BÁO CÁO BỔ SUNG CỦA CHÍNH PHỦ VỀ TÌNH HÌNH
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NĂM 1994 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
CỦA KẾ HOẠCH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NGÂN SÁCH NĂM 1995
(Do Phó Thủ tướng Phan Văn Khải trình bày tại
kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá IX, ngày 31-10-1994)
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Sau khi Quốc hội thảo luận các báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1994 và phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách năm 1995, một số Bộ trưởng đã trả lời chất vấn của Quốc hội về những vấn đề cụ thể thuộc trách nhiệm của từng Bộ.
Theo sự ủy nhiệm của Thủ tướng, tôi xin thay mặt Chính phủ trình bày rõ thêm một số vấn đề lớn nổi lên trong các cuộc thảo luận vừa qua của Quốc hội.
Về đánh giá tình hình năm 1994:
Các đại biểu bày tỏ sự nhất trí cao đối với những nhận định lớn nêu trong báo cáo của Thủ tướng, thể hiện rõ tinh thần của Chính phủ: đánh giá đúng mức để thấy cho hết những thành tựu đã đạt được, vì đó là kết quả phấn đấu của toàn dân, của tất cả các cấp, các ngành trong hoàn cảnh đầy thử thách; đồng thời thẳng thắn vạch rõ những mặt còn yếu kém trong tình hình kinh tế và xã hội, những thiếu sót trong sự chỉ đạo, điều hành để kiên quyết khắc phục. Chính phủ luôn luôn ý thức rằng, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, đáng tự hào, nhưng không thể chủ quan, thỏa mãn vì nhiều việc đáng lẽ có thể làm tốt hơn và công cuộc đổi mới và phát triển tiến về phía trước còn không ít khó khăn, trở ngại.
Nhiệm vụ còn lại của hai tháng cuối năm rất nặng nề. Chính phủ sẽ tăng cường sự chỉ đạo, điều hành và đề nghị các đại biểu Quốc hội, trên cương vị công tác của mình góp phần động viên, kiểm tra, giám sát các ngành, các cấp để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ năm 1994 và chuẩn bị tốt cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ năm 1995; đặc biệt chú ý một số vấn đề lớn:
Một là, khắc phục hậu quả của thiên tai ở đồng bằng sông Cửu Long và đối với sản xuất nông nghiệp ở một số vùng miền Bắc, miền Trung; trước mắt, bảo đảm vụ sản xuất Đông - Xuân và cân đối lương thực qua kỳ giáp hạt đến khi thu hoạch vụ lúa tới, điều hòa lương thực cả nước và gạo xuất khẩu.
Hai là, thực hiện kế hoạch thu, chi ngân sách cả năm, trong đó tập trung giải quyết cho được kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và các chương trình quốc gia năm 1994.
Ba là, kiểm soát và kiềm chế lạm phát, hạn chế biến động giá cả trong những tháng cuối năm nay và dịp Tết năm sau.
Bốn là, xúc tiến cải cách thủ tục hành chính.
Về nhiệm vụ năm 1995:
Các đại biểu Quốc hội biểu thị sự nhất trí cao với quan điểm đã được phân tích sâu sắc trong báo cáo của Thủ tướng: đất nước ta bước vào năm 1995 với khí thế tự tin hơn và đang đứng trước những cơ hội mới do nỗ lực chủ quan của chúng ta tạo ra. Mặt khác, thực trạng lạc hậu và nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế thật sự là thách thức lớn đối với dân tộc ta trong bối cảnh quốc tế đang diễn ra cuộc chạy đua kinh tế quyết liệt, gắn liền với những bước tiến kỳ diệu của cách mạng khoa học và công nghệ.
Yêu cầu đẩy nhanh nhịp độ phát triển một cách bền vững, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế không chỉ là nguyện vọng mà còn là mệnh lệnh của cuộc sống, với sức ép rất mạnh cả từ bên trong và bên ngoài.
Vận nước đang đứng trước thách thức lớn đòi hỏi ý chí, năng lực của mỗi người và sự nhất tề của cả dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
Thế nhưng, nhìn vào thực tế nước ta hiện nay, phải thừa nhận rằng trong bộ máy nhà nước cũng như trong nhân dân, còn nhiều biểu hiện chứng tỏ ý thức cần kiệm còn thấp, tình trạng lãng phí còn nặng cả trong tiêu dùng và sản xuất, nhiều nguồn lực, kể cả tiền vốn, chưa được huy động vào đầu tư phát triển. Không xoay chuyển được tình hình này thì không thể tiến vào giai đoạn phát triển mới với nhịp độ nhanh, bền vững và có hiệu quả.
Con đường giải quyết là đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới một cách toàn diện và triệt để theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà những vấn đề cần tập trung giải quyết trong năm 1995 được thể hiện ở sáu giải pháp lớn nêu trong báo cáo của Thủ tướng. Các đại biểu Quốc hội tán thành phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội và những giải pháp lớn, đồng thời nhấn mạnh hoặc bổ sung thêm một số chủ trương, biện pháp trong kế hoạch và ngân sách năm 1995.
Tôi xin trình bày rõ thêm ý kiến của Chính phủ về một số vấn đề lớn đã được các đại biểu đề xuất. Sau khi Quốc hội ra Nghị quyết về nhiệm vụ năm 1995, Chính phủ sẽ lập chương trình chỉ đạo thực hiện, tập trung vào sáu giải pháp lớn.
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Nhiều đại biểu tán thành kế hoạch thu, chi ngân sách phải bố trí sát với khả năng thực tế, nhưng đều băn khoăn về mức dành cho đầu tư xây dựng cơ bản có 10.860 tỷ, tương đương với chi trả nợ (10.300 tỷ); trong đó gần 75% dựa vào vốn vay và viện trợ cho đầu tư. Số thu ngân sách trong nước dành cho đầu tư chỉ có 2.770 tỷ, bằng 1,2% GDP là quá thấp. Đó là điều lo ngại có căn cứ vì mức đầu tư ngân sách cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng là điều kiện rất thiết yếu để khai thác các nguồn lực trong và ngoài nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của thời kỳ mới.
Trước tình hình đó, chỉ có hai cách giải quyết: một là, tăng thu ngân sách, hai là tiết kiệm chi hơn nữa để có thêm vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
1. Về tăng thu: Bộ trưởng Bộ Tài chính đã báo cáo thêm với Quốc hội khả năng tăng thu theo chính sách thuế hiện hành, nhất là trong khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh. Khu vực này chiếm khoảng 24% GDP nhưng chỉ đóng góp gần 11% số thu thuế và phí. Như vậy, trong khi tỷ lệ động viên từ GDP của toàn xã hội vào ngân sách nhà nước khoảng 24 - 25%, thì tỷ lệ này trong khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh chỉ vào khoảng 11%. Thật là không bình thường khi xem xét mức thu bình quân một hộ kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ thì ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Quảng Nam - Đà Nẵng lại thấp hơn mức bình quân chung của cả nước. Số liệu điều tra gần đây của Tổng cục Thuế ở 4 quận nội thành và huyện Gia Lâm của Hà Nội cho thấy có những nơi thất thu về hộ tới 50% và về doanh số tới trên 50%. Tình trạng này không những làm giảm nguồn thu ngân sách mà còn gây ra bất bình đẳng trong kinh doanh và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, các địa phương. Nhà nước đã có Luật khuyến khích đầu tư trong nước, tạo thuận lợi cho sự phát triển các ngành, nghề thuộc mọi thành phần kinh tế, song đòi hỏi mọi người dân phải thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách theo đúng luật. Chúng ta phải kết hợp nhiều biện pháp để tạo nên tâm lý xã hội ngày càng tự giác thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, coi đó là trách nhiệm hàng đầu của mọi công dân, thẳng thắn lên án, đấu tranh chống mọi hành vi trốn lậu thuế.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước thì tình trạng hạch toán vào giá thành nhiều khoản chi lãng phí, không hợp lệ cũng như việc để tồn đọng thuế phải nộp diễn ra khá phổ biến cần phải được kiên quyết khắc phục để tăng thêm nguồn thu ngân sách. Tài sản cố định của khu vực này được đánh giá quá thấp so với thực tế, làm giảm mạnh mức khấu hao cơ bản, tuy từ năm 1995, không tập trung vào ngân sách, nhưng vẫn là một nguồn vốn đầu tư tái sản xuất rất quan trọng của các doanh nghiệp nhà nước.
Việc chống buôn lậu hàng nhập khẩu, nhất là nhập khẩu tiểu ngạch, kiểm soát và thực hiện đúng chính sách thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào hoạt động, thu đủ và tập trung nguồn thu về kinh doanh nhà, đất cũng là những nguồn tăng thu quan trọng.
Các cấp chính quyền phải coi việc thu thuế đúng luật là trách nhiệm hàng đầu, vì thu ngân sách là nguồn lực quan trọng nhất trong tay Nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đồng thời là công cụ điều tiết vĩ mô nhạy bén nhất. Khả năng thực hiện kế hoạch thu chi trong mấy tháng cuối năm cũng như tăng thu vượt dự kiến đề ra cho năm 1995 phụ thuộc vào nỗ lực của cơ quan chính quyền các địa phương cùng với ngành Tài chính, với sự phối hợp tích cực của các cơ quan có liên quan và các đoàn thể.
Để khuyến khích những nỗ lực ấy, ngoài các khoản thu đã phân cấp cho địa phương theo quy định hiện hành, Chính phủ đề nghị từ năm 1995 áp dụng quy định bổ sung đối với một số khoản thu ngân sách, như sau:
- Để lại cho ngân sách địa phương 100% khoản thu về bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước do địa phương quản lý để phát triển quỹ nhà ở theo quy hoạch; 70% số thu về giao quyền sử dụng đất để các địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng; 50% số thu thuế chuyển quyền sử dụng đất.
- Đối với thuế xuất - nhập khẩu qua biên giới, để xóa bỏ sự phân biệt giữa xuất - nhập khẩu chính ngạch và tiểu ngạch đã gây ra tiêu cực, năm 1994, Chính phủ chủ trương thống nhất việc thu thuế qua hệ thống hải quan và tập trung về ngân sách trung ương. Nay qua thực tế, để nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của địa phương trong việc quản lý xuất - nhập khẩu qua biên giới đất liền, chống buôn lậu và trốn thuế, đồng thời củng cố tuyến phòng thủ và tăng cường an ninh, trật tự ở biên giới, Chính phủ đề nghị sửa đổi như sau: phần lớn các tỉnh biên giới đất liền được giữ lại toàn bộ số thu về thuế xuất - nhập khẩu để chi cho việc xây dựng, củng cố các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở biên giới. Đối với một số ít tỉnh có nguồn thu tương đối lớn về xuất - nhập khẩu qua biên giới đất liền, Trung ương sẽ định tỷ lệ điều tiết một phần để hỗ trợ cho các tỉnh biên giới khác.
- Đối với số tăng thu vượt kế hoạch, ngoài việc để lại cho ngân sách địa phương số thu vượt kế hoạch của những sắc thuế mà địa phương được hưởng 100%, nay để lại thêm cho địa phương toàn bộ số thu vượt kế hoạch về thuế lợi tức. Địa phương nào có nhiều biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp hạ tỷ lệ tiêu hao vật chất và phí quản lý thì thuế lợi tức càng lớn. Đối với phần vượt kế hoạch thuế doanh thu thuộc ngân sách trung ương, vẫn giữ tỷ lệ để lại 60% cho ngân sách địa phương (trên thực tế, quy định này chỉ có ý nghĩa đối với khoảng 10 tỉnh, thành phố có mức thuế doanh thu cao, còn các tỉnh khác thuộc diện nhận trợ cấp bổ sung của Trung ương lâu nay vẫn hưởng toàn bộ thuế doanh thu). Đối với phần thu vượt kế hoạch được hưởng, các địa phương được chủ động sử dụng cho đầu tư phát triển và tăng dự trữ gối đầu cho ngân sách năm sau.
Điều quan trọng là các địa phương phải thấy rõ sự thống nhất giữa lợi ích toàn cục và lợi ích địa phương trong việc xây dựng kế hoạch thu chi ngân sách. Nếu tổng hợp ngân sách năm 1995 theo đề nghị của các địa phương làm việc với Bộ Tài chính và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, thì tổng số thu chỉ có 46,7 ngàn tỷ đồng, còn tổng số chi lên tới 76,8 ngàn tỷ. Tình hình này diễn ra từ nhiều năm nay: thu thì nhận thấp, chi thì xin cao; xin tăng chi nhưng không đề ra tăng thu ở đâu, giảm chi khoản nào để có nguồn đáp ứng. Chúng ta đều hiểu lý do chính đáng của các nhu cầu chi mà các ngành và các địa phương nêu ra, song phải trên tinh thần lo toan chung, tích cực thu, tiết kiệm chi theo đúng chính sách, chế độ thì mới cân đối được ngân sách cả nước.
Năm 1994, còn tới 33 tỉnh có số thu trên địa bàn ít hơn tổng số chi, phải dựa vào trợ cấp bổ sung của ngân sách trung ương. Một lần nữa, chúng ta cần nhấn mạnh yêu cầu phấn đấu đề ra cho các địa phương: những địa phương có mức thu trên địa bàn lớn hơn tổng số chi thì phải cố gắng đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất và tăng thu để số dôi ra ngày càng lớn, góp phần giải quyết nhu cầu chung về quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội …; Những địa phương cân đối được thu, chi thì phấn đấu tăng số thu lớn hơn để có phần dôi ra; những địa phương còn nhận nguồn bổ sung của Trung ương cần vươn lên giảm dần mức nhận bổ sung, tiến tới tự cân đối được thu, chi và có phần dôi ra. Khi đánh giá tình hình kinh tế của các địa phương, cần hết sức chú ý tới yêu cầu phấn đấu này, coi đó là một trong những tiêu chuẩn phản ánh trực tiếp mức thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”.
2. Về tiết kiệm chi:
a) Nguồn lực cho đầu tư phát triển còn nhiều khả năng tăng nhanh trên cơ sở tiết kiệm chi, trước hết là tiết kiệm chi trong khu vực nhà nước.
Thi hành Nghị quyết kỳ họp thứ 4 của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, Chính phủ đã giao nhiệm vụ và tích cực đôn đốc các Bộ, và các tỉnh, thành phố xây dựng và thực hiện kế hoạch tiết kiệm trong ngành và địa phương mình. Đúng như nhận xét của một số đại biểu, việc đề ra nhất loạt mức tiết kiệm 5% kế hoạch chi mang tính chất bình quân, có phần gượng ép. Tuy có đưa lại một số kết quả, nhưng nhìn chung tình trạng tiêu xài lãng phí, xa hoa bằng tiền của công vẫn rất nghiêm trọng. Điển hình là những cuộc tiếp đãi, ăn nhậu, quà cáp, mừng ngày kỷ niệm, v.v..; nhiều thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp nhà nước đua nhau sắm xe hơi đời mới, trang trí nội thất đắt tiền và tiện nghi quá mức cần thiết… Trong khi phê phán tình trạng đục khoét vốn, tài sản công, nhận hối lộ làm thiệt hại cho Nhà nước, chúng ta thường lại dễ bỏ qua nhiều cái lãng phí tuy nhỏ nhưng khá phổ biến, cộng lại cũng trở thành khoản chi lớn, như lãng phí điện, xăng dầu, nước, vật liệu văn phòng, v.v.. Có thể nói vắn tắt, nếu như việc chi tiêu tiền của công cũng chặt chẽ như mỗi người sử dụng tiền riêng của mình, thì nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển sẽ tăng đáng kể.
Rút kinh nghiệm năm trước, Chính phủ đề nghị tiến hành một cuộc vận động thường xuyên, liên tục về thực hành tiết kiệm trong các khu vực nhà nước, bao gồm các doanh nghiệp, các tổ chức sự nghiệp, các cơ quan hành chính. Hơn ai hết, từng đơn vị, từng bộ phận cho đến từng công nhân, viên chức hiểu rõ mình có thể tiết kiệm những gì, ở khâu nào và phải tự mình lập kế hoạch tiết kiệm cụ thể cho năm 1995, công bố trong đơn vị và đăng ký với cấp trên. Các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tổng hợp kế hoạch tiết kiệm của các đơn vị trong ngành, địa phương mình, thông báo rộng rãi trong ngành, địa phương và báo cáo lên Chính phủ ngay từ đầu năm. Số tiền tiết kiệm được ở mỗi đơn vị được để lại cho đơn vị đó sử dụng vào những việc cần thiết và báo cáo lên cấp trên biết.
Ý thức tự giác của mỗi đơn vị và cá nhân cùng với việc công khai kế hoạch cũng như kết quả thực hành tiết kiệm để mọi người có thể so sánh, góp ý, theo dõi và kiểm soát, là những nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả của cuộc vận động này. Vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, công tác vận động của các đoàn thể cùng với tiếng nói của báo chí cũng góp phần quan trọng vào kết quả thực hành tiết kiệm.
b) Đối với kế hoạch chi ngân sách năm 1995 đã trình Quốc hội, một số đại biểu kiến nghị giảm chi thường xuyên để dành thêm vốn cho đầu tư phát triển. Chính phủ hoan nghênh ý kiến đó và đề nghị Quốc hội chấp thuận mấy biện pháp cụ thể dưới đây:
- Trong mấy năm tới, kể từ năm 1995, đình chỉ các khoản chi xây dựng trụ sở mới, mua sắm ô tô và trang bị nội thất của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng và các đoàn thể dựa vào ngân sách cấp phát. Những trường hợp đặc biệt cần giải quyết phải được Thủ tướng Chính phủ cho phép.
- Lương tối thiểu và khoảng cách về ngạch, bậc lương giữ ổn định theo mức đã điều chỉnh năm 1994, chưa nâng thêm trong năm 1995.
Theo các phương hướng và biện pháp nêu trên, Chính phủ đề nghị Quốc hội cho điều chỉnh kế hoạch thu, chi ngân sách năm 1995 đã trình kỳ họp này như sau: tăng thu thêm 800 tỷ đồng (gồm thu từ kinh tế quốc doanh tăng 100 tỷ, thu thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh tăng 300 tỷ thu về giao quyền sử dụng đất tăng 300 tỷ, thu tiền bán nhà ở tăng 100 tỷ), và giảm chi thường xuyên 200 tỷ (gồm tiết kiệm chi hành chính 100 tỷ, chi khác 100 tỷ). Số tăng thu và tiết kiệm chi này là 1.000 tỷ đồng dành toàn bộ để bổ sung vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách năm 1995.
Ngoài ra, khi tranh thủ thêm được nguồn vốn từ bên ngoài đưa vào ngân sách (kể cả nguồn vay ưu đãi và làm thử việc bán trái phiếu ra nước ngoài), cũng sẽ tập trung cho khoản chi đầu tư phát triển.
Việc cố gắng tăng thêm vốn ngân sách dành cho đầu tư xây dựng cơ bản phải đi liền với việc thực hiện nghiêm chỉnh điều lệ mới về quản lý đầu tư và xây dựng, kiên quyết ngăn chặn tình trạng xây dựng công trình không tuân thủ quy trình và thủ tục. Đồng thời, phải mau chóng nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch và chuẩn bị các dự án, đặc biệt là dự án tranh thủ nguồn tài trợ từ bên ngoài để có thêm nguồn vốn và bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn.
Đi đôi với việc thực hiện kế hoạch thu, chi ngân sách theo chế độ hiện hành, từ năm 1995, Chính phủ sẽ xúc tiến chương trình cải cách từng bước hệ thống thuế theo hướng đơn giản, thuế suất ở mức hợp lý, bảo đảm dễ tính, dễ thu, đồng thời hoàn chỉnh dự Luật ngân sách trình Quốc hội, đổi mới chế độ kế toán và phát triển công tác kiểm toán. Báo cáo của Thủ tướng trước Quốc hội coi đây là một nội dung quan trọng trong chương trình cải cách kinh tế kết hợp với cải cách hành chính trong thời gian tới. Trước mắt, Chính phủ sẽ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi một số thuế suất đối với hàng nhập khẩu và điều chỉnh giá bán một số mặt hàng do Nhà nước quy định giá (như điện, xăng dầu, v.v.) để tiếp tục xóa bao cấp, phù hợp với quan hệ cung cầu và giá thị trường thế giới.
II- TĂNG NHANH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN BẰNG
NGUỒN VỐN NGOÀI NGÂN SÁCH
Trong khi nỗ lực tăng mức đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách nhà nước, chúng ta cần thấy rằng, nhịp độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào đầu tư phát triển của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư. Việc mở rộng sản xuất - kinh doanh trong các ngành, nghề, thuộc mọi hình thức sở hữu, kể cả bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư do Nhà nước chi phối, vốn đầu tư trực tiếp của các công ty nước ngoài, là yếu tố quan trọng hàng đầu tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giải quyết việc làm, trực tiếp tạo ra hiệu quả kinh tế. Đó là nguồn tăng tích lũy và cải thiện đời sống, tăng thu ngân sách. “Cái bánh” to ra thì các nhu cầu mới có thể được đáp ứng ngày càng tốt hơn.
Giai đoạn phát triển mới đòi hỏi phải nâng ý thức cần kiệm thành nếp sống trong xã hội; mọi doanh nghiệp, mọi người đều thực hành tiết kiệm, dành tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển mọi nguồn vốn được huy động vào chu chuyển kinh tế, sinh lời. Khí thế làm giàu cho mình và cho đất nước phải cuốn hút toàn dân ra sức phát triển kinh tế như khí thế giành độc lập, thống nhất đã từng tạo ra chiến tranh nhân dân.
Công tác tuyên truyền, giáo dục phải đi liền với cơ chế, chính sách và những biện pháp hỗ trợ thiết thực của Nhà nước để tạo ra khí thế ấy.
1. Trước hết, phải khẳng định và thực hiện nghiêm chỉnh, nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước (bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước) trên cơ sở nâng cao hiệu quả kinh tế -xã hội; tổng kết các mô hình tốt để mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác trên cơ sở tự nguyện; tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế cá thể và gia đình, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các cơ sở hợp tác và liên doanh với nước ngoài, các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều loại sở hữu. Nhà nước và xã hội hoan nghênh và bảo hộ mọi hoạt động đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh theo luật pháp, tôn vinh những người có nhiều đóng góp cho quốc kế dân sinh. Bằng việc bổ sung, hoàn chỉnh thể chế, đặc biệt là xúc tiến việc xây dựng và ban hành Bộ luật dân sự, Bộ luật kinh doanh (Luật thương mại) và bằng việc làm thực tế, bằng dư luận xã hội, chúng ta phải mau chóng xua tan tâm trạng nghi ngại đang còn rơi rớt trong một bộ phận dân cư, hạn chế đầu tư phát triển, nhất là đầu tư vào sản xuất.
2. Luật khuyến khích đầu tư trong nước mới ban hành cần được mau chóng cụ thể hóa và tổ chức thực hiện tốt. Về lâu dài, cần tiến tới thống nhất chính sách khuyến khích đầu tư đối với trong nước cũng như người nước ngoài. Yêu cầu cấp bách là sửa ngay các thủ tục hành chính đang gây phiền hà cho việc đăng ký kinh doanh, áp dụng cơ chế “một cửa” tiếp nhận và xét duyệt các dự án đầu tư và giải quyết nhanh chóng việc cho các nhà đầu tư thuê đất thực hiện dự án đã được duyệt. Cần thấy rằng môi trường đầu tư ở nước ta đang giảm sức hấp dẫn và kém sức cạnh tranh so với một số nước chung quanh để kiên quyết và mau chóng khắc phục những mặt yếu. Đáng chú ý là một số công ty, tập đoàn lớn nói thẳng với Chính phủ ta là họ không thể cạnh tranh nổi các công ty loại nhỏ hơn, thậm chí, cả công ty “rỏm” của một số nước trong vùng vì luật pháp và chế độ kế toán của nước họ không cho phép chi các khoản “tiêu cực phí”. Đối với các nhà đầu tư trong nước, lại càng phải quan tâm hướng dẫn và hỗ trợ nhiều hơn, vì trước đây bị coi nhẹ.
Bên cạnh các chính sách khuyến khích, ưu đãi theo ngành, nghề, địa bàn đầu tư, Nhà nước cần tạo các điều kiện cần thiết, đặc biệt là về các lĩnh vực sau đây:
- Xây dựng cơ sở hạ tầng bằng cả nguồn vốn của ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và huy động thêm sức dân cùng với khả năng đầu tư của các doanh nghiệp, trong điều kiện hiện nay, tập trung trước hết vào việc xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp được bảo đảm về điện, nước, giao thông, thông tin với mặt bằng thuận tiện cho việc thiết lập các cơ sở sản xuất.
- Chuyển giao công nghệ mới cả trong sản xuất và quản lý, bao gồm cả công tác khuyến nông.
- Hỗ trợ về thông tin, tiếp thị. Trong việc này, có vai trò của các hiệp hội kinh doanh, các tổ chức dịch vụ, song các cơ quan quản lý nhà nước, trước hết là Bộ Thương mại, cũng có trách nhiệm lớn.
- Hỗ trợ về vốn bằng biện pháp chính là phát triển thị trường vốn, đồng thời Nhà nước dành một phần ngân sách hỗ trợ cho các mục tiêu cần thiết. Qua ý kiến của nhiều đại biểu, Chính phủ sẽ xem xét lại các quỹ hỗ trợ và các chương trình mục tiêu quốc gia hiện nay quá phân tán, như quỹ thực hiện Chương trình 327, quỹ sắp xếp lao động, giải quyết việc làm, quỹ định canh, định cư, quỹ phát triển kinh tế biển, quỹ xóa đói, giảm nghèo, v.v.. Hướng xử lý đại thể như sau:
+ Dành một phần làm quỹ cho vay ưu đãi theo dự án, một phần làm quỹ hỗ trợ lãi suất tín dụng cho các đối tượng cần thiết (vốn đầu tư vẫn vay ngân hàng theo lãi suất bình thường để ngân hàng có thể mở rộng kinh doanh vốn, đi vay để cho vay. Đối với một số đối tượng cần thiết, được quy định rõ tiêu chuẩn, Nhà nước xét hỗ trợ một phần lãi suất). Chính phủ bổ sung quy chế sử dụng quỹ, giao cho các tỉnh, thành phố quản lý và quyết định việc sử dụng, đồng thời, có chế độ kiểm tra, thanh toán chặt chẽ.
+ Đối với các chương trình mục tiêu quốc gia, cần cải tiến cách quản lý: những chương trình gắn với địa phương thì giao khoản chi cho ngân sách địa phương để địa phương trực tiếp điều hành; các chương trình khác cũng phải thu gọn đầu mối quản lý và tăng cường kiểm soát chi tiêu.
Nhân đây, cũng xin nói thêm về chính sách hỗ trợ một số mặt hàng cho miền núi, Chính phủ chủ trương tiếp tục thực hiện chính sách trợ giá cước vận tải 7 mặt hàng thiết yếu cho miền núi; riêng mấy mặt hàng cho không đồng bào dân tộc ở vùng cao, theo ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội, sang năm 1995, Chính phủ sẽ thay việc cung cấp hiện vật bằng việc khoán kinh phí cho địa phương thực hiện, trên nguyên tắc bảo đảm cho những người nghèo khổ cũng có muối iốt, có dầu thắp sáng, có giấy viết và thuốc chữa bệnh.
3. Mở rộng nhiều hình thức thu hút vốn, phát triển thị trường vốn, tiến tới thiết lập thị trường chứng khoán. Có thị trường vốn mới huy động được mọi khoản tiền nhàn rỗi, chuyển thành vốn sống, đáp ứng nhu cầu đầu tư và mới nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn.
Để tạo thị trường vốn, phải tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền; đồng thời phát triển nhiều hình thức thu hút tiền nhàn rỗi thích hợp với nhiều đối tượng; bên cạnh các hình thức đã có như gửi tiết kiệm, mua công trái, cần mở rộng từng bước việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu trên cơ sở phát triển các công ty cổ phần mới và xúc tiến cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước có điều kiện, phát triển các quỹ bảo hiểm. Ngân hàng phải mở rộng kinh doanh vốn, thu hút tiền gửi trung hạn và dài hạn để tạo nguồn vốn tín dụng đầu tư, áp dụng cơ chế lãi suất phù hợp với quan hệ cung - cầu về vốn, nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán, tạo niềm tin cho khách hàng. Xây dựng luật pháp về chứng khoán và thị trường chứng khoán, đào tạo cán bộ chuẩn bị cho việc thiết lập thị trường này. Đó là những việc cụ thể phải làm để giải quyết vấn đề vốn theo hướng đã nêu trong báo cáo của Thủ tướng trình Quốc hội.
Trong tình hình hiện nay, Nhà nước cần coi trọng việc tạo nguồn vốn tín dụng đầu tư để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Nhu cầu tối thiểu năm 1995 khoảng 7.000 - 8.000 tỷ đồng, nhưng việc tìm nguồn vốn với lãi suất nhẹ hơn lãi suất thị trường đang có nhiều hạn chế. Hướng giải quyết trước mắt là:
- Các doanh nghiệp chủ động tìm nguồn vốn trong nước và ngoài nước theo phương thức tự vay, tự trả; áp dụng các hình thức cổ phần hóa, bán cổ phiếu, trái phiếu để có vốn đầu tư.
- Các ngân hàng tìm nguồn vay để cho vay lại; đối với một số đối tượng cần thiết, Nhà nước sẽ xem xét hỗ trợ một phần về lãi suất.
4. Giải quyết dứt điểm việc tổng thanh toán nợ giai đoạn 2 để đưa hoạt động tài chính doanh nghiệp đi vào quy củ, lành mạnh.
Sau khi kết thúc giai đoạn 1, thanh toán được 99% số nợ phải giải quyết giữa các doanh nghiệp đang hoạt động (với tổng số nợ lẫn nhau là 2.524 tỷ đồng), từ tháng 7 năm 1992, đã bắt đầu tiến hành giai đoạn 2 với nhiều khó khăn phức tạp hơn. Đến nay, đã xác minh được tổng số nợ phải giải quyết là 18.000 tỷ đồng, đã thanh toán được 1.357 tỷ đồng, hoàn toàn bằng vốn của các đơn vị kinh tế và cá nhân với nhiều biện pháp cưỡng chế. Số nợ phải giải quyết tiếp còn tới 16.500 tỷ đồng, trong đó có gần 3.000 tỷ đồng chưa được xác nhận nợ. Những khoản nợ không có khả năng thanh toán lên tới 3.668 tỷ đồng, bao gồm 1.385 tỷ đồng của các doanh nghiệp nhà nước đã ngừng hoạt động, 1.553 tỷ đồng của khu vực kinh tế hợp tác xã đã tan rã và 730 tỷ đồng của các doanh nghiệp đời sống thuộc các cơ quan, đoàn thể không có tài sản để trả nợ.
Chính phủ đang chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương trong mấy tháng cuối năm tập trung giải quyết về cơ bản các khoản nợ còn lại bằng mấy biện pháp chính: thanh toán dứt điểm các khoản nợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động bằng cách tận dụng tối đa phần vốn tự có của doanh nghiệp với sự hỗ trợ của Nhà nước bằng một số vốn mồi đã thu hồi sau giai đoạn 1 và có thể bổ sung thêm, tận thu nợ gốc vay ngân hàng và tạm khoanh nợ lãi, cấp vốn ngân sách bổ sung cho doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động có hiệu quả, giảm tình trạng chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp. Đối với số công nợ đã được đối chiếu xác nhận nhưng không có khả năng thanh toán, phải làm sáng tỏ nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan để xử lý theo quy định của cơ chế thanh toán nợ. Đối với các món nợ chưa được xác nhận, thì giao lại cho cơ quan pháp luật điều tra, xử lý về mặt kinh tế và hình sự nếu có dấu hiệu phạm pháp.
Do hậu quả của cơ chế cũ và sự buông lỏng quản lý các doanh nghiệp trong một thời gian dài, chúng ta phải trả giá khá đắt về những tổn thất đối với tiền vốn của các doanh nghiệp và của ngân sách nhà nước. Song phải kiên quyết xử lý dứt điểm tổng thanh toán nợ giai đoạn 2 để làm lành mạnh tình hình tài chính của các đơn vị kinh tế, chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, thì mới đưa được hoạt động kinh tế vào quy củ và huy động được các nguồn lực cho sự phát triển.
Bằng những biện pháp lớn nêu trên, năm 1995, phải đạt được chuyển biến lớn về quy mô và hiệu quả đầu tư phát triển trong toàn xã hội, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế ở nông thôn, tăng tỷ trọng đầu tư vào sản xuất ở thành thị, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài được nhiều hơn và đưa vào hoạt động nhanh hơn. Chuyển biến đó không chỉ tác động tới tình hình kinh tế năm 1995 mà còn tạo cơ sở cho nhịp độ tăng trưởng nhanh hơn trong những năm tới.
III- MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH XUẤT - NHẬP KHẨU
Trong lĩnh vực ngoại thương, năm 1992, xuất khẩu chính ngạch đã vượt một ít so với nhập khẩu (xuất 2.580 triệu USD, nhập 2.400 triệu); từ năm 1993, nhập siêu ngày một tăng: 424 triệu năm 1993, 900 triệu năm 1994 và dự kiến 1.000 triệu năm 1995; nếu tính thêm cả mậu dịch tiểu ngạch và buôn lậu thì mức nhập siêu còn lớn hơn.
Năm 1995, nguồn ngoại tệ đầu tư trực tiếp của nước ngoài đưa vào thực hiện ở nước ta khoảng 1.300 triệu USD và nguồn vốn tài trợ phát triển của bên ngoài có thể thực hiện khoảng 360 triệu USD. Vì vậy, cán cân thanh toán quốc tế năm 1995 vẫn cân bằng.
Mặc dầu vậy, chúng ta phải xem xét kỹ cơ cấu hàng nhập khẩu. Năm 1995, dự kiến kim ngạch nhập khẩu tăng hơn năm trước 1.000 triệu USD thì 400 triệu là tăng nhập thiết bị (chủ yếu là thiết bị toàn bộ theo các dự án đầu tư), 550 triệu tăng nhập nguyên, nhiên, vật liệu, còn hàng tiêu dùng chỉ tăng 50 triệu, chủ yếu là bột mì, sữa bột, tân dược, ô tô con và xe gắn máy. Một số mặt hàng tiêu dùng tuy nhập nguyên chiếc không nhiều nhưng tính cả sản phẩm lắp ráp từ linh kiện nhập thì khối lượng khá lớn, như ô tô, xe máy, hàng điện tử dân dụng.
Nguồn ngoại tệ của ta có hạn, việc chi dùng phải chặt chẽ, có hiệu quả, tạo ra ngoại tệ mới. Chính sách chung là phải kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, khuyến khích nhập tư liệu sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được, đặc biệt là thiết bị có công nghệ mới và vật tư, nguyên liệu. Đối với hàng tiêu dùng, kể cả hàng cao cấp đắt tiền, chúng ta không chủ trương cấm nhập mà chủ yếu là điều tiết bằng thuế. Biện pháp hữu hiệu để khuyến khích nhân dân tiết kiệm tiêu dùng, ưu tiên dành tiền cho đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh là áp dụng các chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu tư đi đôi với chính sách thuế đánh vào hàng tiêu dùng ở mức hợp lý.
Đối với những mặt hàng trong nước đã sản xuất được thì cần bảo hộ bằng hàng rào thuế quan nhưng phải có mức độ và giảm dần để không gây ỷ lại, trì trệ. Thực tế mấy năm qua cho thấy, cách bảo hộ tích cực hơn đối với sản xuất trong nước là tạo điều kiện và hỗ trợ cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị và công nghệ, cải tiến quản lý để nâng cao được sức cạnh tranh của hàng nội địa so với hàng nhập. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài thì yêu cầu bảo đảm sức cạnh tranh của hàng hóa so với hàng bên ngoài phải là một tiêu chuẩn quan trọng khi xét duyệt dự án đầu tư. Các ngành và cở sở sản xuất luôn luôn phải đặt hàng hóa của mình trong quan hệ so sánh với chất lượng, giá cả quốc tế và phải thấy rõ tính chất hết sức bức bách của việc bảo đảm khả năng cạnh tranh, nhất là khi ta đang chuẩn bị gia nhập GATT (Thỏa thuận chung về thuế quan và thương mại quốc tế) và khối mậu dịch tự do đang được xúc tiến hình thành giữa các nước ASEAN mà ta sắp trở thành thành viên đầy đủ.
Đối với những mặt hàng cần hạn chế tiêu dùng (như rượu, thuốc lá, v.v.) hoặc những mặt hàng có thể điều tiết thu nhập qua tiêu dùng (như những mặt hàng cao cấp) thì áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt, phân biệt với thuế nhập khẩu, vì những mặt hàng đó sản xuất trong nước hay nhập khẩu đều phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Đó là quan điểm chỉ đạo việc cải tiến chính sách thuế nhập khẩu trong thời gian tới.
Bên cạnh vấn đề chính sách, cần phải chấn chỉnh tổ chức quản lý nhập khẩu đang có nhiều lộn xộn. Tình trạng lợi dụng hình thức nhập linh kiện lắp ráp để tránh thuế nhập sản phẩm nguyên chiếc cũng như việc kiểm soát không chặt chẽ các cơ sở liên doanh nhập hàng dưới danh nghĩa tư liệu sản xuất được miễn thuế để bán lại kiếm lời cần phải được kiểm tra, chấn chỉnh. Kiên quyết tổ chức lại một số đầu mối có đủ điều kiện và trình độ kinh doanh nhập khẩu (kể cả nhập linh kiện lắp ráp) đối với những mặt hàng quan trọng trên nguyên tắc vừa bảo đảm trật tự và tín nhiệm trong hoạt động ngoại thương, vừa ngăn ngừa độc quyền. Trong thời gian qua, đã xảy ra tình trạng khi thừa, khi thiếu một số mặt hàng quan trọng như phân đạm, sắt thép, xi măng, giấy, v.v. không phải do thiếu ngoại tệ như trước đây mà chủ yếu là do sự chỉ đạo, điều hành. Khuyết điểm đó cần phải được khắc phục ngay.
Đối với hàng xuất khẩu, chính sách thuế hiện hành đã thể hiện tinh thần khuyến khích mạnh mẽ. Về thủ tục hành chính, đã bỏ việc cấp giấy phép xuất khẩu theo chuyến và đang tiếp tục soát xét những quy định không hợp lý vừa gây khó khăn cho xuất khẩu, vừa có những kẽ hở dễ bị lợi dụng. Vấn đề lớn hiện nay là phải tích cực cải tiến cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng hàng chế tiến, trước hết là nông, lâm, thủy sản và hàng công nghiệp nhẹ như may mặc, đồ da, v.v. nâng cao năng lực tiếp thị, tìm và giữ thị trường, đồng thời chấn chỉnh tổ chức xuất khẩu, hình thành một số đầu mối xuất khẩu những mặt hàng quan trọng.
Một yếu tố quan trọng đối với xuất - nhập khẩu là tỷ giá hối đoái, Chính phủ chủ trương xử lý từng bước tỷ giá hối đoái theo nguyên tắc: khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, mua bán ngoại tệ dễ dàng. Cách xử lý phải thông qua các biện pháp tác động đến quan hệ cung - cầu về ngoại tệ, đồng thời, giảm dần vai trò và phạm vi sử dụng đồng đôla trong nội địa, tiếp tục nâng cao khả năng kiềm chế lạm phát để ổn định kinh tế vĩ mô.
IV- TIẾP TỤC PHẤN ĐẤU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
Đến cuối tháng 10-1994, chỉ số giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đã tăng 11,3% so với cuối tháng 12-1993, vượt mức khống chế mà chúng ta mong muốn. Trong chỉ số chung của 10 tháng, tăng nhanh nhất là giá lương thực (tăng 25,9%), kéo theo giá thực phẩm tăng 14,9%. Những năm trước, giá công nghệ phẩm tăng nhanh trong khi giá nông sản tăng ít, có lúc giảm, nên nông dân chịu thua thiệt nhiều, thậm chí có thời gian giá gạo, cà phê, lạc, mía, v.v. không đủ bù chi phí. Từ đầu năm, Chính phủ đã hỗ trợ việc mua gạo xuất khẩu và tăng dự trữ để giữ giá gạo khỏi xuống quá thấp khi được mùa. Khi giá nhiều loại nông sản trên thế giới tăng, nhất là gạo, cà phê, kéo giá nông sản trong nước tăng nhanh hơn công nghệ phẩm thì mức thu hẹp cánh kéo giá cả lúc đầu là hợp lý, có lợi cho nền kinh tế. Tiếp đó, từ giữa năm đến nay, thiên tai liên tiếp gây thiệt hại lớn cho sản xuất lương thực ở các vùng vựa lúa của cả hai miền, đẩy tiếp giá gạo lên cao. Chính phủ đã có những biện pháp khẩn cấp, cố gắng điều chỉnh cung - cầu, hạn chế được đợt tăng đột biến giá gạo, song khả năng kiềm chế giá chỉ có mức độ. Các nhóm mặt hàng khác tuy chịu ảnh hưởng của giá cả tăng trên thị trường thế giới và Nhà nước có chủ động điều chỉnh giá một số mặt hàng, song do chỉ đạo chặt chẽ việc điều hòa cung - cầu, tiền - hàng, nên chỉ số giá hàng không phải lương thực, thực phẩm chỉ tăng 4,7%, giá dịch vụ tăng 9,8%.
Từ nay đến cuối năm và giáp Tết, lương thực ở miền Bắc vào thời kỳ giáp vụ, nhu cầu về thực phẩm và hàng tiêu dùng tăng trong dịp Tết cùng với lượng tiền lớn về chi lương, thưởng cuối năm, thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản, nên việc điều hòa cung - cầu, tiền hàng phải hết sức chặt chẽ để giữ tốc độ tăng giá không quá xa mục tiêu đã đề ra.
Trong năm 1995, việc kiềm chế lạm phát còn có nhiều khó khăn do tác động của việc tăng nhanh đầu tư phát triển trong toàn xã hội, của chiều hướng giá cả thế giới tiếp tục tăng; mặt khác, một số giá vật tư trong nước như điện, xăng dầu vẫn còn có phần bao cấp cần phải điều chỉnh ở mức độ thích hợp. Việc bảo đảm nhịp độ phát triển sản xuất và xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng để cân đối cung - cầu các sản phẩm thiết yếu, kể cả đáp ứng nhu cầu thông qua nhập khẩu. Chính phủ sẽ rút kinh nghiệm để sử dụng tốt hơn các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, nâng cao khả năng kiểm soát lạm phát nhằm giữ tốc độ tăng giá cả năm ở mức dưới 10%.
Nhân đây, tôi xin báo cáo thêm về quỹ bình ổn giá được Chính phủ thành lập từ tháng 4 năm 1993 bằng cách thu một phần lợi nhuận siêu ngạch của hàng xuất - nhập khẩu để hỗ trợ cho người sản xuất - kinh doanh khi giá thị trường biến động bất lợi. Trên thực tế, Chính phủ mới áp dụng việc phụ thu đối với xăng dầu, sắt thép nhập khẩu và đã sử dụng để giữ giá thóc, gạo, sắn lát, hỗ trợ cho dự trữ phân bón, v.v.. Gần đây giá cà phê trên thị trường thế giới tăng 3-4 lần, Nhà nước thu một phần lãi siêu ngạch, nhưng vẫn dành cho người sản xuất phần lợi nhuận cao để bù lại thua thiệt khi giá trước đây quá thấp. Mức thu sẽ được điều chỉnh hoặc bỏ hẳn khi giá cà phê không còn tạo ra lợi nhuận siêu ngạch. Nguồn phụ thu này chủ yếu để hỗ trợ cho người trồng cà phê khi giá thị trường thế giới lại hạ xuống quá thấp. Qua gần hai năm áp dụng quỹ bình ổn giá, cũng cần rút kinh nghiệm, chấn chỉnh việc quản lý thu, chi của quỹ này để phát huy hiệu quả tốt hơn và tránh tác động tiêu cực đối với người sản xuất và xuất khẩu.
Trên đây là một số vấn đề lớn chưa được đề cập trong nội dung giải trình của các Bộ trưởng hoặc cần nói rõ thêm để tăng cường sự nhất trí về nhiệm vụ năm 1995. Còn vấn đề số lượng người và mức trợ cấp đối với đội ngũ cán bộ xã, phường, tuy không trình bày ở phiên họp chung để trả lời chất vấn của Quốc hội, nhưng đồng chí Bộ trưởng, Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ của Chính phủ đã gửi tới các Đoàn đại biểu báo cáo cụ thể về chủ trương của Chính phủ trong năm tới.
*
* *
Kỳ họp này của Quốc hội được tiến hành sớm để ra Nghị quyết về nhiệm vụ năm 1995, tạo thuận lợi cho Chính phủ phân bổ kế hoạch và ngân sách cho các ngành và các địa phương triển khai thực hiện ngay từ đầu năm. Song do còn hai tháng nữa mới hết năm, nên việc đánh giá tình hình năm 1994, nêu phương hướng, nhiệm vụ năm 1995 trong các báo cáo của Chính phủ còn phải dựa một phần vào các con số ước tính. Đến kỳ họp sau của Quốc hội, Chính phủ sẽ báo cáo bổ sung tình hình năm 1994 và những vấn đề mới nảy sinh trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ năm 1995.
Chính phủ rất cảm ơn các đại biểu Quốc hội đã góp nhiều ý kiến giúp Chính phủ cải tiến và nâng cao năng lực điều hành.
Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất, sự đấu tranh kiên quyết và sự phối hợp chặt chẽ của Quốc hội, các cơ quan chức năng của Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội sẽ thúc đẩy toàn bộ bộ máy nhà nước phải hoạt động tốt hơn, sẽ nâng cao khí thế đổi mới và phát triển trong toàn xã hội nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 1995, và chuẩn bị tốt cho kế hoạch 5 năm 1996 - 2000.
Xin cảm ơn các đồng chí.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội