BÁO CÁO CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
VỀ HOẠT ĐỘNG NĂM 1994 VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG
HOẠT ĐỘNG NĂM 1995
(Do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh trình bày tại
kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá IX, ngày 22-10-1994)
Thưa
các vị đại biểu Quốc hội,
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có việc
đổi mới hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, gần 10 tháng
qua, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã triển khai các mặt hoạt động để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Thay mặt Ủy ban thường vụ
Quốc hội, tôi xin báo cáo với Quốc hội về hoạt động năm 1994 và phương hướng
hoạt động năm 1995 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
PHẦN
THỨ NHẤT
HOẠT
ĐỘNG CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
10 THÁNG ĐẦU NĂM 1994
I-
VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
Để
góp phần đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, xây dựng hệ
thống pháp luật đồng bộ, nhất quán, thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng
trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, trong gần 10 tháng qua, Ủy ban
thường vụ Quốc hội đã cùng với Chính phủ, các cơ quan hữu quan dành nhiều
thời gian và có các biện pháp đồng bộ để xây dựng các dự án pháp luật trong
chương trình xây dựng pháp luật năm 1994. Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội đã xem
xét, thông qua Bộ luật lao động, 7 luật, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông
qua được 10 pháp lệnh, 5 nghị quyết, cho ý kiến về 10 dự án bộ luật, luật và
5 dự án pháp lệnh khác. Nhiều văn bản pháp luật đã đáp ứng lòng mong mỏi của
nhân dân và được dư luận rộng rãi hoan nghênh như Bộ luật lao động, Pháp
lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương
binh, bệnh binh người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách
mạng; Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng”, v.v..
Có
được kết quả nói trên phải kể đến trách nhiệm của Chính phủ, nhiều ngành,
nhiều cấp, các đoàn thể, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và
nhiều cán bộ, công dân quan tâm đến công tác xây dựng pháp luật. Về phần
mình, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã giám sát chặt chẽ việc thực hiện chương
trình theo tiến độ đề ra; dành phần lớn thời gian các phiên họp để xem xét,
cho ý kiến, cả về nội dung và kỹ thuật văn bản, tập trung vào những vấn đề
thuộc về quan điểm cơ bản, những nội dung còn nhiều ý kiến khác nhau, bảo
đảm thể chế hóa những quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Do
xem xét kỹ lưỡng, trong đó có dự án với nội dung phức tạp đã được cho ý kiến
đến 6 lần trước khi chính thức thông qua và chỉ đạo sát sao các cơ quan có
trách nhiệm trong việc xây dựng và thẩm tra các dự án; quan tâm đến việc lấy
ý kiến các tầng lớp nhân dân, nên chất lượng của các văn bản đã được nâng
lên một bước.
Tuy
nhiên, cũng còn những vấn đề cần rút kinh nghiệm như: quy trình xây dựng các
dự án chưa được coi trọng đầy đủ nên một số cơ quan soạn thảo phải làm đi
làm lại nhiều lần, tốn nhiều công sức. Việc xây dựng đồng bộ các văn bản
dưới luật và pháp lệnh còn chưa kịp thời nên pháp luật chậm đi vào cuộc
sống.
Thực
tiễn công tác xây dựng pháp luật đòi hỏi chúng ta phải đề ra được chương
trình phù hợp, vừa đáp ứng yêu cầu cấp bách của cuộc sống, vừa bảo đảm tính
khả thi. Kinh nghiệm cho thấy, khi chương trình xây dựng pháp luật đã được
thông qua, cần tập trung chỉ đạo việc triển khai xây dựng kịp thời, đồng bộ
các dự án và các văn bản hướng dẫn thi hành; tăng cường sự phối hợp giữa các
cơ quan hữu quan; tuân thủ quy trình xây dựng pháp luật, tiến độ xây dựng
các dự án; chú trọng đúng mức đến việc lấy ý kiến rộng rãi của các ngành,
các cấp và của nhân dân; có hình thức và thời gian thích hợp để các đại biểu
Quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội tham gia đóng góp ý kiến. Để làm tốt
các công việc trên, cần sớm hoàn thành tổng kết việc thực hiện Quy chế xây
dựng luật, pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước ban hành năm 1988 để sửa đổi, bổ
sung những quy định không còn phù hợp với tình hình thực tế. Mặt khác, cần
quan tâm xây dựng đội ngũ chuyên gia đủ mạnh và bảo đảm các điều kiện về
phương tiện, về kinh phí, v.v. cho công tác xây dựng pháp luật.
II-
VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
Cùng
với việc triển khai chương trình xây dựng pháp luật, Ủy ban thường vụ Quốc
hội đẩy mạnh công tác giám sát, tập trung chủ yếu vào việc thực hiện các
Nghị quyết của Quốc hội, tình hình thi hành pháp luật, hoạt động của Hội
đồng nhân dân các cấp, tình hình giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công
dân và tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu. Nhiều vấn đề nóng bỏng,
cấp bách, liên quan đến quốc kế dân sinh đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội
xem xét và kịp thời kiến nghị với Chính phủ, các cơ quan hữu quan, các
ngành, các cấp về những biện pháp tháo gỡ khó khăn, khắc phục khuyết nhược
điểm trong công tác chỉ đạo, điều hành…, trong đó có vấn đề phân bổ, thu chi
ngân sách nhà nước là lĩnh vực mà Ủy ban thường vụ Quốc hội, các ngành, các
cấp, các vị đại biểu Quốc hội và các địa phương hết sức quan tâm. Ủy ban
thường vụ Quốc hội cũng đã cử các đoàn đi giám sát tình hình thực hiện Luật
đất đai, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn
lậu; tình hình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, v.v. ở một số Bộ, ban
ngành Trung ương và cơ sở, nhất là ở những vùng cao, vùng sâu, biên giới và
hải đảo. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, tình hình bão, lũ lụt xảy ra ở
nhiều nơi, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ủy ban thường vụ Quốc hội
đã kịp thời cử đoàn đi kiểm tra, cùng với Chính phủ đôn đốc các ngành có
biện pháp giúp nhân dân vùng bão, lũ lụt sớm ổn định đời sống và sản xuất.
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội
đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong việc giám sát một số lĩnh vực
quan trọng, góp phần đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội.
Ủy
ban thường vụ Quốc hội đã chú trọng đến việc giám sát và hướng dẫn hoạt
động của Hội đồng nhân dân các cấp và việc hướng dẫn về tổ chức các kỳ
họp Hội đồng nhân dân, hoạt động của Thường trực và các ban của Hội đồng
nhân dân, đã góp phần vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương.
Cùng
với việc giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban
thường vụ Quốc hội đã quan tâm giám sát việc chuẩn bị bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1994 - 1999; đã nhiều lần nghe Chính phủ,
các cơ quan hữu quan báo cáo và đã tổ chức 9 đoàn đi kiểm tra việc chuẩn bị
bầu cử ở các địa phương, giúp địa phương kịp thời giải quyết một số vướng
mắc. Qua thực tế giám sát, kiểm tra, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thống nhất, cần hướng dẫn cụ
thể về một số vấn đề liên quan đến bầu cử nhằm bảo đảm thi hành đúng những
quy định của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi) và tổ chức tốt
các bước hiệp thương, góp phần chuẩn bị cho cuộc bầu cử được tiến hành dân
chủ, đúng pháp luật.
Về
công tác dân nguyện,
số
đơn thư kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi tới Quốc hội tăng hơn
cùng kỳ năm trước. Nội dung đơn thư tập trung vào những vấn đề liên quan
thiết thực đến cuộc sống của người dân như nhà ở, đất đai, tiền lương, bảo
hộ lao động; cán bộ lợi dụng chức quyền để chiếm đất đai, tài sản công, việc
bắt giam, giữ trái pháp luật. Ủy ban thường vụ Quốc hội trong từng thời gian
đã nghe Chính phủ báo cáo và đã tăng cường việc cử đoàn đến tận địa phương,
cơ sở để xem xét, giải quyết. Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Văn
phòng Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội cũng đã quan tâm nhiều hơn đến
việc giải quyết các đơn thư khiếu tố của công dân.
Tại
kỳ họp thứ 4, Quốc hội đã có Nghị quyết về “thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu”, đây là một Nghị quyết quan trọng. Ủy
ban thường vụ Quốc hội đã phối hợp chặt chẽ với Chính phủ và các ngành hữu
quan để có kế hoạch triển khai thực hiện. Đã ban hành Quy chế về việc phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết
của Quốc hội. Các cuộc họp định kỳ của Ủy ban thường vụ Quốc hội với các cơ
quan hữu quan đã góp phần thúc đẩy việc xử lý các vụ án trọng điểm được
nhanh hơn; thống nhất phương hướng giải quyết một số vụ việc nghiêm trọng,
liên quan đến trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo; bước đầu đã tổ chức tiến hành
việc rà soát các văn bản còn có những sơ hở, v.v..
Ở
các địa phương,
các Đoàn đại biểu Quốc hội đã tích cực triển khai việc thực hiện Nghị quyết
của Quốc hội. Một số lĩnh vực chủ yếu như xây dựng cơ bản, xuất - nhập khẩu,
cấp phát vốn, thu thuế, v.v., đã được các Đoàn quan tâm xem xét, kiến nghị
với các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương xử lý các vi phạm và kịp thời sửa
đổi, ban hành các văn bản về vấn đề này cho phù hợp.
Bên
cạnh một số kết quả đạt được nêu trên, hoạt động giám sát của Ủy ban
thường vụ Quốc hội vẫn còn là khâu yếu, hiệu quả và hiệu lực chưa cao.
Đáng chú ý là nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội chưa được xem
xét một cách toàn diện. Ngân sách - một trong những công cụ quan trọng trong
việc quản lý nhà nước chưa được giám sát một cách chặt chẽ về thu, chi và
phân bổ. Tình trạng vi phạm pháp luật xảy ra nhiều, kỷ cương phép nước không
nghiêm, bên cạnh những nguyên nhân khác, có phần trách nhiệm của Ủy ban
thường vụ Quốc hội là chưa thường xuyên giám sát về vấn đề này và tuy có
quan tâm đến xem xét tình hình công tác của các cơ quan bảo vệ pháp luật như
Tòa án, Kiểm sát, v.v. nhưng chưa làm được nhiều; việc giải thích Hiến pháp,
pháp luật cũng còn hạn chế.
Việc
giám sát giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân
tuy đã có cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân. Tình
trạng đơn thư chạy vòng vo ở các cơ quan nhà nước vẫn chưa được khắc phục.
Hiệu quả giải quyết đơn, thư gửi Quốc hội còn thấp, làm ảnh hưởng đến lòng
tin của nhân dân đối với cơ quan đại diện của mình. Để làm tốt công tác dân
nguyện, đòi hỏi phải có biện pháp đồng bộ và cần có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan hữu quan. Cần sớm tổng kết tình hình thực hiện Pháp lệnh về
khiếu nại, tố cáo của công dân trong 3 năm qua để rút ra những kinh nghiệm
cần thiết, nhằm khắc phục tình trạng trì trệ, kéo dài của công tác này; cần
cải cách việc tiếp dân để công tác này có kết quả hơn, làm cho nhân dân tin
tưởng hơn ở các cơ quan có trách nhiệm tiếp dân.
Việc
chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu,
tuy đạt được kết quả bước đầu, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của Nghị
quyết đề ra là bảo đảm “thực hành tiết kiệm, chỗng lãng phí; ngăn chặn và
đẩy lùi một bước tệ nạn tham nhũng, buôn lậu; thiết lập trật tự kỷ cương
trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế và quản lý xã hội”.
Thực
tế đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục xem xét, rút kinh nghiệm để
thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội.
Trước hết, cần xác định rõ hơn trách nhiệm, phạm vi và biện pháp giám sát cụ
thể của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Bên cạnh việc nghe
báo cáo cần tổ chức nhiều đợt giám sát. Mặt khác, cần tổng hợp đầy đủ tình
hình thực hiện trách nhiệm giám sát của các cơ quan của Quốc hội, của các
Đoàn đại biểu Quốc hội, cần phát hiện những vi phạm của đại biểu Quốc hội và
xem xét để xử lý các vi phạm này nếu có; đồng thời tăng cường công tác giám
sát trong việc rà soát văn bản để kịp thời khắc phục sơ hở mà kẻ xấu lợi
dụng để tiến hành hành vi tham nhũng, buôn lậu.
Tóm
lại, hiệu quả của công tác giám sát còn nhiều hạn chế, do đó đòi hỏi Ủy ban
thường vụ Quốc hội cần rút kinh nghiệm về nội dung, phương thức tiến hành;
cần sớm xây dựng và ban hành Quy chế giám sát nhằm tạo thêm điều kiện thuận
lợi cho công tác này của Quốc hội.
III-
CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁC
1.
Trong việc tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội,
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chủ động hơn, chỉ đạo việc triển khai sớm về
các mặt, nhất là nội dung của các kỳ họp. Chương trình kỳ họp và các dự án
đã được gửi sớm hơn để xin ý kiến đại biểu Quốc hội. Vì vậy, các Đoàn đại
biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội có điều kiện nghiên cứu, trao đổi để đóng
góp ý kiến tại kỳ họp. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã dành nhiều thời gian để
xem xét các báo cáo, những vấn đề sẽ trình Quốc hội tại kỳ họp và góp ý với
các cơ quan hữu quan trong việc khẩn trương chuẩn bị các nội dung này với
yêu cầu về chất lượng ngày càng cao hơn.
Trong việc chủ trì kỳ họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cố gắng bảo đảm tiến
hành kỳ họp một cách dân chủ, đúng pháp luật và thực hiện đầy đủ chương
trình đã đề ra. Những vấn đề còn có ý kiến khác nhau đều được thảo luận,
tranh luận thẳng thắn. Từ việc tập hợp, tiếp thu ý kiến đại biểu để chỉnh lý
văn bản, lấy phiếu biểu quyết và giải quyết những vấn đề nảy sinh đến bảo
đảm các điều kiện về thông tin, cơ sở vật chất, kỹ thuật, v.v. đều được Ủy
ban thường vụ Quốc hội quan tâm chỉ đạo sát sao. Sau kỳ họp, trên cơ sở đóng
góp ý kiến của các Đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã
nghiêm túc đánh giá những kết quả đạt được, những việc chưa làm được, xác
định rõ trách nhiệm và bàn các biện pháp để triển khai các quyết định của
Quốc hội. Tuy nhiên, việc sắp xếp chương trình kỳ họp có chỗ còn chưa sát
thực tế; có văn bản chuẩn bị chưa được tốt nên đại biểu mất nhiều thời gian
thảo luận và thông qua; việc điều khiển phiên họp đôi khi thiếu dứt khoát,
có lúc còn lúng túng.
2.
Trong việc chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội,
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã quan tâm việc phân công Hội đồng dân tộc, các
Ủy ban thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh và giúp Ủy ban thường vụ Quốc hội
giám sát một số vấn đề thuộc lĩnh vực mà Hội đồng, Ủy ban phụ trách. Đồng
chí Chủ tịch Quốc hội đã chủ trì nhiều cuộc họp với Thường trực Hội đồng dân
tộc hoặc từng Ủy ban để bàn công tác và về các điều kiện bảo đảm cho hoạt
động. Nhiệm kỳ này có thuận lợi là Chủ tịch Hội đồng dân tộc và Chủ nhiệm
các Ủy ban của Quốc hội đều là thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội và đều
hoạt động chuyên trách nên đã triển khai các quyết định, kết luận của Ủy ban
thường vụ Quốc hội một cách kịp thời.
3.
Trong việc hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc
hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội,
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã rất quan tâm đến việc bố trí đại biểu chuyên
trách (đến nay có 6 đoàn có đại biểu Quốc hội chuyên trách); đến việc bảo
đảm các điều kiện hoạt động của văn phòng, thư ký; cơ sở vật chất; kỹ thuật,
thông tin. Đồng thời, hướng hoạt động của các đại biểu Quốc hội tập trung
vào một số công tác trọng tâm như xây dựng pháp luật, tiếp dân, tiếp xúc cử
tri, hoạt động giám sát và xúc tiến chuẩn bị về mọi mặt cho kỳ họp Quốc hội.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động, nhiều Đoàn đã có hình thức lấy ý kiến chuyên
gia, cộng tác viên, tổ chức tư vấn, các ngành, các lĩnh vực liên quan đến dự
án luật. Có kế hoạch và phân công cụ thể hơn việc tiếp dân. Tăng cường mối
quan hệ phối hợp giữa các cơ quan hữu quan ở địa phương trong công tác. Việc
tiếp xúc cử tri, tổng hợp ý kiến cử tri để kiến nghị với Quốc hội tại các kỳ
họp và báo cáo kết quả hoạt động của Quốc hội sau mỗi kỳ họp được các đoàn
và các đại biểu ngày càng quan tâm hơn. Ngoài ra, các Đoàn và các đại biểu
Quốc hội đã tích cực tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân và tham gia các hoạt
động khác ở địa phương.
Tuy
nhiên, việc hướng dẫn của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với hoạt động của
các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội chưa làm được nhiều. Công
tác bảo đảm các điều kiện cho hoạt động tuy đã có cố gắng nhưng chưa đáp ứng
yêu cầu. Hoạt động các Đoàn và các đại biểu cũng còn nhiều hạn chế, nhất là
trong hoạt động giám sát việc thi hành pháp luật, thi hành Nghị quyết của
Quốc hội, các quyết định, chỉ thị của Chính phủ ở địa phương, v.v.. Để khắc
phục tồn tại nêu trên, cần sớm bố trí đại biểu hoạt động chuyên trách cho
các Đoàn, xây dựng, ban hành Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội chuyên
trách và Quy chế về tổ chức, hoạt động của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội
và Thư ký Đoàn đại biểu Quốc hội.
4.
Về thực hiện quan hệ đối ngoại:
hoạt động đối ngoại của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội trong năm 1994
được tiếp tục đẩy mạnh, triển khai đồng bộ trên nhiều phương diện, góp phần
đáng kể vào công tác đối ngoại của Nhà nước ta trong giai đoạn mới. Thông
qua các hoạt động đối ngoại, Quốc hội ta bước đầu mở rộng quan hệ với nghị
viện các nước trên thế giới.
Quốc
hội và Chính phủ đã phối hợp hoạt động đối ngoại trong khu vực và trên thế
giới nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng hộ quốc tế, mở rộng hơn nữa hợp tác
kinh tế và các mặt khác. Do những thắng lợi quan trọng của sự nghiệp đổi mới
của đất nước ta, vị trí, vai trò của Việt Nam được nâng cao. Mặt khác, do
nhu cầu của chính mình, bạn bè quốc tế, nhất là các nước trong khu vực đã
chủ động đẩy mạnh quan hệ với ta. Để đáp ứng yêu cầu của bạn bè quốc tế, mở
rộng giao lưu giữa đại biểu Quốc hội ta với nghị sĩ các nước, Ủy ban thường
vụ Quốc hội đã quyết định thành lập “Tổ chức nghị sĩ Việt Nam hữu nghị với
các nước”.
Tuy
nhiên, qua việc triển khai những hoạt động đối ngoại vừa qua cũng còn bộc lộ
những mặt yếu, những tồn tại cần rút kinh nghiệm và khắc phục kịp thời như
cần sớm có quy định về sự phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ, các cơ quan
hữu quan để làm tốt hơn công tác này. Cần có hình thức triển khai thích hợp
việc đẩy mạnh công tác thông tin về đối ngoại của Quốc hội để tăng thêm sự
hiểu biết và tranh thủ sự ủng hộ của lực lượng tiến bộ trên thế giới đối với
sự nghiệp đổi mới của nước ta.
Tóm
lại,
trong gần 10 tháng qua, với trách nhiệm là cơ quan thường trực của Quốc hội,
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật; tăng
cường công tác giám sát trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều ngành, nhiều cấp; mở
rộng quan hệ đối ngoại và tích cực thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của
mình theo quy định của pháp luật. Hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội đã
có tiến bộ và mang lại một số kết quả thiết thực.
Để
có được kết quả nêu trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thường xuyên đổi mới
lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả các phiên họp, luôn luôn duy trì mối quan
hệ chặt chẽ với các cơ quan nhà nước hữu quan; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
và coi trọng sự cộng tác chặt chẽ của các cấp, các ngành, các đoàn thể nhân
dân.
Tuy
có tiến bộ, nhưng so với yêu cầu đổi mới hoạt động của Quốc hội trong tình
hình hiện nay, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc
hội trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế như: chương trình xây dựng
pháp luật năm 1994 chưa bảo đảm đúng tiến độ, công tác giám sát chưa đạt
được hiệu quả cao.
PHẦN
THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI NĂM 1995
Trong năm 1995 - năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm và cả những tháng cuối năm
1994, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ đẩy mạnh việc thực hiện những nhiệm vụ
chính sau đây:
1.
Tăng cường chỉ đạo việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về công tác xây
dựng pháp luật,
bảo đảm hoàn thành việc xây dựng và ban hành những văn bản pháp luật còn lại
trong chương trình năm 1994, trong đó có Bộ luật dân sự và những dự án rất
quan trọng như: Luật ngân sách nhà nước, Luật doanh nghiệp nhà nước… Đồng
thời, triển khai đồng bộ và có hiệu quả chương trình xây dựng pháp luật năm
1995 mà Quốc hội sẽ thông qua tại kỳ họp này. Để thực hiện được mục tiêu nói
trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo, kiểm tra chặt chẽ việc xây dựng
và hoàn chỉnh các văn bản bảo đảm đúng quy trình, đúng tiến độ. Bên cạnh
việc triển khai các dự án có trong chương trình chính thức, quan tâm chỉ đạo
việc xây dựng các dự án pháp luật có trong chương trình dự bị và chương
trình chuẩn bị cho những năm sau. Tiến hành tổng kết Quy chế xây dựng luật,
pháp lệnh đã được Hội đồng Nhà nước khóa VIII ban hành, nhằm kịp thời sửa
đổi những quy định không còn phù hợp và bổ sung các quy định mới để đáp ứng
yêu cầu của công tác xây dựng pháp luật trong tình hình mới. Chỉ đạo việc
nghiên cứu trình Quốc hội chương trình xây dựng pháp luật đến hết nhiệm kỳ
Quốc hội khóa IX.
Ủy
ban thường vụ Quốc hội sẽ phối hợp chặt chẽ với Chính phủ và các cơ quan hữu
quan để chuẩn bị tốt các dự án, chuẩn bị sớm các văn bản dưới luật, tổ chức
triển khai thực hiện kịp thời các luật, pháp lệnh đã được thông qua để sớm
đưa các văn bản này vào cuộc sống. Mặt khác, xem xét, nắm vững những vấn đề
do thực tiễn đặt ra để kịp thời có sửa đổi, bổ sung cần thiết đối với một số
văn bản đã ban hành.
2.
Đẩy mạnh và hướng trọng tâm công tác giám sát vào việc xem xét tình hình
thực hiện các nghị quyết của kỳ họp thứ 5, thứ 6 Quốc hội khóa IX;
kết hợp việc nghe báo cáo với việc cử đoàn của Ủy ban đi giám sát các Bộ,
ngành ở Trung ương và các địa phương, cơ sở; đồng thời giao cho Hội đồng dân
tộc và các Ủy ban giám sát theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn những vấn đề
thuộc lĩnh vực Hội đồng và Ủy ban phụ trách. Tiếp tục chuẩn bị để ban hành
Quy chế giám sát, tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả và hiệu lực của công
tác này.
Tiến
hành giám sát việc triển khai và thi hành các văn bản pháp luật đã ban hành,
đôn đốc các cơ quan hữu quan khẩn trương xây dựng và ban hành những văn bản
dưới luật, tăng cường rà soát các văn bản đã có để kịp thời hủy bỏ những văn
bản chồng chéo, sai trái. Từng bước đưa việc giám sát các văn bản của Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao vào nền nếp.
Giám
sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1994 -1999,
bảo đảm cho cuộc bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và tiết kiệm.
Căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi), trên
cơ sở tờ trình của Chính phủ, sớm ban hành Pháp lệnh về mối quan hệ giữa Ủy
ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ trong việc giám sát, kiểm tra, hướng dẫn
hoạt động của Hội đồng nhân dân và Pháp lệnh quy định nhiệm vụ quyền hạn của
Hội đồng nhân dân các cấp.
Đẩy
mạnh công tác giám sát việc giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của
công dân,
góp phần giải quyết những tồn đọng trong nhiều năm qua.
Tiếp
tục giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu.
Rút kinh nghiệm về sự phối hợp với Chính phủ và các cơ quan hữu quan để
quyết định những biện pháp thích hợp, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi một bước
các tệ nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí.
3.
Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại,
góp phần nâng cao vị trí và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Tiếp
tục tham gia vào các diễn đàn nghị viện thế giới và khu vực. Phối hợp chặt
chẽ với Chính phủ và các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạt động đối
ngoại. Đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại. Giám sát một số vấn đề liên
quan tới việc thực hiện đường lối chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước
ta.
4.
Tăng cường chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội; hướng dẫn hoạt động của các Đoàn đại biểu Quốc hội và
các đại biểu Quốc hội,
tạo bước chuyển biến mới về các công tác này. Tăng cường số đại biểu Quốc
hội hoạt động chuyên trách cho Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và
các Đoàn đại biểu Quốc hội. Quan tâm xây dựng, củng cố đội ngũ chuyên gia
giúp việc, bổ sung cơ sở vật chất, nhất là các trang thiết bị kỹ thuật phục
vụ hoạt động của Quốc hội.
Để
thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ nói trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội coi
trọng việc xây dựng chương trình, kế hoạch công tác cả năm và từng quý, từng
tháng một cách sát hợp; cải tiến phương pháp xem xét các vấn đề thuộc thẩm
quyền để vừa bảo đảm chất lượng, vừa tiết kiệm thời gian; duy trì mối quan
hệ chặt chẽ với Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội đồng
dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu
Quốc hội trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn.
Thưa
các vị đại biểu Quốc hội,
Trên
đây là một số hoạt động chủ yếu trong 10 tháng đầu năm 1994 và dự kiến một
số công tác trọng tâm năm 1995 (bao gồm các công việc còn lại của những
tháng cuối năm 1994) của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Ủy
ban thường vụ Quốc hội nhận thức rằng, những kết quả hoạt động của mình
trong thời gian qua không tách rời với những cố gắng chung của Hội đồng dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ và các cơ quan hữu quan. Ủy ban thường vụ Quốc hội
mong rằng, sẽ tiếp tục nhận được sự cộng tác chặt chẽ hơn nữa của các cơ
quan hữu quan và đại biểu Quốc hội.
PHỤ
LỤC
HOẠT
ĐỘNG CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
10 THÁNG ĐẦU NĂM 1994
(Kèm theo Báo cáo số 174/UBTVQH9 ngày 19-10-1994)
A-
CÔNG TÁC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
I-
THÔNG QUA CÁC PHÁP LỆNH
1-
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (3-1994);
2-
Pháp lệnh thuế bổ sung đối với hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp vượt quá
hạn mức diện tích (3-1994);
3-
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về thuế nhà, đất
(5-1994);
4-
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (sửa đổi) (5-1994);
5-
Pháp lệnh bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự
(5-1994);
6-
Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi (8-1994);
7-
Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng"
(8-1994);
8-
Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ,
thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ
cách mạng (8-1994);
9-
Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức trong nước được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất (10-1994);
10-
Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại
Việt Nam (10-1994).
II-
XEM XÉT CÁC DỰ ÁN LUẬT TRÌNH QUỐC HỘI
THÔNG QUA TẠI KỲ HỌP THỨ 5 (THÁNG 6-1994)
1-
Bộ luật lao động (2 lần);
2-
Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất (2 lần);
3-
Luật khuyến khích đầu tư trong nước (2 lần);
4-
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi) (2 lần);
5-
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi) (2 lần);
6-
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự (2 lần);
7-
Luật sửa đổi một số điều của Luật công ty;
8-
Luật sửa đổi một số điều của Luật doanh nghiệp tư nhân.
III-
CHO Ý KIẾN VỀ CÁC DỰ ÁN LUẬT,
DỰ ÁN PHÁP LỆNH
1-
Bộ luật dân sự (4 lần);
2-
Luật ngân sách nhà nước (3 lần);
3-
Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam các quyết định của trọng tài
nước ngoài;
4-
Pháp lệnh bảo vệ công trình giao thông;
5-
Pháp lệnh bảo hộ quyền lợi người tiêu dùng (3 lần);
6-
Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả (2 lần);
7-
Pháp lệnh về khai thác và bảo vệ công trình khí tượng thủy văn;
Ngoài ra, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về kế hoạch tổng kết việc
thực hiện Quy chế xây dựng luật, pháp lệnh được Hội đồng Nhà nước ban hành.
IV-
THÔNG QUA CÁC NGHỊ QUYẾT
Nghị
quyết triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức
Tòa án nhân dân;
Nghị
quyết về ban hành Quy chế về việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu;
Nghị
quyết sửa đổi khung thuế suất một số nhóm hàng trong Biểu thuế nhập khẩu;
Nghị
quyết về việc sửa đổi, bổ sung thuế suất thuế doanh thu đối với một số ngành
nghề trong Biểu thuế doanh thu;
Nghị
quyết quy định khung thuế suất thuế chuyển quyền sử dụng đất trong trường
hợp chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp.
Một
số Nghị quyết khác:
-
Nghị quyết phê chuẩn việc thành lập Vụ kiểm sát thi hành án thuộc Viện kiểm
sát nhân dân tối cao;
-
Nghị quyết phê chuẩn bộ máy làm việc của Tòa án nhân dân tối cao năm 1994;
-
Nghị quyết chương trình công tác của Ủy ban thường vụ Quốc hội năm 1994;
-
Nghị quyết về phân bổ ngân sách cho các Bộ, ngành địa phương và Trung ương;
-
Nghị quyết quy định số Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
-
Nghị quyết về số lượng Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân
dân địa phương, số lượng Thẩm phán và Hội thẩm quân nhân của các Tòa án quân
sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực;
-
Nghị quyết về trang phục đối với các Tòa án, giấy chứng minh thẩm phán và
Hội thẩm.
B-
CÔNG TÁC GIÁM SÁT
I-
TẠI CÁC PHIÊN HỌP ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
Nghe
các báo cáo:
- Kế
hoạch triển khai thực hiện các nghị quyết, luật đã được Quốc hội thông qua
tại kỳ họp thứ 4, thứ 5;
- Kế
hoạch triển khai Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 1994 và dự
kiến phân bổ ngân sách nhà nước năm 1994;
-
Tình hình xử lý các vụ tham nhũng, buôn lậu;
-
Tình hình hoạt động của các Đoàn đại biểu Quốc hội nhằm triển khai các quyết
định của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 4, thứ 5;
-
Tình hình triển khai thực hiện Luật xuất bản và việc chấn chỉnh công tác
quản lý xuất bản, xuất - nhập khẩu văn hóa phẩm;
-
Tình hình thực hiện các nghị quyết của Quốc hội trong 6 tháng đầu năm 1994.
-
Tình hình giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân trong quý I năm
1994; 9 tháng đầu năm 1994;
-
Tình hình cháy chợ Đồng Xuân và việc khắc phục hậu quả;
- Về
việc khắc phục những sơ hở, thiếu sót và việc xử lý những tiêu cực lớn trong
lĩnh vực xuất - nhập khẩu thuộc các ngành thương mại, hải quan;
- Về
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng trong xây dựng cơ bản;
- Về
công tác đối ngoại của Nhà nước ta trong 6 tháng đầu năm 1994; 9 tháng đầu
năm 1994;
- Về
việc Tổng thống Mỹ tuyên bố bỏ cấm vận đối với Việt Nam và chủ trương của
Nhà nước ta về vấn đề này;
-
Công tác phổ cập giáo dục tiểu học, xây dựng đội ngũ giáo viên, mạng lưới
các trường đại học và trung học chuyên nghiệp;
-
Tình hình chuẩn bị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1994 -
1999 (3 lần); nghe báo cáo kết quả các đoàn Ủy ban thường vụ Quốc hội đi
giám sát về công tác này;
-
Một số vấn đề về tình hình vùng dân tộc thiểu số và miền núi;
- Về
vấn đề tôn giáo;
- Về
dự kiến tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1994 theo các nghị quyết của Quốc
hội và phương hướng nhiệm vụ năm 1995;
-
Tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu;
- Về
dự kiến tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 1994, dự toán ngân sách
nhà nước năm 1995 và Tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1993;
-
Tình hình nhà cửa do Nhà nước đang quản lý, sử dụng theo chính sách cải tạo
công thương nghiệp tư bản tư doanh;
-
Hoạt động năm 1994 của Tòa án nhân dân tối cao;
-
Hoạt động năm 1994 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Về
công tác quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và công tác thi
hành án dân sự;
-
Tình hình an ninh, quốc phòng;
-
Tình hình phòng, chống và khắc phục hậu quả bão, lũ lụt ở miền Bắc, miền
Trung và nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long.
II-
CỬ ĐOÀN ĐI GIÁM SÁT
Đoàn
do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh dẫn đầu giám sát tình hình giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân tại thành phố Hà Nội;
Đoàn
do Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Văn Tửu dẫn đầu giám sát tại tỉnh Long An về
tình hình thi hành Luật đất đai, chống tham nhũng, chống buôn lậu;
Đoàn
do Phó Chủ tịch Quốc hội Đặng Quân Thụy dẫn đầu giám sát tại Lâm Đồng về
tình hình thực hiện Nghị quyết về nhiệm vụ năm 1994 về quốc phòng - an ninh
và chống diễn biến hòa bình;
Đoàn
do Phó Chủ tịch Quốc hội Đặng Quân Thụy dẫn đầu giám sát tình hình thực hiện
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở huyện Côn Đảo (tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu) và huyện đảo Phú Quý (tỉnh Bình Thuận);
-
Đoàn do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh dẫn đầu đi thăm và làm việc tại 3
tỉnh Tây Ninh, Sông Bé, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh về tình hình thực
hiện nhiệm vụ năm 1994 theo các nghị quyết của Quốc hội;
Ủy
ban thường vụ Quốc hội đã cử 9 đoàn công tác về một số địa phương giám sát
công tác chuẩn bị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1994 -
1999:
-
Đoàn kiểm tra tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các tỉnh Sông Bé, Đồng
Nai, Tây Ninh do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh dẫn đầu;
-
Đoàn kiểm tra tại 8 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long: Cần Thơ, An Giang, Đồng
Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Kiên Giang, Sóc Trăng và Minh Hải, do Phó Chủ
tịch Quốc hội Nguyễn Hà Phan dẫn đầu;
-
Đoàn kiểm tra tại tỉnh Nghệ An do Phó Chủ tịch Quốc hội Đặng Quân Thụy dẫn
đầu;
-
Đoàn kiểm tra tại các tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế do Phó Chủ
tịch Quốc hội Phùng Văn Tửu dẫn đầu;
-
Đoàn kiểm tra tại các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Lào Cai do Ủy viên Ủy ban
thường vụ Quốc hội Vũ Mão dẫn đầu;
-
Đoàn kiểm tra tại tỉnh Kiên Giang do ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội Phan
Minh Tánh dẫn đầu;
-
Đoàn kiểm tra tại các tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang do Ủy viên Ủy ban thường vụ
Quốc hội Y Ngông Niêk Đăm dẫn đầu;
-
Đoàn kiểm tra tại các tỉnh Nam Hà, Ninh Bình do Ủy viên Ủy ban thường vụ
Quốc hội Trần Thị Tâm Đan dẫn đầu;
-
Đoàn kiểm tra tại các tỉnh Gia Lai, Kon Tum do Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc
hội Hà Mạnh Trí dẫn đầu.
III-
GIÁM SÁT VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ THỰC HÀNH
TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ,
CHỐNG THAM NHŨNG, CHỐNG BUÔN LẬU
a)
Ủy ban thường vụ Quốc hội:
-
Thông qua Nghị quyết ban hành Quy chế về việc phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết Quốc hội về thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu (ngày
16-3-1994).
-
Tiến hành các cuộc họp liên tịch của Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
về phối hợp chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Quốc hội:
1.
Ngày 03-02-1994:
Cuộc họp đầu tiên bàn về những vấn đề chủ yếu trong dự thảo Quy chế phối hợp
giữa các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Nhà nước trong việc chỉ đạo thực hiện
Nghị quyết của Quốc hội. Dự kiến chương trình triển khai việc phối hợp chỉ
đạo.
2. Ngày 07-4-1994:
-
Bàn về tình hình xử lý các vụ tham nhũng, buôn lậu tồn đọng từ năm 1993 cho
đến quý I-1994, trong đó có việc hoàn thành xét xử 10 vụ án điểm trong năm
1993.
-
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao báo cáo về tình hình xét xử các vụ án tham
nhũng, buôn lậu trong cả nước.
-
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo về hoạt động của ngành
Kiểm sát trong lĩnh vực chống tham nhũng, chống buôn lậu.
-
Đại diện Chính phủ báo cáo về tình hình rà soát các văn bản pháp luật liên
quan tới các sơ hở trong hoạt động tham nhũng, buôn lậu.
3. Ngày 09-5-1994:
-
Nghe báo cáo kết quả xúc tiến việc xử lý các vụ tham nhũng được đặt ra trong
tháng 4;
-
Nghe báo cáo về các vụ tham nhũng mới phát hiện, các vụ buôn lậu ô tô, xe
máy ở một số địa phương và đơn vị.
4. Ngày 28-6-1994:
Nghe
báo cáo và cho ý kiến về việc xử lý những sai phạm trong quản lý, sử dụng
đất, hóa giá nhà và làm thử việc triển khai thí điểm việc đổi đất lấy công
trình tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
5. Ngày 29-8-1994:
Tiếp
tục bàn việc xử lý những sai phạm tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã nêu ra tại
phiên họp trước.
b)
Tình hình các đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tham gia thực hiện
Nghị quyết về “thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống
buôn lậu” (theo báo cáo của các đoàn):
Tính
đến ngày 17 tháng 10 năm 1994, Văn phòng Quốc hội đã nhận được văn bản của
32 Đoàn đại biểu Quốc hội báo cáo về tình hình các đại biểu Quốc hội và các
Đoàn đại biểu Quốc hội triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu, tập trung
vào các nội dung chủ yếu sau:
1. Tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết:
- Tổ
chức tiếp xúc cử tri báo cáo kết quả kỳ họp và truyền đạt Nghị quyết của
Quốc hội; tham gia các hội nghị chuyên đề với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân để xây dựng kế hoạch, bàn biện pháp triển khai Nghị quyết; báo cáo tại
hội nghị Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân; tổ chức nhiều hội nghị chuyên đề để tuyên
truyền Nghị quyết theo các nội dung trên với cử tri (các đoàn Lào Cai, Lạng
Sơn, Quảng Bình, Tây Ninh,…); tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng.
-
Một số đoàn kiến nghị với Hội đồng nhân dân tỉnh ra Nghị quyết chuyên đề về
nội dung này (Tây Ninh, Thừa Thiên - Huế, Lạng Sơn, Lào Cai…). Nhiều đoàn
kiến nghị với Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh kiện toàn Ban Chỉ đạo chống tham
nhũng, chống buôn lậu của tỉnh, xác định một số lĩnh vực trọng yếu cần tập
trung chỉ đạo.
-
Một số đoàn có lịch định kỳ hàng tháng làm việc với Tỉnh ủy, Ủy ban nhân
dân, Ban Chỉ đạo chống tham nhũng, chống buôn lậu của tỉnh và các cơ quan
chức năng để nghe báo cáo kết quả chống tham nhũng, chống buôn lậu, đóng góp
ý kiến với các cơ quan quản lý nhà nước, với các ngành pháp luật trong việc
xử lý các vụ tham nhũng, buôn lậu và bàn phương hướng xử lý trong thời gian
tới. Một số đoàn kiến nghị với các cơ quan chức năng ở địa phương sửa đổi
một số văn bản không còn phù hợp với việc hoàn chỉnh cơ chế chung, nhằm ngăn
chặn tệ tham nhũng, buôn lậu.
2. Công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết:
-
Nhiều Đoàn đại biểu Quốc hội đã lập chương trình, kế hoạch giám sát, kiểm
tra; phối hợp với Hội đồng nhân dân và các ngành ở địa phương, nhất là các
ngành trong khối nội chính để triển khai giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
Phối hợp với các ban của Đảng, các ban của Hội đồng nhân dân tổ chức kiểm
tra, giám sát một số cơ quan hữu quan nhà nước, một số lĩnh vực, một số đơn
vị kinh tế trọng điểm các đoàn: Tây Ninh, Thừa Thiên - Huế, Hải Phòng, Thành
phố Hồ Chí Minh, Trà Vinh, Hà Bắc…); phát hiện một số vi phạm trong công tác
quản lý về các lĩnh vực thu, chi ngân sách, sử dụng kinh phí; kiến nghị Ủy
ban nhân dân tỉnh sớm đưa xử lý một số vụ việc tiêu cực, phức tạp, trong đó
có vụ tồn đọng nhiều năm, nhất là trên các lĩnh vực “ xây dựng cơ bản, quản
lý và sử dụng các loại quỹ, việc thực hiện một số dự án cho đồng bào các dân
tộc vùng cao, sử dụng kinh phí khám, chữa bệnh, cai nghiện. Một số đoàn có
chương trình giám sát các cơ quan nội chính trong việc tổ chức thực hiện
Nghị quyết của Quốc hội và việc thực hiện các kiến nghị của đoàn.
- Về
công tác tiếp dân, nhiều đoàn đã cải tiến việc tiếp nhận đơn thư khiếu nại.
Nhiều đoàn đã cùng Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tổ chức
tiếp dân định kỳ và qua công tác tiếp dân kiến nghị với các cơ quan chức
năng ở địa phương tiếp tục thanh tra, điều tra, kiểm sát phát hiện nhiều vụ
tham nhũng, buôn lậu; kiến nghị với các cơ quan có liên quan ở Trung ương và
địa phương cần tập trung giải quyết các vụ phức tạp, kéo dài, có biểu hiện
tiêu cực.
-
Quán triệt Nghị quyết của Quốc hội, các đoàn đề ra nội dung tiết kiệm trong
đoàn mình, nhất là việc tiết kiệm chi tiêu hành chính, xăng xe. Một số đoàn
đã có quy chế quy định về hoạt động, đi lại.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội