BÁO CÁO THẨM TRA CỦA ỦY BAN KINH TẾ VÀ NGÂN SÁCH
CỦA QUỐC HỘI VỀ DỰ ÁN LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU
CỦA LUẬT THUẾ DOANH THU, LUẬT THUẾ TIÊU THỤ
ĐẶC BIỆT VÀ SỬA ĐỔI BIỂU THUẾ NHẬP KHẨU
(Do ông Trần Văn Nhẫn, Phó Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội
đọc tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa IX, ngày 09-10-1995)
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 6 và Chương trình xây dựng pháp luật năm 1995, Thường trực Ủy ban kinh tế và ngân sách đã nhiều lần nghe Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ trình bày về Đề án cải cách bước hai hệ thống chính sách thuế phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế và dự kiến sửa đổi, bổ sung các luật thuế: doanh thu, tiêu thụ đặc biệt và sửa đổi Biểu thuế nhập khẩu. Thường trực Ủy ban chúng tôi đã đóng góp nhiều ý kiến vào Đề án cải cách hệ thống thuế và dự kiến sửa đổi, bổ sung các luật thuế trình Quốc hội tại kỳ họp này. Trong ba ngày 18, 19 và 20 tháng 9 năm 1995, Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội đã họp toàn thể Ủy ban, có sự tham dự của đại diện Thường trực Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội để thẩm tra Dự án sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế doanh thu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và sửa đổi Biểu thuế nhập khẩu.
Qua báo cáo, ý kiến của các đại biểu dự họp và sau khi nghiên cứu, Ủy ban kinh tế và ngân sách xin báo cáo Quốc hội một số ý kiến như sau:
I- SỰ CẦN THIẾT PHẢI CẢI CÁCH
HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THUẾ VÀ VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CÁC LUẬT THUẾ
Từ năm 1989, Nhà nước ta đã tiến hành cải cách hệ thống chính sách thuế phù hợp với cơ chế đổi mới và thực trạng nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống thuế hiện hành đã phát huy tác dụng nhất định trong những năm qua - là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, hệ thống thuế đã góp phần khuyến khích, thúc đẩy phát triển và bảo hộ sản xuất trong nước, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, tạo nguồn thu từ thuế vào ngân sách nhà nước ổn định và ngày càng tăng, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Tuy nhiên, đến nay tình hình kinh tế của nước ta có bước phát triển mới, hệ thống chính sách thuế hiện hành nói chung cũng như từng sắc thuế và cơ chế quản lý thu thuế nói riêng đã bộc lộ những khuyết, nhược điểm cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một cách căn bản như:
- Hệ thống thuế còn quá phức tạp, chưa phù hợp với điều kiện và trình độ của cán bộ quản lý thu thuế cũng như các đối tượng nộp thuế, chưa tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế yên tâm sản xuất, kinh doanh. Các sắc thuế trong hệ thống thuế được xây dựng chưa đồng bộ, có trường hợp thiếu nhất quán nên chưa phát huy được tác dụng tổng hợp của cả hệ thống thuế. Do mỗi sắc thuế khi xây dựng yêu cầu cùng một lúc phải đạt được nhiều mục tiêu, nên cơ cấu thuế khá phức tạp, có nhiều thuế suất khác nhau và khung thuế suất trong các biểu thuế quá rộng, trong khi đó các tiêu thức để sắp xếp danh mục sản phẩm, dịch vụ vào các mức thuế ở các luật thuế và các văn bản hướng dẫn lại không rõ ràng, gây khó khăn cho người thu thuế cũng như người nộp thuế. Điều đó tạo sơ hở trong chính sách, dẫn đến những tùy tiện và tiêu cực khi thi hành chính sách thuế.
- Những yếu tố không phải là thuế còn đang ẩn trong thuế cần được làm rõ hơn để tránh hiểu là tỷ lệ động viên thuế từ GDP của ta hiện nay là cao (ví dụ: yếu tố địa tô trong thu về dầu thô; các khoản thu phải trả phát sinh trong nhiều năm trước, nay không xác định được chủ nợ và thu vào ngân sách nhà nước giá trị tài sản cố định và khấu hao cơ bản trong nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa tính đủ...).
- Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện các luật thuế chưa đồng bộ, dẫn đến trình trạng là: một mặt, chưa phát huy vai trò quản lý và điều hành của chính quyền địa phương các cấp trong việc phổ biến và tổ chức phối hợp các lực lượng thi hành các luật thuế; một số cơ quan và một số địa phương nhận thức chưa đầy đủ về sự song trùng lãnh đạo, nên chưa thực sự quan tâm, trong một số trường hợp lại có những can thiệp cụ thể làm cho việc thi hành luật thuế không bảo đảm tính thống nhất. Ngược lại cơ quan thuế ở một số địa phương lại thiếu tranh thủ sự lãnh đạo của chính quyền và phối kết hợp với các lực lượng trên địa bàn.
Ủy ban chúng tôi hoàn toàn nhất trí với sự cần thiết phải cải cách bước hai hệ thống chính sách thuế phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Cải cách hệ thống chính sách thuế nhằm góp phần bảo đảm nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước, tạo nguồn vốn để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, đồng thời khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bỏ vốn vào đầu tư sản xuất, kinh doanh theo hướng đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị - công nghệ, mở rộng sản xuất; thực hiện sự công bằng trong phân phối thu nhập và sự bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư, giữa các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nhiệp có vốn đầu tư của nước ngoài. Hơn nữa, thực hiện đường lối và chính sách kinh tế mở, từng bước thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) khi Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN và tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và hệ thống ưu đãi thương mại toàn cầu (WTO). Vì vậy, việc cải cách hệ thống thuế cũng là một đòi hỏi khách quan để chúng ta có thể sớm hội nhập vào thương trường trong khu vực cũng như trên thế giới. Một trong những yêu cầu quan trọng đối với cải cách thuế lần này là phải khắc phục được những bất hợp lý, những trùng lắp, chồng chéo trong hệ thống chính sách và cơ chế quản lý nói chung cũng như trong từng sắc thuế nói riêng, góp phần chống buôn lậu, chống trốn thuế và lậu thuế.
Về hướng cải cách, hoàn thiện các sắc thuế, Ủy ban chúng tôi cơ bản nhất trí với tờ trình của Chính phủ và xin lưu ý thêm một số điểm sau:
+ Để sớm ban hành và áp dụng được thuế trị giá gia tăng (VAT) thay cho thuế doanh thu cần khẩn trương nghiên cứu và chuẩn bị các điều kiện cần thiết, nhất là phải lập lại kỷ cương trong việc chấp hành chế độ kế toán, chứng từ hóa đơn trong nền kinh tế - xã hội nước ta; đồng thời cũng cần phải tiếp tục duy trì thực hiện thuế doanh thu ở một số lĩnh vực mà chưa áp dụng được thuế trị giá gia tăng hoặc chính sách thuế “khoán” đối với hộ nhỏ.
+ Về thuế tiêu thụ đặc biệt: Việc mở rộng đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và áp dụng đối với cả sản phẩm sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu là cần thiết, nhất là sau khi điều chỉnh thuế xuất, nhập khẩu phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy vậy, cần nghiên cứu khắc phục những nhược điểm, bất hợp lý trong chính sách thuế nhập khẩu để có Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt áp dụng thống nhất cho các hàng hóa nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước.
+ Về thuế thu nhập công ty: Ủy ban chúng tôi cho rằng, khi xây dựng Luật thuế thu nhập công ty thay cho thuế lợi tức hiện hành, có thể nghiên cứu chỉ nên có một khung thuế suất áp dụng chung cho tất cả các ngành, nghề thuộc các thành phần kinh tế. Ngoài ra, có thể có một số thuế suất ưu đãi có thời hạn cho một số ngành, lĩnh vực kinh doanh đã được quy định trong luật khuyến khích đầu tư trong nước.
+ Việc xây dựng Luật thuế thu nhập dân cư thay cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao nhưng cũng cần tính toán kỹ khi có đủ điều kiện cần thiết thì ban hành loại thuế này mới bảo đảm tính khả thi. Việc điều tiết vào tất cả các nguồn thu nhập của dân cư cũng không ảnh hưởng đến việc huy động vốn, vì về nguyên tắc, nhân dân không đưa vốn vào lĩnh vực này thì cũng đầu tư vào lĩnh vực khác và đều phải chịu thuế.
+ Về thuế xuất nhập khẩu: Ủy ban chúng tôi cho rằng, việc cải cách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trước hết phải bảo đảm không ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách, đồng thời, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước trên cơ sở khuyến khích đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) khi Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN và tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) cũng như hệ thống ưu đãi thương mại toàn cầu (WTO), mở rộng thị trường và thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm vừa có chính sách thuế xuất nhập khẩu chung đối với tất cả các nước, vừa có chính sách thuế ưu đãi đối với các nước trong tổ chức thương mại khu vực và quốc tế mà Việt Nam là thành viên theo nguyên tắc “có đi, có lại”.
+ Đối với các sắc thuế hiện hành về đất: Thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế nhà đất cũng cần nghiên cứu xây dựng thành một Luật thuế sử dụng đất thống nhất, trong đó sẽ quy định chi tiết với từng loại đất theo từng đối tượng nộp thuế. Thuế về nhà ở sẽ được tách khỏi thuế đất và sẽ được điều chỉnh bởi Luật thuế về tài sản khi có đủ điều kiện tiến hành loại thế này.
Việc dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật thuế: doanh thu, tiêu thụ đặc biệt, và Biểu thuế nhập khẩu do Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp này là thực hiện một bước của chương trình cải cách thuế bước hai, nhằm giải quyết trước mắt những bất hợp lý về thuế suất, tạo điều kiện tiến tới cải cách đồng bộ hệ thống chính sách thuế vào những năm tiếp theo.
Việc sửa đổi, bổ sung lần này tuy không nhiều nhưng có những thay đổi căn bản về nội dung và mối liên quan giữa các luật thuế cũng như trong phương pháp xác định thuế suất và cách tính thuế... Do vậy, sẽ có tác động nhất định đến sản xuất - lưu thông, giá cả thị trường và thu ngân sách nhà nước.
Ủy ban chúng tôi nhất trí về sự cần thiết sửa đổi, bổ sung các luật thuế này nhằm thực hiện một bước trong tiến trình cải cách đồng bộ chính sách thuế. Tuy vậy, đây là vấn đề lớn và có tầm quan trọng đặc biệt, đề nghị Chính phủ một mặt hết sức chú ý đến việc bảo đảm nguồn thu ngân sách nhà nước, mặt khác cần tính toán và cân nhắc kỹ lưỡng các tác động đến giá cả thị trường, tránh gây đảo lộn, làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống, tiếp tục thực hiện có hiệu quả mục tiêu ổn định và kiềm chế lạm phát.
II. VỀ NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỤ THỂ
CỦA TỪNG SẮC THUẾ
1. Về thuế doanh thu:
Kể từ khi ban hành (tháng 6-1990) và qua một số lần sửa đổi, bổ sung, Luật thuế doanh thu đã phát huy vai trò trong quản lý và điều tiết, góp phần thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát triển, bảo đảm nguồn thu quan trọng và ổn định vào ngân sách nhà nước. Tuy vậy, trong quá trình thi hành Luật thuế này cũng đã bộc lộ những hạn chế, tồn tại nhất định, đặc biệt là việc đánh thuế trùng lặp, phức tạp trong áp dụng tính thuế, thu nộp thuế do có quá nhiều thuế suất.
Việc sửa đổi, bổ sung lần này chỉ mới tập trung vào việc thu gom bớt các mức thuế suất để giải quyết một bước những bất hợp lý và đơn giản hơn trong việc áp dụng tính thuế, thu thuế trong tình hình sản xuất - kinh doanh dần dần đi vào hướng tổng hợp, đa dạng và cũng nhằm tạo điều kiện chuyển sang áp dụng thuế giá trị gia tăng (VAT) thay cho thuế doanh thu mới khắc phục được việc đánh thuế trùng lặp.
Về cơ bản, Ủy ban chúng tôi nhất trí thu gom từ 18 mức thuế hiện hành xuống còn 11 mức thuế như tờ trình của Chính phủ. Tuy vậy, cần phải được cân nhắc thận trọng, tính toán chặt chẽ việc nâng hoặc hạ mức thuế suất đối với từng ngành nghề cụ thể để vừa bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, vừa không gây ảnh hưởng đến sản xuất và giá cả thị trường, vì thực tế, thuế doanh thu là thuế gián thu, do vậy, việc tăng thuế suất đối với một ngành nghề hoặc mặt hàng nào đó sẽ có thể kéo theo việc tăng giá cả hàng hóa, dịch vụ tương ứng; còn việc hạ thuế suất không phải lúc nào cũng đi đôi với việc giảm được giá cả hàng hóa xuống.
Nhiều ý kiến đề nghị, việc gom và điều chỉnh các mức thuế suất thuế doanh thu lần này phải đáp ứng yêu cầu thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát triển đúng hướng, không gây ảnh hưởng đến giá cả thị trường, khắc phục các sơ hở để chống thất thu, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Vì vậy, theo chúng tôi nên tiến hành bổ sung, sửa đổi theo hướng chỉ điều chỉnh một số thuế suất còn bất hợp lý kết hợp với việc gom các mức thuế suất giữa các ngành, nghề sản xuất, kinh doanh tương ứng để bảo đảm việc điều chỉnh đó không làm ảnh hưởng đến giá cả thị trường và số thu ngân sách nhà nước. Về một số thuế suất cụ thể, chúng tôi thấy vì bỏ mức thuế suất 3% và 5% nên đối với sản xuất vật liệu xây dựng, kể cả clanke, vữa bê tông thống nhất vào một mức 4%; chế biến lâm sản và sản xuất đồ gỗ lên 6%; chế biến thủy, hải sản lên 4%. Việc nâng mức thuế suất đối với dịch vụ khoa học - kỹ thuật cho trong nước từ 2% lên 4% cần xem xét kỹ vì đây là lĩnh vực cần khuyến khích phát triển. Một số ý kiến trong Ủy ban chúng tôi còn băn khoăn việc điều chỉnh thuế suất đối với sữa các loại từ 4% lên 6% vì có liên quan nhiều đến việc bồi dưỡng sức khỏe người già, trẻ em, người bệnh. Ủy ban chúng tôi cũng đề nghị không nên thu thuế doanh thu đối với sản xuất cây giống, con giống, giảm thuế suất từ 1% xuống 0%.
Việc bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động tín dụng ngân hàng sẽ giảm thu ngân sách nhà nước khoảng 500 tỷ đồng. Sau khi thảo luận và cân nhắc thấy sự cần thiết tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng với lãi suất hợp lý để mở rộng sản xuất và kinh doanh có hiệu quả nên đa số ý kiến trong Ủy ban chúng tôi đồng ý bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động tín dụng ngân hàng với điều kiện đồng thời ngành ngân hàng cần giảm mạnh các khoản chi phí còn quá cao và bất hợp lý như chi về tiền lương, về hoạt động kinh doanh và các khoản chi phí quản lý khác để hạ ngay lãi suất cho vay bảo đảm chênh lệch giữa đầu ra (lãi suất cho vay) và đầu vào (lãi suất vay) chỉ ở khoảng 0,3% đến 0,35%, tạo thêm thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn phát triển sản xuất - kinh doanh có hiệu quả, tạo nguồn tăng thu thêm bù đắp số bị giảm thu ngân sách do bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động tín dụng ngân hàng. Một số ý kiến đề nghị chưa nên bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động tín dụng ngân hàng và cho rằng, việc bỏ hay tiếp tục duy trì thuế doanh thu đối với hoạt động tín dụng ngân hàng không ảnh hưởng nhiều đến việc hạ lãi suất tiền cho vay, vì hiện nay đã tính thuế trên khoản chênh lệch giữa lãi suất tiền cho vay với lãi suất tiền đi vay. Vì vậy, lãi suất tín dụng ngân hàng hoàn toàn có khả năng giảm được chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động của ngành ngân hàng trên cơ sở sử dụng tích cực các nguồn vốn huy động, kể cả các nguồn vốn mà chỉ ngân hàng quốc doanh mới có như nguồn vốn từ ngân sách, vốn phát hành và các nguồn vay ưu đãi của các tổ chức quốc tế không phải trả lãi hoặc có lãi suất thấp; tính toán hợp lý về tiền lương và tiết kiệm tối đa các khoản chi phí trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng còn quá lớn. Ngược lại, nếu bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động tín dụng ngân hàng thì ngân sách nhà nước sẽ giảm đi một khoản thu tương đối lớn, ngoài ra, việc này cũng đòi hỏi phải tiến hành cải cách đồng bộ hệ thống các chính sách thuế để có nguồn bù đắp khoản thiếu hụt này và các biện pháp kinh tế can thiệp trực tiếp đến công cụ lãi suất. Đây là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến ngân sách nhà nước năm 1996, còn có ý kiến khác nhau, kính trình Quốc hội xem xét quyết định.
2. Về thuế nhập khẩu:
Theo đề nghị của Chính phủ, lần này không sửa Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà chỉ đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội cho sửa Biểu thuế nhập khẩu. Chúng tôi cũng thấy rằng, tuy việc sửa đổi, bổ sung Biểu thuế nhập khẩu thuộc thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nhưng vấn đề cũng khá phức tạp và có liên quan đến các sắc thuế khác, đồng thời cũng là bước tiến tới sửa đổi cơ bản Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Vì vậy, Ủy ban chúng tôi thấy vấn đề này cũng cần trình Quốc hội xem xét, quyết định. Theo tờ trình của Chính phủ, việc sửa đổi Biểu thuế nhập khẩu lần này theo hướng hạ dần mức thuế suất tối đa của khung thuế suất đối với một số mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu xuống mức 60% và chuyển sang thu thuế tiêu thụ đặc biệt. Việc sửa đổi lần này sẽ làm giảm thu thuế xuất nhập khẩu 1.330 tỷ đồng và được bù đắp lại bằng thu thuế tiêu thụ đặc biệt cả đối với hàng nhập khẩu nên tăng được 1.496 tỷ đồng; như vậy, thực tế là tăng thu ngân sách 166 tỷ đồng.
Về quan điểm, Ủy ban chúng tôi đồng ý với việc hạ mức thuế suất tối đa thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng nhập khẩu có thuế suất trên 60% để chuyển sang áp dụng thu thuế tiêu thụ đặc biệt như đối với những mặt hàng tương ứng sản xuất trong nước. Tuy vậy, theo tờ trình của Chính phủ, một số mặt hàng có thuế suất trên 60% khi chuyển sang thu thêm thuế tiêu thụ đặc biệt, trong khi đó mặt hàng tương ứng sản xuất trong nước lại tạm thời chưa đánh thuế tiêu thụ đặc biệt như xe ôtô con lắp ráp trong nước mà chỉ áp dụng thuế doanh thu từ 2% lên 4%. Còn một số nhóm hàng như nước giải khát, quần áo cũ, xe đạp... tuy đang thu 70-80% nhưng Chính phủ đề nghị tạm thời chưa giảm thuế nhập khẩu xuống 60% để bảo vệ sản xuất trong nước mà chưa thể áp dụng ngay thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các mặt hàng này, Ủy ban chúng tôi cơ bản nhất trí với các đề nghị của Chính phủ, đồng thời lưu ý Chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu các giải pháp xử lý hợp lý khi cắt giảm từng bước thuế nhập khẩu, thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) khi Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN và tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) để vừa bảo đảm tính nhất quán trong chính sách, vừa bảo đảm nguồn thu cho ngân sách, bảo hộ được sản xuất trong nước và khuyến khích hoạt động xuất, nhập khẩu.
3. Về thuế tiêu thụ đặc biệt:
Việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này chủ yếu để điều chỉnh thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập hiện nay đang thu thuế nhập khẩu trên 60% để bù lại số thuế nhập khẩu giảm đi do cắt giảm thuế nhập khẩu.
Ủy ban chúng tôi nhất trí với cách đặt vấn đề và phương hướng sửa đổi, bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt như trong tờ trình của Chính phủ. Việc điều chỉnh chuyển một số mặt hàng nhập khẩu có mức thuế suất cao hơn 60% sang thu thuế đặc biệt với thuế suất như hàng sản xuất trong nước trên cơ sở giá tính thuế có khác nhau như tờ trình của Chính phủ (đối với hàng nhập tính trên giá CIF cộng với thuế nhập khẩu) nên thực chất đã tăng thuế đối với thuốc lá, rượu, bia, pháo. Chúng tôi thấy cũng hợp lý để hạn chế nhập khẩu các mặt hàng này, bảo hộ sản xuất trong nước, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách.
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trên đây là một số ý kiến của Ủy ban kinh tế và ngân sách sau khi thẩm tra dự án sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật thuế: doanh thu, tiêu thụ đặc biệt và sửa đổi Biểu thuế nhập khẩu; kính trình Quốc hội xem xét và quyết định.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội