VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 3 1995-1996


"TIẾP TỤC CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH
SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN ĐẤT NƯỚC"
 

(Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ
Võ Văn Kiệt trình bày tại kỳ họp thứ 8,
Quốc hội khoá IX, ngày 03-10-1995)

Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa IX diễn ra trong bối cảnh rất đáng ghi nhớ của đất nước. Trong khí thế hào hùng kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Tám và ngày Quốc khánh, nhân dân đang giành được những thành tựu kinh tế, xã hội, chính trị và ngoại giao rất đáng mừng cho năm 1995.

Suốt một nửa thế kỷ vừa qua, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đã chiến thắng những thử thách ác liệt nhất của chiến tranh để giành lại và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đã vượt qua muôn vàn khó khăn để giữ vững thành quả cách mạng trước những biến động lớn trên thế giới, đã lao động và phấn đấu kiên cường xây dựng lại đất nước. Công cuộc đổi mới tiến hành từ 10 năm nay đã thay đổi sâu sắc bộ mặt đất nước, tạo ra cho nước ta vị trí mới trên trường quốc tế.

Năm mươi năm qua với những thời kỳ khác nhau đã khẳng định tính đúng đắn của con đường cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, khẳng định ý nghĩa sống còn của sự nghiệp đổi mới, đồng thời cũng xác định rõ hướng đi lên của đất nước nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Những bước đường sự nghiệp cách mạng đã trải qua cho phép chúng ta ngày nay thấy rõ hơn lúc nào hết chỗ mạnh, chỗ yếu của mình, nhận thức sâu sắc hơn cục diện và xu thế phát triển của thế giới. Điều này tạo thuận lợi cho chúng ta đánh giá những việc đã làm được và xây dựng kế hoạch năm 1996, với ý nghĩa năm mở đầu cho kế hoạch 5 năm 1996-2000, chuẩn bị bước vào thế kỷ XXI.

Báo cáo của tôi hôm nay trình bày trước Quốc hội gồm ba phần:

I- Nhận định tình hình phát triển kinh tế, xã hội năm 1995, năm kết thúc kế hoạch 5 năm 1991-1995.

II- Những nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội năm 1996.

III- Những giải pháp lớn cần thực hiện.

(Thay mặt Chính phủ, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước sẽ có báo cáo gửi tới các đại biểu Quốc hội trình bày tình hình thực hiện kế hoạch năm 1995 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1996).

I- NHẬN ĐỊNH TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ, XÃ HỘI NĂM 1995

Đánh giá thành tựu:

Năm 1995, nhân dân ta đã thực hiện thành công nhiều nhiệm vụ kinh tế - xã hội quan trọng đề ra cho năm bản lề này, mở đường thuận lợi cho việc chuyển sang kế hoạch 5 năm 1996-2000.

Mặc dù kế hoạch năm nay có nhiều nhiệm vụ khá căng thẳng, lại phải cáng đáng nhiều phần việc từ năm 1994 dồn sang, trong đó có việc xử lý hậu quả của những thiên tai lớn năm trước, song có khả năng thực hiện được nhiều chỉ tiêu phát triển quan trọng đã đề ra. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước đạt 9,5% (so với bình quân cả 5 năm 1991-1995 là 8,2%).

Trong nông nghiệp, sản xuất lương thực tiếp tục phát triển, đi đôi với chuyển đổi một bước cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh kinh tế hàng hóa nông nghiệp. Kết quả chung là năm nay có khả năng đạt 27,4 triệu tấn lương thực, sản lượng chăn nuôi và hải sản, sản lượng các loại cây ăn quả, cây công nghiệp, diện tích trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc..., đều tăng. Chính những thành tựu trong lĩnh vực nông nghiệp đã góp phần đáng kể tăng kim ngạch xuất khẩu của năm 1995, tuy giá xuất khẩu dầu thô của ta bị giảm.

Sản xuất công nghiệp giữ được tốc độ tăng trưởng ước tính 14%, chủ yếu nhờ tiếp tục đổi mới công nghệ, tăng cường đầu tư chiều sâu và cải tiến kinh doanh. Đáng chú ý là chủng loại mặt hàng công nghiệp phong phú hơn trước, một số mặt hàng đã tăng được khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước cũng như trong xuất khẩu. Xu thế này cần được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) tăng trên 30% so với năm 1994, tập trung nhiều hơn vào phát triển công nghiệp và đầu tư chiều sâu. Công tác quy hoạch phát triển công nghiệp, đặc biệt là quy hoạch xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm và xây dựng các khu công nghiệp tập trung đạt nhiều tiến bộ mới. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 4,7 tỷ USD, tăng 30% so với năm 1994, có thêm nhiều mặt hàng mới và mở rộng được thị trường mới. Công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ mới ngày càng bám sát hơn những yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng phục vụ yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo sản phẩm hàng hóa mới.

Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Đặc biệt là đã mở rộng hơn trước nhiều hoạt động giúp đỡ các hộ nghèo phát triển kinh tế, phục vụ có hiệu quả yêu cầu tạo thêm công ăn việc làm, giảm bớt đói nghèo. Kết quả năm nay đã tạo được thêm công ăn việc làm mới cho hơn một triệu lao động. Số xã có trường học “ca 3” tiếp tục giảm, quá nửa số xã đã thực hiện Luật phổ cập giáo dục tiểu học. Cho đến nay, có 21 tỉnh trong cả nước đưa được 2/3 số cháu năm tuổi đi học mẫu giáo. Về y tế, việc chữa bệnh và vệ sinh phòng bệnh được cải thiện nhiều. Kế hoạch thực hiện nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn được thúc đẩy ráo riết và nhiều nơi trở thành phong trào quần chúng rộng rãi.

Nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm, nhiều hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội đã nêu cao chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, giáo dục truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, đẩy mạnh các hoạt động tình nghĩa và uống nước nhớ nguồn, hun đúc ý chí tự lực, tự cường. Tinh thần đại đoàn kết và hòa hợp dân tộc, ý chí đồng tâm hiệp lực để thắng nghèo nàn, lạc hậu đang trở thành nguồn cổ vũ lớn lao đối với mọi tầng lớp nhân dân trong nước và đồng bào sinh sống ở nước ngoài.

Các lực lượng an ninh, quốc phòng, với sự tham gia của toàn dân, đã thực hiện tốt nhiệm vụ tăng cường trật tự an toàn xã hội và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực vào việc tăng cường ổn định chính trị của đất nước - một trong những yếu tố quyết định nhất bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.

Năm 1995, Việt Nam đơm hoa kết trái trên mặt trận đối ngoại, tích tụ từ sự phát triển kinh tế năng động và sự ổn định chính trị của đất nước trong những năm đổi mới, từ sự theo đuổi kiên trì đường lối đối ngoại hiện nay của nước ta. Các sự kiện mới là Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN, ký kết Hiệp định khung với liên minh châu Âu (EU), bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Nước ta được dư luận rộng rãi trên thế giới thừa nhận là nhân tố tích cực của hòa bình và ổn định trong khu vực và là đối tượng hợp tác có ý nghĩa.

Từ tình hình thực hiện kế hoạch năm 1995, có thể sơ bộ đánh giá kế hoạch 1991-1995 là kế hoạch 5 năm đầu tiên hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hằng năm đạt 8,2% so với mục tiêu được Quốc hội thông qua là 5,5-6% (kế hoạch 5 năm 1986-1990 đạt 3,9%). Trong bối cảnh những biến động những năm vừa qua trên thế giới, có thể nói những thành tựu đạt được mang ý nghĩa quan trọng.

Dù còn phải đương đầu với nhiều vấn đề nóng bỏng, song về cơ bản sự phát triển kinh tế 5 năm qua mang tính liên tục và tương đối toàn diện và ổn định, tạo thêm những tiền đề quan trọng cho sự phát triển sắp tới. Sự phát triển bên trong và những thành tựu kinh tế đối ngoại đã giúp nước ta chẳng những vượt qua nhiều khó khăn, mà còn tạo ra khả năng tranh thủ cơ hội đi lên của nước ta.

Nhìn vào vị trí ngày càng được củng cố của khu vực kinh tế nhà nước, sự phát triển năng động của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vai trò ngày càng được nâng cao của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với những cố gắng thực hiện công bằng và phúc lợi xã hội, chúng ta khẳng định sự phát triển của đất nước trong những năm đổi mới giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa, mặc dầu trong quá trình đi lên còn vấp những sai sót, yếu kém.

Có thể nhận định, những thành tựu từ những năm tiến hành công cuộc đổi mới nói chung và của 5 năm qua nói riêng đã tạo ra bước ngoặt trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội nước ta, tiếp tục khẳng định bản chất tiến bộ và sức sống sáng tạo của Nhà nước ta do nhân dân ta làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Niềm tin và sự gắn bó của nhân dân đối với Đảng lãnh đạo và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được củng cố. Tiềm lực được tăng cường đã cho phép chúng ta bảo vệ vững chắc chế độ chính trị, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, ngày càng mở rộng sự tham gia của nước ta vào sự phát triển chung của thế giới.

Những thiếu sót chính:

Được các thành tựu cổ vũ, chúng ta càng phải tỉnh táo nhìn thẳng vào những yếu kém và thiếu sót của năm 1995, trong đó có những thiếu sót kéo dài từ những năm trước, tác động gay gắt trên một số phương diện kinh tế, xã hội quan trọng. Dưới đây xin tập trung nêu lên những vấn đề lớn.

Một là, trong phát triển kinh tế và trong giải quyết các vấn đề xã hội, còn nhiều hiện tượng sử dụng phân tán và kém hiệu quả những nguồn lực hạn hẹp của đất nước, chưa quyết tâm cao tập trung sức lực ưu tiên cho đầu tư chiều sâu, phát triển cơ sở hạ tầng, thực hiện những chương trình kinh tế, xã hội cấp bách nhất. Tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn rất thấp so với nhịp độ phát triển và so với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế.

Nước ta đứng trước những đòi hỏi về phát triển rất bức xúc, đồng thời hằng ngày phải đương đầu với nhiều khó khăn lớn như vốn, công ăn việc làm, cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội... Chúng ta thường xuyên bị co kéo giữa việc xác định những ưu tiên có ý nghĩa quyết định cần tập trung nỗ lực xử lý và những vấn đề cấp bách hằng ngày. Với nguồn lực hạn chế, chúng ta không thể cùng một lúc dàn trải bình quân cho nhiều việc, mà phải lựa chọn những việc cần ưu tiên, những vấn đề bức xúc. Vì chưa làm tốt như vậy, nên có nhiều lãng phí hơn.

Về tích lũy trong nước, nếu nhìn vào tỷ lệ năm 1991 là 10,1%, năm 1994 là 16,6%, năm 1995 sẽ cao hơn một chút, có thể nói rằng, tình hình tích lũy bên trong có tiến bộ. Song nếu tách phần khấu hao cơ bản thì tỷ lệ tích lũy ròng các năm 1994 và 1995 ước tính chỉ đạt 7-8%/năm. Chỉ số này phản ánh hiệu quả chung của nền kinh tế còn thấp, ảnh hưởng đến đầu tư đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hạn chế khả năng thu hút những nguồn lực bên ngoài.

Cần phê phán những thiếu sót lớn như để xảy ra thất thoát hàng trăm tỷ đồng vốn nhà nước, chưa hạn chế được kinh tế ngầm, chưa vận động được phong trào tiết kiệm với đúng ý nghĩa của nó trong toàn xã hội.

Hai là, trong các lĩnh vực ngân sách, tài chính tiền tệ, thuế có nhiều vấn đề nóng bỏng, nếu không được xử lý tốt và kịp thời sẽ có thể dẫn đến tình hình phức tạp, tác động xấu đến khả năng phát triển và tính ổn định mà chúng ta phải phấn đấu gian khổ hàng chục năm mới tạo ra được nền kinh tế nước ta.

Trước hết, nói về cân bằng thu, chi ngân sách: Báo cáo kinh tế của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính trình bày trước Quốc hội sẽ nêu rõ thu năm 1995 tăng nhiều, song vẫn không đáp ứng nổi yêu cầu chi tăng lên quá nhanh. Hiện nay, còn nhiều khoản chi của kế hoạch năm 1994 chuyển sang chưa giải quyết xong. Mặt yếu nhất của năm 1995 là xây dựng cơ bản đạt mức kế hoạch thấp, trong khi đó, nguồn cung cấp đầu tư từ ngân sách rất hạn chế. Ngoài ra, thu ngân sách còn phải đáp ứng yêu cầu trả nợ vốn vay trong dân dồn lại từ nhiều năm trước và lo trả nợ nước ngoài đến hạn.

Chủ trương tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong nước, kể cả hình thức vay vốn trong dân, là hoàn toàn đúng đắn và còn phải thực hiện tốt hơn nữa, nhưng chưa được quản lý chặt chẽ. Trong ngân sách nhà nước tình trạng thất thu, tình trạng thu không hợp lý, tình trạng lạm thu, cần phải được đánh giá khắt khe hơn...

Điều quan trọng số một là nếu không lập được kỷ luật nghiêm ngặt trong thu chi và ráo riết thực hiện tiết kiệm, sẽ có nguy cơ không kiểm soát được thâm hụt ngân sách, sẽ dẫn đến tình hình buộc phải tiến hành những biện pháp “tình thế” như những kinh nghiệm của nước ta trong những năm lạm phát cao. Chúng ta phải ngăn chặn cho được tình hình này. Lạm phát năm 1993 là 5,2%, lên tới 14,5% năm 1994. Tuy chỉ số giá cả quý III năm nay ổn định, nhưng tính cả chín tháng đầu năm tăng 11,7%. So với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hiện nay, những chỉ số này tuy chưa gây biến động lớn, nhưng dứt khoát đó là những tín hiệu báo động không cho phép chúng ta lơi lỏng trong thu và chi.

Về tài chính tiền tệ: Chúng ta vẫn thường tự phê bình gay gắt về tình trạng hệ thống tài chính tiền tệ chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế và chưa trở thành công cụ mạnh mẽ điều phối toàn bộ nền kinh tế.

Tuy gần đây, chúng ta đạt được một số tiến bộ đáng kể trong chính sách ổn định tiền tệ, quản lý ngân sách, điều động vốn, mở rộng thêm hệ thống ngân hàng, cải tiến một bước công tác kế toán, kiểm toán..., nhưng đấy mới chỉ là những tiến bộ rất khiêm tốn trong từng việc một. Còn hệ thống tài chính tiền tệ của cả nước vẫn chứa đựng nhiều mặt yếu kém và lạc hậu so với đòi hỏi phát triển của đất nước hiện nay.

Thị trường vốn của nước ta còn rất sơ khai, chưa đáp ứng tốt những yêu cầu của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, nhất là những yêu cầu về huy động vốn, thúc đẩy sự phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng những dịch vụ tiền tệ nâng cao hiệu quả của nền kinh tế... Đặc biệt là rất chậm trễ trong việc cổ phần hóa, chưa khẩn trương xây dựng thị trường chứng khoán, cản trở việc tạo ra sự năng động mới trong sản xuất kinh doanh. Kéo dài tình trạng này, cũng có nghĩa là kéo dài những mặt trì trệ và kém hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.

Nhìn chung, khả năng kiểm soát của hệ thống tăng cường tiền tệ đối với mọi hoạt động kinh tế trong toàn xã hội còn thấp. Chúng ta nhấn mạnh vai trò quản lý của Nhà nước trong cơ chế thị trường, nhưng lại thiếu những nỗ lực cần thiết trong việc xây dựng cho nền kinh tế của mình một hệ thống tài chính tiền tệ có hiệu lực mạnh.

Về vấn đề thuế: Trong nước và nước ngoài có nhiều ý kiến phê bình hệ thống thuế của chúng ta. Chính phủ lắng nghe và cố tìm hiểu thật chính xác mọi ý kiến chung quanh vấn đề này.

Mặt được của thuế và phí hiện nay là bảo đảm trên 80% ngân sách. Song hệ thống thuế nói chung còn nhiều vấn đề không hợp lý, đặc biệt là còn quá nhiều sắc thuế, trong đó thuế doanh thu và thuế nhập khẩu giữ vai trò quá quan trọng đối với ngân sách nhà nước ta, nhưng thuế lợi tức và thuế thu nhập lại chưa làm tốt chức năng phải có. Trong khi đó, nhằm kích thích phát triển và tăng khả năng cạnh tranh với bên ngoài, xu thế hiện nay của nhiều nước trên thế giới và của nhiều tổ chức kinh tế khu vực là ngày càng giảm hoặc bỏ từng phần thuế doanh thu, vận dụng rất chọn lọc thuế nhập khẩu, phát huy vai trò thuế giá trị gia tăng, thuế lợi tức và thuế thu nhập... Đây thực sự là một thách thức lớn đối với chúng ta cả trên hai phương diện đối nội và đối ngoại.

Còn phải nhấn mạnh những bất hợp lý trong hệ thống thuế, dẫn đến tình trạng thủ tục rườm rà, thuế đánh trùng chéo và gây nhiều phiền hà. Kết quả là hệ thống thuế vừa có nhiều sơ hở, tiêu cực, nhưng trên thực tế có thể vẫn thất thoát một khối lượng thuế khá lớn chưa tính hết được. Mức huy động thuế và phí năm 1995 chiếm khoảng 21,5% tổng sản phẩm trong nước (GDP), nếu tính tổng sản phẩm trong nước (GDP) một cách chặt chẽ, tỷ lệ này có thể còn thấp hơn. Khối lượng thuế và phí cả nước thu được như vậy không cao; nhưng so với thuế suất và diện đánh thuế của các sắc thuế, tỷ lệ này phản ánh tính kém hiệu quả của hệ thống thuế hiện hành, không khuyến khích xu thế làm ăn năng động và lâu dài.

Ba là, trong khi đẩy mạnh thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chúng ta chưa nâng cao được hiệu quả và vai trò của kinh tế quốc doanh như mong muốn, chưa có những biện pháp phát huy toàn diện vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác có những đòi hỏi gay gắt phải đổi mới, đang có nhiều hình thức đa dạng, nhưng chưa được tổng kết từ thực tiễn sáng tạo của quần chúng và cơ sở; kinh tế cá thể và tư nhân chưa được sự hướng dẫn, trợ giúp và kiểm soát đúng mức của Nhà nước.

Về khu vực kinh tế nhà nước, bao gồm cả kinh tế quốc doanh: Trong những năm gần đây, đặc biệt trong năm 1995, chúng ta đã làm được một số việc tăng cường vai trò khu vực kinh tế nhà nước như sắp xếp lại các xí nghiệp quốc doanh, thành lập một số tổng công ty để tạo ra những tổ chức sản xuất - kinh doanh mạnh hơn... Song, nhìn chung khu vực kinh tế nhà nước hiệu quả còn thấp, có nhiều nguy cơ tụt hậu do chậm đổi mới cơ chế quản lý, công nghệ và phương thức kinh doanh. Nguyên nhân chủ yếu là còn những vấn đề về pháp luật, tài chính và thị trường chưa được giải quyết tốt. Nhiều đơn vị kinh tế quốc doanh chưa chủ động đẩy mạnh đầu tư chiều sâu, khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường chưa cao. Cần nhấn mạnh rằng việc cổ phần hóa tiến hành chậm, vừa hạn chế các đơn vị kinh tế quốc doanh tạo ra sức năng động mới, vừa không cho phép xí nghiệp quốc doanh mở rộng hơn nữa phạm vi tham gia của mình trong toàn bộ nền kinh tế. Những yếu kém vừa nêu trên không đơn thuần là của các xí nghiệp mà còn phản ánh những khuyết điểm trong điều hành và quản lý vĩ mô.

Về những hình thức kinh tế hợp tác: Chúng ta đứng trước đòi hỏi khách quan là phải gấp rút đổi mới hình thức hợp tác xã hiện tại. Sẽ là sai lầm nếu bảo thủ duy trì loại hình hợp tác xã cũ, hoặc nghĩ rằng tính năng động hiện nay của kinh tế hộ ở nông thôn và kinh tế cá thể ở thành thị không cần kinh tế hợp tác nữa. Thật ra, chính sự năng động của kinh tế hộ và kinh tế cá thể đang đòi hỏi phải sớm tạo loại hình kinh tế hợp tác mới thích hợp, giúp đỡ kinh tế hộ và kinh tế cá thể vượt qua được những hạn chế của họ, nhất là về công nghệ, dịch vụ phục vụ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm... Trách nhiệm của Chính phủ là phải sớm đáp ứng tốt đòi hỏi này để phát huy kinh tế hợp tác xã phù hợp với sự phát triển mới của đất nước. Trong thực tiễn đã xuất hiện những loại hình kinh tế hợp tác có hiệu quả rất đáng nghiên cứu.

Về kinh tế tư nhân: Những yếu kém của Nhà nước trong quản lý vĩ mô vừa ảnh hưởng đến khả năng hướng dẫn tạo điều kiện kinh tế tư nhân phát triển phù hợp với định hướng chung của nền kinh tế cả nước, vừa hạn chế khả năng kiểm soát tính tự phát, phân tán và những mặt yếu kém khác của nền kinh tế tư nhân. Đặc biệt, chúng ta còn thiếu những chính sách khuyến khích kinh doanh hợp pháp, bảo hộ thỏa đáng kinh tế tư nhân đi vào những sản phẩm mới, tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho lao động xã hội, yên tâm đầu tư vào những ngành nghề lâu dài. Việc hình thành những tổ chức, những liên kết, liên doanh giữa các thành phần kinh tế còn chậm, còn rất ít những thành công tiêu biểu để phổ cập trong cả nước. Nguyên nhân chính là chúng ta chưa bỏ nhiều công sức nghiên cứu phát triển thành phần kinh tế này theo định hướng chung của cả nước.

Bốn là, trong quá trình phát triển còn nhiều vấn đề kinh tế, xã hội chưa được giải quyết tốt. Tình trạng buôn lậu và tham nhũng không giảm, các tệ nạn xã hội chưa bị đẩy lùi; sự đói nghèo và lạc hậu tại nhiều điểm ở các vùng sâu, vùng xa, miền núi còn nặng nề; tài nguyên và môi trường ở một số nơi bị hủy hoại nghiêm trọng; đòi hỏi về công ăn việc làm rất gay gắt.

Chúng ta không thể chấp nhận tình trạng buôn lậu phát triển, tệ nạn tham nhũng nghiêm trọng và các vụ lừa đảo làm thất thoát hàng trăm tỷ đồng vốn liếng của Nhà nước và của nhân dân như hiện nay. Có thể nói, tình hình này đang gây ra nhiều tổn thất lớn và là một trong những mối đe dọa trực tiếp nhất đối với an ninh kinh tế của đất nước.

Tại một số nơi trong nước, có tình trạng hầu như không kiểm soát được sự hủy hoại các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đất đai, rừng núi, ven biển và môi trường, mặc dù quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa ở nước ta mới ở giai đoạn khởi đầu. Ngày nay, không ít địa phương chưa có ý thức đầy đủ trong việc bảo vệ ruộng trồng lúa và những vùng đất trồng trọt quý giá tổ tiên chúng ta ngàn đời mới khai tạo được, nên đã thiếu thận trọng trong quy hoạch và đầu tư xây dựng, bất chấp an toàn lương thực của đất nước và môi trường tự nhiên sau này sẽ như thế nào. Những tiêu cực yếu kém trong quản lý đã làm giảm hiệu quả của chương trình 327. Tại nhiều vùng duyên hải, việc nuôi thủy sản không được quy hoạch và quản lý chặt chẽ, làm cho nhiều vùng rộng lớn rừng ngập mặn, thảm thực vật của các vùng đất bồi không còn nữa, hậu quả không lường hết được.

Thật rất đáng trách là tại không ít nơi: xem đến rừng, rừng không còn nữa; đất đai bị chiếm dụng; bắt đầu đã có sông, ngòi ven biển ô nhiễm nặng nề... Đây cũng là những thiếu sót lớn, nói lên rõ nhất những mặt yếu kém trong nhiệm vụ quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, chính quyền các cấp, cần phải tự phê bình và phê bình nghiêm khắc. Xin cho phép tôi nhân dịp này đề nghị Quốc hội, trước hết là các đại biểu Quốc hội hoạt động tại các ngành và các địa phương, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, hỗ trợ và đôn đốc các cơ quan chính quyền làm tốt chức trách và nhiệm vụ quản lý của mình.

Năm là, năng lực quản lý nhà nước của bộ máy chính quyền còn nhiều mặt bất cập so với sự phát triển của đất nước, đặc biệt trên các phương diện: quy hoạch phát triển, quản lý vĩ mô, huy động nguồn lực trong nước và bên ngoài, phát triển và mở rộng thị trường, quản lý kinh tế đối ngoại, phát triển nguồn nhân lực và phúc lợi xã hội, thực hiện pháp luật và trừng trị tệ nạn tiêu cực.

Trong năm qua, chúng ta đã quan tâm triển khai một bước công cuộc cải cách nền hành chính, tuy nhiên kết quả còn hạn chế. Còn nhiều hiện tượng buông lỏng trật tự, kỷ cương, có nơi vi phạm nghiêm trọng pháp luật và quyền của công dân, công việc bê trễ. Điều cần nhấn mạnh là còn nhiều cơ quan trong bộ máy hành chính chưa làm tốt việc tách nhiệm vụ quản lý nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh. Chúng ta cần phê phán nghiêm khắc tình trạng cục bộ, vô tổ chức, vô chính phủ và cố ý vi phạm pháp luật của một số cơ quan, đơn vị công tác và đơn vị sản xuất - kinh doanh. Những việc làm này chẳng những gây nhiều thiệt hại, đất đai vốn liếng bị thất thoát, mà còn gây nhiều tiêu cực khác. Hơn bao giờ hết, không thể để bất kỳ hoạt động kinh tế nào đứng ngoài pháp luật.

Tóm lại, những thành tựu quan trọng đã đạt được và thời cơ đang đến sẽ chỉ có ý nghĩa khi chúng ta thấy hết được những yếu kém phải khắc phục. Những thiếu sót trình bày trên luôn luôn có khả năng kéo lùi sự tiến bộ của đất nước, chúng ta cần hết sức tỉnh táo.

Để tiếp tục sự nghiệp đổi mới, phát huy đà phát triển hiện nay của đất nước, đòi hỏi hàng đầu đối với hệ thống bộ máy chính quyền của chúng ta là phải khắc phục tình trạng bất cập trong nhiệm vụ quản lý nhà nước, phải nâng cao phẩm chất cách mạng và năng lực của đội ngũ cán bộ, viên chức. Trong năm 1995, chúng ta có những kinh nghiệm rất quý báu. Tiếp theo chủ trương được toàn dân hưởng ứng về không đốt pháo từ 01-01-1995, là việc xử lý vi phạm đê Yên Phụ, việc thực hiện an toàn và trật tự giao thông. Thực tiễn ấy cho thấy, nhân dân ta luôn luôn ủng hộ pháp luật và những chủ trương đúng đắn. Từ đó, có thể rút ra kết luận: việc gì dù khó đến đâu, nhưng có chủ trương đúng, phù hợp với lợi ích của đa số nhân dân, được chuẩn bị chu đáo, vận động được sự hưởng ứng rộng rãi, thực hiện nghiêm minh những quy định đề ra, thì đều có thể xử lý được. Cần vận dụng kinh nghiệm này khắc phục những mặt yếu kém hiện nay trong bộ máy quản lý nhà nước. Đó cũng là một trong những biện pháp quan trọng tăng cường trật tự kỷ cương.

II- NHỮNG NHIỆM VỤ CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1996

Yêu cầu của nước ta trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay là duy trì sự phát triển kinh tế nhanh, bền vững và có hiệu quả trong những năm còn lại của thế kỷ này. Tồn tại giữa một khu vực có nhiều nền kinh tế phát triển rất năng động, đòi hỏi này đối với nước ta càng trở nên bức thiết. Vì vậy, mọi nỗ lực của chúng ta trước hết nhằm tạo ra nhịp độ phát triển cao hơn thời kỳ 1991-1995, để vào khoảng năm 2000, có thể đưa đất nước vượt qua tình trạng kém phát triển, nâng cao một bước mức sống của nhân dân, giảm bớt mức nghèo so với những nước chung quanh. Đặc biệt trong những năm tới, phải ra sức nâng cao tích lũy bên trong, chuẩn bị mọi điều kiện phát triển cao hơn để bước vào thế kỷ XXI, tăng cường tiềm lực bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng. Dựa vào những đòi hỏi này chúng ta quyết định những việc phải thực hiện của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 1996.

Với ý nghĩa là năm mở đầu của kế hoạch 5 năm có nhiều đòi hỏi mới, kế hoạch năm 1996 phải đạt nhiều chỉ tiêu khá gay gắt: tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 9,5-10%, sản xuất nông nghiệp tăng 4,5%, sản xuất công nghiệp tăng 14-15%, đầu tư cho phát triển chiếm 27% tổng sản phẩm trong nước (GDP) (năm 1995 khoảng 25%), huy động thuế và phí cho ngân sách trên 22% tổng sản phẩm trong nước (GDP), xuất khẩu tăng 25%, cố giữ chỉ số tăng giá cả thấp hơn hoặc ngang các năm 1994, 1995... Tình hình đòi hỏi chúng ta phải cố phấn đấu duy trì về cơ bản nhịp độ phát triển này cho đến năm 2000.

Kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội nước ta hiện nay có những thuận lợi to lớn, đồng thời cũng có nhiều thách thức gay gắt.

Nói về thuận lợi:

Trong những thuận lợi nhiều mặt của đất nước, tôi xin nhấn mạnh một số điểm sau đây:

Với khối lượng đầu tư cho phát triển từ những nguồn vốn trong nước và bên ngoài tăng nhanh trong những năm đổi mới, cơ sở vật chất kỹ thuật và lực lượng sản xuất của nền kinh tế nước ta đã mạnh lên đáng kể so với 10 năm trước. Thị trường trong nước đang tăng lên nhanh chóng, đồng thời, chúng ta có khả năng lớn trong việc mở rộng thị trường tại khu vực Đông Nam Á, sang Tây Âu và đi Bắc Mỹ. Đáng chú ý là ngày càng có những sản phẩm của chúng ta đã dần dần ngăn chặn được hàng nhập lậu vào nước ta và cạnh tranh ngày càng thắng lợi tại thị trường bên ngoài. Chúng ta đã khẳng định được trong nhiều năm vị trí của mình trong thị trường xuất khẩu gạo. Gần đây, chúng ta đã giành được những vị trí mới trong xuất khẩu cà phê, cao su. Chúng ta có nhiều tiềm năng lớn về cây ăn trái và những cây công nghiệp khác. Nếu tìm được những chính sách và biện pháp đúng, bao gồm cả chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại, nước ta có nhiều khả năng phát triển ngành công nghiệp chăn nuôi và chế biến thực phẩm và có những điều kiện trong tương lai trở thành một nước xuất khẩu nông sản và thực phẩm đáng chú ý. Điều này rất quan trọng đối với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Một vấn đề quan trọng cần đặc biệt lưu ý là do lợi thế so sánh thay đổi, một số nước công nghiệp trong và ngoài khu vực, một số nước mới công nghiệp hóa (NICs) đang chuyển dịch sản xuất một số sản phẩm sang những nước có chi phí thấp hơn. Cơ hội này cũng đang đến với nước ta và tùy thuộc vào khả năng nắm bắt của chúng ta. Một khối lượng lớn ô tô, xe gắn máy, thiết bị lạnh, đồ dân dụng lâu bền... nước ta hằng năm đang nhập vào là được lắp ráp tại các nước chung quanh. Việt Nam có thể là một nước mạnh về phương diện này, phục vụ cho yêu cầu thay thế nhập khẩu và cho xuất khẩu. Tiềm năng của nước ta trên phương diện này không thua kém, nhưng thực sự chúng ta còn thiếu những chính sách và biện pháp phù hợp.

Một nhận xét khác xin nêu lên là những năm đổi mới vừa qua cho thấy, công nghiệp của nước ta có bước phát triển, có nhiều chủng loại sản phẩm mới, đáp ứng đáng kể yêu cầu thay thế nhập khẩu, bắt đầu tham gia nhiều hơn vào xuất khẩu. Có chính sách tốt phát triển liên doanh với bên ngoài, công nghiệp nước ta sẽ trưởng thành nhanh hơn nữa. Có một số ngành công nghiệp ở nước ta đã bỏ qua một số bước đi để phát triển thẳng vào giai đoạn hiện đại, ví dụ như ngành bưu chính viễn thông và công nghiệp thông tin, ngành hàng không, sản xuất thép, công nghiệp in, công nghiệp dệt... thành quả đạt được tuy còn khiêm tốn nhưng rất quan trọng, vì chúng gợi ý cho chúng ta cách thức và bước đi cho phép đuổi bắt sự phát triển nhanh của những nước đi trước. Vấn đề là chúng ta có những quyết định và chính sách đúng.

Chính sách nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới hiện nay đang huy động được những tiềm năng to lớn trong cả nước, đồng thời tạo thuận lợi cho việc huy động những nguồn lực từ bên ngoài, mang lại cho nền kinh tế nước ta sự phát triển năng động mới. Tuy việc thực hiện chính sách này mới ở giai đoạn khởi đầu, còn phải tìm những biện pháp vận dụng có hiệu quả hơn nữa. Song có thể thấy trước rằng, được phát huy đúng mức, chính sách nền kinh tế nhiều thành phần sẽ tiếp tục tạo ra động lực phát triển lớn.

Từng bước tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và hệ thống tài chính tiền tệ; phát triển các loại thị trường, đặc biệt là thị trường vốn; huy động tốt mọi nguồn vốn trong nước để tăng khả năng thu hút các nguồn vốn bên ngoài, sử dụng có hiệu quả và thực hiện tốt việc thanh toán; ban hành được những biện pháp khuyến khích, hướng dẫn sản xuất - kinh doanh tốt hơn nữa, chính sách kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta sẽ trở thành một yếu tố phục vụ đắc lực cho chiến lược đuổi bắt để rút ngắn khoảng cách tụt hậu. Chính sách này sẽ phát huy mạnh mẽ vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước, sự năng động của các thành phần kinh tế, phát triển các hình thức hợp tác kiểu mới, và sẽ hình thành được những liên kết giữa các thành phần kinh tế, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế, xã hội nước ta.

Tựu trung lại, thành công tùy thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội phát triển đang đến với nước ta.

Nói về thách thức:

Chúng ta đã bàn nhiều về những yếu kém và những nguy cơ, nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh. Trong báo cáo này tôi chỉ xin lưu ý một số khía cạnh mới của những thách thức xuất hiện trong quá trình phát triển hiện tại của nước ta.

Trước hết, việc gia nhập ASEAN trong đó có việc tham gia AFTA, ký Hiệp định khung với Liên minh châu Âu (EU), chuẩn bị tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), triển khai quan hệ với Mỹ đang đặt ra cho nước ta yêu cầu gay gắt phải sớm phát triển thị trường của nước mình, cải tiến cơ chế làm ăn và các luật lệ có liên quan đến các mối giao lưu kinh tế, phải biết tự bảo vệ tốt hơn những lợi ích của mình, giảm bớt những thua thiệt, nhưng đồng thời phải biết ngày càng mở rộng khả năng hợp tác, chấp nhận cạnh tranh và phải cạnh tranh gay gắt. Ngay từ bây giờ, chúng ta phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu chiến lược phát triển cho phù hợp với vị thế mới, lựa chọn những mục tiêu cho phép khai thác tốt nhất mọi lợi thế so sánh của đất nước. Nhìn lại những năm qua, có thể nói, chúng ta cần làm tốt việc này hơn nữa.

Trong mở rộng giao lưu với bên ngoài, chúng ta cần chú ý những thách thức đối với yêu cầu giữ gìn bản sắc văn hóa, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội.

Ý thức dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, tri thức về kinh tế và sự tỉnh táo phải được nâng cao và phải được quán triệt trong từng quyết định, từng hành động mở rộng quan hệ với thế giới bên ngoài. Việc lựa chọn hướng sai trong hợp tác có thể dẫn đến những đổ vỡ thảm hại. Thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu quyết đoán cũng sẽ dẫn đến những hậu quả xấu không kém. Vào thời điểm nước ta có điều kiện phát triển quan hệ với tất cả các quốc gia trên thế giới, cần phải củng cố nhận thức này, để có đủ trí tuệ và nghị lực hội nhập mạnh mẽ hơn nữa xu thế phát triển năng động của thế giới chứ không phải để đóng cửa.

Liên quan đến những thách thức do tụt hậu gây ra, tôi muốn đặc biệt lưu ý tình trạng năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế chưa cao. Thêm vào đó là tình trạng manh mún, cục bộ, chưa có thói quen và thiếu ý chí liên kết, liên doanh thành những đơn vị sản xuất kinh doanh lớn, đạt hiệu quả cao hơn, cho phép có khả năng cạnh tranh mạnh hơn, nhất là đối với bên ngoài. Gần đây, chúng ta đẩy mạnh việc sắp xếp lại các xí nghiệp, hình thành một số tổng công ty lớn nhằm khắc phục những điểm yếu nói trên, song công việc còn đang ở thời kỳ khởi động, đòi hỏi vừa làm vừa kịp thời chấn chỉnh.

Những thiếu sót trong các chính sách vĩ mô của Chính phủ cần được khắc phục kịp thời. Cần lưu ý điểm này, vì sự vận động của kinh tế thế giới đầy diễn biến khó lường trước và dễ gây tổn thương cho những nền kinh tế yếu kém như của nước ta. Vừa qua, những hiện tượng tác động vào nền kinh tế nước ta là giá dầu thô giảm, tỷ giá đồng Yên quá cao, lãi suất vay vốn lên nhanh, lợi thế so sánh của nước ta trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) còn khá yếu so với một số thị trường chung quanh... tôi mong rằng trong lúc cố gắng nắm bắt những thuận lợi to lớn mới, chúng ta ra sức vượt qua những thách thức vừa trình bày.

III- NHỮNG GIẢI PHÁP LỚN CẦN THỰC HIỆN

Trong những chủ trương và giải pháp sẽ được nêu trong báo cáo về kế hoạch và nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội năm 1996, tôi muốn nhấn mạnh một số vấn đề lớn đòi hỏi phải có cách nhìn mới và cách giải quyết thiết thực:

1. Làm lành mạnh tình hình tài chính - tiền tệ

Một nền tài chính - tiền tệ lành mạnh là điều kiện thiết yếu cho kinh tế phát triển. Thực tiễn mấy năm qua cho thấy việc Nhà nước làm chủ và ổn định tình hình tài chính - tiền tệ vừa là chức năng quan trọng nhất của Nhà nước, vừa là vấn đề phức tạp, nhạy cảm nhất trong quản lý vĩ mô khi chuyển sang cơ chế thị trường.

a) Khắc phục tình trạng căng thẳng và bị động của ngân sách nhà nước.

Đây là một vấn đề bức xúc. Năm 1996, phải tiến hành một bước cải cách hệ thống thuế nhằm mục tiêu vừa bảo đảm thu ngân sách nhà nước, vừa thúc đẩy thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng để tăng tích lũy, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích tụ vốn để tự đầu tư phát triển. Hướng cải cách là đơn giản hóa hệ thống thuế và biểu thuế suất trên cơ sở xác định rõ chức năng điều tiết của từng sắc thuế, không lạm dụng; nâng tính ổn định của thuế; mở rộng phạm vi áp dụng thuế trị giá gia tăng, thuế lợi tức, thuế thu nhập; đồng thời giảm dần hoặc từng bước thay thế thuế doanh thu ở những lĩnh vực có điều kiện; tách thuế nhập khẩu, không nhập làm một với thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế doanh thu; đi đôi với những biện pháp bảo hộ đúng mức cần có kế hoạch giảm từng bước mức thuế nhập khẩu phù hợp với tiến trình hội nhập vào xu thế đẩy mạnh cạnh tranh bằng tự do hóa mậu dịch của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; bổ sung thuế và phí sử dụng tài nguyên không tái tạo được; mở rộng thêm chính sách ưu đãi về thuế đối với đầu tư phát triển và đối với những vùng có nhiều khó khăn. Chính phủ sẽ trình Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội những kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật và pháp lệnh về thuế với ý thức bảo đảm trình tự hợp lý các bước đi trong tiến trình cải cách thuế.

Nguồn thu ngân sách năm 1996 chủ yếu dựa vào thực hiện thu đúng và thu đủ theo chính sách các hoạt động kinh doanh chịu thuế chứ không phải tăng thuế suất, nâng cao tính nghiêm minh trong việc thi hành pháp luật về thuế, chống thất thu và lạm thu, đặc biệt là chống buôn lậu; tăng cường chất lượng bộ máy thu thuế và thống nhất quản lý vào Bộ Tài chính.

Vốn đầu tư của ngân sách nhà nước sẽ tập trung trước hết cho việc xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội. Do đó, sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa nhiều hơn vào đầu tư phát triển của các doanh nghiệp, của nhân dân, tín dụng ngân hàng và huy động từ bên ngoài.

Các ngành và các các địa phương cần thực hiện nghiêm ngặt nhiệm vụ thu và tự giác kiềm chế yêu cầu đầu tư bằng vốn ngân sách, chấp hành nghiêm chỉnh hơn nữa các quy định của Chính phủ về tiết kiệm chi. Chính phủ đề nghị phân giao rành mạch nhiệm vụ chi, đi đôi với quy định những khoản thu giành toàn bộ cho từng cấp ngân sách, và những khoản thu điều tiết giữa các cấp ngân sách theo tỷ lệ ổn định ít nhất là ba năm, xác định các tiêu chuẩn và định mức làm căn cứ cho mức bổ sung của ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ động dự toán tổng số thu chi của mình, đồng thời tăng cường vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân.

Vốn và ngân sách càng eo hẹp, chúng ta càng phải tìm cách xác định đúng những ưu tiên, quyết tâm chịu đựng mọi khó khăn thiếu thốn cần chịu đựng, để có điều kiện thực hiện những ưu tiên. Có như vậy chúng ta mới sớm phá được cái vòng luẩn quẩn: nghèo nên tích lũy thấp, tích lũy thấp nên sản xuất kém hiệu quả, kém hiệu quả lại dẫn đến cái nghèo và khả năng tích lũy thấp...

Tôi lưu ý vấn đề này, bởi vì, nhìn vào kinh tế cả nước cũng như trong từng địa phương, từng ngành, chưa thể nói rằng, từng đồng vốn trong tay chúng ta, dù ở ngân sách trung ương hay ngân sách địa phương hay trong các doanh nghiệp, đã được sử dụng với quyết tâm sớm phá vỡ cái vòng luẩn quẩn thường được coi như là nghiệp chướng của các nước nghèo.

b) Kiềm chế chỉ số tăng giá, nâng cao khả năng kiểm soát lạm phát là một yêu cầu quan trọng để lành mạnh hóa tình hình tài chính - tiền tệ.

Chính phủ sẽ kiềm chế bội chi ngân sách, kiên quyết không dùng những biện pháp bù đắp có thể gây lạm phát, chống những hiện tượng gây các cơn sốt giá cả, vận dụng nhiều biện pháp khuyến khích tiết kiệm. Ngân hàng Nhà nước phải nâng cao hiệu quả quản lý lưu thông tiền tệ, với yêu cầu ổn định giá trị đồng tiền, cố gắng mở rộng từng bước các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, cải tiến các dịch vụ tiền tệ. Đây là những chủ trương quan trọng nhất để kiềm chế lạm phát, tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.

c) Phải tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tiếp tục chuyển sang cơ chế kinh doanh đầy đủ; Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định lãi suất tối đa thích ứng yêu cầu quản lý vĩ mô, còn lãi suất cụ thể do tổ chức tín dụng quyết định theo cơ chế thị trường theo hướng khuyến khích giảm lãi suất để đẩy mạnh đầu tư. Phát triển ngân hàng phục vụ người nghèo, mở rộng mạng lưới quỹ tín dụng nhân dân, các hoạt động kinh doanh bảo hiểm đa dạng của các thành phần kinh tế, ban hành thêm các định chế tài chính và các hình thức thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi, phát triển thị trường tiền tệ và các loại thị trường vốn, xây dựng cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc hình thành thị trường chứng khoán.

2. Khuyến khích huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế nhằm tăng cường đầu tư phát triển

Đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần một cách nhất quán, lâu dài đã được xác định rõ trong chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, cần được vận dụng thông suốt và sáng tạo để thúc đẩy kinh tế phát triển, tăng cường nội lực trong mở rộng hợp tác với bên ngoài.

a) Đối với các doanh nghiệp nhà nước, năm 1996, cần triển khai thực hiện luật mới ban hành, xúc tiến mạnh mẽ các chủ trương, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả của khu vực này. Đặc biệt, cần xác định cụ thể những ngành và lĩnh vực cần củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh cổ phần hóa, thực hiện đa sở hữu trong đó vốn nhà nước chỉ cần chiếm tỷ lệ chi phối, có chính sách phù hợp khuyến khích công nhân mua cổ phần và tham gia vào việc quản lý kinh doanh của xí nghiệp.

Nhà nước cần tập trung kiện toàn và quản lý tốt những doanh nghiệp có vị trí quan trọng và quy mô tương đối lớn, hình thành các tổng công ty nhà nước hoạt động có hiệu quả - nhưng không để cho những tổng công ty này trở thành độc quyền và mang tính chất một cấp quản lý hành chính mới.

Phải có những nỗ lực lớn cho khu vực kinh tế nhà nước, đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế và vai trò chủ đạo, phát huy ảnh hưởng tốt đối với thị trường trong nước, mở đường cho kinh tế cả nước đi vào công nghệ mới và sản phẩm mới, làm chỗ dựa vững chắc cho kinh tế cả nước trong quá trình phát triển kinh tế đối ngoại.

b) Cần tăng cường hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân, các hình thức kinh tế hợp tác và kinh tế tư bản nhà nước để khơi dậy và phát huy được tính năng động, sáng tạo của 11 triệu hộ ở nông thôn và gần bốn triệu hộ ở thành thị, khuyến khích họ làm giàu hợp pháp, tích cực tham gia xóa đói, giảm nghèo và các nghĩa vụ phúc lợi xã hội khác. Đó là giải pháp quan trọng huy động các nguồn lực đang còn nhiều tiềm năng, tăng nhanh đầu tư phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm việc làm, góp phần cải thiện đời sống xã hội.

Nhằm mục tiêu nói trên, cần loại bỏ những chính sách, thủ tục phiền hà trong việc đăng ký kinh doanh hoặc biểu hiện sự phân biệt đối xử các thành phần kinh tế; cần tạo ra tâm lý xã hội nhìn nhận đúng vai trò của các nhà kinh doanh làm giàu theo pháp luật, thực hiện đúng Luật lao động, đóng thuế sòng phẳng; xóa bỏ mặc cảm hay định kiến đối với kinh tế tư nhân, khuyến khích họ đưa lợi nhuận vào đầu tư phát triển và tham gia các việc công ích. Nhà nước và xã hội coi trọng các nhà kinh doanh giỏi, có đạo đức, giàu lòng yêu nước, kinh doanh có văn hóa.

Tích cực thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước; xác định chức năng, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước không chỉ thụ động xét đơn đăng ký thành lập doanh nghiệp mà còn phải hướng dẫn, giúp đỡ các nỗ lực đầu tư phát triển và kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp. Cần có chiến lược và chính sách giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh, đặc biệt là giúp về tín dụng, chuyển giao công nghệ, thông tin kinh tế và tiếp thị, nâng đỡ các hình thức kinh tế hợp tác. Phát triển các hình thức liên kết giữa doanh nghiệp nhà nước với các loại hình kinh tế hợp tác và tư nhân, từ hợp đồng gia công trong sản xuất, cung ứng nguyên liệu năng lượng, tiêu thụ sản phẩm đến liên doanh đầu tư, góp cổ phần, mua cổ phiếu...

c) Về đầu tư trực tiếp của nước ngoài, vấn đề lớn đặt ra là phải tổng kết kinh nghiệm những năm qua, khắc phục những yếu kém nhằm thu hút mạnh hơn nữa đầu tư nước ngoài, làm cho nguồn đầu tư này phục vụ tốt yêu cầu phát triển của đất nước. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động trong thời gian tới sẽ ngày càng nhiều, các văn phòng đại diện sẽ ngày càng đông, vì vậy, cần chấn chỉnh sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong việc quản lý theo pháp luật của Nhà nước ta, với mục đích khuyến khích các hoạt động đầu tư, kinh doanh, đồng thời chú ý đáp ứng tốt hơn những yêu cầu của bên nước ngoài về dịch vụ. Việc thực hiện các khâu này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hút đầu tư nước ngoài.

Đặc biệt, chúng ta cần đẩy mạnh việc đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ và công nhân kỹ thuật làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, coi đây là một khâu quyết định bảo đảm hiệu quả liên doanh, tranh thủ chuyển giao công nghệ trong sản xuất và quản lý, bảo vệ lợi ích quốc gia.

3. Phát triển hài hòa các vùng và các lĩnh vực kinh tế chủ yếu

a) Quan điểm của chúng ta là tạo môi trường và điều kiện cho tất cả các vùng đều phát triển, tuy nhiên nhịp độ có thể không đều nhau, nhưng không chênh lệch nhau quá xa; tạo động lực và khả năng các vùng, các lĩnh vực thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển nhanh và bền vững. Trong quá trình này, Chính phủ sẽ tích cực hỗ trợ sự nỗ lực tự vươn lên của mỗi vùng, đồng thời sẽ tạo những thuận lợi vĩ mô khuyến khích phát triển hợp tác và giao lưu kinh tế giữa các vùng.

Chúng ta cần nhận thức rõ đặc điểm và vị trí kinh tế của từng vùng, mối quan hệ hữu cơ giữa các vùng trong quá trình phát triển. Chúng ta cần tạo ra cho mỗi vùng sự phát triển hợp lý, không thể phát triển đồng đều, nhưng bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Cần quan niệm đây là một quá trình đi lên đòi hỏi nhiều thời gian, phải có những mục tiêu có thể thực hiện được trong từng bước, từng kế hoạch và từng năm, không thể nóng vội.

Các vùng sâu, vùng xa và miền núi, trước hết là những địa bàn xung yếu về quốc phòng và những khu căn cứ cách mạng trước đây, mà ngày nay có nhiều khó khăn trong sản xuất và đời sống, cũng sẽ được Chính phủ coi là những vùng được ưu tiên giúp đỡ, tạo điều kiện ban đầu cho việc khai thác các lợi thế và nguồn lực tại chỗ, thu hút đầu tư từ những nơi khác. Ngoài những ưu tiên đầu tư phát triển (kể cả trong lĩnh vực giáo dục, y tế) được quy hoạch trong ngân sách, những biện pháp chủ yếu sẽ được thực hiện là: Trong quy hoạch tổng thể phát triển cơ sở hạ tầng của cả nước, Chính phủ sẽ chú ý khuyến khích hình thành những tụ điểm kinh tế có khả năng thúc đẩy kinh tế hàng hóa, chuyển dịch cơ cấu và đẩy mạnh giao lưu sản phẩm, dịch vụ của các vùng này; từng bước thay đổi tập quán trong đời sống kinh tế vốn bị tách rời tại những nơi hẻo lánh này. Phương châm là tạo mọi điều kiện giúp những vùng này dần dần tạo khả năng tự thay đổi, phát triển một cách vững chắc và lâu bền đời sống kinh tế, xã hội của chính mình.

Đối với các vùng chuyên canh lúa, cần bổ sung chính sách thỏa đáng để bảo đảm vững chắc an toàn lương thực quốc gia, không để xảy ra tình trạng vùng chuyên canh lúa trở nên nghèo và thiệt hơn các vùng nông thôn khác. Đặc biệt, chú ý khuyến khích phát triển những ngành nghề trồng trọt và chăn nuôi mới, chế biến nông phẩm, hình thành những xí nghiệp công nghiệp quy mô nhỏ và vừa, duy trì và phát triển thủ công nghiệp, những ngành nghề truyền thống, các loại hình dịch vụ, với mục đích đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng nông thôn. Đây còn là yêu cầu rất quan trọng giảm sức ép phát triển đối với các đô thị và bảo đảm sự phát triển hài hòa. Công tác đào tạo ngành nghề mới, mở mang cơ sở hạ tầng và dịch vụ ở những vùng này cần được quan tâm để đạt yêu cầu nêu trên.

Cần nhấn mạnh phải sớm hình thành một chiến lược hoàn chỉnh phục vụ yêu cầu phát triển nông thôn. Hằng năm chúng ta cần tạo nhiều ngành nghề mới và giảm nhiều lao động trong nông thôn làm nông nghiệp. Cần xem đây là một nhiệm vụ quyết định quá trình đô thị hóa, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bởi vì, vùng nông thôn chiếm khoảng 3/4 dân số và đất đai cả nước.

Ba vùng kinh tế trọng điểm đã được xác định ở ba miền, do những lợi thế sẵn có, có điều kiện phát huy nhanh nguồn lực tại chỗ và thu hút đầu tư nước ngoài; thêm vào đó, do công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế, nên ba vùng này sẽ có nhịp độ tăng trưởng cao hơn rõ rệt so với nhịp độ chung. Đây là những vùng vừa có sức tiêu thụ lớn sản phẩm hàng hóa (bao gồm cả dịch vụ) của cả nước, vừa cung ứng cho cả nước nhiều sản phẩm và dịch vụ cần thiết, là những trung tâm quan trọng sản xuất, chế biến sản phẩm và cung ứng dịch vụ kinh tế đối ngoại, là nơi có nhiều khả năng tạo ra những ngành nghề và sản phẩm mới. Với ý nghĩa đó, những vùng này tăng cường khả năng tạo động lực từ bên trong thúc đẩy sự phát triển kinh tế cả nước và là cầu nối kinh tế của nước ta với các nước và thế giới. Những vùng trọng điểm kinh tế chiến lược này được coi như đội quân chủ lực trên mặt trận kinh tế, song việc phát triển những vùng này không có nghĩa xem nhẹ các vùng khác, mà là để có thêm điều kiện phát triển các vùng khác, đẩy mạnh kinh tế cả nước.

Tóm lại, chúng ta sẽ cố tìm những phương án tốt nhất, thực hiện sự phân bố các nguồn lực của Nhà nước và của xã hội sao cho có thể tạo ra sự phát triển hài hòa, cân đối giữa các miền, cân đối giữa nông thôn, thành thị, đạt được sự phân bố hợp lý về dân cư, lao động và việc làm. Đó cũng là phương hướng và giải pháp bảo đảm cho kinh tế phát triển nhanh, bền vững, phát triển đi đôi với thực hiện từng bước công bằng và tiến bộ xã hội, tăng cường đoàn kết dân tộc, củng cố quốc phòng an ninh và sự ổn định chính trị.

4. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, phát triển văn hóa xã hội, cải thiện phúc lợi xã hội

Kế hoạch năm 1996 đưa ra các nhiệm vụ và những chỉ tiêu phát triển cụ thể cho việc giải quyết việc làm và đời sống xã hội, việc nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, kế hoạch hóa gia đình, đào tạo nghề nghiệp, nước sạch và vệ sinh môi trường, xóa bỏ dần nhà ổ chuột, giữ gìn và phát triển bản sắc và văn hóa của dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn của xã hội, không để kéo dài tình trạng người nghèo không được đi học, không được chữa bệnh... Sau 10 năm đổi mới, chúng ta có khả năng đáp ứng tốt hơn những yêu cầu này, đồng thời bản thân sự phát triển của đất nước đòi hỏi nguồn nhân lực và đời sống văn hóa xã hội phải có chất lượng tốt hơn. Cần nhấn mạnh mục đích phát triển kinh tế, xã hội là để phục vụ con người, xây dựng cuộc sống xã hội lành mạnh, phồn vinh, hạnh phúc và mang đầy đủ bản sắc dân tộc.

Hơn thế nữa, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là vấn đề nâng cao dân trí, là yêu cầu cần thiết để trong quá trình phát triển ngày càng giảm bớt được sự lệ thuộc vào bên ngoài. Cùng với sự nỗ lực của Nhà nước, cần vận động một phong trào sâu rộng trong nhân dân, làm cho từng người, từng nhà, từng bậc cha mẹ nhận thức sâu sắc và làm mọi việc, khắc phục mọi khó khăn thiếu thốn, làm cho đất nước ta có thật nhiều thày giỏi, trò giỏi, đào tạo được nhiều người tài, đất nước ngày càng nhiều lực lượng kỹ thuật, chuyên nghiệp có tay nghề cao.

Mở đầu là phải đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, đào tạo nghề; cải cách và đổi mới giáo dục đại học; nâng cao chất lượng công tác y tế chăm sóc sức khỏe của nhân dân; phát động các phong trào thể dục thể thao, tạo ra trong nhân dân nguồn sinh lực mới và sự phấn chấn mới đưa đất nước đi lên.

Trên lĩnh vực văn hóa chúng ta cần vận động hình thành những phong trào quần chúng rộng rãi cổ xúy cho nếp sống văn minh, làm cho văn hóa lành mạnh và giàu bản sắc dân tộc nảy nở; nuôi dưỡng phẩm chất và ý chí tự trọng, tự lực tự cường của dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Cần ráo riết thực hiện các biện pháp bài trừ các tệ nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm, nghiện hút, mê tín dị đoan... Cần tạo ra trong nhân dân sự bác bỏ mạnh mẽ lối sống mất văn minh, các sản phẩm văn hóa đồi trụy và phản thuần phong mỹ tục. Cần ban hành sớm những biện pháp hành chính kiên quyết bài trừ các phim ảnh, báo chí phản đạo đức và kích động bạo lực, lên án mạnh mẽ những hiện tượng phản văn hóa và mọi hành động làm ô nhiễm đời sống văn hóa tinh thần của đất nước. Nhà nước sẽ trừng trị nghiêm khắc bọn đầu nậu, chủ chứa, những người tái phạm các tệ nạn xã hội.

Để sử dụng hợp lý ngân sách còn eo hẹp so với yêu cầu phát triển các vấn đề giáo dục, y tế, văn hóa và các vấn đề phúc lợi xã hội, đồng thời vẫn đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi ngày càng cao trong các lĩnh vực này, chúng ta cần có chính sách và các biện pháp đẩy mạnh hơn nữa hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm và các hình thức dân lập khác trên nguyên tắc bảo đảm chất lượng, có tác dụng tốt trong xã hội và chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước.

5. Tiếp tục phát triển và kiện toàn Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực quản lý nhà nước

Để có thể đẩy mạnh sự nghiệp phát triển toàn diện đất nước, hơn lúc nào hết phải làm cho sự vận hành của bộ máy nhà nước và mọi hoạt động của các thành viên trong xã hội hoàn toàn dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Kiện toàn và nâng cao năng lực của bộ máy nhà nước là điều kiện hàng đầu để thực hiện mục tiêu này. Cần nhấn mạnh rằng, đấy cũng là một trong những điều kiện quyết định nhất bảo đảm thực hiện những chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng, làm cho chính quyền và chế độ chính trị vững mạnh. Đặc biệt là trên cơ sở hoàn thiện hệ thống pháp luật, chúng ta cần chú trọng nâng cao hơn nữa chất lượng công tác và sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, sự phối hợp chặt chẽ giữa lập pháp và hành pháp, nhằm thiết thực tăng cường hiệu lực Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta. Một Nhà nước xã hội chủ nghĩa mạnh là cơ sở chính trị rất quan trọng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Trong những năm tới, đặc biệt từ năm 1996, chúng ta cần làm tốt những việc sau đây:

- Trước hết rà soát, sắp xếp lại hệ thống bộ máy nhà nước trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, nhằm xác định rõ và bắt buộc từng cơ quan làm đúng chức trách, nhiệm vụ để nâng cao năng lực quản lý nhà nước lên kịp với đòi hỏi của phát triển. Tiếp tục hoàn thiện và phát triển hệ thống pháp luật, đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, đồng thời nâng cao trình độ tác nghiệp của các bộ máy chức năng trong hệ thống chính quyền. Cần đẩy mạnh việc bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại, tuyển lựa và chính quy hóa đội ngũ cán bộ viên chức theo những tiêu chuẩn chức danh công tác đòi hỏi.

Phải đẩy mạnh hơn nữa cải tiến lề lối làm việc, xóa bỏ mọi thủ tục rườm rà. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ niêm yết, thông tin, thông báo để tạo ra sự minh bạch, vừa tăng cường được hiểu biết và sự giám sát của nhân dân, vừa có điều kiện hạn chế tình trạng tham nhũng, sách nhiễu dân.

- Tăng cường hiệu lực những công cụ thực hiện quản lý kinh tế vĩ mô, trước hết là hệ thống tài chính tiền tệ, bao gồm cả hệ thống thuế, các hệ thống kế toán, kiểm toán, hệ thống ngân hàng; phát triển và hoàn thiện các loại thị trường; đẩy mạnh công tác cổ phần hóa, nâng cao chất lượng quản lý tài sản và tài chính công theo tinh thần đã được trình bày trong các phần trên. Về phương diện quản lý nhà nước, những nhiệm vụ này nhằm mục đích tạo ra môi trường thuận lợi, minh bạch, khuyến khích phát triển tính năng động của mọi thành phần kinh tế trong xã hội, trước hết là kinh tế quốc doanh, hạn chế tình hình kinh tế ngầm phá rối trật tự kỷ cương.

- Đổi mới công tác kế hoạch và quy hoạch, tăng cường công tác nghiên cứu chiến lược phát triển, nghiên cứu thị trường, công tác dự báo, tiếp thị,... làm rõ hơn hướng phát triển cần lựa chọn để mở rộng chiếm lĩnh thị trường quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội đẩy mạnh kinh tế đối ngoại, tránh né hoặc làm giảm bớt tác động của những biến động rủi ro trong kinh tế thế giới. Quy mô quan hệ kinh tế càng mở rộng, càng phải đặc biệt chú ý nhiệm vụ này.

- Tăng cường khả năng quốc phòng, giữ gìn trật tự, an ninh xã hội, bảo đảm môi trường yên ổn thuận lợi bên trong và bối cảnh hòa bình ổn định bên ngoài có lợi cho sự nghiệp xây dựng Tổ quốc. Đặc biệt, chúng ta cần quan tâm nuôi dưỡng phong trào toàn dân tham gia giữ gìn trật tự, an ninh của Tổ quốc, làm tốt các chính sách hậu phương quân đội, tạo mọi điều kiện ổn định thuận lợi nhất cho sự nghiệp phát triển đất nước.

- Phát huy và bảo đảm những quyền tự do dân chủ của nhân dân, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của công dân, động viên và giúp đỡ nhân dân làm giàu trong khuôn khổ pháp luật cho bản thân mình và cho đất nước, cuốn hút sự tham gia ngày càng rộng rãi của kiều bào ở nước ngoài, làm cho chủ nghĩa yêu nước trở thành động lực mạnh mẽ phát huy đại đoàn kết dân tộc, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại hiện nay, làm cho Việt Nam trở thành một thành viên tích cực cho sự nghiệp hòa bình, ổn định, hợp tác và hữu nghị trong khu vực và trên thế giới, đồng thời làm cho nước ta sớm trở thành một tụ điểm phát triển kinh tế trong khu vực; tranh thủ mọi thuận lợi phục vụ cao nhất lợi ích của sự nghiệp xã hội và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vai trò và khả năng thực hiện các nghĩa vụ của nước ta trong các quan hệ song phương và đa phương, tiếp tục nâng cao vị trí nước ta trên trường quốc tế.

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Sự trưởng thành và yêu cầu phát triển của nước ta trong bối cảnh quốc tế ngày nay, vị thế mới của đất nước trong các tổ chức khu vực và quốc tế cũng như trong cộng đồng thế giới, và những thời cơ cũng như thách thức đang đến với dân tộc ta đang đặt ra những nhiệm vụ rất nặng nề.

Song, có thể khẳng định: ý chí, khả năng và nghị lực sáng tạo rất đáng tự hào của nhân dân ta đã được chứng minh qua những thành tựu thay đổi hẳn tình thế kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới. Trong sự nghiệp phát triển đất nước, ganh đua với thiên hạ, nhân dân ta ngày nay rất tự tin vào mình. Chủ nghĩa yêu nước đã được thử thách của nhân dân ta đang được sự nghiệp vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh cổ vũ. Ngày nay, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đã tăng cường được sức mạnh bên trong và tạo ra được thuận lợi bên ngoài, và rất quyết tâm đưa đất nước ta đuổi bắt kịp thiên hạ. Những điều kiện ấy và khí thế ấy không phải lúc nào và nước nào cũng có được.

Trách nhiệm lịch sử rất lớn đặt lên vai Đảng và Nhà nước ta là lãnh đạo nhân dân ta nắm bắt bằng được cơ hội hiện nay để giành thắng lợi.

Luôn luôn nhạy bén với những diễn biến của thời cuộc, làm chủ được tình huống phức tạp, đề xướng được những giải pháp chuyển biến tình hình, Đảng ta ngày càng trưởng thành và sẽ lãnh đạo nhân dân ta giành được những thành tựu mới. Như tôi đã trình bày ở phần mở đầu của báo cáo này, chưa bao giờ chúng ta có điều kiện hình dung rõ được như ngày nay con đường phát triển sẽ trải qua của đất nước ta và cục diện cũng như xu thế chung của thế giới. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta hoạch định những bước đi thích hợp, với tinh thần quyết đoán cao.

Điều quan trọng là thực tiễn cách mạng nước ta trong những năm đổi mới cũng như tình hình trên thế giới vừa qua diễn biến rất nhanh, nhiều khi vượt sự suy nghĩ của chúng ta.

Hãy xem xét một vài ví dụ: Cách đây hai, ba năm chúng ta tính toán nếu không phát triển thêm những nguồn điện mới, cuối năm 1997, chúng ta sẽ thiếu điện, nhưng bây giờ thời điểm này có thể là cuối năm 1996. Điều này có nghĩa chúng ta phải khẩn trương hơn nữa. Từ nhiều năm nay chúng ta đã làm nhiều việc chuẩn bị gia nhập ASEAN, tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), phát triển các mối quan hệ kinh tế khác,... nhưng thực tế đang cho thấy, còn nhiều việc chưa kịp làm. Nêu lên những ví dụ này, tôi muốn nhấn mạnh, chúng ta phải hết sức quan tâm khắc phục những mặt bất cập trong nhiệm vụ điều hành và quản lý đất nước, kiên quyết chống mọi suy thoái và tha hóa trong năng lực và phẩm chất của cán bộ và bộ máy nhà nước. Đây là điều kiện tiên quyết để giành thắng lợi. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng với lòng tin nhân dân giao phó cho.

Đặc biệt, Đảng và Nhà nước ta cần chăm lo tạo ra môi trường thuận lợi nhất về mọi mặt để nhân dân ta dù thuộc tầng lớp nào - công nhân, nông dân, các nhà khoa học, kỹ thuật, các thày, cô giáo, các thày thuốc, các nhà sản xuất, các nhà kinh doanh, các văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn hóa - xã hội, những người làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh Tổ quốc, giới tu hành, thanh niên và phụ nữ, các bậc phụ lão và các cháu thiếu nhi..., ai ai có nhiệt tâm với đất nước, dù đang sống ở trong nước hay nước ngoài, đều có điều kiện phát huy tài năng và nghị lực sáng tạo, làm cho nước ta giàu mạnh, xã hội công bằng, yên vui, non sông đẹp như gấm vóc như ông cha ta vẫn nói. Đảng ta và Nhà nước ta hãy dấy lên trong lòng từng người dân nhiệt tình này, làm cho từng người dân có trí tuệ và nghị lực thực hiện nhiệt tình này.

Lãnh trọng trách đưa đất nước ta tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta hãy suy nghĩ, tìm tòi, tự chỉnh đốn, tự đổi mới hơn nữa, cố gắng làm mọi việc sao cho từng người dân trong công việc làm ăn chính đáng của mình, trong mỗi quyết định chấp nhận rủi ro và thách thức để tiến lên, đều cảm thấy rằng Đảng và Nhà nước đứng về phía họ, hướng dẫn và đưa tay giúp đỡ họ. Đấy là ý nghĩa thực chất nhất và cũng là tiêu chuẩn cao nhất của một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân do Đảng ta lãnh đạo. Chúng ta hãy phát động mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn dân phong trào xây dựng bộ máy chính quyền theo tiêu chuẩn này, đồng thời coi những tiến bộ đạt được của phong trào này là thước đo kết quả cuộc đấu tranh chống tình trạng bất cập, tha hóa và các tệ nạn quan liêu tham nhũng. Đấy cũng là một nội dung chính trị quan trọng của nhiệm vụ hiện đại hóa nước ta. Muốn hòa nhập mà không bị hòa tan, huy động được sức mạnh toàn dân tộc xây dựng đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc của chúng ta, chiến thắng mọi thách thức để tận dụng bằng được thời cơ đang tới, Đảng ta, Nhà nước ta và nhân dân ta trước hết hãy phấn đấu xây dựng cho mình sức mạnh bên trong theo tinh thần như vậy.

Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh sẽ chắp cánh cho đất nước ta đi lên.

Xin cảm ơn sự chú ý của các vị đại biểu.

 

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội
 

 

Về trang mục lục

Trở về đầu trang