VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 2 1994-1995


BÁO CÁO CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
VỀ HOẠT ĐỘNG NĂM 1994 VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG HOẠT ĐỘNG NĂM 1995

(Do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh trình bày tại
kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá IX, ngày 22-10-1994)

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

 Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có việc đổi mới hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, gần 10 tháng qua, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã triển khai các mặt hoạt động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội, tôi xin báo cáo với Quốc hội về hoạt động năm 1994 và phương hướng hoạt động năm 1995 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

PHẦN THỨ NHẤT

HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
10 THÁNG ĐẦU NĂM 1994

I- VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT

Để góp phần đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, nhất quán, thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, trong gần 10 tháng qua, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cùng với Chính phủ, các cơ quan hữu quan dành nhiều thời gian và có các biện pháp đồng bộ để xây dựng các dự án pháp luật trong chương trình xây dựng pháp luật năm 1994. Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội đã xem xét, thông qua Bộ luật lao động, 7 luật, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua được 10 pháp lệnh, 5 nghị quyết, cho ý kiến về 10 dự án bộ luật, luật và 5 dự án pháp lệnh khác. Nhiều văn bản pháp luật đã đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân và được dư luận rộng rãi hoan nghênh như Bộ luật lao động, Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng; Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”, v.v..

Có được kết quả nói trên phải kể đến trách nhiệm của Chính phủ, nhiều ngành, nhiều cấp, các đoàn thể, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và nhiều cán bộ, công dân quan tâm đến công tác xây dựng pháp luật. Về phần mình, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã giám sát chặt chẽ việc thực hiện chương trình theo tiến độ đề ra; dành phần lớn thời gian các phiên họp để xem xét, cho ý kiến, cả về nội dung và kỹ thuật văn bản, tập trung vào những vấn đề thuộc về quan điểm cơ bản, những nội dung còn nhiều ý kiến khác nhau, bảo đảm thể chế hóa những quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước.

Do xem xét kỹ lưỡng, trong đó có dự án với nội dung phức tạp đã được cho ý kiến đến 6 lần trước khi chính thức thông qua và chỉ đạo sát sao các cơ quan có trách nhiệm trong việc xây dựng và thẩm tra các dự án; quan tâm đến việc lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân, nên chất lượng của các văn bản đã được nâng lên một bước.

Tuy nhiên, cũng còn những vấn đề cần rút kinh nghiệm như: quy trình xây dựng các dự án chưa được coi trọng đầy đủ nên một số cơ quan soạn thảo phải làm đi làm lại nhiều lần, tốn nhiều công sức. Việc xây dựng đồng bộ các văn bản dưới luật và pháp lệnh còn chưa kịp thời nên pháp luật chậm đi vào cuộc sống.

Thực tiễn công tác xây dựng pháp luật đòi hỏi chúng ta phải đề ra được chương trình phù hợp, vừa đáp ứng yêu cầu cấp bách của cuộc sống, vừa bảo đảm tính khả thi. Kinh nghiệm cho thấy, khi chương trình xây dựng pháp luật đã được thông qua, cần tập trung chỉ đạo việc triển khai xây dựng kịp thời, đồng bộ các dự án và các văn bản hướng dẫn thi hành; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan; tuân thủ quy trình xây dựng pháp luật, tiến độ xây dựng các dự án; chú trọng đúng mức đến việc lấy ý kiến rộng rãi của các ngành, các cấp và của nhân dân; có hình thức và thời gian thích hợp để các đại biểu Quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội tham gia đóng góp ý kiến. Để làm tốt các công việc trên, cần sớm hoàn thành tổng kết việc thực hiện Quy chế xây dựng luật, pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước ban hành năm 1988 để sửa đổi, bổ sung những quy định không còn phù hợp với tình hình thực tế. Mặt khác, cần quan tâm xây dựng đội ngũ chuyên gia đủ mạnh và bảo đảm các điều kiện về phương tiện, về kinh phí, v.v. cho công tác xây dựng pháp luật.

II- VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT

Cùng với việc triển khai chương trình xây dựng pháp luật, Ủy ban thường vụ Quốc hội đẩy mạnh công tác giám sát, tập trung chủ yếu vào việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, tình hình thi hành pháp luật, hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, tình hình giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân và tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu. Nhiều vấn đề nóng bỏng, cấp bách, liên quan đến quốc kế dân sinh đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét và kịp thời kiến nghị với Chính phủ, các cơ quan hữu quan, các ngành, các cấp về những biện pháp tháo gỡ khó khăn, khắc phục khuyết nhược điểm trong công tác chỉ đạo, điều hành…, trong đó có vấn đề phân bổ, thu chi ngân sách nhà nước là lĩnh vực mà Ủy ban thường vụ Quốc hội, các ngành, các cấp, các vị đại biểu Quốc hội và các địa phương hết sức quan tâm. Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng đã cử các đoàn đi giám sát tình hình thực hiện Luật đất đai, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu; tình hình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, v.v. ở một số Bộ, ban ngành Trung ương và cơ sở, nhất là ở những vùng cao, vùng sâu, biên giới và hải đảo. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, tình hình bão, lũ lụt xảy ra ở nhiều nơi, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã kịp thời cử đoàn đi kiểm tra, cùng với Chính phủ đôn đốc các ngành có biện pháp giúp nhân dân vùng bão, lũ lụt sớm ổn định đời sống và sản xuất. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong việc giám sát một số lĩnh vực quan trọng, góp phần đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội.

Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chú trọng đến việc giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp và việc hướng dẫn về tổ chức các kỳ họp Hội đồng nhân dân, hoạt động của Thường trực và các ban của Hội đồng nhân dân, đã góp phần vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

Cùng với việc giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã quan tâm giám sát việc chuẩn bị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1994 - 1999; đã nhiều lần nghe Chính phủ, các cơ quan hữu quan báo cáo và đã tổ chức 9 đoàn đi kiểm tra việc chuẩn bị bầu cử ở các địa phương, giúp địa phương kịp thời giải quyết một số vướng mắc. Qua thực tế giám sát, kiểm tra, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thống nhất, cần hướng dẫn cụ thể về một số vấn đề liên quan đến bầu cử nhằm bảo đảm thi hành đúng những quy định của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi) và tổ chức tốt các bước hiệp thương, góp phần chuẩn bị cho cuộc bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật.

Về công tác dân nguyện, số đơn thư kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi tới Quốc hội tăng hơn cùng kỳ năm trước. Nội dung đơn thư tập trung vào những vấn đề liên quan thiết thực đến cuộc sống của người dân như nhà ở, đất đai, tiền lương, bảo hộ lao động; cán bộ lợi dụng chức quyền để chiếm đất đai, tài sản công, việc bắt giam, giữ trái pháp luật. Ủy ban thường vụ Quốc hội trong từng thời gian đã nghe Chính phủ báo cáo và đã tăng cường việc cử đoàn đến tận địa phương, cơ sở để xem xét, giải quyết. Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội cũng đã quan tâm nhiều hơn đến việc giải quyết các đơn thư khiếu tố của công dân.

Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội đã có Nghị quyết về “thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu”, đây là một Nghị quyết quan trọng. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã phối hợp chặt chẽ với Chính phủ và các ngành hữu quan để có kế hoạch triển khai thực hiện. Đã ban hành Quy chế về việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết của Quốc hội. Các cuộc họp định kỳ của Ủy ban thường vụ Quốc hội với các cơ quan hữu quan đã góp phần thúc đẩy việc xử lý các vụ án trọng điểm được nhanh hơn; thống nhất phương hướng giải quyết một số vụ việc nghiêm trọng, liên quan đến trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo; bước đầu đã tổ chức tiến hành việc rà soát các văn bản còn có những sơ hở, v.v..

Ở các địa phương, các Đoàn đại biểu Quốc hội đã tích cực triển khai việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội. Một số lĩnh vực chủ yếu như xây dựng cơ bản, xuất - nhập khẩu, cấp phát vốn, thu thuế, v.v., đã được các Đoàn quan tâm xem xét, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương xử lý các vi phạm và kịp thời sửa đổi, ban hành các văn bản về vấn đề này cho phù hợp.

Bên cạnh một số kết quả đạt được nêu trên, hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội vẫn còn là khâu yếu, hiệu quả và hiệu lực chưa cao. Đáng chú ý là nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội chưa được xem xét một cách toàn diện. Ngân sách - một trong những công cụ quan trọng trong việc quản lý nhà nước chưa được giám sát một cách chặt chẽ về thu, chi và phân bổ. Tình trạng vi phạm pháp luật xảy ra nhiều, kỷ cương phép nước không nghiêm, bên cạnh những nguyên nhân khác, có phần trách nhiệm của Ủy ban thường vụ Quốc hội là chưa thường xuyên giám sát về vấn đề này và tuy có quan tâm đến xem xét tình hình công tác của các cơ quan bảo vệ pháp luật như Tòa án, Kiểm sát, v.v. nhưng chưa làm được nhiều; việc giải thích Hiến pháp, pháp luật cũng còn hạn chế.

Việc giám sát giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân tuy đã có cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân. Tình trạng đơn thư chạy vòng vo ở các cơ quan nhà nước vẫn chưa được khắc phục. Hiệu quả giải quyết đơn, thư gửi Quốc hội còn thấp, làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với cơ quan đại diện của mình. Để làm tốt công tác dân nguyện, đòi hỏi phải có biện pháp đồng bộ và cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan. Cần sớm tổng kết tình hình thực hiện Pháp lệnh về khiếu nại, tố cáo của công dân trong 3 năm qua để rút ra những kinh nghiệm cần thiết, nhằm khắc phục tình trạng trì trệ, kéo dài của công tác này; cần cải cách việc tiếp dân để công tác này có kết quả hơn, làm cho nhân dân tin tưởng hơn ở các cơ quan có trách nhiệm tiếp dân.

Việc chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu, tuy đạt được kết quả bước đầu, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của Nghị quyết đề ra là bảo đảm “thực hành tiết kiệm, chỗng lãng phí; ngăn chặn và đẩy lùi một bước tệ nạn tham nhũng, buôn lậu; thiết lập trật tự kỷ cương trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế và quản lý xã hội”.

Thực tế đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục xem xét, rút kinh nghiệm để thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội. Trước hết, cần xác định rõ hơn trách nhiệm, phạm vi và biện pháp giám sát cụ thể của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Bên cạnh việc nghe báo cáo cần tổ chức nhiều đợt giám sát. Mặt khác, cần tổng hợp đầy đủ tình hình thực hiện trách nhiệm giám sát của các cơ quan của Quốc hội, của các Đoàn đại biểu Quốc hội, cần phát hiện những vi phạm của đại biểu Quốc hội và xem xét để xử lý các vi phạm này nếu có; đồng thời tăng cường công tác giám sát trong việc rà soát văn bản để kịp thời khắc phục sơ hở mà kẻ xấu lợi dụng để tiến hành hành vi tham nhũng, buôn lậu.

Tóm lại, hiệu quả của công tác giám sát còn nhiều hạn chế, do đó đòi hỏi Ủy ban thường vụ Quốc hội cần rút kinh nghiệm về nội dung, phương thức tiến hành; cần sớm xây dựng và ban hành Quy chế giám sát nhằm tạo thêm điều kiện thuận lợi cho công tác này của Quốc hội.

III- CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁC

1. Trong việc tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chủ động hơn, chỉ đạo việc triển khai sớm về các mặt, nhất là nội dung của các kỳ họp. Chương trình kỳ họp và các dự án đã được gửi sớm hơn để xin ý kiến đại biểu Quốc hội. Vì vậy, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội có điều kiện nghiên cứu, trao đổi để đóng góp ý kiến tại kỳ họp. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã dành nhiều thời gian để xem xét các báo cáo, những vấn đề sẽ trình Quốc hội tại kỳ họp và góp ý với các cơ quan hữu quan trong việc khẩn trương chuẩn bị các nội dung này với yêu cầu về chất lượng ngày càng cao hơn.

Trong việc chủ trì kỳ họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cố gắng bảo đảm tiến hành kỳ họp một cách dân chủ, đúng pháp luật và thực hiện đầy đủ chương trình đã đề ra. Những vấn đề còn có ý kiến khác nhau đều được thảo luận, tranh luận thẳng thắn. Từ việc tập hợp, tiếp thu ý kiến đại biểu để chỉnh lý văn bản, lấy phiếu biểu quyết và giải quyết những vấn đề nảy sinh đến bảo đảm các điều kiện về thông tin, cơ sở vật chất, kỹ thuật, v.v. đều được Ủy ban thường vụ Quốc hội quan tâm chỉ đạo sát sao. Sau kỳ họp, trên cơ sở đóng góp ý kiến của các Đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nghiêm túc đánh giá những kết quả đạt được, những việc chưa làm được, xác định rõ trách nhiệm và bàn các biện pháp để triển khai các quyết định của Quốc hội. Tuy nhiên, việc sắp xếp chương trình kỳ họp có chỗ còn chưa sát thực tế; có văn bản chuẩn bị chưa được tốt nên đại biểu mất nhiều thời gian thảo luận và thông qua; việc điều khiển phiên họp đôi khi thiếu dứt khoát, có lúc còn lúng túng.

2. Trong việc chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã quan tâm việc phân công Hội đồng dân tộc, các Ủy ban thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh và giúp Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát một số vấn đề thuộc lĩnh vực mà Hội đồng, Ủy ban phụ trách. Đồng chí Chủ tịch Quốc hội đã chủ trì nhiều cuộc họp với Thường trực Hội đồng dân tộc hoặc từng Ủy ban để bàn công tác và về các điều kiện bảo đảm cho hoạt động. Nhiệm kỳ này có thuận lợi là Chủ tịch Hội đồng dân tộc và Chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội đều là thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội và đều hoạt động chuyên trách nên đã triển khai các quyết định, kết luận của Ủy ban thường vụ Quốc hội một cách kịp thời.

3. Trong việc hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã rất quan tâm đến việc bố trí đại biểu chuyên trách (đến nay có 6 đoàn có đại biểu Quốc hội chuyên trách); đến việc bảo đảm các điều kiện hoạt động của văn phòng, thư ký; cơ sở vật chất; kỹ thuật, thông tin. Đồng thời, hướng hoạt động của các đại biểu Quốc hội tập trung vào một số công tác trọng tâm như xây dựng pháp luật, tiếp dân, tiếp xúc cử tri, hoạt động giám sát và xúc tiến chuẩn bị về mọi mặt cho kỳ họp Quốc hội. Để nâng cao hiệu quả hoạt động, nhiều Đoàn đã có hình thức lấy ý kiến chuyên gia, cộng tác viên, tổ chức tư vấn, các ngành, các lĩnh vực liên quan đến dự án luật. Có kế hoạch và phân công cụ thể hơn việc tiếp dân. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan hữu quan ở địa phương trong công tác. Việc tiếp xúc cử tri, tổng hợp ý kiến cử tri để kiến nghị với Quốc hội tại các kỳ họp và báo cáo kết quả hoạt động của Quốc hội sau mỗi kỳ họp được các đoàn và các đại biểu ngày càng quan tâm hơn. Ngoài ra, các Đoàn và các đại biểu Quốc hội đã tích cực tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân và tham gia các hoạt động khác ở địa phương.

Tuy nhiên, việc hướng dẫn của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với hoạt động của các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội chưa làm được nhiều. Công tác bảo đảm các điều kiện cho hoạt động tuy đã có cố gắng nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Hoạt động các Đoàn và các đại biểu cũng còn nhiều hạn chế, nhất là trong hoạt động giám sát việc thi hành pháp luật, thi hành Nghị quyết của Quốc hội, các quyết định, chỉ thị của Chính phủ ở địa phương, v.v.. Để khắc phục tồn tại nêu trên, cần sớm bố trí đại biểu hoạt động chuyên trách cho các Đoàn, xây dựng, ban hành Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội chuyên trách và Quy chế về tổ chức, hoạt động của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Thư ký Đoàn đại biểu Quốc hội.

4. Về thực hiện quan hệ đối ngoại: hoạt động đối ngoại của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội trong năm 1994 được tiếp tục đẩy mạnh, triển khai đồng bộ trên nhiều phương diện, góp phần đáng kể vào công tác đối ngoại của Nhà nước ta trong giai đoạn mới. Thông qua các hoạt động đối ngoại, Quốc hội ta bước đầu mở rộng quan hệ với nghị viện các nước trên thế giới.

Quốc hội và Chính phủ đã phối hợp hoạt động đối ngoại trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng hộ quốc tế, mở rộng hơn nữa hợp tác kinh tế và các mặt khác. Do những thắng lợi quan trọng của sự nghiệp đổi mới của đất nước ta, vị trí, vai trò của Việt Nam được nâng cao. Mặt khác, do nhu cầu của chính mình, bạn bè quốc tế, nhất là các nước trong khu vực đã chủ động đẩy mạnh quan hệ với ta. Để đáp ứng yêu cầu của bạn bè quốc tế, mở rộng giao lưu giữa đại biểu Quốc hội ta với nghị sĩ các nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã quyết định thành lập “Tổ chức nghị sĩ Việt Nam hữu nghị với các nước”.

Tuy nhiên, qua việc triển khai những hoạt động đối ngoại vừa qua cũng còn bộc lộ những mặt yếu, những tồn tại cần rút kinh nghiệm và khắc phục kịp thời như cần sớm có quy định về sự phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ, các cơ quan hữu quan để làm tốt hơn công tác này. Cần có hình thức triển khai thích hợp việc đẩy mạnh công tác thông tin về đối ngoại của Quốc hội để tăng thêm sự hiểu biết và tranh thủ sự ủng hộ của lực lượng tiến bộ trên thế giới đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta.

Tóm lại, trong gần 10 tháng qua, với trách nhiệm là cơ quan thường trực của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật; tăng cường công tác giám sát trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều ngành, nhiều cấp; mở rộng quan hệ đối ngoại và tích cực thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội đã có tiến bộ và mang lại một số kết quả thiết thực.

Để có được kết quả nêu trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thường xuyên đổi mới lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả các phiên họp, luôn luôn duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan nhà nước hữu quan; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và coi trọng sự cộng tác chặt chẽ của các cấp, các ngành, các đoàn thể nhân dân.

Tuy có tiến bộ, nhưng so với yêu cầu đổi mới hoạt động của Quốc hội trong tình hình hiện nay, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế như: chương trình xây dựng pháp luật năm 1994 chưa bảo đảm đúng tiến độ, công tác giám sát chưa đạt được hiệu quả cao.

PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI NĂM 1995

Trong năm 1995 - năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm và cả những tháng cuối năm 1994, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ đẩy mạnh việc thực hiện những nhiệm vụ chính sau đây:

1. Tăng cường chỉ đạo việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm hoàn thành việc xây dựng và ban hành những văn bản pháp luật còn lại trong chương trình năm 1994, trong đó có Bộ luật dân sự và những dự án rất quan trọng như: Luật ngân sách nhà nước, Luật doanh nghiệp nhà nước… Đồng thời, triển khai đồng bộ và có hiệu quả chương trình xây dựng pháp luật năm 1995 mà Quốc hội sẽ thông qua tại kỳ họp này. Để thực hiện được mục tiêu nói trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo, kiểm tra chặt chẽ việc xây dựng và hoàn chỉnh các văn bản bảo đảm đúng quy trình, đúng tiến độ. Bên cạnh việc triển khai các dự án có trong chương trình chính thức, quan tâm chỉ đạo việc xây dựng các dự án pháp luật có trong chương trình dự bị và chương trình chuẩn bị cho những năm sau. Tiến hành tổng kết Quy chế xây dựng luật, pháp lệnh đã được Hội đồng Nhà nước khóa VIII ban hành, nhằm kịp thời sửa đổi những quy định không còn phù hợp và bổ sung các quy định mới để đáp ứng yêu cầu của công tác xây dựng pháp luật trong tình hình mới. Chỉ đạo việc nghiên cứu trình Quốc hội chương trình xây dựng pháp luật đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX.

Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ phối hợp chặt chẽ với Chính phủ và các cơ quan hữu quan để chuẩn bị tốt các dự án, chuẩn bị sớm các văn bản dưới luật, tổ chức triển khai thực hiện kịp thời các luật, pháp lệnh đã được thông qua để sớm đưa các văn bản này vào cuộc sống. Mặt khác, xem xét, nắm vững những vấn đề do thực tiễn đặt ra để kịp thời có sửa đổi, bổ sung cần thiết đối với một số văn bản đã ban hành.

2. Đẩy mạnh và hướng trọng tâm công tác giám sát vào việc xem xét tình hình thực hiện các nghị quyết của kỳ họp thứ 5, thứ 6 Quốc hội khóa IX; kết hợp việc nghe báo cáo với việc cử đoàn của Ủy ban đi giám sát các Bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương, cơ sở; đồng thời giao cho Hội đồng dân tộc và các Ủy ban giám sát theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn những vấn đề thuộc lĩnh vực Hội đồng và Ủy ban phụ trách. Tiếp tục chuẩn bị để ban hành Quy chế giám sát, tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả và hiệu lực của công tác này.

Tiến hành giám sát việc triển khai và thi hành các văn bản pháp luật đã ban hành, đôn đốc các cơ quan hữu quan khẩn trương xây dựng và ban hành những văn bản dưới luật, tăng cường rà soát các văn bản đã có để kịp thời hủy bỏ những văn bản chồng chéo, sai trái. Từng bước đưa việc giám sát các văn bản của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao vào nền nếp.

Giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1994 -1999, bảo đảm cho cuộc bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và tiết kiệm. Căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi), trên cơ sở tờ trình của Chính phủ, sớm ban hành Pháp lệnh về mối quan hệ giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ trong việc giám sát, kiểm tra, hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân và Pháp lệnh quy định nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp.

Đẩy mạnh công tác giám sát việc giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, góp phần giải quyết những tồn đọng trong nhiều năm qua.

Tiếp tục giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu. Rút kinh nghiệm về sự phối hợp với Chính phủ và các cơ quan hữu quan để quyết định những biện pháp thích hợp, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi một bước các tệ nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí.

3. Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, góp phần nâng cao vị trí và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Tiếp tục tham gia vào các diễn đàn nghị viện thế giới và khu vực. Phối hợp chặt chẽ với Chính phủ và các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạt động đối ngoại. Đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại. Giám sát một số vấn đề liên quan tới việc thực hiện đường lối chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

4. Tăng cường chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; hướng dẫn hoạt động của các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, tạo bước chuyển biến mới về các công tác này. Tăng cường số đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách cho Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội. Quan tâm xây dựng, củng cố đội ngũ chuyên gia giúp việc, bổ sung cơ sở vật chất, nhất là các trang thiết bị kỹ thuật phục vụ hoạt động của Quốc hội.

Để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ nói trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội coi trọng việc xây dựng chương trình, kế hoạch công tác cả năm và từng quý, từng tháng một cách sát hợp; cải tiến phương pháp xem xét các vấn đề thuộc thẩm quyền để vừa bảo đảm chất lượng, vừa tiết kiệm thời gian; duy trì mối quan hệ chặt chẽ với Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn.

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Trên đây là một số hoạt động chủ yếu trong 10 tháng đầu năm 1994 và dự kiến một số công tác trọng tâm năm 1995 (bao gồm các công việc còn lại của những tháng cuối năm 1994) của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thức rằng, những kết quả hoạt động của mình trong thời gian qua không tách rời với những cố gắng chung của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và các cơ quan hữu quan. Ủy ban thường vụ Quốc hội mong rằng, sẽ tiếp tục nhận được sự cộng tác chặt chẽ hơn nữa của các cơ quan hữu quan và đại biểu Quốc hội.

 

 

 

 

PHỤ LỤC

HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
10 THÁNG ĐẦU NĂM 1994
(Kèm theo Báo cáo số 174/UBTVQH9 ngày 19-10-1994)

A- CÔNG TÁC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT

I- THÔNG QUA CÁC PHÁP LỆNH

1- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (3-1994);

2- Pháp lệnh thuế bổ sung đối với hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp vượt quá hạn mức diện tích (3-1994);

3- Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về thuế nhà, đất (5-1994);

4- Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (sửa đổi) (5-1994);

5- Pháp lệnh bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự
(5-1994);

6- Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi (8-1994);

7- Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" (8-1994);

8- Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng (8-1994);

9- Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất (10-1994);

10- Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam (10-1994).

II- XEM XÉT CÁC DỰ ÁN LUẬT TRÌNH QUỐC HỘI
THÔNG QUA TẠI KỲ HỌP THỨ 5 (THÁNG 6-1994)

1- Bộ luật lao động (2 lần);

2- Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất (2 lần);

3- Luật khuyến khích đầu tư trong nước (2 lần);

4- Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi) (2 lần);

5- Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi) (2 lần);

6- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự (2 lần);

7- Luật sửa đổi một số điều của Luật công ty;

8- Luật sửa đổi một số điều của Luật doanh nghiệp tư nhân.

III- CHO Ý KIẾN VỀ CÁC DỰ ÁN LUẬT,
DỰ ÁN PHÁP LỆNH

1- Bộ luật dân sự (4 lần);

2- Luật ngân sách nhà nước (3 lần);

3- Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam các quyết định của trọng tài nước ngoài;

4- Pháp lệnh bảo vệ công trình giao thông;

5- Pháp lệnh bảo hộ quyền lợi người tiêu dùng (3 lần);

6- Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả (2 lần);

7- Pháp lệnh về khai thác và bảo vệ công trình khí tượng thủy văn;

Ngoài ra, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về kế hoạch tổng kết việc thực hiện Quy chế xây dựng luật, pháp lệnh được Hội đồng Nhà nước ban hành.

IV- THÔNG QUA CÁC NGHỊ QUYẾT

Nghị quyết triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân;

Nghị quyết về ban hành Quy chế về việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu;

Nghị quyết sửa đổi khung thuế suất một số nhóm hàng trong Biểu thuế nhập khẩu;

Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung thuế suất thuế doanh thu đối với một số ngành nghề trong Biểu thuế doanh thu;

Nghị quyết quy định khung thuế suất thuế chuyển quyền sử dụng đất trong trường hợp chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp.

Một số Nghị quyết khác:

- Nghị quyết phê chuẩn việc thành lập Vụ kiểm sát thi hành án thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

- Nghị quyết phê chuẩn bộ máy làm việc của Tòa án nhân dân tối cao năm 1994;

- Nghị quyết chương trình công tác của Ủy ban thường vụ Quốc hội năm 1994;

- Nghị quyết về phân bổ ngân sách cho các Bộ, ngành địa phương và Trung ương;

- Nghị quyết quy định số Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

- Nghị quyết về số lượng Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân địa phương, số lượng Thẩm phán và Hội thẩm quân nhân của các Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực;

- Nghị quyết về trang phục đối với các Tòa án, giấy chứng minh thẩm phán và Hội thẩm.

B- CÔNG TÁC GIÁM SÁT

I- TẠI CÁC PHIÊN HỌP ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

Nghe các báo cáo:

- Kế hoạch triển khai thực hiện các nghị quyết, luật đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 4, thứ 5;

- Kế hoạch triển khai Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 1994 và dự kiến phân bổ ngân sách nhà nước năm 1994;

- Tình hình xử lý các vụ tham nhũng, buôn lậu;

- Tình hình hoạt động của các Đoàn đại biểu Quốc hội nhằm triển khai các quyết định của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 4, thứ 5;

- Tình hình triển khai thực hiện Luật xuất bản và việc chấn chỉnh công tác quản lý xuất bản, xuất - nhập khẩu văn hóa phẩm;

- Tình hình thực hiện các nghị quyết của Quốc hội trong 6 tháng đầu năm 1994.

- Tình hình giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân trong quý I năm 1994; 9 tháng đầu năm 1994;

- Tình hình cháy chợ Đồng Xuân và việc khắc phục hậu quả;

- Về việc khắc phục những sơ hở, thiếu sót và việc xử lý những tiêu cực lớn trong lĩnh vực xuất - nhập khẩu thuộc các ngành thương mại, hải quan;

- Về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng trong xây dựng cơ bản;

- Về công tác đối ngoại của Nhà nước ta trong 6 tháng đầu năm 1994; 9 tháng đầu năm 1994;

- Về việc Tổng thống Mỹ tuyên bố bỏ cấm vận đối với Việt Nam và chủ trương của Nhà nước ta về vấn đề này;

- Công tác phổ cập giáo dục tiểu học, xây dựng đội ngũ giáo viên, mạng lưới các trường đại học và trung học chuyên nghiệp;

- Tình hình chuẩn bị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1994 - 1999 (3 lần); nghe báo cáo kết quả các đoàn Ủy ban thường vụ Quốc hội đi giám sát về công tác này;

- Một số vấn đề về tình hình vùng dân tộc thiểu số và miền núi;

- Về vấn đề tôn giáo;

- Về dự kiến tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1994 theo các nghị quyết của Quốc hội và phương hướng nhiệm vụ năm 1995;

- Tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu;

- Về dự kiến tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 1994, dự toán ngân sách nhà nước năm 1995 và Tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1993;

- Tình hình nhà cửa do Nhà nước đang quản lý, sử dụng theo chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh;

- Hoạt động năm 1994 của Tòa án nhân dân tối cao;

- Hoạt động năm 1994 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

- Về công tác quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và công tác thi hành án dân sự;

- Tình hình an ninh, quốc phòng;

- Tình hình phòng, chống và khắc phục hậu quả bão, lũ lụt ở miền Bắc, miền Trung và nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long.

II- CỬ ĐOÀN ĐI GIÁM SÁT

Đoàn do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh dẫn đầu giám sát tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại thành phố Hà Nội;

Đoàn do Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Văn Tửu dẫn đầu giám sát tại tỉnh Long An về tình hình thi hành Luật đất đai, chống tham nhũng, chống buôn lậu;

Đoàn do Phó Chủ tịch Quốc hội Đặng Quân Thụy dẫn đầu giám sát tại Lâm Đồng về tình hình thực hiện Nghị quyết về nhiệm vụ năm 1994 về quốc phòng - an ninh và chống diễn biến hòa bình;

Đoàn do Phó Chủ tịch Quốc hội Đặng Quân Thụy dẫn đầu giám sát tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở huyện Côn Đảo (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) và huyện đảo Phú Quý (tỉnh Bình Thuận);

- Đoàn do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh dẫn đầu đi thăm và làm việc tại 3 tỉnh Tây Ninh, Sông Bé, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1994 theo các nghị quyết của Quốc hội;

Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cử 9 đoàn công tác về một số địa phương giám sát công tác chuẩn bị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1994 - 1999:

- Đoàn kiểm tra tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các tỉnh Sông Bé, Đồng Nai, Tây Ninh do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh dẫn đầu;

- Đoàn kiểm tra tại 8 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long: Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Kiên Giang, Sóc Trăng và Minh Hải, do Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hà Phan dẫn đầu;

- Đoàn kiểm tra tại tỉnh Nghệ An do Phó Chủ tịch Quốc hội Đặng Quân Thụy dẫn đầu;

- Đoàn kiểm tra tại các tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế do Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Văn Tửu dẫn đầu;

- Đoàn kiểm tra tại các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Lào Cai do Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội Vũ Mão dẫn đầu;

- Đoàn kiểm tra tại tỉnh Kiên Giang do ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội Phan Minh Tánh dẫn đầu;

- Đoàn kiểm tra tại các tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang do Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội Y Ngông Niêk Đăm dẫn đầu;

- Đoàn kiểm tra tại các tỉnh Nam Hà, Ninh Bình do Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội Trần Thị Tâm Đan dẫn đầu;

- Đoàn kiểm tra tại các tỉnh Gia Lai, Kon Tum do Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội Hà Mạnh Trí dẫn đầu.

III- GIÁM SÁT VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ THỰC HÀNH
TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ,
CHỐNG THAM NHŨNG, CHỐNG BUÔN LẬU

a) Ủy ban thường vụ Quốc hội:

- Thông qua Nghị quyết ban hành Quy chế về việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu (ngày 16-3-1994).

- Tiến hành các cuộc họp liên tịch của Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về phối hợp chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Quốc hội:

1. Ngày 03-02-1994: Cuộc họp đầu tiên bàn về những vấn đề chủ yếu trong dự thảo Quy chế phối hợp giữa các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Nhà nước trong việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Quốc hội. Dự kiến chương trình triển khai việc phối hợp chỉ đạo.

2. Ngày  07-4-1994:

- Bàn về tình hình xử lý các vụ tham nhũng, buôn lậu tồn đọng từ năm 1993 cho đến quý I-1994, trong đó có việc hoàn thành xét xử 10 vụ án điểm trong năm 1993.

- Chánh án Tòa án nhân dân tối cao báo cáo về tình hình xét xử các vụ án tham nhũng, buôn lậu trong cả nước.

- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo về hoạt động của ngành Kiểm sát trong lĩnh vực chống tham nhũng, chống buôn lậu.

- Đại diện Chính phủ báo cáo về tình hình rà soát các văn bản pháp luật liên quan tới các sơ hở trong hoạt động tham nhũng, buôn lậu.

3. Ngày  09-5-1994:

- Nghe báo cáo kết quả xúc tiến việc xử lý các vụ tham nhũng được đặt ra trong tháng 4;

- Nghe báo cáo về các vụ tham nhũng mới phát hiện, các vụ buôn lậu ô tô, xe máy ở một số địa phương và đơn vị.

4. Ngày 28-6-1994:

Nghe báo cáo và cho ý kiến về việc xử lý những sai phạm trong quản lý, sử dụng đất, hóa giá nhà và làm thử việc triển khai thí điểm việc đổi đất lấy công trình tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

5. Ngày 29-8-1994:

Tiếp tục bàn việc xử lý những sai phạm tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã nêu ra tại phiên họp trước.

b) Tình hình các đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tham gia thực hiện Nghị quyết về “thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu” (theo báo cáo của các đoàn):

Tính đến ngày 17 tháng 10 năm 1994, Văn phòng Quốc hội đã nhận được văn bản của 32 Đoàn đại biểu Quốc hội báo cáo về tình hình các đại biểu Quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu, tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:

1. Tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết:

- Tổ chức tiếp xúc cử tri báo cáo kết quả kỳ họp và truyền đạt Nghị quyết của Quốc hội; tham gia các hội nghị chuyên đề với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân để xây dựng kế hoạch, bàn biện pháp triển khai Nghị quyết; báo cáo tại hội nghị Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân; tổ chức nhiều hội nghị chuyên đề để tuyên truyền Nghị quyết theo các nội dung trên với cử tri (các đoàn Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Bình, Tây Ninh,…); tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng.

- Một số đoàn kiến nghị với Hội đồng nhân dân tỉnh ra Nghị quyết chuyên đề về nội dung này (Tây Ninh, Thừa Thiên - Huế, Lạng Sơn, Lào Cai…). Nhiều đoàn kiến nghị với Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh kiện toàn Ban Chỉ đạo chống tham nhũng, chống buôn lậu của tỉnh, xác định một số lĩnh vực trọng yếu cần tập trung chỉ đạo.

- Một số đoàn có lịch định kỳ hàng tháng làm việc với Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Ban Chỉ đạo chống tham nhũng, chống buôn lậu của tỉnh và các cơ quan chức năng để nghe báo cáo kết quả chống tham nhũng, chống buôn lậu, đóng góp ý kiến với các cơ quan quản lý nhà nước, với các ngành pháp luật trong việc xử lý các vụ tham nhũng, buôn lậu và bàn phương hướng xử lý trong thời gian tới. Một số đoàn kiến nghị với các cơ quan chức năng ở địa phương sửa đổi một số văn bản không còn phù hợp với việc hoàn chỉnh cơ chế chung, nhằm ngăn chặn tệ tham nhũng, buôn lậu.

2. Công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết:

- Nhiều Đoàn đại biểu Quốc hội đã lập chương trình, kế hoạch giám sát, kiểm tra; phối hợp với Hội đồng nhân dân và các ngành ở địa phương, nhất là các ngành trong khối nội chính để triển khai giám sát việc thực hiện Nghị quyết. Phối hợp với các ban của Đảng, các ban của Hội đồng nhân dân tổ chức kiểm tra, giám sát một số cơ quan hữu quan nhà nước, một số lĩnh vực, một số đơn vị kinh tế trọng điểm các đoàn: Tây Ninh, Thừa Thiên - Huế, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Trà Vinh, Hà Bắc…); phát hiện một số vi phạm trong công tác quản lý về các lĩnh vực thu, chi ngân sách, sử dụng kinh phí; kiến nghị Ủy ban nhân dân tỉnh sớm đưa xử lý một số vụ việc tiêu cực, phức tạp, trong đó có vụ tồn đọng nhiều năm, nhất là trên các lĩnh vực “ xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng các loại quỹ, việc thực hiện một số dự án cho đồng bào các dân tộc vùng cao, sử dụng kinh phí khám, chữa bệnh, cai nghiện. Một số đoàn có chương trình giám sát các cơ quan nội chính trong việc tổ chức thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và việc thực hiện các kiến nghị của đoàn.

- Về công tác tiếp dân, nhiều đoàn đã cải tiến việc tiếp nhận đơn thư khiếu nại. Nhiều đoàn đã cùng Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tổ chức tiếp dân định kỳ và qua công tác tiếp dân kiến nghị với các cơ quan chức năng ở địa phương tiếp tục thanh tra, điều tra, kiểm sát phát hiện nhiều vụ tham nhũng, buôn lậu; kiến nghị với các cơ quan có liên quan ở Trung ương và địa phương cần tập trung giải quyết các vụ phức tạp, kéo dài, có biểu hiện tiêu cực.

- Quán triệt Nghị quyết của Quốc hội, các đoàn đề ra nội dung tiết kiệm trong đoàn mình, nhất là việc tiết kiệm chi tiêu hành chính, xăng xe. Một số đoàn đã có quy chế quy định về hoạt động, đi lại.

 

 

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội

 

Về trang mục lục

Trở về đầu trang