VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 3 1995-1996


BÁO CÁO THẨM TRA
CỦA ỦY BAN PHÁP LUẬT CỦA QUỐC HỘI
VỀ DỰ ÁN BỘ LUẬT DÂN SỰ

(Do ông Nguyễn Văn Yểu, Phó Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật
của Quốc hội đọc tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa IX, ngày 03-10-1995)

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Qua nhiều năm nghiên cứu và xây dựng, đến nay Ban Dự thảo Bộ luật dân sự đã xây dựng được Dự thảo lần thứ 14 để trình Quốc hội. Qua mỗi Dự thảo, Dự án Bộ luật dân sự đã được chỉnh lý một bước theo sự chỉ đạo của Chính phủ, của Ủy ban thường vụ Quốc hội và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về những vấn đề lớn thuộc nội dung Dự án Bộ luật dân sự.

Theo quyết định của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ngày
06 tháng 02 năm 1995, Dự án Bộ luật dân sự đã được công bố lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp. Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đã được tiến hành sâu rộng trong cả nước. Nhiều chương, điều của Dự thảo đã được nhân dân, các ngành, các cấp góp ý kiến sửa đổi, bổ sung.

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao, Ban Dự thảo Bộ luật dân sự đã phối hợp với các cơ quan hữu quan dành nhiều thời gian tập trung nghiên cứu và đã tiếp thu một cách nghiêm túc ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, ý kiến đóng góp của nhân dân, các ngành, các cấp để chỉnh lý Dự án Bộ luật dân sự.

Trong các ngày từ 11 đến 18 tháng 9 năm 1995, Ủy ban pháp luật đã họp để thẩm tra Dự án Bộ luật dân sự (Dự thảo 14). Tham gia phiên họp của Ủy ban pháp luật có đại diện của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Ban Nội chính Trung ương, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các chuyên gia của một số cơ quan hữu quan. Tại phiên họp, sau khi nghe đồng chí đại diện Bộ Tư pháp được sự ủy nhiệm của Chính phủ trình bày Dự án Bộ luật dân sự, đại diện các cơ quan phát biểu ý kiến, các thành viên Ủy ban pháp luật thảo luận về tất cả các vấn đề thuộc nội dung Dự án Bộ luật dân sự. Sau đây, chúng tôi xin báo cáo ý kiến của Ủy ban pháp luật về Dự án Bộ luật dân sự mà Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp này.

Dự thảo lần thứ 14 về Bộ luật dân sự gồm có Lời nói đầu, bảy phần, 838 điều. So với Dự án Bộ luật dân sự trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa IX (gồm lời nói đầu, sáu phần và 701 điều) thì Dự án Bộ luật lần này đã được sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề về nội dung, bố cục, hình thức trình bày như:

- Sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa các nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự; bổ sung biện pháp bảo vệ quyền dân sự (biện pháp phạt vi phạm);

- Bổ sung các quy định về quyền nhân thân;

- Bổ sung, cụ thể hóa hơn các quy định về giám hộ, tuyên bố mất tích, tuyên bố chết, quy định về pháp nhân;

- Sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung của chế định “quyền sở hữu” như: bổ sung quy định về quyền chiếm hữu, sử dụng của những chủ thể không phải là chủ sở hữu; các hình thức sở hữu; bổ sung căn cứ xác lập, chấm dứt quyền sở hữu và những quy định riêng về quyền sở hữu;

- Nội dung các phần “Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự”, “Thừa kế”, “Quan hệ dân sự có nhân tố nước ngoài” cũng có những sửa đổi, bổ sung về nội dung cũng như về bố cục sắp xếp.

Ủy ban pháp luật nhận thấy trong quá trình nghiên cứu, chỉnh lý Dự án, Ban Dự thảo Bộ luật dân sự đã có nhiều cố gắng và đã bám sát các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng Bộ luật dân sự. Vì vậy, về cơ bản chúng tôi tán thành với các nội dung của Dự án Bộ luật. Tuy nhiên, Dự án Bộ luật dân sự là một Dự án luật lớn, phạm vi những vấn đề cần quy định khá rộng với nội dung liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nên về nội dung của nhiều vấn đề cũng còn có ý kiến khác nhau. Chúng tôi xin báo cáo ý kiến của Ủy ban pháp luật về các vấn đề này như sau:

I- VỀ PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH
CỦA DỰ ÁN BỘ LUẬT DÂN SỰ

1. Về quan hệ hôn nhân và gia đình được quy định trong Bộ luật dân sự:

Qua thảo luận, Ủy ban pháp luật nhận thấy, ngoài những quan hệ hôn nhân và gia đình đã được Dự thảo 12 (Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân) quy định như: về đăng ký kết hôn; từ chối đăng ký kết hôn; đăng ký việc nhận nuôi con nuôi; ly hôn khi vợ hoặc chồng bị tuyên bố mất tích, tuyên bố chết; thừa kế của con nuôi, con riêng; người đại diện của con chưa thành niên; một số quy định về người giám hộ, v.v.. Dự thảo 14 đã bổ sung thêm một số quan hệ hôn nhân và gia đình khác, đó là: quyền kết hôn (Điều 50); quyền bình đẳng của vợ chồng (Điều 51); quyền xây dựng gia đình bền vững hạnh phúc (Điều 52); quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình (Điều 53); quyền ly hôn (Điều 54); quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận con nuôi (Điều 55); nơi cư trú của vợ chồng (Điều 64); đăng ký chấm dứt hôn nhân sau ly hôn (Điều 72); trách nhiệm liên đới bồi thường của cha, mẹ (Điều 615); hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng (Điều 660).

Trong quá trình lấy ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, ý kiến của nhân dân, các ngành, các cấp thì về phạm vi quy định các quan hệ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật dân sự vẫn còn có ý kiến khác nhau:

- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị: chỉ đưa một số quy định về quan hệ hôn nhân và gia đình thể hiện rõ nét tính dân sự vào Bộ luật dân sự, còn những vấn đề cụ thể khác để Luật hôn nhân và gia đình quy định, vì cho rằng, Luật hôn nhân và gia đình là một ngành luật độc lập, ngoài ý nghĩa pháp lý, Luật còn khẳng định các giá trị đạo đức, tình cảm phù hợp với quan niệm truyền thống tốt đẹp của dân tộc về hôn nhân và gia đình. Mặt khác, nhiều quy định của Luật hôn nhân và gia đình không còn phù hợp với tình hình đổi mới của đất nước, do đó, cần phải tiến hành tổng kết việc thực hiện để có cơ sở thực tiễn cho việc sửa đổi, bổ sung Luật này.

- Loại ý kiến thứ hai đề nghị: đưa toàn bộ các quy định của Luật hôn nhân và gia đình vào Bộ luật dân sự, trừ một số quy định không thuộc lĩnh vực dân sự và được các văn bản pháp luật khác quy định và vì vậy, không nên để Luật hôn nhân và gia đình tồn tại song song với Bộ luật dân sự. Ý kiến này cho rằng, thực chất các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình là những quan hệ dân sự. Hơn nữa, nếu chỉ đưa một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình vào Bộ luật dân sự thì dẫn đến tình trạng về cùng một vấn đề sẽ có hai văn bản pháp luật điều chỉnh, sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện pháp luật của nhân dân cũng như việc áp dụng của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Mặt khác, việc đưa tất cả những quy định về các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản thuộc nội dung của Luật hôn nhân và gia đình vào Bộ luật dân sự vẫn bảo đảm thể hiện được những giá trị đạo đức, tình cảm mang tính truyền thống của dân tộc ta trong lĩnh vực này. Hơn nữa, việc đưa những quy định này của Luật hôn nhân và gia đình vào Bộ luật dân sự chính là bảo đảm một trong các yêu cầu đặt ra trong việc xây dựng Bộ luật dân sự là thực hiện pháp điển hóa một bước về pháp luật dân sự.

- Loại ý kiến thứ ba đề nghị: hoặc đưa toàn bộ quan hệ hôn nhân và gia đình vào Bộ luật dân sự hoặc không quy định các quan hệ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật dân sự, mà không nên chỉ quy định một số quan hệ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật dân sự.

Sau khi thảo luận, cân nhắc về các khía cạnh của vấn đề này, Ủy ban pháp luật cho rằng, việc đưa các quy định của Luật hôn nhân và gia đình vào Bộ luật dân sự là cần thiết. Tuy nhiên, trong điều kiện chúng ta còn đang trong quá trình tiến hành tổng kết việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình, Dự thảo Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi) chưa được thảo luận sâu rộng và chưa được công bố lấy ý kiến nhân dân; để sớm có thể thông qua Bộ luật dân sự nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, đáp ứng mong muốn của đông đảo quần chúng nhân dân, thì chỉ nên quy định một số quan hệ hôn nhân và gia đình đã ổn định, có tính dân sự rõ nét vào Bộ luật dân sự để có thể thông qua Bộ luật dân sự vào kỳ họp Quốc hội này; những quan hệ hôn nhân và gia đình này nếu không được quy định trong Bộ luật dân sự thì sẽ ảnh hưởng đến các quy định khác của Bộ luật dân sự có liên quan đến vấn đề này. Vì vậy, theo chúng tôi trước mắt, quan hệ hôn nhân và gia đình vẫn nên để một đạo luật riêng quy định và chỉ đưa vào Bộ luật dân sự như trong Dự thảo, qua một số năm thực hiện sẽ tổng kết và nếu thấy cần thiết, sẽ xem xét đưa Luật hôn nhân và gia đình vào Bộ luật dân sự sau.

2. Về các quan hệ nhân thân:

Quan hệ nhân thân là một trong các đối tượng điều chỉnh chủ yếu của Bộ luật dân sự. Dự thảo 12 mới chỉ quy định các quan hệ nhân thân ở một mức độ nhất định. Vì vậy, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, ý kiến đóng góp của nhân dân, các ngành, các cấp, Dự thảo 14 đã bổ sung một số quy định về nhân thân và tách thành một mục riêng (mục 3 chương II, Phần thứ nhất, từ Điều 42 đến Điều 60). Tuy nhiên, về mức độ quy định các quyền nhân thân trong Dự thảo Bộ luật dân sự như thế nào thì cũng còn có các ý kiến khác nhau. Có ý kiến đề nghị đưa tất cả các quyền công dân đã được Hiến pháp và các văn bản khác quy định vào Bộ luật dân sự. Ý kiến khác lại cho rằng, trong Bộ luật dân sự chỉ nên quy định các quyền nhân thân có liên quan chặt chẽ đến các quan hệ dân sự.

Qua thảo luận, Ủy ban pháp luật nhận thấy việc bổ sung các quan hệ nhân thân vào Bộ luật dân sự là cần thiết và tán thành với quan điểm chỉ quy định các quyền nhân thân trong lĩnh vực dân sự và gắn liền với nó là các nghĩa vụ nhân thân vì cho rằng, Bộ luật dân sự chỉ điều chỉnh các quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự, như tại Điều 1 Dự thảo đã xác định. Các quyền nhân thân khác đã và sẽ được các văn bản pháp luật khác quy định như quyền bầu cử, ứng cử do Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí do Luật báo chí quy định, v.v.. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy trong các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội đã được Hiến pháp năm 1992 quy định thì việc xác định quyền nào là quyền dân sự và quyền nào không phải là quyền dân sự là một vấn đề rất khó khăn vì trong nhiều trường hợp các quyền này đan xen lẫn nhau, khó có thể phân biệt rạch ròi. Đồng thời, căn cứ vào tình hình thực tiễn của đất nước ta, Ủy ban pháp luật cũng đề nghị cần cân nhắc việc quy định các quyền nhân thân trong Bộ luật dân sự như thế nào để bảo đảm tính khả thi của các quy định đó. Về các quyền nhân thân đã được Dự thảo Bộ luật dân sự quy định, chúng tôi xin phát biểu cụ thể ở phần sau.

3. Về quan hệ chuyển quyền sử dụng đất:

Qua tổng hợp ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, ý kiến của nhân dân, các ngành, các cấp, có các loại ý kiến chủ yếu như sau:

- Ý kiến thứ nhất đề nghị, Bộ luật dân sự cần cụ thể hóa các quyền của người sử dụng đất được Nhà nước giao đất; cho thuê đất, đồng thời bổ sung quy định về quyền của người được xác lập quyền sử dụng đất do được chuyển quyền sử dụng đất;

- Ý kiến thứ hai đề nghị, Bộ luật dân sự không nên quy định việc chuyển quyền sử dụng đất vì cho rằng, pháp luật về đất đai còn chưa đầy đủ và chưa được tổng kết thực tiễn thi hành. Nhiều vấn đề mới phát sinh, cần có sự sửa đổi, bổ sung trong pháp luật về đất đai. Mặt khác, đất đai là tài sản đặc biệt, quan hệ chuyển quyền sử dụng đất không thuần túy là quan hệ dân sự, bởi vì trước hết, người sử dụng đất không phải là chủ sở hữu và khi thực hiện những quyền này còn bị hạn chế bởi những quy định chặt chẽ của pháp luật về hành chính.

- Ý kiến thứ ba đề nghị, Bộ luật dân sự cần quy định về vấn đề chuyển quyền sử dụng đất, nhưng không quy định về các quyền của người sử dụng đất và các điều kiện chuyển quyền sử dụng đất mà Luật đất đai đã quy định, mà chỉ quy định về nội dung, hình thức của hợp đồng, trình tự, thủ tục chuyển quyền sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia quan hệ chuyển quyền sử dụng đất, nhằm bảo đảm việc quản lý của Nhà nước đối với giao lưu dân sự về lĩnh vực đất đai.

Qua thảo luận, Ủy ban pháp luật cho rằng, việc quy định vấn đề chuyển quyền sử dụng đất trong Bộ luật dân sự là cần thiết, vì các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất thực chất là các quyền dân sự; trong khi đó việc thực hiện các quyền này như thế nào thì Luật đất đai lại quy định chưa đầy đủ. Vì vậy, Bộ luật dân sự cần quy định về vấn đề chuyển quyền sử dụng đất nhằm cụ thể hóa các hình thức chuyển quyền sử dụng đất, bảo đảm giữ đúng mục đích sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất. Về phạm vi, mức độ quy định các quan hệ chuyển quyền sử dụng đất trong Bộ luật dân sự như thế nào thì Ủy ban pháp luật tán thành với loại ý kiến thứ ba. Còn các điều kiện chuyển quyền sử dụng đất đối với mỗi loại đất cũng như đối với từng đối tượng cụ thể thì Bộ luật dân sự sẽ dẫn chiếu các quy định của pháp luật đất đai.

4. Về vấn đề quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ:

Ủy ban pháp luật cho rằng, việc quy định về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ trong Bộ luật dân sự là cần thiết vì các quan hệ này là các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản, do đó, cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, về phạm vi và mức độ quy định các vấn đề này trong Bộ luật dân sự cũng còn có ý kiến khác nhau:

- Một số ý kiến thành viên Ủy ban pháp luật cho rằng, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ là những vấn đề có tính đặc thù và khá phức tạp. Vì vậy, Bộ luật dân sự chỉ nên quy định những nguyên tắc chung, còn các quy định cụ thể về các vấn đề nói trên thì để cho các văn bản pháp luật riêng quy định.

- Đa số ý kiến thành viên Ủy ban pháp luật tán thành với phạm vi quy định về vấn đề này đã được thể hiện trong Dự thảo Bộ luật dân sự vì cho rằng, quy định như vậy sẽ bảo đảm yêu cầu pháp điển hóa một bước pháp luật dân sự của nước ta, nhưng cần rà soát lại các quy định về vấn đề này trong Dự thảo Bộ luật cho phù hợp với thực tế.

II- VỀ CÁC NỘI DUNG CỤ THỂ
CỦA DỰ THẢO BỘ LUẬT DÂN SỰ

A. Phần thứ nhất: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

1. Về nhiệm vụ của Bộ luật dân sự (Điều 1):

Điều 1 Dự thảo Bộ luật dân sự quy định: “Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, tạo điều kiện thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội”. Qua thảo luận, Ủy ban pháp luật nhận thấy, Bộ luật dân sự có nhiệm vụ rất quan trọng là xây dựng các chuẩn mực pháp lý cho tổ chức, cá nhân khi tham gia quan hệ dân sự, chuẩn mực cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Vì vậy, chúng tôi đề nghị bổ sung vào Điều 1 Dự thảo nội dung nói trên, đồng thời bỏ ý này ở “Lời nói đầu” của Dự thảo.

2. Về các nguyên tắc cơ bản (Điều 1 - 14):

Về các nguyên tắc xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, Dự thảo 12 quy định ngắn gọn và cô đọng ở một điều (Điều 2). Trong quá trình lấy ý kiến nhân dân, có ý kiến đề nghị cần cụ thể hóa quy định này, do đó, Dự thảo 14 đã cụ thể hóa các nguyên tắc xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự thành mười điều (từ Điều 2 đến Điều 11). Về vấn đề này, Ủy ban pháp luật cho rằng, việc cụ thể hóa quy định này là cần thiết; tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy nhiều nguyên tắc mà Dự thảo 14 quy định trong một chừng mực nhất định có liên quan mật thiết với nhau và khó có thể tách tời nhau ra được (nếu tách rời ra thì cũng ít có ý nghĩa và khó thể hiện về nội dung). Do đó, chúng tôi đề nghị cần cân nhắc để rút gọn hơn các nguyên tắc này bảo đảm tính hợp lý của các quy định, cũng như bảo đảm yêu cầu ngắn gọn, rõ ràng của văn bản pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện pháp luật của công dân, tổ chức, cơ quan nhà nước cũng như việc áp dụng pháp luật của các cơ quan bảo vệ pháp luật.

3. Về chế định giám hộ (Điều 24 - 41):

Dự thảo Bộ luật dân sự quy định việc giám hộ đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi nhằm thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người đó. Quy định này phát triển chế độ đỡ đầu trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, mở rộng hơn phạm vi áp dụng không chỉ đối với người chưa thành niên mà cả đối với người mất năng lực hành vi. Vì vậy, Ủy ban pháp luật tán thành với nội dung cơ bản của dự thảo xác định trách nhiệm giám hộ đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi trước hết là của gia đình, họ hàng thân thuộc; đồng thời, khuyến khích tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong nhân dân và vai trò của các tổ chức xã hội, chính quyền tại cơ sở. Tuy nhiên, về các quy định cụ thể của chế định này, Ủy ban pháp luật còn có các ý kiến như sau:

- Về nội dung giám hộ, Dự thảo quy định gồm: việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ, quản lý tài sản của người được giám hộ, bồi thường thiệt hại do người được giám hộ gây ra cho người khác. Đối với người chưa thành niên, người giám hộ còn có nghĩa vụ “giáo dục người được giám hộ”; đối với người mất năng lực hành vi, người giám hộ còn có nghĩa vụ “bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ”. Điều 26 Dự thảo Bộ luật dân sự quy định về điều kiện của người làm giám hộ là rất chặt chẽ: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có tư cách đạo đức tốt, có điều kiện cần thiết bảo đảm việc thực hiện giám hộ. Về vấn đề này, Ủy ban pháp luật cho rằng, với nội dung giám hộ và các điều kiện giám hộ như Dự thảo Bộ luật dân sự quy định thì khó có thể khuyến khích được các cá nhân, tổ chức đứng ra tự nguyện làm người giám hộ. Trên thực tế và theo quy định của Bộ luật lao động thì trẻ em từ 15 tuổi đã có thể tự lao động và có thu nhập riêng. Hơn nữa, ở độ tuổi này, các em phần nào cũng đã có thể tự lập, do đó, chúng tôi đề nghị căn cứ vào đối tượng được giám hộ (là người mất năng lực hành vi, người dưới 15 tuổi, người từ 15 tuổi đến 18 tuổi) và căn cứ vào người giám hộ (là người được cử hay là người giám hộ đương nhiên) để có quy định cho phù hợp về nội dung giám hộ. Đồng thời, Dự thảo Bộ luật dân sự cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan lao động, thương binh và xã hội, Ủy ban bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và các tổ chức xã hội trong việc giúp đỡ người giám hộ được cử, để họ thực hiện được nghĩa vụ của mình.

- Điều 24 khoản 4 Dự thảo quy định: “Người chưa đủ 15 tuổi không còn cha và mẹ thì phải có người giám hộ”. Về vấn đề này, có ý kiến đề nghị cân nhắc việc quy định giám hộ là chế độ bắt buộc, vì trên thực tế số người cần được giám hộ ở nước ta theo quy định này là khá nhiều. Trong điều kiện hoàn cảnh kinh tế hiện nay, thì để thực hiện trách nhiệm của người giám hộ như quy định của Dự thảo là rất nặng nề: “Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” của người được giám hộ. Vì vậy, ý kiến này cho rằng, nếu quy định giám hộ là chế độ bắt buộc đối với người chưa đủ 15 tuổi không còn cha mẹ thì khó có thể thực hiện được.

Sau khi thảo luận, đa số ý kiến thành viên Ủy ban pháp luật tán thành với việc quy định giám hộ là chế độ pháp lý bắt buộc đối với người chưa đủ 15 tuổi không còn cha, mẹ, còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ mất năng lực hành vi, bị Tòa án hạn chế quyền làm cha, mẹ. Quy định như vậy là thể hiện rõ chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc quan tâm, chăm lo tới trẻ mồ côi, không nơi nương tựa. Đồng thời, chúng tôi đề nghị bổ sung quy định việc giám hộ bắt buộc đối với người mất năng lực hành vi vì cho rằng, cũng như người chưa thành niên, thì đây cũng là một đối tượng cần phải được Nhà nước, xã hội quan tâm, chăm sóc. Hơn nữa, các đối tượng này, nếu không được chăm sóc, quản lý chặt chẽ thì sẽ có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội.

4. Về quyền nhân thân (Điều 42 - 60):

Điều 49 khoản 1 quy định “Việc thu thập, công bố thông tin về đời tư cá nhân phải được người đó đồng ý”. Chúng tôi cho rằng, nội dung của quy định này là không phù hợp trong trường hợp cá nhân đó đã chết hoặc trong trường hợp cơ quan điều tra khi tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, mà cần phải tiến hành thu thập, công bố thông tin về đời tư của một cá nhân có liên quan. Do đó, chúng tôi đề nghị sửa lại Điều này như sau: “Việc thu thập, công bố thông tin về đời tư cá nhân phải được người đó đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

5. Về tuyên bố mất tích, tuyên bố là đã chết (Điều 82-91):

Qua thảo luận, Ủy ban pháp luật nhận thấy Dự thảo Bộ luật dân sự chưa quy định về quyền và nghĩa vụ của người quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích. Vì vậy, chúng tôi đề nghị trong Điều 87 hoặc sau Điều này cần bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của người quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích. Theo chúng tôi, cần quy định người này có các quyền, nghĩa vụ như người quản lý tài sản của người vắng mặt nhưng có bổ sung thêm nghĩa vụ bàn giao lại tài sản cho người bị mất tích khi người này trở về hoặc cho người thừa kế trong trường hợp người mất tích bị tuyên bố là đã chết.

6. Về pháp nhân (Điều 92 - 113):

- Điều 101, khoản 1 Dự thảo Bộ luật dân sự quy định “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp luật, vì lợi ích của pháp nhân”. Về vấn đề này, chúng tôi đề nghị bỏ cụm từ “vì lợi ích của pháp nhân” vì khi người đại diện của pháp nhân đã tham gia quan hệ dân sự nhân danh pháp nhân thì pháp nhân đó phải chịu trách nhiệm dân sự mà không liên quan đến việc giao dịch đó có lợi hay không có lợi cho pháp nhân.

- Điều 107, khoản 1 quy định “Pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

+ Giải thể theo quy định tại Điều 106 của Bộ luật này;

+ Bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật phá sản.”

Chúng tôi đề nghị, bổ sung các trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia tách pháp nhân (được quy định tại các điều 102, 103, 104), cũng là các trường hợp chấm dứt pháp nhân.

7. Về hộ gia đình (Điều 114 - 117):

Về vấn đề này, chúng tôi cho rằng, hộ gia đình đã và đang tồn tại trên thực tế và có tham gia vào một số quan hệ dân sự nhất định. Theo quy định của Luật đất đai thì hộ gia đình là đối tượng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và là chủ thể của quan hệ chuyển quyền sử dụng đất mà thực chất là các quan hệ dân sự. Vì vậy, chúng tôi tán thành với việc quy định hộ gia đình là chủ thể của quan hệ dân sự, nhưng cần xác định đây là một loại chủ thể đặc biệt của quan hệ dân sự (chủ thể hạn chế trong một số quan hệ dân sự nhất định). Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, khái niệm “hộ gia đình” được quy định tại Điều 114 Dự thảo Bộ luật: “Các thành viên của một gia đình có hộ khẩu chung, tài sản chung và hoạt động kinh tế chung lập thành hộ gia đình” còn chưa rõ ràng và chưa thật phù hợp đối với mỗi loại hình hộ gia đình ở nông thôn, ở thành thị và ở miền núi. Đối với nông thôn, trong nhiều trường hợp khái niệm hộ gia đình cũng rất khác nhau. Trong cùng một gia đình thì khái niệm “hộ gia đình” được Nhà nước giao đất ở (bao gồm những người cùng chung sống), có thể khác với khái niệm “hộ gia đình” được Nhà nước giao đất nông nghiệp (bao gồm những người cùng sản xuất nông nghiệp). Mặt khác, Điều 116 Dự thảo Bộ luật dân sự quy định tài sản chung của hộ gia đình là tài sản do các thành viên cùng tạo lập nên hoặc được tặng cho chung và các tài sản khác do các thành viên thỏa thuận là tài sản chung. Chúng tôi nhận thấy, nếu quy định hộ gia đình là chủ thể của quan hệ dân sự, thì việc xác định khối tài sản chung của hộ gia đình là rất cần thiết và quan trọng về mặt pháp lý. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định tài sản chung của hộ gia đình trong nhiều trường hợp là rất khó khăn. Vì vậy, xuất phát từ những tính đặc thù của hộ gia đình, chúng tôi đề nghị, trước mắt chỉ quy định hộ gia đình là chủ thể liên quan đến việc chuyển quyền sử dụng đất trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và các lĩnh vực khác do pháp luật quy định.

Về đại diện của hộ gia đình, tại Điều 115 khoản 2 quy định: “giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình”. Chúng tôi cho rằng, quy định này trong nhiều trường hợp không bảo đảm được quyền lợi của các thành viên trong gia đình và nếu giao dịch đó liên quan đến việc định đoạt tài sản chung của hộ thì quy định này không phù hợp với nguyên tắc định đoạt tài sản chung phải được sự đồng ý của các đồng chủ sở hữu. Do đó, chúng tôi đề nghị bổ sung vào Điều 115 quy định việc mua, bán, đổi, cho vay, cho mượn... những tài sản chung, có giá trị lớn thì phải được sự đồng ý của các thành viên đã thành niên của hộ gia đình, trừ trường hợp họ có thỏa thuận khác.

8. Về tổ hợp tác (Điều 118 - 127)

Chúng tôi nhận thấy, trong điều kiện phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay, kinh tế hợp tác đang tồn tại dưới nhiều hình thức, quy mô và trình độ khác nhau. Nghị định số 28-HĐBT (1988) về kinh tế tập thể sản xuất công nghiệp, dịch vụ, công nghiệp xây dựng, vận tải quy định tổ hợp tác là đơn vị kinh tế tập thể quy mô nhỏ, có một phần tư liệu sản xuất và các vốn bằng tiền là sở hữu tập thể được phát triển bằng quỹ tích lũy từ lợi nhuận; đồng thời coi tổ hợp tác có tư cách pháp nhân. Mặt khác việc khảo sát thực tế cho thấy, trong một số trường hợp, các tổ hợp tác được tổ chức đơn giản, chưa thật ổn định và chỉ tồn tại một cách tạm thời. Cũng có trường hợp tổ hợp tác chỉ do một cá nhân làm chủ nhưng hoạt động với tư cách “tổ hợp tác” để sử dụng danh nghĩa pháp nhân của tổ hợp tác trong giao dịch dân sự. Ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, của nhân dân, các ngành, các cấp về tư cách chủ thể của “tổ hợp tác” cũng còn khác nhau. Có ý kiến tán thành với việc quy định tổ hợp tác là chủ thể đặc biệt; ý kiến khác đề nghị không quy định tổ hợp tác là chủ thể đặc biệt trong quan hệ dân sự.

Về vấn đề này, Ủy ban pháp luật cho rằng, cần phân biệt rõ các loại hình kinh tế hợp tác để xác định tư cách chủ thể của nó trong quan hệ dân sự.

Nếu tổ hợp tác có đủ các điều kiện để trở thành pháp nhân theo quy định tại Điều 92 của Dự thảo thì sẽ tham gia quan hệ dân sự với tư cách pháp nhân.

Nếu tổ hợp tác được thành lập thông qua hợp đồng hợp tác, có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn thì được coi là chủ thể đặc biệt của một số quan hệ dân sự nhất định theo quy định của pháp luật.

Trong các trường hợp khác thì không xác định là chủ thể đặc biệt và tham gia quan hệ dân sự với tư cách cá nhân. Quy định như vậy vừa khuyến khích kinh tế hợp tác phát triển lành mạnh, đúng hướng, vừa quản lý được chặt chẽ, tránh bị lợi dụng.

B. Phần thứ hai: QUYỀN SỞ HỮU

1. Về các hình thức sở hữu:

Theo quy định tại Điều 15 của Hiến pháp năm 1992 thì ở nước ta có các chế độ sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng của chế độ kinh tế. Tương ứng với ba chế độ sở hữu là ba hình thức sở hữu cơ bản: hình thức sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay thì, ngoài ba hình thức sở hữu cơ bản này còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu đa dạng khác. Vì vậy, để phù hợp với thực tiễn, chúng tôi đề nghị trong Bộ luật dân sự cần quy định có các hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu của tổ chức chính trị, sở hữu của tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của các tổ chức xã hội, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu hỗn hợp và hình thức sở hữu khác do pháp luật quy định. Về các hình thức sở hữu cụ thể, chúng tôi xin trình bày ý kiến của Ủy ban pháp luật như sau:

- Về hình thức sở hữu toàn dân, chúng tôi đề nghị cân nhắc việc quy định về quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản thuộc doanh nghiệp nhà nước được quy định tại các điều 202, 203 của Dự thảo. Các quyền này đã được Luật doanh nghiệp nhà nước quy định, vì vậy trong Bộ luật dân sự chỉ quy định viện dẫn các quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước để tránh sự trùng lặp giữa các đạo luật và trong những trường hợp cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật doanh nghiệp nhà nước thì không phải đồng thời sửa đổi, bổ sung những quy định này trong Bộ luật dân sự.

- Đối với quy định tại Điều 223 về sở hữu của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, chúng tôi đề nghị tách khỏi hình thức sở hữu chung và quy định thành một hình thức sở hữu riêng gọi là sở hữu của tổ chức xã hội, vì sở hữu của các tổ chức xã hội có những điểm khác so với sở hữu chung. Trước hết, các thành viên của các tổ chức xã hội không có các phần quyền sở hữu đối với tài sản của cả tổ chức. Khi các thành viên gia nhập tổ chức và đóng góp tài sản cho tổ chức (hoặc nộp phí hoạt động) nhằm thực hiện mục đích chung của tổ chức thì khi ra khỏi tổ chức, các thành viên không có quyền đòi phần chia tài sản của tổ chức. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của tổ chức xã hội phải tuân theo pháp luật và phù hợp với mục đích hoạt động của tổ chức đó được quy định trong Điều lệ.

- Đối với quy định về sở hữu hỗn hợp (Điều 224), Ủy ban pháp luật cho rằng, đây là một dạng đặc thù của hình thức sở hữu chung. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay, nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau thực hiện việc liên doanh, liên kết với nhau, kể cả với nước ngoài dưới nhiều hình thức và đang hoạt động trên thực tế. Tuy nhiên, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các loại chủ thể này không đơn thuần chỉ tuân theo các quy định về hình thức sở hữu chung, mà còn phải tuân theo các quy định chặt chẽ của các văn bản pháp luật khác đối với từng loại chủ thể (Luật công ty, Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, v.v..) về việc góp vốn, tổ chức sản xuất, kinh doanh, phân chia lợi nhuận và trách nhiệm tài sản. Do đó, đa số ý kiến thành viên Ủy ban pháp luật đề nghị quy định sở hữu hỗn hợp là một hình thức sở hữu riêng và phải được quy định chặt chẽ để tránh việc lợi dụng nhằm chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản hỗn hợp, nhất là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, sở hữu thuộc tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu tập thể một cách trái pháp luật.

2. Về các vấn đề cụ thể của phần “Quyền sở hữu”:

- Về nội dung quyền sở hữu (Điều 182 - 198):

Dự thảo 14 khi quy định về nội dung của quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) đã bổ sung thêm các quyền chiếm hữu, sử dụng của người không phải là chủ sở hữu. Về vấn đề này cũng còn có ý kiến cho rằng, quyền sở hữu là quyền của chủ sở hữu đối với tài sản, do đó cần tách các nội dung quy định về quyền chiếm hữu, quyền sử dụng của người không phải chủ sở hữu ra khỏi nội dung phần này. Chúng tôi tán thành với quy định của Dự thảo vì cho rằng, khi quy định về nội dung quyền sở hữu thì có thể quy định về các vấn đề khác có liên quan.

- Về xác lập quyền sở hữu (Điều 231 - 245):

+ Đối với việc xác lập quyền sở hữu vật vô chủ (Điều 237), vật chôn giấu được tìm thấy (Điều 238), v.v., chúng tôi đề nghị cần quy định đối với những tài sản mà thuộc danh mục Nhà nước quản lý, cấm tàng trữ, sử dụng... thì các tài sản này thuộc sở hữu Nhà nước mà không thuộc sở hữu của người tìm thấy.

+ Đối với vật bị chôn giấu, được tìm thấy, Điều 238 Dự thảo quy định: nếu vật đó không phải là cổ vật và có giá trị lớn thì người tìm thấy được hưởng 50% giá trị của vật, phần còn lại thuộc Nhà nước; đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên, Điều 239 Dự thảo quy định: sau một năm kể từ ngày thông báo công khai về vật nhặt được mà không xác định được ai là chủ sở hữu hoặc không có người đến nhận, nếu vật có giá trị lớn thì người nhặt được hưởng 50% giá trị của vật, phần còn lại thuộc Nhà nước.

Về vấn đề này, chúng tôi đề nghị cần cân nhắc đối với các trường hợp như tài sản bị chìm đắm dưới đáy biển, đáy sông hoặc bị vùi lấp sâu trong lòng đất mà người tìm kiếm phải tốn nhiều công sức, tiền bạc để tìm kiếm vật, có khi chi phí này lớn hơn 50% giá trị của vật. Vì vậy, chúng tôi đề nghị quy định người tìm thấy được hưởng 50% giá trị của vật sau khi đã trừ đi các chi phí cần thiết, đồng thời, cần có quy định giới hạn về mức giá trị tiền thưởng cao nhất mà người nhặt được được hưởng.

+ Dự thảo 14 đã nâng thời hạn mà người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai từ 20 năm lên 25 năm có thể trở thành chủ sở hữu đối với tài sản đang chiếm hữu đó. Điều sửa đổi này là phù hợp với ý kiến đóng góp của nhân dân. Tuy nhiên, khi nâng thời hiệu này lên 25 năm thì cũng cần cân nhắc sửa đổi những điều quy định có liên quan như quy định về ranh giới chung giữa các bất động sản (Điều 260 quy định: ranh giới có thể được xác định theo tập quán hoặc ranh giới đã tồn tại từ 20 năm trở lên mà không có tranh chấp). Do đó, chúng tôi đề nghị nâng thời hạn được quy định tại Điều 260 lên 25 năm.

C. Phần thứ ba:
NGHĨA VỤ DÂN SỰ VÀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

1. Về khái niệm nghĩa vụ dân sự (Điều 274):

Điều 274 Dự thảo Bộ luật dân sự quy định: “Nghĩa vụ dân sự là quan hệ dân sự được pháp luật quy định, theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (gọi là người có nghĩa vụ) phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (gọi là người có quyền)”. Qua tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân, các ngành, các cấp và thảo luận tại Ủy ban pháp luật, có ý kiến đề nghị thay khái niệm này bằng khái niệm “trái vụ” hoặc một khái niệm khác, vì cho rằng khái niệm “nghĩa vụ dân sự” không thể hiện được nội dung của quan hệ này bao gồm nghĩa vụ và quyền của mỗi bên trong quan hệ dân sự. Sau khi cân nhắc, Ủy ban pháp luật đề nghị giữ khái niệm “nghĩa vụ dân sự” trong Dự thảo Bộ luật dân sự vì khái niệm này đã thông dụng và dễ hiểu đối với nhân dân.

2. Về vấn đề lỗi trong trách nhiệm dân sự (Điều 298):

- Điều 298 Dự thảo Bộ luật quy định:

“Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, thì chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi (cố ý hoặc vô ý), trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây ra thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.

Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra.

Việc chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ của người vi phạm nghĩa vụ dân sự”.

Chúng tôi cho rằng, việc xác định lỗi, thế nào là lỗi cố ý, thế nào là lỗi vô ý trong Bộ luật dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm dân sự của các bên trong giao lưu dân sự. Tuy nhiên, qua thảo luận về quy định tại Điều 298, chúng tôi nhận thấy, quy định này chưa bao gồm được trường hợp “một người thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng cho rằng, thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được”. Vì vậy, chúng tôi đề nghị nghiên cứu để bổ sung trường hợp này vào cho đầy đủ.

3. Về biện pháp cầm cố, thế chấp (Điều 318 - 351):

- Điều 318 Dự thảo quy định tài sản được đem cầm cố là động sản; Điều 335 Dự thảo quy định tài sản được đem thế chấp là bất động sản. Đồng thời, Điều 175 Dự thảo về khái niệm bất động sản, không quy định tàu bay và tàu biển là bất động sản. Trong khi đó, Bộ luật hàng hải và Luật hàng không dân dụng Việt Nam quy định tàu biển và tàu bay có thể đem thế chấp, cầm cố. Pháp lệnh hợp đồng dân sự cũng quy định tàu biển có thể đem thế chấp. Chúng tôi cho rằng, tàu bay, tàu biển tuy không phải là bất động sản nhưng pháp luật hiện hành đã quy định và trong thực tế đang được áp dụng, vì vậy, chúng tôi đề nghị cần quy định tàu bay, tàu biển có thể được đem thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và bổ sung vào Điều 335 của Dự thảo.

- Về giá trị của tài sản cầm cố, thế chấp:

Dự thảo Bộ luật dân sự không quy định về giá trị tài sản cầm cố, thế chấp để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, tại Điều 318 khoản 2, Điều 335 khoản 3 Dự thảo quy định, một tài sản có đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật thì có thể được cầm cố, thế chấp để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, nếu có giá trị lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm. Về vấn đề này, có ý kiến đề nghị quy định không chỉ trong trường hợp cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ mà ngay cả trong trường hợp cầm cố, thế thấp để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ thì tài sản bảo đảm cũng phải có giá trị bằng hoặc lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm, nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, bảo đảm tính an toàn và ổn định trong giao lưu dân sự. Pháp luật về ngân hàng cũng có quy định về giá trị tiền vay so với giá trị tài sản đem thế chấp để tránh việc thất thoát tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Ý kiến khác cho rằng, quy định như vậy là trái với nguyên tắc “tự do cam kết, thỏa thuận” trong giao lưu dân sự, nếu các cam kết thỏa thuận ấy không ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của xã hội và của người khác. Vì vậy, ý kiến này đề nghị không cần quy định giá trị tài sản thế chấp, cầm cố phải bằng hoặc lớn hơn giá trị của nghĩa vụ. Qua thảo luận, chúng tôi cho rằng, trong điều kiện thực tiễn ở nước ta thì Bộ luật dân sự cần có quy định định hướng về giá trị tài sản cầm cố, thế chấp. Do đó, chúng tôi đề nghị sửa lại nội dung vấn đề này như sau: giá trị tài sản cầm cố, thế chấp phải bằng hoặc lớn hơn so với giá trị nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác (cả trong trường hợp bảo đảm một nghĩa vụ và trong trường hợp bảo đảm nhiều nghĩa vụ).

4. Về biện pháp phạt vi phạm (Điều 366):

Điều 366 Dự thảo Bộ luật dân sự quy định biện pháp phạt vi phạm là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được áp dụng theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, theo đó, bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên có quyền bị vi phạm. Đồng thời tại Điều 367 có quy định mức phạt vi phạm cao nhất không quá 5% nghĩa vụ bị vi phạm.

Ủy ban pháp luật tán thành việc quy định biện pháp bảo đảm này trong Dự thảo Bộ luật dân sự, vì quy định như vậy là phù hợp với thực tế, nhằm hạn chế các tranh chấp, tiêu cực trong giao lưu dân sự. Biện pháp phạt vi phạm hợp đồng cũng đã được Pháp lệnh hợp đồng dân sự quy định. Tuy nhiên, đối với quy định về mức phạt vi phạm cao nhất không quá 5% nghĩa vụ bị vi phạm, trong Ủy ban pháp luật còn có ý kiến khác nhau.

- Có ý kiến đề nghị không giới hạn mức phạt vi phạm mà để các bên tự thỏa thuận nhằm nâng cao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân sự của các bên. Điều 55 Pháp lệnh hợp đồng dân sự cũng quy định: “Mức tiền phạt do các bên thỏa thuận, nếu pháp luật không quy định”.

- Đa số ý kiến thành viên Ủy ban pháp luật đề nghị cần quy định giới hạn mức phạt vi phạm. Việc quy định về mức phạt vi phạm cao nhất cần phải bảo đảm được yêu cầu nâng cao trách nhiệm của các bên đối với việc thực hiện nghĩa vụ dân sự, đồng thời, cũng phải bảo đảm được quyền lợi của bên yếu thế về kinh tế và tính khả thi của quy định nhằm giữ vững ổn định trong giao lưu dân sự. Vì vậy, chúng tôi tán thành với Dự thảo quy định mức phạt vi phạm không quá 5% nghĩa vụ bị vi phạm.

5. Về vấn đề bảo lãnh bằng tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội:

Điều 365 Dự thảo Bộ luật dân sự quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng dân sự bằng hình thức bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội đối với việc vay vốn của hộ gia đình nghèo tại ngân hàng để sản xuất.

Về vấn đề này, qua thảo luận có các loại ý kiến như sau:

- Có ý kiến cho rằng, mặc dù việc bảo đảm bằng tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội là một biện pháp tích cực nhằm góp phần thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng dưới góc độ pháp lý thì bảo lãnh là việc người bảo lãnh cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện thay cho bên có nghĩa vụ nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, đồng thời người bảo lãnh phải bảo lãnh bằng tài sản hoặc bằng việc thực hiện một công việc. Nếu bảo lãnh bằng tín chấp thì không có tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, ý kiến này cho rằng, không nên quy định vấn đề tín chấp vào Bộ luật dân sự mà nên để Chính phủ ban hành một văn bản riêng quy định về vấn đề này.

- Đa số ý kiến thành viên Ủy ban pháp luật cho rằng, việc quy định về nguyên tắc chung của biện pháp bảo đảm bằng “tín chấp” trong Bộ luật dân sự là cần thiết vì quy định này thể hiện truyền thống tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong quan hệ dân sự, đồng thời thể hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo của Nhà nước ta. Mặt khác, biện pháp bảo đảm này đã và đang được một số tổ chức chính trị - xã hội thực hiện có hiệu quả. Hơn nữa, các quy định về vấn đề này trong Dự thảo là khá chặt chẽ: Người bảo lãnh phải là tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở; người được bảo lãnh phải là hộ gia đình nghèo; mục đích vay vốn phải là mục đích sản xuất; vay vốn tại ngân hàng và việc vay vốn phải được lập thành văn bản có ghi rõ mục đích, thời hạn, lãi suất vay, trách nhiệm của người vay và tổ chức bảo lãnh. Do đó, về cơ bản chúng tôi tán thành với việc quy định nguyên tắc chung của biện pháp bảo đảm bằng “tín chấp” trong Bộ luật dân sự, còn các quy định chi tiết, cụ thể về vấn đề này sẽ do Chính phủ hướng dẫn thi hành.

6. Về khái niệm hợp đồng dân sự:

Điều 383 Dự thảo Bộ luật quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, Dự thảo Bộ luật dân sự không phân biệt hợp đồng dân sự với hợp đồng kinh tế.

Vấn đề này, chúng tôi nhận thấy, hiện nay, Nhà nước ta đã ban hành các pháp lệnh: Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh về hợp đồng dân sự. Nghiên cứu các quy định tại hai pháp lệnh này thì hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự là hai loại hợp đồng khác nhau ở mục đích của hợp đồng và có thể khác nhau ở chủ thể tham gia hợp đồng, hình thức của hợp đồng. Về pháp luật tố tụng, chúng ta có Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (trong đó có tranh chấp hợp đồng kinh tế), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trong đó có tranh chấp hợp đồng dân sự). Theo quy định tại các văn bản pháp luật này thì trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế có nhiều điểm khác so với trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp hợp đồng dân sự. Mặt khác, về tổ chức bộ máy nhà nước, trong Tòa án nhân dân có Tòa kinh tế và Tòa dân sự. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự là hai loại hợp đồng khác nhau và khi xảy ra tranh chấp thì cũng do hai Tòa khác nhau của Tòa án nhân dân giải quyết.

Tuy nhiên, trên thực tế, đặc biệt là trong tình hình phát triển nền kinh tế của nước ta, thì nhiều quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự, nhất là việc phân biệt rạch ròi giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự là rất khó khăn; nhiều quy định của hai pháp lệnh này là không còn phù hợp, cần phải có sự bổ sung, sửa đổi; vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao đã đề nghị sửa đổi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và chúng ta cũng đang tiến hành xây dựng Dự án Bộ luật thương mại. Mặt khác, xét về tính chất thì quan hệ kinh tế, thương mại là những quan hệ dân sự đặc thù, do đó, chúng tôi tán thành với khái niệm hợp đồng dân sự được Dự thảo Bộ luật dân sự quy định. Việc phân biệt giữa hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế sẽ được căn cứ vào các dấu hiệu của hợp đồng kinh tế được Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định.

7. Về quyền ưu tiên mua nhà ở đang thuê, quyền ưu tiên thuê tiếp nhà ở:

Điều 435 Dự thảo Bộ luật quy định về quyền ưu tiên mua nhà ở của bên thuê trong trường hợp bên cho thuê bán nhà và bên thuê đang ở nhà thuê từ 5 năm trở lên. Điều 483 Dự thảo quy định về quyền của bên thuê được ưu tiên ký hợp đồng thuê tiếp, nếu đã hết hạn thuê mà nhà vẫn dùng để cho thuê. Các quy định này kế thừa quy định tại Điều 25 và Điều 35 Pháp lệnh nhà ở hiện hành.

Về vấn đề này, Ủy ban pháp luật nhận thấy, xuất phát từ tính đặc thù của tình hình nhà ở của nước ta và để tạo điều kiện cho mỗi người dân có chỗ ở theo chính sách của Đảng và Nhà nước thì trong Bộ luật dân sự cần phải quy định người thuê nhà được ưu tiên mua nhà đang thuê nếu chủ nhà bán và ưu tiên thuê tiếp nếu chủ nhà còn cho thuê, đồng thời, không nên quy định về điều kiện thời gian ở của người thuê nhà (Dự thảo quy định là 5 năm). Tuy nhiên, Ủy ban pháp luật cho rằng, trong Bộ luật dân sự cần phải có quy định chặt chẽ, bảo đảm quyền lợi của người cho thuê và người thuê, tránh lợi dụng quyền ưu tiên này để gây khó khăn cho chủ sở hữu. Với cách đặt vấn đề như vậy, chúng tôi đề nghị cần phân biệt ra hai trường hợp: đối với các loại nhà ở được xây dựng để sử dụng vào mục đích kinh doanh cho thuê nhà để ở thì cần quy định quyền ưu tiên mua, quyền ưu tiên thuê tiếp của bên thuê nhà (ưu tiên trong cùng một điều kiện bán, cùng một điều kiện cho thuê như nhau); đối với các trường hợp chủ sở hữu có nhà nhưng nhất thời chưa sử dụng đến mà cho người khác thuê có thời hạn thì không nên quy định cho người thuê có những quyền ưu tiên nói trên.

8. Về hợp đồng thuê nhà ở:

- Về giá thuê nhà ở:

Điều 479 khoản 3 quy định: “Đối với hợp đồng thuê nhà ở có thời hạn từ hai năm trở lên, nếu bên cho thuê đã cải tạo, nâng cấp thì bên cho thuê có quyền tăng giá thuê nhà, nhưng phải báo cho bên thuê nhà biết trước trong thời gian hợp lý.

Khi người thuê không đồng ý với sự tăng giá, thì có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp. Giá thuê nhà mới sẽ do Tòa án quyết định căn cứ vào giá trị sử dụng được tăng lên sau khi sửa chữa, cải tạo”.

Chúng tôi cho rằng, quy định này cần phải được cân nhắc, vì không bảo đảm được quyền lợi của người thuê, nhất là những người nghèo. Trong trường hợp một người thuê nhà ở phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của mình, nhưng trong thời hạn thuê, bên cho thuê lại cải tạo, sửa chữa, nâng cấp nhà và sau đó Tòa án lại quyết định giá thuê mới (trong trường hợp tranh chấp) căn cứ vào giá trị sử dụng được tăng lên thì bên thuê nhà sẽ không có khả năng thuê tiếp được mặc dù còn thời hạn thuê. Hơn nữa, việc tăng giá thuê là sự sửa đổi, bổ sung hợp đồng, cần phải được sự thỏa thuận. Do đó, chúng tôi đề nghị bỏ khoản 3 Điều này.

- Về quyền lưu cư:

Điều 29 Pháp lệnh nhà ở quy định “Trong trường hợp hợp đồng không quy định thời hạn thì hợp đồng chấm dứt sau sáu tháng, kể từ ngày bên cho thuê thông báo cho bên thuê về việc đòi lại nhà cho thuê. Nếu bên thuê chưa có chỗ ở khác thì được kéo dài hợp đồng không quá một năm”.

Điều 487 Dự thảo Bộ luật quy định “Trong trường hợp hợp đồng không xác định thời hạn thuê, thì hợp đồng chấm dứt sau sáu tháng, kể từ ngày bên cho thuê báo cho bên thuê về việc đòi nhà”.

Như vậy, so với Pháp lệnh nhà ở hiện hành thì Dự thảo Bộ luật không quy định rõ trong trường hợp thuê nhà không có thời hạn mà bên thuê có khó khăn về chỗ ở và việc kéo dài hợp đồng không ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của bên cho thuê, thì có được quyền lưu cư không? (Điều 488 Dự thảo chỉ quy định quyền lưu cư đối với hợp đồng nhà có thời hạn). Do đó, chúng tôi đề nghị bổ sung quy định trong trường hợp này, bên thuê nhà được kéo dài hợp đồng không quá ba tháng, kể từ thời điểm hết hạn thông báo nếu bên thuê có khó khăn về chỗ ở và việc kéo dài hợp đồng không ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích bên cho thuê.

- Về hợp đồng thuê khoán tài sản:

Điều 499 Dự thảo Bộ luật quy định: “... trong trường hợp bên thuê khoán không khai thác công dụng hoặc khai thác công dụng không đúng mục đích, thì bên cho thuê khoán có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Chúng tôi cho rằng, quy định như vậy là chưa hợp lý, nhất là trong trường hợp bên thuê khoán có lý do chính đáng để tạm ngừng không khai thác công dụng của tài sản thì bên cho thuê lại có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Hơn nữa, khoản 2 Điều 498 Dự thảo quy định: “bên thuê khoán phải trả đủ tiền thuê khoán cho dù không khai thác công dụng tài sản thuê khoán”. Như vậy, trong trường hợp bên thuê khoán không khai thác công dụng tài sản, thì quyền lợi bên cho thuê vẫn được bảo đảm. Chúng tôi cho rằng, Bộ luật dân sự cần phải điều chỉnh các quan hệ dân sự theo hướng thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, nhằm tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà có những quy định nghiêng về việc bảo vệ quyền lợi người cho thuê. Do đó, chúng tôi đề nghị quy định chỉ trong trường hợp bên thuê không khai thác tài sản thuê mà tài sản đó theo quy định của pháp luật phải được thường xuyên khai thác, sử dụng thì bên cho thuê mới có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng.

9. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:

a) Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra:.

Điều 612 Dự thảo quy định:

“1. Viên chức nhà nước trong khi thi hành nhiệm vụ đã không thực hiện đúng nhiệm vụ hoặc vượt quá quyền hạn, nhiệm vụ được giao gây thiệt hại cho người khác, thì phải trực tiếp bồi thường thiệt hại.

2. Cơ quan nhà nước phải bồi thường thiệt hại do viên chức của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Cơ quan nhà nước có quyền yêu cầu viên chức đó hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị hại theo quy định của pháp luật, nếu người đó có lỗi trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao”.

Điều 613 Dự thảo quy định:

“1. Người có thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng trong khi thi hành nhiệm vụ đã không thực hiện đúng nhiệm vụ hoặc vượt quá quyền hạn được giao gây thiệt hại cho người khác, thì phải trực tiếp bồi thường.

2. Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác bị người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, thì được cơ quan tiến hành tố tụng có người gây thiệt hại bồi thường”.

Về vấn đề này, Ủy ban pháp luật đề nghị quy định cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng phải trực tiếp bồi thường thiệt hại do viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra trong khi thi hành công vụ, vì những người này khi thi hành công vụ là nhân danh Nhà nước. Hơn nữa, quy định như vậy mới bảo đảm được quyền và lợi ích của người bị thiệt hại, nhất là trong trường hợp người gây thiệt hại không có khả năng bồi thường. Đồng thời trong Bộ luật dân sự cần phải quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng có người gây ra thiệt hại phải xem xét và quyết định việc người gây thiệt hại phải bồi hoàn cho Nhà nước.

b) Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của trường học, bệnh viện và các tổ chức khác:

Điều 615 Dự thảo Bộ luật quy định trách nhiệm của các tổ chức này phải bồi thường thiệt hại do người chưa đủ 15 tuổi hoặc người mất năng lực hành vi gây ra trong thời gian trực tiếp quản lý những người đó và có quyền yêu cầu cha mẹ, người giám hộ của những người này phải hoàn trả một nửa khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại.

Chúng tôi cho rằng, việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp này phải căn cứ vào lỗi của cha mẹ, người giám hộ, của bệnh viện, trường học... do đó, quy định như Điều 615 của Dự thảo Bộ luật là không hợp lý. Chúng tôi đề nghị, trong trường hợp này cần quy định trách nhiệm liên đới bồi thường giữa trường học, bệnh viện với gia đình, người giám hộ, đồng thời căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi bên (trường học, bệnh viện, gia đình, người giám hộ) để xác định mức bồi thường của mỗi bên cho người bị thiệt hại.

10. Về bồi thường thiệt hại do bị xâm phạm tính mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín:

Vấn đề bồi thường thiệt hại về vật chất đã được Dự thảo quy định, còn vấn đề bồi thường thiệt hại do bị xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín thì chưa được quy định. Thực tế cho thấy, nếu không quy định về biện pháp bồi thường bằng tiền trong các trường hợp nêu trên thì không bảo đảm được quyền lợi của người bị thiệt hại và không góp phần ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền dân sự. Qua tổng hợp ý kiến nhân dân, có ý kiến đề nghị quy định vào Dự thảo Bộ luật việc bồi thường thiệt hại do bị xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín. Qua thảo luận, chúng tôi tán thành với ý kiến này. Tuy nhiên, việc xác định mức bồi thường hợp lý đối với từng trường hợp cụ thể bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín cũng như việc xác định những ai được bồi thường là rất khó khăn. Vì vậy, chúng tôi đề nghị chỉ quy định một số nguyên tắc chung về vấn đề này trong Bộ luật dân sự, còn các vấn đề cụ thể sẽ do các văn bản hướng dẫn thi hành quy định.

D. Phần thứ tư: THỪA KẾ

Các quy định về thừa kế của Dự thảo Bộ luật dân sự đã kế thừa hầu hết các nội dung của Pháp lệnh thừa kế hiện hành, trong đó nhiều quy định đến nay vẫn còn phù hợp với thực tế cuộc sống. Vì vậy, Ủy ban pháp luật tán thành với các nội dung cơ bản của phần này.

Về các quy định cụ thể của phần thừa kế, chúng tôi xin có một số ý kiến như sau:

1. Về khái niệm di sản:

Tiếp thu ý kiến đóng góp của các vị đại biểu Quốc hội, của nhân dân, các ngành, các cấp, Dự thảo 14 đã sửa đổi khái niệm về di sản và quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản riêng của người chết trong tài sản chung với người khác, quyền tài sản do người chết để lại” (Điều 626), đồng thời bổ sung quy định: “Người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” (Điều 629). Như vậy, kế thừa quy định của Pháp lệnh thừa kế, Dự thảo 14 không coi nghĩa vụ tài sản do người chết để lại nằm trong khái niệm di sản. Về vấn đề này, cũng còn có ý kiến đề nghị quy định di sản bao gồm tài sản và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như đã được quy định tại Dự thảo 12 trước đây. Nhưng qua thảo luận, ý kiến chung của thành viên Ủy ban pháp luật nhất trí với Dự thảo lần này quy định về di sản vì cho rằng, quy định như vậy là phù hợp với quan niệm truyền thống về việc hưởng di sản, mà vẫn bảo đảm nhấn mạnh trách nhiệm của người nhận tài sản thừa kế đối với việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, đồng thời cũng phù hợp với các quy định trong các điều luật khác của Dự thảo có liên đến vấn đề này.

Tuy nhiên, chúng tôi đề nghị bỏ cụm từ “quyền tài sản do người chết để lại” trong khái niệm di sản vì theo quy định tại Điều 174 Dự thảo Bộ luật thì tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản. Do đó, quyền tài sản là một trong các loại tài sản. Vì vậy, chỉ cần quy định về khái niệm di sản như sau: Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

2. Về thời điểm mở thừa kế:

Điều 625 Dự thảo quy định: “Thời điểm mở thừa kế là ngày người có tài sản chết...”. Chúng tôi đề nghị quy định lại là: Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Thời điểm ở đây được hiểu có thể là giờ, phút... chứ không phải chỉ là ngày, vì trong nhiều trường hợp cần phải tính đến giờ, phút để xác định người nào chết trước, người nào chết sau, từ đó xác định người hưởng thừa kế (như quy định tại Điều 633 về việc thừa kế của những người chết trong cùng một thời điểm). Hơn nữa, Bộ luật dân sự đã quy định chi tiết về thời hạn, thời điểm đến giờ, phút.

3. Về di chúc miệng (Điều 643):

Trong thực tế có những trường hợp người để lại di chúc vào lúc đang ở trong tình trạng nguy kịch, hấp hối không thể lập di chúc viết mà chỉ có thể để di chúc miệng. Vì vậy, cần phải duy trì chế định này trong Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, quy định thủ tục như thế nào để bảo đảm di chúc miệng thể hiện được ý chí cuối cùng của người để di chúc, mà không bị lợi dụng để làm sai lệch nội dung di chúc của người đó thì còn phải được cân nhắc. Nếu quy định như Điều 643 của Dự thảo thì trên thực tế nội dung di chúc miệng có thể dễ bị truyền đạt sai. Do đó, chúng tôi đề nghị quy định nghĩa vụ của người làm chứng sau khi nghe di chúc miệng phải ghi lại ngay bằng văn bản, ký tên và gửi tới người hoặc cơ quan có trách nhiệm.

4. Về di chúc chung của vợ, chồng:

Điều 655 Dự thảo Bộ luật dân sự quy định vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung; Điều 656 quy định về việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung; Điều 660 quy định về hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng.

Về vấn đề này, Ủy ban pháp luật tán thành với việc quy định về hình thức di chúc chung của vợ chồng trong Bộ luật dân sự nhằm tôn trọng ý chí, nguyện vọng của vợ, chồng, phù hợp với đạo đức, truyền thống dân tộc. Tuy nhiên, chúng tôi đề nghị cần cân nhắc và làm rõ hơn về các vấn đề như thời điểm mở thừa kế khi vợ hoặc chồng chết trước; hậu quả pháp lý của việc khi một người đã chết nhưng người còn sống, lại sửa đổi, bổ sung di chúc có liên quan đến phần tài sản của mình; vấn đề phân chia tài sản chung giữa vợ và chồng khi một người đã chết mà việc phân chia này liên quan đến phần tài sản do hai người đã định đoạt từ trước trong di chúc chung. Đồng thời, chúng tôi cũng đề nghị bổ sung vào Bộ luật dân sự nội dung quy định tại Điều 23 Pháp lệnh thừa kế hiện hành: “Trong trường hợp di chúc do nhiều người lập chung, mà có người chết trước thì chỉ phần di chúc liên quan đến tài sản của người chết trước có hiệu lực” để làm căn cứ cho Tòa án giải quyết trong trường hợp có nhiều người lập di chúc chung ngoài trường hợp của vợ chồng để định đoạt tài sản chung mà có người chết trước.

Đ. Phần thứ năm:
NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ CHUYỂN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong phần “Phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự” chúng tôi đã đề cập phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự đối với quan hệ chuyển quyền sử dụng đất và đề nghị trong Bộ luật dân sự cần quy định về nội dung, hình thức của hợp đồng, trình tự, thủ tục chuyển quyền sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia quan hệ chuyển quyền sử dụng đất, nhằm bảo đảm việc quản lý nhà nước đối với giao lưu dân sự trong lĩnh vực đất đai, còn các điều kiện chuyển quyền sử dụng đất đối với từng loại đất, từng loại chủ thể sử dụng đất thì áp dụng theo quy định của pháp luật đất đai, với cách đặt vấn đề như vậy, chúng tôi đề nghị sửa đổi Phần thứ 5 Dự thảo Bộ luật dân sự như sau:

1- Đối với Chương I “Những quy định chung” và các Chương II, III, IV và V về các hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp quyền sử dụng đất, chúng tôi đề nghị bỏ và sửa một số điều, khoản có nội dung quy định về điều kiện chuyển quyền sử dụng đất mà pháp luật đất đai quy định, cụ thể như sau:

- Đề nghị bỏ các điều, khoản sau đây: khoản 3 Điều 679; khoản 4 Điều 683 và các điều 687, 694, 700, 704, 720, 721, 722, 723 và 724.

- Về Điều 679 “Căn cứ xác lập quyền sử dụng đất”, đề nghị sửa lại khoản 2 như sau:

“2. Quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình, tổ chức được xác lập theo quy định của pháp luật về đất đai”.

- Về Điều 682 “điều kiện chuyển quyền sử dụng đất”: đề nghị sửa lại như sau:

“Việc chuyển quyền sử dụng đất phải có đủ các điều kiện sau đây:

1. Người chuyển quyền sử dụng đất phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.

2. Trong thời hạn được sử dụng đất.

3. Phải tuân theo các điều kiện đối với từng trường hợp chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp mà pháp luật về đất đai quy định.

4. Đất không có tranh chấp”.

- Về Điều 717 “Cho thuê lại quyền sử dụng đất”, đề nghị sửa lại như sau:

“Việc cho thuê lại quyền sử dụng đất phải tuân theo các quy định của pháp luật về đất đai”.

- Về Điều 726 “Phạm vi thế chấp quyền sử dụng đất”, đề nghị sửa lại như sau:

“1. Quyền sử dụng đất có thể được thế chấp một phần hoặc toàn bộ;

2. Khi cá nhân, hộ gia đình thế chấp quyền sử dụng đất thì nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng trồng, vườn cây và các tài sản khác của người thế chấp gắn liền với đất chỉ thuộc tài sản thế chấp, nếu có thỏa thuận;

3. Khi tổ chức trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài thế chấp giá trị quyền sử dụng đất, thì toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất và tài sản thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân đã đầu tư xây dựng trên đó thuộc tài sản thế chấp”.

2- Đối với Chương VI “Thừa kế quyền sử dụng đất”.

Khác với các quy định về chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp quyền sử dụng đất, về vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất, Điều 76 Luật đất đai quy định: cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp để trồng cây hằng năm, nuôi trồng thủy sản, cá nhân, thành viên của hộ gia đình được giao đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở được để thừa kế quyền sử dụng đất cho người thừa kế theo quy định của pháp luật thừa kế. Do tính đặc thù của quy định về vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất, chúng tôi đề nghị trong Chương VI “Thừa kế quyền sử dụng đất” vẫn quy định về các điều kiện được thừa kế quyền sử dụng đất đối với mỗi loại đất. Về các quy định cụ thể của chương này, chúng tôi xin có ý kiến như sau:

- Về Điều 733 “Người được để thừa kế quyền sử dụng đất”, đề nghị sửa lại như sau: “Người được để thừa kế quyền sử dụng đất là những người do pháp luật về đất đai quy định”.

- Điều 734 Dự thảo Bộ luật dân sự quy định về điều kiện được thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hằng năm, nuôi trồng thủy sản, như sau:

“1. Đang sử dụng đất nông nghiệp, sống bằng nghề nông và cư trú cùng xã, phường, thị trấn với người để thừa kế quyền sử dụng đất;

2. Đang sử dụng đất dưới hạn mức theo quy định của pháp luật về đất đai”.

Chúng tôi cho rằng, quy định về điều kiện của người thừa kế là “cư trú cùng xã, phường, thị trấn” với người để thừa kế và “đang sử dụng đất nông nghiệp” là gò bó và trong nhiều trường hợp không bảo đảm được quyền lợi của những người thân thích của người để lại thừa kế, mặc dù những người đó nếu được thừa kế quyền sử dụng đất thì vẫn đáp ứng được yêu cầu thuận tiện cho sản xuất. Nếu quy định như Dự thảo thì có trường hợp người để thừa kế và người nhận thừa kế tuy ở rất gần nhau nhưng lại khác địa bàn một xã thì không được thừa kế của nhau, trong khi đó những người ở rất xa nhau (nhất là ở các xã miền núi) thì lại được thừa kế của nhau. Do đó, chúng tôi đề nghị chỉ quy định tại khoản 1 Điều này điều kiện: “thuận tiện cho sản xuất nông nghiệp”.

Về khoản 2 Điều này, chúng tôi đề nghị quy định người thừa kế chỉ được thừa kế quyền sử dụng đất nếu sau khi nhận quyền sử dụng đất mà đất sử dụng không vượt quá hạn mức đối với đất nông nghiệp trồng cây hằng năm, nuôi trồng thủy sản để bảo đảm đúng các nguyên tắc quản lý đã được Luật đất đai quy định.

- Theo quy định tại Điều 735 Dự thảo Bộ luật dân sự thì việc thừa kế theo di chúc đối với quyền sử dụng đất để trồng cây hằng năm, nuôi trồng thủy sản chỉ hạn chế trong phạm vi những người thuộc ba hàng thừa kế theo pháp luật.

Chúng tôi thấy rằng, việc xác định hàng thừa kế chỉ đặt ra đối với việc thừa kế theo pháp luật tức là giải quyết vấn đề thừa kế trong trường hợp không có di chúc; còn đối với trường hợp thừa kế theo di chúc thì người để thừa kế không bị ràng buộc bởi hàng thừa kế. Vả lại trên thực tế, có những người rất gắn bó với nhau, cùng sống bằng nghề nông, cùng cư trú tại xã, phường, thị trấn nhưng lại không thuộc hàng thừa kế của nhau và theo quy định này của Dự thảo Bộ luật thì họ không được thừa kế quyền sử dụng đất của nhau theo di chúc. Quy định như vậy là chưa hoàn toàn hợp lý. Do đó, chúng tôi đề nghị quy định theo hướng một người có đủ các điều kiện của người thừa kế được quy định tại Điều 734 Dự thảo Bộ luật thì được quyền nhận thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc đối với đất nông nghiệp để trồng cây hằng năm, nuôi trồng thủy sản.

E. Phần thứ sáu: QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

1. Về tiêu đề phần thứ sáu:

Phần này của Dự thảo quy định về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ, trong đó Chương III về chuyển giao công nghệ không chỉ quy định về chuyển giao các đối tượng sở hữu công nghiệp mà còn chuyển giao các đối tượng không phải là sở hữu công nghiệp như chuyển giao các dịch vụ hỗ trợ, tư vấn công nghệ, đào tạo nhân viên kỹ thuật, cung cấp thông tin về công nghệ, bí quyết hoặc kiến thức kỹ thuật. Sau khi thảo luận, chúng tôi cho rằng, tiêu đề của phần thứ sáu “Quyền sở hữu trí tuệ” không thể hiện được hết các nội dung quy định trong phần này, vì vậy, đề nghị thay tiêu đề là “Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ”.

2. Về các nội dung của phần thứ sáu:

Qua tổng hợp ý kiến đóng góp về Dự án Bộ luật dân sự, thì phạm vi quy định của vấn đề quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ trong Dự thảo Bộ luật dân sự, còn có hai loại ý kiến khác nhau. Có ý kiến đề nghị đưa hầu hết các nội dung của Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả, Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam vào Dự thảo Bộ luật dân sự, chỉ trừ một số các quy định về quản lý nhà nước, giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm... trong các lĩnh vực này. Ý kiến khác đề nghị đối với các quyền và quan hệ tài sản này thì Bộ luật dân sự chỉ nên quy định nguyên tắc chung, còn các vấn đề cụ thể thì để cho các văn bản chuyên ngành quy định.

Qua thảo luận, đa số ý kiến thành viên Ủy ban pháp luật tán thành với việc đưa toàn bộ các quy định về dân sự đã rõ và ổn định trong các lĩnh vực quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ vào Bộ luật dân sự, nhằm bảo đảm yêu cầu pháp điển hóa một bước pháp luật dân sự nước ta. Đồng thời, về cơ bản Ủy ban pháp luật cũng tán thành với nhiều nội dung các quy định về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ đã được thể hiện trong Dự thảo Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, một số các quy định cụ thể của Phần này, chúng tôi có ý kiến như sau:

- Điều 755 Dự thảo quy định về quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa và quyền sử dụng đối với tên gọi xuất xứ hàng hóa. Chúng tôi cho rằng, để phù hợp với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật hiện nay trong thời gian sắp tới, đề nghị bổ sung vào Điều này một đoạn: “và quyền sở hữu đối với các đối tượng khác do pháp luật quy định”. Tương tự như vậy, Điều 776 về các đối tượng sở hữu công nghiệp, đề nghị bổ sung một đoạn: “các đối tượng khác do pháp luật quy định”.

- Điều 803 Dự thảo quy định việc chuyển giao công nghệ được thực hiện giữa cá nhân, pháp nhân Việt Nam với nhau, với cá nhân, pháp nhân nước ngoài hoặc từ cá nhân, pháp nhân nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam, song Dự thảo Bộ luật dân sự chưa quy định rõ những điều kiện về chuyển giao công nghệ giữa cá nhân Việt Nam với nhau khác với việc chuyển giao công nghệ từ cá nhân, pháp nhân Việt Nam cho cá nhân, pháp nhân nước ngoài. Vì vậy, chúng tôi đề nghị cân nhắc để thể hiện vấn đề này vào Dự thảo Bộ luật dân sự.

G. Phần thứ bảy:
QUAN HỆ DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Qua tổng hợp ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội và của nhân dân, các ngành, các cấp, có ý kiến cho rằng, Bộ luật dân sự không nên quy định về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, vì các quan hệ này thuộc lĩnh vực tư pháp quốc tế, do đó cần được điều chỉnh trong một đạo luật riêng quy định không chỉ về các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, mà cả các quan hệ kinh tế, thương mại, tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài... ý kiến khác lại đề nghị cần phải quy định về vấn đề này trong Bộ luật dân sự. Qua thảo luận, Ủy ban pháp luật nhận thấy trong điều kiện phát triển kinh tế của đất nước và mở rộng giao lưu giữa nước ta với các nước trên thế giới thì các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đang và sẽ diễn ra ngày càng nhiều. Trong nhiều văn bản pháp luật như Luật hôn nhân và gia đình, Luật hàng không dân dụng Việt Nam, Luật đất đai, Luật phá sản doanh nghiệp, Bộ luật lao động... cũng đã có những quy định về vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, trong Bộ luật dân sự cần quy định về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài để đáp ứng đòi hỏi bức xúc của tình hình thực tế.

1. Về tiêu đề phần thứ bảy:

Qua ý kiến đóng góp của nhân dân, các ngành, các cấp có ý kiến đề nghị quy định phần này là “Việc áp dụng Bộ luật dân sự đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”. Qua thảo luận, Ủy ban pháp luật cho rằng, nên giữ tên gọi của Phần thứ bảy như Dự thảo quy định là “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” vì trong phần này không chỉ quy định về việc áp dụng Bộ luật dân sự mà còn quy định việc áp dụng điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, việc áp dụng tập quán quốc tế và pháp luật nước ngoài.

2. Về các nội dung cụ thể của phần này:

Về cơ bản, Ủy ban pháp luật tán thành với nhiều nội dung các quy định của Phần quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đã được thể hiện trong Dự thảo. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, trước mắt chỉ nên quy định những nguyên tắc chung và những vấn đề đã rõ, nhằm đáp ứng yêu cầu bức xúc trong thực tế phát triển kinh tế và giao lưu quốc tế hiện nay. Vì vậy, đề nghị cân nhắc, bỏ các Điều 827 “áp dụng Bộ luật dân sự đối với quan hệ dân sự giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài”; Điều 829 “Trường hợp hạn chế năng lực pháp luật dân sự của công dân nước ngoài”; Điều 832 “Tuyên bố mất năng lực hành vi, tuyên bố mất tích, tuyên bố là đã chết đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam”.

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Trên đây là ý kiến của Ủy ban pháp luật về nội dung của Dự án Bộ luật dân sự mà Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp này. Ngoài ra, cũng còn những vấn đề khác thuộc nội dung cũng như về cách thể hiện của Dự thảo, trong quá trình thẩm tra chúng tôi đã trao đổi trực tiếp với Ban Dự thảo Bộ luật dân sự.

Từ sau phiên họp thẩm tra của Ủy ban pháp luật, Ban Dự thảo Bộ luật dân sự đã phối hợp với các cơ quan hữu quan, tiếp thu ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và của các cơ quan có liên quan cũng như ý kiến của Ủy ban pháp luật để chỉnh lý một số quy định của Dự thảo 14 và những nội dung dự kiến chỉnh lý này cũng đã được Ban dự thảo trình Quốc hội. Về cơ bản, chúng tôi nhất trí với những nội dung đã được dự kiến chỉnh lý. Sau khi Quốc hội thảo luận cho ý kiến, Ủy ban chúng tôi sẽ cùng với Ban dự thảo và các cơ quan hữu quan tiếp tục chỉnh lý để hoàn thiện Dự thảo Bộ luật dân sự trình Quốc hội xem xét, thông qua.

Xin cám ơn các vị đại biểu Quốc hội.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội