nghị thu hồi nhiều tài sản của Nhà nước, của tập thể, đề nghị khởi tố hình sự 215 người, khởi tố dân sự 28 trường hợp.
Trong việc thực hiện quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã trực tiếp khởi tố hoặc đề nghị khởi tố, quyết định truy tố để xét xử trước Tòa án một số lượng khá lớn các vụ án về kinh tế, xâm phạm an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Riêng về án tham nhũng, buôn lậu, Viện kiểm sát nhân dân các cấp phối hợp với các cơ quan Công an, Tòa án giải quyết được 742 vụ án trong đó có 172 vụ án trọng điểm.
Thông qua các hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát giam giữ cải tạo, kiểm sát xét xử, các Viện kiểm sát đã phối hợp với cơ quan điều tra thuộc Bộ Nội vụ trả tự do cho một số người bị tạm giam vì được đình chỉ điều tra 791 người; kháng nghị nhiều vụ án theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm; kháng nghị, kiến nghị yêu cầu các ngành hữu quan khắc phục những trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam quá hạn luật định.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên chúng tôi thấy cần đi sâu phân tích để làm rõ thêm một số vấn đề sau đây:
Đối với công tác kiểm sát văn bản không nên chỉ dừng lại ở việc phát hiện bao nhiêu văn bản có vi phạm pháp luật, mà cần phải đi sâu phân tích, làm rõ mức độ sai phạm của các văn bản (sai về nội dung, sai về hình thức) và tác hại do văn bản có vi phạm pháp luật đã gây ra, để từ đó kiến nghị việc sửa đổi, bãi bỏ văn bản sai trái và có biện pháp khắc phục hậu quả.
Pháp luật đã giao cho ngành Kiểm sát thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và công dân ở phạm vi rất rộng và thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau (hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội …), trong khi đó, lực lượng cán bộ của ngành Kiểm sát làm công tác này còn hạn chế. Do đó, để thực hiện tốt chức năng này, theo Ủy ban pháp luật chúng tôi thì Viện kiểm sát cần xác định các trọng điểm một cách hợp lý để có sự tập trung lực lượng cần thiết tiến hành có hiệu quả thiết thực; đồng thời Viện kiểm sát tối cao cần có sự chỉ đạo sát sao các Viện kiểm sát địa phương, có sự phối hợp với Cơ quan thanh tra để tránh sự chồng chéo trên thực tế giữa Cơ quan thanh tra và Viện kiểm sát.
Trong báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nêu: các Viện kiểm sát đã phối hợp với Cơ quan điều tra Bộ Nội vụ trả tự do cho 791 người bị tạm giam vì đã đình chỉ điều tra vụ án, 691 người bị tạm giữ, 5.912 người bị tạm giam quá hạn luật định, nhưng chưa phân tích, làm rõ nguyên nhân cũng như trách nhiệm của các cơ quan tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong việc để xảy ra tình hình nêu trên.
Cũng theo báo cáo của đồng chí Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cho tới nay còn hơn 4.000 người bị kết án phạt tù nhưng vẫn còn tại ngoại chưa đi chấp hành hình phạt. Tình hình trên thực chất đã hạn chế hiệu quả của hoạt động điều tra, công tố, xét xử, làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Viện kiểm sát là cơ quan có nhiệm vụ kiểm sát thi hành án, nhưng báo cáo cũng chưa xác định được trách nhiệm của các cơ quan hữu quan và cũng chưa nêu ra được các biện pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng đó.
Đối với công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự trong báo cáo Viện kiểm sát cũng mới dừng lại ở việc nêu ra số vụ việc mà Viện kiểm sát các cấp đã tiến hành mà chưa có sự đánh giá thực trạng chất lượng kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự thế nào? Việc Viện kiểm sát trực tiếp ra quyết định khởi tố vụ án dân sự để bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa trong thực tế tiến hành ra sao? Những vấn đề này, theo chúng tôi cũng cần phải được làm rõ.
Từ những đánh giá trên đây, Ủy ban pháp luật cho rằng, với chức năng và nhiệm vụ mà pháp luật đã giao cho ngành Kiểm sát nhân dân thì một số kiến nghị nêu trong báo cáo của đồng chí Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Quốc hội là chưa đầy đủ.
III- VỀ CÁC BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ
VỀ THỰC HIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ CÁC TÒA ÁN
NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG VỀ MẶT TỔ CHỨC
VÀ CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN
a) Về thực hiện công tác quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức:
Sau khi Quốc hội khóa IX thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Nghị quyết quy định một số điểm về việc thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân, tại kỳ họp thứ nhất, ngày 06-10-1992, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua nhiều pháp lệnh, nghị quyết, quy chế có liên quan đến công tác quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức như Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự quân khu và khu vực về mặt tổ chức, v.v.. Chính phủ đã khẩn trương ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết để triển khai thực hiện công tác quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức một cách khá toàn diện.
Qua hai năm thực hiện công tác quản lý các Tòa án địa phương về tổ chức, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng và các cơ quan nhà nước có liên quan khác để từng bước đưa công tác này vào ổn định, đã đạt được một số kết quả bước đầu trong việc kiện toàn tổ chức bộ máy, quản lý và thực hiện biên chế, tuyển chọn và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, quản lý và phân bổ ngân sách cho các Tòa án nhân dân địa phương như đã nêu trong báo cáo của Chính phủ so với những năm trước đây thì việc quản lý đã được chú trọng nhiều hơn và toàn diện hơn.
Tuy nhiên, Ủy ban pháp luật nhận thấy có một số vấn đề mà trong báo cáo cần phải phân tích thêm như sau:
Cần đánh giá toàn diện hơn về thực trạng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ khác của Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án quân sự quân khu, khu vực; cơ chế quản lý ra sao? Thực trạng của việc Bộ Tư pháp quản lý về mặt tổ chức đối với các Tòa án quân sự quân khu và khu vực như thế nào ?
Chúng tôi cho rằng cần đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các Tòa án nhân dân địa phương, nhằm chủ động tạo nguồn cho đội ngũ Thẩm phán và cán bộ Tòa án nói chung, khắc phục dần tình trạng thiếu cán bộ như hiện nay. Việc thiếu Thẩm phán và cán bộ chuyên môn cũng là một trong những nguyên nhân làm cho án bị tồn đọng nhiều và kéo dài. Mặt khác, cần chú trọng hơn nữa đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhằm bảo đảm trên thực tế về trình độ năng lực và phẩm chất của đội ngũ Thẩm phán và cán bộ cho các Tòa án, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Chúng tôi đề nghị Quốc hội lưu ý Bộ Tư pháp cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Quốc phòng trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, cũng như trong việc tuyển chọn và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án địa phương, chuẩn bị nguồn Thẩm phán cho các Tòa án chuyên trách khác dự kiến sẽ được thành lập trong thời gian tới.
Theo báo cáo của Chính phủ thì công tác quản lý, bồi dưỡng đội ngũ Hội thẩm còn nhiều tồn tại. Chúng tôi thấy rằng, đây là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức hơn và cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao.
Theo quy định của pháp luật thì việc quản lý các Tòa án quân sự quân khu và tương đương, các Tòa án quân sự khu vực về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Nhưng theo báo cáo của Chính phủ thì việc quản lý hiện nay còn nhiều hạn chế. Vì vậy, chúng tôi đề nghị Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Quốc phòng cần có cơ chế có hiệu quả hơn trong việc quản lý về tổ chức các Tòa án quân sự quân khu và khu vực.
Về quản lý ngân sách các Tòa án nhân dân địa phương, Ủy ban pháp luật cho rằng, Bộ Tư pháp cần nghiên cứu cơ chế quản lý phù hợp để bảo đảm việc quản lý, sử dụng kinh phí có hiệu quả, đúng mục đích, đúng pháp luật, nhất là vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho Tòa án địa phương.
b) Về công tác thi hành án dân sự:
Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì công tác thi hành án được bàn giao từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ. Trong điều kiện có khó khăn về nhiều mặt: số lượng vụ việc tồn đọng còn nhiều, đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự còn thiếu và yếu so với tiêu chuẩn chức danh theo quy định của pháp luật, trong khi nguồn bổ sung cán bộ có chất lượng còn rất hạn chế, cơ sở vật chất của cơ quan thi hành án dân sự còn nhiều thiếu thốn, kinh phí hạn hẹp, v.v.. Song, sau hơn một năm nhận bàn giao và thực hiện công tác thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp đã cố gắng phối hợp với Bộ Quốc phòng và các cơ quan hữu quan trong việc kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý và Cơ quan thi hành án dân sự trong toàn quốc, đã kế thừa đội ngũ cán bộ thi hành án từ Tòa án chuyển sang và có sự tăng cường bổ sung thêm; bước đầu có sự phối hợp tốt với chính quyền địa phương trong công tác thi hành án dân sự và đã thi hành được số lượng án nhiều hơn so với các năm trước đây.
Tuy nhiên, Ủy ban chúng tôi nhận thấy, vì số lượng án dân sự phải thi hành còn tồn đọng quá nhiều, trong đó có nhiều trường hợp rất khó thi hành hoặc không thi hành được, nhất là đối với các phần án dân sự trong vụ án hình sự, do đó cần tiến hành phân loại cụ thể, để trên cơ sở đó có phương hướng biện pháp xử lý thích hợp đối với từng loại việc.
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Cơ quan thi hành án với các cơ quan Kiểm sát, Tòa án và các cơ quan nhà nước khác, đồng thời, chú ý phối hợp với Ủy ban nhân dân địa phương (đặc biệt là cấp huyện và cơ sở) để tạo điều kiện thuận lợi đưa công tác thi hành án dân sự đi dần vào nền nếp, có hiệu quả.
Cần khẩn trương xây dựng quy chế về mối quan hệ giữa cơ quan tư pháp và cơ quan thi hành án ở địa phương (cấp tỉnh và cấp huyện), trong việc quản lý, chỉ đạo và thực hiện công tác thi hành án dân sự.
c) Về báo cáo công tác thi hành án phạt tù:
Theo Pháp lệnh thi hành án phạt tù thì công tác thi hành án phạt tù được giao cho Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng thực hiện việc quản lý nhà nước và tổ chức việc thi hành.
Để thực hiện Pháp lệnh, Chính phủ đã có Nghị định ban hành Quy chế trại giam quy định về hệ thống tổ chức trại giam, chế độ quản lý, giam giữ người bị kết án tù và các chế độ sinh hoạt, chữa bệnh, học tập, dạy nghề, v.v. đối với người bị kết án tù trong thời gian chấp hành án ở trại giam. Các Bộ, ngành hữu quan đã kịp thời ra các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh và Quy chế trại giam.
Theo các báo cáo của Chính phủ trong 9 tháng đầu năm 1994, trong điều kiện có nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, kinh phí, số lượng người bị kết án tù vào trại thi hành án tăng về số lượng so với năm 1993 nhưng Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng và các cơ quan hữu quan đã quan tâm chỉ đạo công tác thi hành án phạt tù. Do vậy công tác này đã có những tiến bộ bước đầu, điều kiện giam giữ, giáo dục, cải tạo người bị kết án tù được củng cố và tăng cường hơn, thể hiện rõ chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, theo chúng tôi công tác thi hành án phạt tù vẫn còn nhiều tồn tại, khó khăn, phức tạp cần khắc phục.
Số người bị kết án tù mà bản án đã có hiệu lực pháp luật còn ở ngoài xã hội chưa bị bắt chấp hành hình phạt tại các trại giam còn nhiều. Theo báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao thì cho đến nay vẫn còn 4.266 bị cáo bị kết án phạt tù chưa đi chấp hành hình phạt; theo báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì hiện có 605 người bị kết án nhưng Tòa án chưa ra lệnh bắt, 3.468 người bị kết án tù, Công an chưa bắt và theo báo cáo của Chính phủ thì số người được tại ngoại, hoãn, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù đã hết hạn nhưng chưa bị bắt vào trại giam để tiếp tục thi hành án đến nay còn 1.168 trường hợp; việc chuyển án văn, quyết định thi hành bản án của Tòa án cho cơ quan Công an còn chậm, nên cho đến nay vẫn còn 2.775 trường hợp người bị kết án phải để lại trại tạm giam để chờ thủ tục đưa đến trại giam. Đây là vấn đề mà các ngành hữu quan cần phải có sự phối hợp thật chặt chẽ, cụ thể, tìm ra nguyên nhân và đưa ra những biện pháp hữu hiệu để khắc phục, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan trước tình hình nêu trên.
Công tác thi hành án hiện nay được giao cho nhiều cơ quan phụ trách; công tác thi hành án phạt tù do Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng đảm nhiệm, Tòa án nhân dân tối cao theo chức năng luật định cũng có trách nhiệm đối với công tác này; công tác thi hành án dân sự lại được giao cho Bộ Tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành cả án hình sự và dân sự.
Việc giao cho nhiều cơ quan vừa thực hiện quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án vừa tổ chức việc thực hiện thi hành án đã tạo nên không ít những khó khăn cho việc theo dõi, quản lý thống nhất đối với công tác thi hành án.
Cơ sở vật chất của các trại giam hiện nay còn rất nghèo nàn, kinh phí còn hạn hẹp, do vậy, đã có nhiều khó khăn trong việc tổ chức thi hành án theo đúng các quy định của pháp luật.
IV- MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Ủy ban pháp luật nhận thấy tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm vẫn diễn ra nghiêm trọng, phức tạp và có chiều hướng gia tăng, nhất là các tội phạm về tham nhũng, buôn lậu, đòi hỏi các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng phải coi cuộc đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác của mình.
Về cơ bản, Ủy ban chúng tôi nhất trí với những biện pháp mà các ngành đã đề ra, đồng thời Ủy ban chúng tôi xin kiến nghị với Quốc hội về một số vấn đề sau đây:
- Đề nghị Quốc hội lưu ý Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo sát sao các cơ quan thuộc quyền quản lý của mình, tổ chức thực hiện cho được những chủ trương biện pháp đã đề ra; tiếp tục thực hiện tốt việc rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật nhằm khắc phục những sơ hở, thiếu sót làm phát sinh vi phạm pháp luật và tội phạm trong công tác quản lý nhà nước và hoạt động của các ngành, các cơ quan. Cần khẩn trương triển khai thực hiện chương trình xây dựng pháp luật, trong đó chú ý đến việc chuẩn bị các dự án Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật hình sự (sửa đổi) Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), và các văn bản về lĩnh vực kinh tế - xã hội, kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đã được Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua.
- Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, ba ngành Công an, Kiểm sát và Tòa án cần đề ra những biện pháp hữu hiệu để sớm khắc phục tình trạng tồn đọng án hiện nay. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ để bảo đảm việc thi hành án hình sự có hiệu quả, khắc phục tình trạng nhiều bị cáo bị kết án phạt tù và bản án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng vẫn không bị bắt đi chấp hành án tại trại giam.
- Tăng cường công tác quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ để đáp ứng yêu cầu cấp bách mà thực tiễn đặt ra, đồng thời cũng phải có kế hoạch đào tạo dài hạn để tạo nguồn bổ sung thường xuyên cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, tránh tình trạng thiếu hụt trong công tác cán bộ.
- Đề nghị Quốc hội lưu ý Chính phủ ưu tiên tăng cường cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động cho các Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan này hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trên đây là ý kiến của Ủy ban pháp luật về báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Chính phủ, chúng tôi xin trình Quốc hội xem xét và quyết định.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội