THUYẾT TRÌNH
CỦA ỦY BAN KINH TẾ VÀ NGÂN SÁCH CỦA QUỐC HỘI
VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1995;
VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1996
(Do ông Lý Tài Luận, Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế
và ngân sách của Quốc hội đọc tại kỳ họp thứ 8,
Quốc hội khóa IX, ngày 11-10-1995)
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Để chuẩn bị kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa IX, sau khi Thường trực Ủy ban đã làm việc với các Bộ, ngành Trung ương, một số địa phương và cơ sở; trong ba ngày 18 - 20-9-1995 tại Hà Nội, Ủy ban kinh tế và ngân sách đã họp toàn thể thành viên, có đại diện Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan có liên quan dự để nghe đại diện Chính phủ (Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước...) báo cáo và thảo luận về tình hình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 1995 và phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 1996.
Qua quá trình làm việc và nghe báo cáo của Chính phủ, Ủy ban chúng tôi xin có một số ý kiến trình Quốc hội xem xét và quyết định như sau:
PHẦN THỨ NHẤT
VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI
I- VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1995
1. Mặc dù cho đến nay mới có số liệu thống kê của tám tháng, Ủy ban kinh tế và ngân sách về cơ bản nhất trí với Báo cáo của Chính phủ về đánh giá bước đầu kết quả thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội cả năm 1995 với nhận định chung: phát huy những chuyển biến và thành tựu đạt được của các năm trước, trong năm 1995 tình hình kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục có những chuyển biến tích cực và đạt được những thành tựu mới:
Dự kiến hầu hết các mục tiêu và chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều có khả năng đạt và vượt nhiệm vụ mà Quốc hội đã đề ra cho năm 1995, cụ thể: tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước tăng 9,5% so với năm 1994, tương đương với mức dự kiến (9-10%); giá trị tổng sản lượng công nghiệp ước tăng 14% như mức dự kiến; giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 4,7%, trong đó sản lượng lương thực quy thóc có khả năng đạt trên 27,4% triệu tấn, tăng so với năm 1994 trên một triệu tấn; giá trị các ngành dịch vụ ước tăng 12,6%; kim ngạch xuất khẩu ước đạt 6,5 tỷ USD, tăng một tỷ USD so với kế hoạch.
Sản xuất nông nghiệp tuy cuối năm 1994 bị lũ lụt gây thiệt hại nặng ở đồng bằng sông Cửu Long, vụ mùa ở miền Bắc mất gần một triệu tấn, nhưng đã có sự nỗ lực của cả Trung ương và địa phương tập trung sức khắc phục những hậu quả của thiên tai, sớm đi vào ổn định và có bước phát triển khá. Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn theo hướng sản xuất nông nghiệp toàn diện, mở mang ngành, nghề và dịch vụ đang có những chuyển biến tích cực với những hình thức đa dạng: kinh tế hộ gia đình, trang trại, hợp tác sản xuất - kinh doanh. Công tác khuyến nông, khuyến lâm được đẩy mạnh hơn, việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp ngày càng có kết quả rõ nét. Các lĩnh vực cây công nghiệp và chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy, hải sản tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng đáng kể. Công tác trồng và bảo vệ rừng, phủ xanh đồi núi trọc có bước chuyển biến và đạt kết quả khá, độ che phủ tăng lên dần.
Sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến gắn với phát triển cây trồng, vật nuôi. Một số doanh nghiệp của các ngành kinh tế quan trọng tập trung mở rộng liên doanh, liên kết và hợp tác trong và ngoài nước; đã chú trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường, dần dần tiếp cận được với cơ chế mới. Một số sản phẩm quan trọng có mức tăng trưởng khá: điện, than, xi măng, thép cán, dầu thô, giấy, xà phòng, bia...
Đầu tư xây dựng cơ bản tiếp tục tăng. Vốn đầu tư toàn xã hội năm 1995 ước đạt khoảng 64.000 tỷ đồng, tăng 13,78% so với dự kiến đầu năm. Trong đó, đầu tư trực tiếp của nước ngoài ước thực hiện hai tỷ USD, tăng trên 30% so với năm 1994; vốn đầu tư của nhân dân khoảng 16.000 tỷ đồng, đã đưa một bộ phận vào sản xuất - kinh doanh góp phần tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư của Nhà nước tuy không đạt kế hoạch, nhưng đã tập trung đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng, các công trình trọng điểm của Nhà nước.
Hoạt động thương mại có những bước chuyển biến tích cực. Lưu thông trong nước tiếp tục phát triển, quan hệ kinh tế đối ngoại và hoạt động xuất, nhập khẩu mở rộng theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa. Nhiều ngành, địa phương và cơ sở đã quan tâm hơn công tác tiếp thị, tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước để phát triển sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, xã hội có những cố gắng và tiến bộ nhất định. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Đời sống nhân dân ổn định và nhìn chung có được cải thiện, tuy có sự phân hóa về thu nhập do tác động của cơ chế thị trường cần phải được khắc phục; đời sống của một bộ phận nhân dân, trước hết là đồng bào vùng dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa và những người lương thấp, các đối tượng chính sách còn nhiều khó khăn trong tình hình giá cả thị trường tăng, nhất là lương thực - thực phẩm.
Đến nay, nhìn lại tình hình kinh tế - xã hội năm 1995 và 5 năm qua đã có những chuyển biến tích cực, có tốc độ phát triển khá. Hầu hết các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991-1995 đều đạt, vượt mức đề ra như đã nêu trong các báo cáo của Chính phủ. Những thành tựu đó trước hết là kết quả của việc quán triệt đường lối, chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước; những nỗ lực lớn lao của các tầng lớp nhân dân cả nước trong lao động, sản xuất; những cố gắng và tích cực trong điều hành của Chính phủ, các ngành, các địa phương; đặc biệt là liên tục trong những năm qua Nhà nước đã ban hành, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật và các cơ chế chính sách theo tinh thần đổi mới cùng với tình hình chính trị ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đẩy mạnh đầu tư, kinh doanh, làm cho nhân dân ngày càng yên tâm tin tưởng vào sự phát triển của đất nước.
Ủy ban chúng tôi đề nghị Quốc hội khẳng định và ghi nhận những thành tựu và chuyển biến tích cực về tình hình kinh tế - xã hội của đất nước trong những năm qua.
2. Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ quan trọng đã đạt được, Ủy ban chúng tôi thấy có một số vấn đề nổi lên:
a) Tuy các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế chủ yếu đều đạt và vượt nhiệm vụ mà Quốc hội đề ra, nhưng thu ngân sách không đạt kế hoạch, do đó không bảo đảm các nhiệm vụ chi, nhất là chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách đạt thấp, nợ đến hạn trong và ngoài nước ngày càng lớn, năm 1995, chi trả nợ chiếm 20% tổng thu ngân sách nhà nước (10.380/53.350) là điều đáng lo ngại. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn quá hạn hẹp mà chủ yếu dựa vào vốn vay trong và ngoài nước nên quá trình thực hiện gặp khó khăn, bị động: tám tháng đầu năm mới tập trung giải quyết vốn thanh toán khối lượng nợ năm 1994, còn cấp theo kế hoạch năm 1995 chỉ đạt khoảng 30%, thanh toán được gần 63% khối lượng đã thực hiện trong tám tháng. Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước lại càng rất khó khăn và thông báo chậm, đến nay mới có nguồn được 2.400 tỷ đồng (so với dự kiến kế hoạch là 11.000 tỷ đồng) nên chỉ tập trung giải quyết cho một số công trình trọng điểm mà cũng ở mức thấp so với yêu cầu. Song, một vấn đề đáng quan tâm là trong tình hình vốn rất khó khăn như trên nhưng việc bố trí đầu tư vẫn còn phân tán, dàn trải nên hiệu quả thấp, gây lãng phí và thất thoát lớn, ít công trình hoàn thành dứt điểm đưa vào sử dụng trong năm kế hoạch, nhất là các công trình gối đầu tạo ra năng lực sản xuất mới; công trình chuyển tiếp sang năm 1996 sẽ khá lớn. Công tác chuẩn bị dự án đầu tư tiến hành chậm, nhất là các dự án vay vốn ODA; việc tiến hành các thủ tục đầu tư theo Nghị định 177/CP làm chậm và không đầy đủ, thậm chí có công trình khi được ghi kế hoạch vốn mới tiến hành các thủ tục ban đầu...
Vốn là yêu cầu nổi lên rất bức xúc nhưng các hình thức huy động vốn trong nước qua hệ thống ngân hàng, hệ thống Kho bạc Nhà nước tuy có cố gắng và đạt kết quả khá hơn nhưng chưa có các biện pháp thật sự hấp dẫn và chủ yếu là vay ngắn hạn nên hiệu quả còn thấp. Mặt khác, việc sử dụng vốn huy động để cho vay vẫn còn hạn chế về lãi suất và thời hạn chưa phù hợp với yêu cầu sản xuất - kinh doanh nên có tình trạng thiếu vốn đầu tư phát triển mà không dám vay với lãi suất cao, thời hạn ngắn không chịu đựng nổi. Việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp chưa làm được bao nhiêu. Việc cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước tuy đã có chủ trương từ lâu và Chính phủ có quan tâm chỉ đạo làm thí điểm nhưng tiến triển chậm chạp, kết quả hết sức hạn chế mà chưa được tổng kết để tìm ra những giải pháp hữu hiệu khắc phục.
b) Tình hình biến động giá cả, thị trường đang là vấn đề đáng lo ngại, đến cuối tháng 8 năm 1995 giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng so với tháng 12 năm 1994 đã tăng tới 11,7%, vượt mức 10% theo Nghị quyết của Quốc hội, nhất là giá lương thực, thực phẩm tăng 18,7%. Giá xi măng tăng đột biến không phải do cung cầu mất cân đối lớn mà chủ yếu là điều hành, việc điều hòa lưu thông trong nước và nhập khẩu chậm, đã gây bị động, lúng túng, đã tạo sơ hở cho đầu cơ phát triển và giá cả bị đẩy lên cao, tuy chỉ trong thời gian ngắn nhưng đã gây thiệt hại rất lớn cho cả Nhà nước và người tiêu dùng. Việc điều hành lưu thông lương thực trong nước yếu kém, việc kiểm soát ngăn chặn xuất khẩu gạo lậu không chặt chẽ, kém hiệu lực, xử lý vi phạm không nghiêm nên đã đẩy giá thóc gạo trong cả nước lên quá mức dự kiến kiềm chế, đã gây phản ứng dây chuyền đến giá hàng hóa và dịch vụ khác đều tăng tuy mức độ có khác nhau.
Gần đây, Chính phủ đã có một số biện pháp chỉ đạo tích cực nên đã đạt kết quả bước đầu (tháng 7 không tăng, tháng 8 tăng 0,3%). Tuy nhiên, vẫn còn có những nhân tố không ổn định, thiếu vững chắc. Điều đó đòi hỏi từ nay đến cuối năm cần tiếp tục có những giải pháp đồng bộ, kiên quyết trên các mặt, nhất là trong điều hành bảo đảm cung cầu hàng hóa, thu chi ngân sách, tiền tệ - tín dụng có hiệu quả hơn, bảo đảm chỉ số trượt giá cả năm ở mức dưới 15%. Một vấn đề cũng đáng quan tâm là trong tám tháng đầu năm tổng lượng tiền phát hành đã được khống chế, nhưng tổng phương tiện thanh toán cũng đã tăng 25,4% so với cuối năm 1994; mặt khác, cũng cần thấy rằng, tổng phương tiện thanh toán qua ngân hàng cả năm 1994 tăng đến 51% trong khi tốc độ tăng GDP danh nghĩa cả năm chỉ 25%, đã tiếp tục có tác động lớn đến tình hình giá cả trong những tháng đầu năm 1995. Mặt khác, tuy đã có một số tiến bộ trong thực hiện chính sách tiền tệ, nhưng ngành Ngân hàng cũng chỉ kiểm soát được khối lượng tiền mặt lưu thông qua ngân hàng, còn các phương tiện thanh toán trong dân kể cả vàng, ngoại tệ vẫn đang nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước, làm tăng quá nhanh tổng phương tiện thanh toán so với nhịp độ tăng trưởng kinh tế, cũng là yếu tố gây áp lực lạm phát.
c) Mặc dù sản xuất nông nghiệp liên tục phát triển và đạt mức tăng trưởng khá, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và tăng đáng kể lượng nông sản, thủy hải sản xuất khẩu, nhưng nhìn chung nông nghiệp vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ và còn lạc hậu. Chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp vẫn còn lúng túng, chưa có chuyển biến cơ bản. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn yếu kém, đặc biệt là các công trình thủy nông tiếp tục xuống cấp nghiêm trọng. Đất trống, đồi trọc, mặt nước, bãi bồi còn khá lớn nhưng chưa có cơ chế, chính sách để khai thác có hiệu quả. Công nghiệp chế biến nông sản phát triển chưa đáng kể. Chính sách hỗ trợ nông dân qua vốn tín dụng, chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư... tuy có cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp với năng suất và chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Đời sống của một bộ phận nông dân, nhất là các vùng miền núi, dân tộc, vùng sâu và các vùng thường bị thiên tai vẫn còn rất khó khăn. Do tình hình phát triển không cân đối giữa các vùng, các miền, giữa nông thôn và đô thị, lao động thiếu việc làm nên có tình trạng đổ dồn vào thành thị gây nên nhiều khó khăn phức tạp mới.
Đáng chú ý là kinh nghiệm những năm qua cho thấy, cần tăng cường hơn nữa mức bảo đảm an toàn lương thực quốc gia để ổn định giá và bảo đảm đời sống nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay, cây lúa đạt giá trị trên một đơn vị diện tích tương đối thấp, có khả năng nông dân sẽ tự phát chuyển dịch từ cây lúa sang các cây trồng khác có giá trị cao hơn. Do đó, để có được cơ cấu cây trồng hợp lý cần có chính sách đối với cây lúa, có các biện pháp hỗ trợ tích cực, khuyến khích đúng mức người trồng lúa với năng suất và chất lượng cao, vừa bảo đảm an toàn lương thực quốc gia, vừa bảo đảm tăng thu nhập cho người trồng lúa và tăng hiệu quả ngành trồng trọt. Từ đó, việc xác định cơ cấu cây lương thực, cây rau màu, cây công nghiệp ngắn và dài ngày và vật nuôi thích hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, kết hợp với phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở nông thôn là hết sức cần thiết.
Rừng vẫn tiếp tục bị khai thác bừa bãi ở nhiều nơi, gây thiệt hại to lớn và lâu dài cho đất nước. Công tác giao đất, khoán rừng để chăm sóc, bảo vệ rừng và trồng mới tuy có chuyển biến tích cực, kết quả khá hơn trước nhưng vẫn còn chậm. Chương trình 327 phủ xanh đồi núi trọc tuy đã được Nhà nước quan tâm chỉ đạo khắc phục một số yếu kém và tồn tại, vốn đầu tư có khá hơn nhưng khâu quản lý các dự án chưa tốt, còn nhiều sơ hở, sự phối kết hợp giữa các ngành chức năng Trung ương và địa phương chưa chặt chẽ, vẫn chưa tập trung được đầu mối quản lý nên tình trạng thất thoát còn lớn, hiệu quả thấp.
Ngành Thủy sản tuy vẫn giữ được tốc độ phát triển và cũng là ngành có kim ngạch xuất khẩu khá và tăng qua các năm, tiềm năng còn lớn, nhưng chưa được quan tâm đầu tư đúng mức ở các khâu nuôi trồng, phòng dịch bệnh, đánh bắt, nhất là đánh bắt xa bờ nên sự phát triển còn hạn chế. Điều đáng lưu ý là việc đánh bắt cá bằng mìn, thuốc nổ đang diễn ra ở nhiều nơi, không chỉ gây thiệt hại trước mắt mà còn hủy hoại môi sinh, môi trường để lại hậu quả lâu dài.
d) Ngành công nghiệp trong mấy năm gần đây đạt mức tăng trưởng khá, chủ yếu là tiếp tục phát huy kết quả đầu tư từ các năm trước vào các lĩnh vực dầu khí, điện, xi măng và một số sản phẩm thuộc ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, may mặc xuất khẩu, bia...; một số dự án liên doanh với nước ngoài đã từng bước đi vào hoạt động; một số cơ sở đã chú trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị - công nghệ, nhất là các cơ sở chế biến nông, lâm, thủy, hải sản gắn với phát triển vùng nguyên liệu. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn một số ngành và sản phẩm công nghiệp, nhất là ngành cơ khí, dệt, chè..., và nhiều xí nghiệp địa phương chưa vươn lên được trong cơ chế mới, còn lúng túng và khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Nguyên nhân cơ bản là thiết bị kỹ thuật và công nghệ quá lạc hậu mà chưa có điều kiện đổi mới, công tác quản lý, quản trị kinh doanh yếu kém..., sản phẩm làm ra với chi phí sản xuất cao, chất lượng sản phẩm kém không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Tình trạng thiếu vốn trong phần lớn các doanh nghiệp nhà nước vẫn là vấn đề lớn nổi lên, chủ yếu thường phải đi vay vốn ngắn và trung hạn với lãi suất cao nên không có khả năng đầu tư đổi mới thiết bị - công nghệ để sản xuất có lãi và khi trả nợ đến hạn gặp nhiều khó khăn vì chưa có cơ chế cụ thể về vay nợ và tạo nguồn trả nợ để khuyến khích mạnh dạn đầu tư phát triển.
Vấn đề tổn thất điện năng tuy đã có cố gắng khắc phục nhưng tỷ lệ vẫn còn cao. Việc củng cố và cải tạo lưới điện ở nhiều nơi còn rất khó khăn, nhất là các thành phố lớn trong khi mức tăng nguồn điện chưa đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, đã gây tình trạng cung cấp điện không ổn định, làm trở ngại cho sinh hoạt và thiệt hại không nhỏ cho sản xuất. Vấn đề phát triển điện theo quy hoạch đối với vùng nông thôn hiện nay cũng là một đòi hỏi lớn không chỉ có ý nghĩa kinh tế, mà còn mang ý nghĩa chính trị - xã hội trong điều kiện nguồn vốn đáp ứng còn nhiều khó khăn. Vì vậy, một yêu cầu đặt ra là, ngoài nguồn vốn đầu tư theo kế hoạch của Nhà nước, cần có cơ chế, chính sách và giải pháp hợp lý nhằm tạo điều kiện cho địa phương chủ động huy động vốn trong và ngoài nước bằng các hình thức thích hợp để cùng với sự đóng góp của dân từng bước xây dựng và phát triển mạng lưới điện ở nông thôn.
- Việc đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước triển khai chậm. Cổ phần hóa tiến hành quá chậm chạp, thiếu giải pháp cụ thể và thiếu cơ sở pháp lý chặt chẽ để tạo điều kiện thúc đẩy cho quá trình này thực hiện có kết quả. Chính phủ đã và đang thành lập một số tổng công ty theo mô hình tập đoàn sản xuất - kinh doanh, nhiều tổng công ty đã đi vào hoạt động, bước đầu một số đã phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, đây là mô hình tổ chức mới ở nước ta cần được thử nghiệm trước khi mở rộng diện. Vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là xác lập cho được vai trò chủ đạo đích thực của kinh tế quốc doanh, lấy hiệu quả làm mục tiêu hàng đầu, không lợi dụng vị thế độc quyền sinh cửa quyền làm phương hại đến nền kinh tế. Việc thanh toán công nợ giai đoạn hai vừa qua hầu như bị bế tắc và chưa xác định được thời điểm kết thúc; việc vay nợ nước ngoài của nhiều doanh nghiệp với số nợ đến hạn phải trả khá lớn (khoảng 600 triệu USD) nhưng không có khả năng thanh toán - đang là những vấn đề gay cấn cần phải có những giải pháp xử lý sớm để lập lại trật tự lành mạnh trong kinh doanh, tạo thế ổn định cho phát triển.
đ) Hoạt động xuất nhập khẩu tuy có những chuyển biến nhưng cho đến nay hệ thống các cơ chế, chính sách xuất nhập khẩu vẫn chưa đồng bộ, chưa phát huy đầy đủ tác dụng thúc đẩy sản xuất hàng xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu ngày càng tăng, góp phần giải quyết cán cân thanh toán quốc tế. Nhập siêu còn lớn, nhập hàng tiêu dùng còn nhiều, chưa hạn chế được buôn lậu. Công tác nghiên cứu thông tin và dự báo cung cầu của thị trường trong và ngoài nước vẫn chưa được chú trọng đúng mức để tạo điều kiện cho các ngành, địa phương xác định đúng hướng phát triển sản xuất - kinh doanh, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong nông nghiệp.
Việc kiểm soát xuất - nhập khẩu còn yếu kém và thiếu hệ thống pháp luật cần thiết. Việc quản lý xuất - nhập khẩu theo hạn ngạch thiếu chặt chẽ, còn buông lỏng. Ngay từ đầu năm, Chính phủ đã khẩn trương giao chỉ tiêu xuất nhập khẩu cho các đơn vị nhưng việc quản lý theo dõi xuất nhập ở các đầu mối chưa chặt chẽ nên một số mặt hàng về chậm, không đáp ứng kịp thời sản xuất và tiêu dùng trong nước. Tình trạng nhập lậu, nhất là buôn lậu qua biên giới đất liền, đường biển chẳng những chưa giảm mà còn diễn biến phức tạp và gia tăng, gây sức ép về giá cả thị trường, gây khó khăn cho sản xuất trong nước. Chính sách xuất nhập khẩu thường lại không ổn định, chủ trương và giải pháp xử lý một số mặt hàng nhập lậu qua biên giới có trường hợp thiếu nhất quán như xe gắn máy, thuốc lá ngoại... Công tác chống buôn lậu tuy có cố gắng chấn chỉnh nhưng kết quả còn quá thấp.
- Hợp tác đầu tư với nước ngoài, nhất là đối với một số công trình trọng điểm, một số khu công nghiệp tập trung được coi là đòn xeo cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, công tác chuẩn bị triển khai dự án làm chậm, tiến độ thực hiện vốn đầu tư đã đăng ký tuy có tăng khá hơn trước nhưng vẫn còn thấp (31%). Trong cơ cấu đầu tư nước ngoài vẫn tập trung vào khai thác tài nguyên (chủ yếu là dầu khí) và những ngành thu lãi nhanh (bia, nước giải khát, xi măng, khách sạn...), còn các lĩnh vực khác, nhất là lĩnh vực phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông sản bước đầu có chuyển biến nhưng còn hạn chế (khoảng 2,4%); các vùng mà cơ sở hạ tầng yếu kém thì còn rất khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài (miền Trung khoảng 7%, miền núi và Tây Nguyên còn ít hơn). Vấn đề đặt ra là cần có quy hoạch tổng thể ngành gắn với vùng lãnh thổ, tạo điều kiện phát huy được những tiềm năng, lợi thế của từng vùng để thu hút vốn đầu tư. Mặt khác, cần tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính bảo đảm tiện lợi hơn, tiếp tục khắc phục một cách cơ bản tệ quan liêu, gây phiền hà, nhận hối lộ cũng là trở lực không nhỏ trong vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
e) Cải cách hành chính tiến hành chậm, thủ tục còn rườm rà, cơ chế quản lý chậm được cải tiến, có những quy định không sát thực tế đã làm cho sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế gặp khó khăn. Bộ máy quản lý hành chính nhà nước còn cồng kềnh, biên chế hành chính - sự nghiệp ngày càng tăng lên là gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu theo Nghị quyết của Quốc hội tuy đã có chuyển biến và đạt kết quả nhất định, nhưng còn thấp so với yêu cầu. Tuy được xem như là một quốc sách nhưng vẫn chưa được chấp hành nghiêm chỉnh và việc xử lý các vụ việc không kịp thời, thiếu kiên quyết và nghiêm minh, nhiều khoản chi phí còn mang tính phô trương hình thức; tình hình buôn lậu từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang sử dụng phương tiện và con người nhà nước, điển hình như buôn lậu gạo qua biên giới đất liền, đường biển nhưng việc ngăn chặn và xử lý không kịp thời, kém hiệu quả, gây dư luận bất bình trong xã hội.
II- VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1996
1. Năm 1996 là năm tiến hành Đại hội Đảng lần thứ VIII và là năm mở đầu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 -2000, hướng tới đạt và hoàn thành vượt mức các mục tiêu, chỉ tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội Đảng lần thứ VII đề ra. Nước ta đang đứng trước những thuận lợi và thời cơ mới, nhưng cũng phải đương đầu với những thách thức to lớn. Vì vậy, nhiệm vụ của năm 1996 là phải tiếp tục phát huy những thành quả của công cuộc đổi mới, phấn đấu tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, hiệu quả cao hơn và vững chắc hơn, đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội và bảo đảm an ninh - quốc phòng, cải thiện thêm một bước đời sống nhân dân, tăng thêm tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, đồng thời, tạo tiền đề cần thiết cho thời kỳ phát triển cao hơn trong giai đoạn 1996-2000 và sau năm 2000, đưa đất nước vượt qua tình trạng nước nghèo.
Việc lập kế hoạch, bố trí cơ cấu đầu tư và cân đối vĩ mô trong kế hoạch 1996-2000, trước hết là năm 1996, cần lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản và giải quyết tốt các mối quan hệ sau đây:
- Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế vừa chú trọng xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trong những ngành trọng yếu có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường phát huy hiệu quả nhanh, vừa phải quan tâm đầu tư phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Cùng với việc cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, v.v., ở những khâu ách tắc nhất đang cản trở sự phát triển.
- Trong lúc tập trung nguồn lực đầu tư cho các lĩnh vực, các khu kinh tế trọng điểm sớm đưa lại hiệu quả cao cũng cần quan tâm đầu tư thích đáng cho các vùng kinh tế khác trong cả nước, nhất là miền núi và nông thôn, đẩy nhanh tốc độ phát triển, giảm bớt mức chênh lệch giữa các vùng, các miền và các tầng lớp dân cư.
- Bằng mọi cơ chế, chính sách thích hợp để tăng nhanh tích lũy đầu tư phát triển từ nội bộ nền kinh tế thông qua ngân sách, huy động vốn từ các thành phần kinh tế và trong nhân dân, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí, thất thoát, chống tham nhũng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng.
- Thực hiện chính sách kinh tế mở, cùng với việc gọi vốn đầu tư nước ngoài cần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô nhằm khuyến khích phát triển, bảo hộ sản xuất trong nước, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, hạn chế nhập hàng tiêu dùng chưa thiết yếu để giảm bớt nhập siêu, tiến tới thăng bằng xuất, nhập, giải quyết cán cân thanh toán quốc tế, góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu ổn định và kiềm chế lạm phát.
2. Về các chỉ tiêu chủ yếu năm 1996, sau khi xem xét, thảo luận các khía cạnh kinh tế và xã hội, Ủy ban chúng tôi nhất trí với dự kiến về tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 1996: 9-10%; công nghiệp 13,5-14,5%; nông, lâm nghiệp 4,5-4,8%, trong đó sản lượng lương thực quy thóc 28 triệu tấn; các ngành dịch vụ 12-13%; kim ngạch xuất khẩu 6 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu 8 tỷ USD; kiềm chế lạm phát ở mức thấp hơn năm 1995 và tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP là 25%; Đồng thời, cần động viên mọi nguồn lực, tận dụng mọi thời cơ để hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu đã đề ra.
- Để đạt được tốc độ tăng trưởng nông, lâm nghiệp ở mức 4,5-4,8% cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế và chính sách đòn bảy trong nông nghiệp, đẩy mạnh tiến độ giao đất, khoán rừng cho nông dân sử dụng lâu dài, chú trọng đầu tư vốn cải tạo cơ sở hạ tầng, nhất là thủy lợi, giao thông, giáo dục, y tế và cho nông dân vay vốn phát triển sản xuất, đầu tư chiều sâu; đẩy mạnh công tác khuyến nông, thực hiện chuyển giao công nghệ, đưa tiến bộ kỹ thuật vào phục vụ sản xuất nông nghiệp, từng bước phát triển công nghiệp chế biến gắn với phát triển vùng nguyên liệu, xây dựng nông thôn mới, tạo chuyển biến một bước về cơ cấu sản xuất nông nghiệp, xác định cơ cấu hợp lý giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa cây lương thực và cây công nghiệp, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở nông thôn trên cơ sở vẫn bảo đảm an toàn lương thực quốc gia, giảm lao động chạy ra thành thị.
- Về sản xuất công nghiệp, dự kiến tốc độ tăng trưởng 13,5-14,5% trong năm 1996. Để đạt được nhịp độ đó đòi hỏi phải có một bước chuyển dịch nhất định về cơ cấu, trong đó cần bảo dưỡng và đầu tư đổi mới thiết bị cho xí nghiệp sẵn có đang cần phát huy, cùng với việc tiếp tục phát triển nhanh và vững chắc các ngành công nghiệp mũi nhọn như điện, khai thác dầu khí, luyện cán thép, xi măng..., còn phải chú trọng hơn nữa việc phát triển một số ngành công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu khai thác tiềm năng tại chỗ: đất đai, rừng, biển, lao động, vốn đầu tư không lớn nhưng phát huy hiệu quả nhanh, có khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước (khu vực ASEAN, EU...). Cần tiếp tục đẩy mạnh đầu tư, nhất là đầu tư chiều sâu để nhanh chóng đổi mới thiết bị - công nghệ, vươn lên một bước cạnh tranh với hàng nhập ngoại và tăng kim ngạch xuất khẩu.
- Để kiềm chế lạm phát, giữ chỉ số trượt giá thấp hơn năm 1995, trong năm 1996, đòi hỏi phải có sự quán triệt sâu sắc ở các cấp, các ngành, cần tăng cường quản lý nhà nước theo pháp luật, giữ ổn định định giá cả, kiềm chế lạm phát; có các biện pháp kiểm soát và điều tiết các phương tiện thanh toán, cân đối cung cầu tiền hàng, hoàn thiện cơ chế điều tiết vĩ mô và kiểm soát giá của Nhà nước để vừa bảo đảm khống chế lạm phát, vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giải quyết năng động và hợp lý về giá cả, tiếp tục giảm bao cấp trong kinh doanh theo sự biến động của thị trường, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh các hiện tượng đầu cơ nâng giá, thu lợi bất chính.
3. Về các chủ trương và giải pháp lớn. Ủy ban chúng tôi cơ bản tán thành với những giải pháp trong báo cáo của Chính phủ, đồng thời, xin nhấn mạnh một số điểm như sau:
a) Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính tiền tệ - đây là khâu có tính chất quyết định. Động viên và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Tiến hành khẩn trương và thực hiện đồng bộ chương trình cải cách bước hai hệ thống chính sách thuế, trước mắt là sửa đổi, bổ sung các Luật thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế nhập khẩu. Cần tiếp tục hoàn thiện việc xác định lãi suất, bao gồm cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay, phát triển mạng lưới quỹ tín dụng nhân dân, triển khai hoạt động ngân hàng phục vụ người nghèo; tiếp tục thực hiện phát hành trái phiếu dài hạn, kỳ phiếu ngân hàng để bảo đảm mức huy động vốn trong dân, lập quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, vay ưu đãi các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, tạo nguồn để tăng thêm vốn tín dụng đầu tư trung và dài hạn với lãi suất hợp lý. Có chế độ bảo lãnh vay vốn trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển, hạn chế tối đa vay thương mại đi đôi với cơ chế tạo vốn để trả nợ khi đến hạn bằng cách tăng khấu hao tài sản cố định và trong trường hợp cụ thể cần thiết có thể xem xét để lại một phần lợi nhuận trước khi tính thuế lợi tức để trả nợ tín dụng, khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế và tạo nguồn thu cho ngân sách. Thực hiện từng bước hợp lý và thận trọng chính sách tỷ giá linh hoạt. Sử dụng tốt công cụ dự trữ bắt buộc và hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thương mại để ổn định mặt bằng giá cả và có biện pháp kiểm soát chặt chẽ các loại tiền gửi, xác định hợp lý theo hướng giảm lãi suất tín dụng ngân hàng trên cơ sở sử dụng tích cực các nguồn vốn huy động, tính toán hợp lý tiền lương và tiết kiệm tối đa các khoản chi phí trong hoạt động ngân hàng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Song song với phát triển kinh tế, phải tạo được sự chuyển biến trong thu ngân sách, điều tiết để đầu tư trở lại cho sản xuất và chăm lo các mặt xã hội, quốc phòng - an ninh cần thiết, hãm dần sự cách biệt quá xa giữa giàu, nghèo không đáng có.
b) Tập trung chỉ đạo và có biện pháp đồng bộ để thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó chú trọng cơ cấu và đổi mới tổ chức quản lý các doanh nghiệp nhà nước; tổ chức lại và đổi mới quản lý hợp tác xã; khuyến khích và hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình.
Trên cơ sở Luật doanh nghiệp nhà nước, sớm ban hành các văn bản dưới luật xác định rõ loại hình doanh nghiệp nhà nước bao gồm doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích, phải có ngay các biện pháp hữu hiệu, nhất là về tổ chức và cán bộ. Hoàn thành dứt điểm trong năm 1996 việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh nhằm vừa thực hiện đầy đủ chức năng kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước đối với doanh nghiệp, vừa bảo đảm phát huy tính chủ động quản lý và điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Sớm cụ thể hóa cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp, áp dụng rộng rãi chế độ kế toán mới và triển khai nhanh hệ thống kiểm toán, đưa công tác quản lý tài chính đối với doanh nghiệp đi vào nền nếp.
Cương quyết xử lý dứt điểm đối với số doanh nghiệp hoạt động kinh doanh làm ăn thua lỗ kéo dài bằng cách cho giải thể, sáp nhập, chuyển hình thức sở hữu... Việc xử lý phải được chỉ đạo, kiểm tra chặt chẽ để hạn chế tối đa việc thất thoát tài sản, vốn liếng của Nhà nước. Đồng thời, cần tổng kết việc thí điểm cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước để có những giải pháp đẩy mạnh quá trình này, kể cả việc hình thành thị trường chứng khoán, cần ban hành chính sách cụ thể về cổ phần hóa, tạo điều kiện pháp lý cần thiết cho việc triển khai thực hiện.
Tổ chức rút kinh nghiệm việc thí điểm mô hình hoạt động của một số tổng công ty nhà nước, vừa bảo đảm xác lập được vai trò chủ đạo đích thực của kinh tế quốc doanh, vừa nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, chống hiện tượng lạm dụng vị thế độc quyền gây phương hại đến nền kinh tế.
Tổ chức lại và đổi mới phương thức hoạt động của các loại hình kinh tế hợp tác trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ trên nguyên tắc dân chủ, tự nguyện cùng có lợi.
c) Tiếp tục mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, đổi mới cơ chế quản lý và ổn định chính sách xuất nhập khẩu, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy quá trình mở cửa, hội nhập và hợp tác kinh tế trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các nước khác trong cộng đồng quốc tế trên cơ sở độc lập, bình đẳng, đôi bên cùng có lợi. Tăng cường quản lý bảo đảm có hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn vốn vay nước ngoài. Có giải pháp đồng bộ khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài, đặc biệt vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng và các ngành, các vùng cần ưu tiên phát triển; cải thiện môi trường đầu tư, trước hết là các thủ tục hành chính, chống các tệ nạn tiêu cực, phiền hà trong lĩnh vực hợp tác đầu tư. Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế - xã hội và cân đối vĩ mô, cần sớm xác định các công trình trọng điểm, các công trình đem lại hiệu quả nhanh để tập trung vốn đầu tư, khắc phục việc bố trí kế hoạch dàn trải, phân tán, kiên quyết chấm dứt tình trạng vi phạm trình tự, thủ tục xây dựng cơ bản, tạo sơ hở gây tham ô, lãng phí trong lĩnh vực này.
d) Tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội cùng với việc tiếp tục thực hiện cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn tổ chức chính quyền các cấp, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, giữ vững kỷ cương phép nước. Cần tập trung nghiên cứu và sớm ban hành, bổ sung một số luật về kinh tế và các văn bản pháp quy dưới luật, triển khai đồng bộ giữa đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế và cải cách hành chính. Phát động rộng rãi trong toàn xã hội cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu để thanh lọc và xử lý nghiêm minh những phần tử xấu, trước hết trong bộ máy nhà nước và trong các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời, cần nghiên cứu áp dụng chính sách để lại một tỷ lệ hợp lý trong tổng số thu từ kết quả chống buôn lậu cho ngân sách địa phương để hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nhằm gắn trách nhiệm với lợi ích khuyến khích mọi cấp, mọi ngành, mọi lực lượng, tạo sự chuyển biến đồng bộ, tham gia tích cực chống buôn lậu có hiệu quả hơn.
PHẦN THỨ HAI
VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1995
Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa IX đã thông qua dự toán ngân sách nhà nước năm 1995 với:
- Tổng số thu: 55.350 tỷ đồng,
- Tổng số chi: 63.080 tỷ đồng,
- Mức thiếu hụt ngân sách: 7.730 tỷ đồng, bằng 3,6% GDP.
Ngay sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban kinh tế và ngân sách đã cùng với Chính phủ (trực tiếp là Bộ Tài chính) triển khai dự kiến phân bổ ngân sách nhà nước năm 1995. Sau khi phương án phân bổ ngân sách đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, nhất trí, Chính phủ đã giao chính thức nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho các Bộ, ngành Trung ương và các địa phương ngay từ cuối tháng 12 năm 1994.
Trong quá trình thực hiện, Thường trực Ủy ban và Ủy ban định kỳ đã nghe đại diện Chính phủ báo cáo về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước. Thường trực Ủy ban cũng đã tổ chức nhiều đoàn của Ủy ban đi làm việc với một số Bộ, ngành và một số địa phương để nắm tình hình thực hiện ngân sách nhà nước, đồng thời, đã có ý kiến lưu ý Chính phủ về những vấn đề cần quan tâm trong quá trình điều hành thực hiện ngân sách.
Qua tình hình thực hiện ngân sách nhà nước trong từng thời gian, nguồn thu ngân sách nhà nước tập trung chậm, bị chiếm dụng và thất thu còn lớn, nguồn vay bù đắp thiếu hụt ngân sách gặp khó khăn, không bảo đảm nhiệm vụ chi, nhất là chi đầu tư phát triển, Chính phủ đã nhiều lần họp với lãnh đạo các Bộ và các địa phương trong cả nước để bàn các biện pháp bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ theo Nghị quyết của Quốc hội.
Đến nay, trên cơ sở ước thực hiện chín tháng, Chính phủ dự kiến khả năng thực hiện ngân sách nhà nước cả năm 1995 như sau:
- Tổng số thu, ước đạt 53.350 tỷ đồng, bằng 96,4% kế hoạch, (giảm 2.000 tỷ đồng), tăng 28,7% so với thực hiện 1994; trong đó thu thuế và phí 50.400 tỷ đồng, bằng 96,2% kế hoạch, tăng 34,1% so với năm 1994.
- Tổng số chi, ước thực hiện 61,960 tỷ đồng, bằng 98,2% dự toán Quốc hội đã thông qua, tăng 40,15% so với thực hiện 1994; trong đó chi đầu tư phát triển 13.780 tỷ đồng, bằng 98,4% dự toán đầu năm, tăng 35,4% so với năm 1994.
- Số thiếu hụt ngân sách cả năm ước 8.610 tỷ đồng, bằng 111,4% mức Quốc hội cho phép, bằng 3,79% GDP.
Nếu đến cuối năm, tình hình thực hiện ngân sách nhà nước không có những biến động lớn thì kết quả thu chi ngân sách nhà nước theo ước tính trên cũng có khả năng đạt được và như vậy cũng là một cố gắng lớn của các ngành, các cấp, nhất là hệ thống tài chính trong cả nước.
Tuy nhiên, trong việc lập dự toán, quản lý và điều hành ngân sách nhà nước năm 1995, qua thảo luận, Ủy ban chúng tôi thấy còn một số hạn chế cần rút kinh nghiệm:
1. Việc lập dự toán ngân sách nhà nước, có nhiều khoản tính toán thiếu căn cứ vững chắc, chưa thật sát với thực tiễn, thiếu tính khả thi nên đã gây những khó khăn, bị động cho việc điều hành ngân sách nhà nước. Thể hiện rõ nhất là các nguồn vay nước ngoài bảo đảm bù đắp thiếu hụt ngân sách không vững chắc, chưa lường hết được những khó khăn, vướng mắc về thủ tục, điều kiện vay nợ nên thực tế qua tám tháng số vay nợ này chỉ được 703 tỷ đồng và ước chín tháng cũng chỉ được 1.583 tỷ đồng, bằng 58% số dự kiến cả năm. Vay dân trong nước tuy dự kiến vượt kế hoạch nhưng chủ yếu dùng để trả nợ gốc đến hạn (gần 4.000 tỷ) nên số để chi đáp ứng cho nhu cầu đầu tư không được bao nhiêu và đại bộ phận là vay ngắn hạn nên kém hiệu quả và cũng là gánh nặng cho ngân sách các năm sau. Có những khoản mới là phỏng tính trong kế hoạch nhưng đã ghi thu ở mức cao như sản xuất thuốc lá nhãn ngoại, dầu thô, bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước..., nên trong quá trình thực hiện gặp khó khăn vướng mắc, đã góp phần làm cho tình hình ngân sách nhà nước thêm căng thẳng hoặc không dự tính được việc thay đổi về cơ cấu mặt hàng, về giá tính thuế, về giãn nợ thuế... đã làm giảm thu đáng kể, nhất là trong lĩnh vực nhập khẩu. Bên cạnh đó, không lường hết các khoản chi đột xuất ngay từ đầu năm phát sinh quá nhiều trong khi thu bị hụt, khoản dự bị phí dành trong ngân sách quá ít nên trong điều hành luôn gây khó khăn, lúng túng, không bảo đảm vốn cho đầu tư phát triển. Mặt khác, cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước chậm được đổi mới, chưa gắn trách nhiệm với lợi ích nên vừa gây tư tưởng ỷ lại vào Trung ương, vừa không phát huy được tính chủ động của địa phương để tạo nguồn thu, tăng thu và tiết kiệm chi cho ngân sách nhà nước.
2. Về thu ngân sách nhà nước: Tổng thu ngân sách trong chín tháng đầu năm ước đạt 62,7% kế hoạch, tuy số ước cả năm đã theo hướng tích cực nhưng qua giám sát thực tế ở nhiều địa phương cho thấy, tình trạng thất thu vẫn còn lớn ở tất cả các lĩnh vực và các thành phần kinh tế, nhất là trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, xuất nhập khẩu qua biên giới đất liền. Một hiện tượng không bình thường là trong khi khu vực kinh tế công thương nghiệp ngoài quốc doanh phát triển tương đối nhanh và chiếm tới 24% GDP, nhưng chỉ đóng góp được gần 9,1% số thu về thuế và phí. Ở nhiều nơi, tình hình thất thu đối với khu vực kinh tế này nghiêm trọng cả về số hộ và doanh số. Trong khu vực kinh tế quốc doanh, công tác quản lý thu thuế chưa được chặt chẽ, nhất là thuế lợi tức; tình trạng nợ đọng thuế vẫn còn khá phổ biến, nhiều doanh nghiệp cố ý chậm nộp thuế để chiếm dụng vốn kinh doanh. Nguồn thu về cấp quyền sử dụng đất và chuyển quyền sử dụng đất là nguồn thu quan trọng để xây dựng cơ sở hạ tầng ở địa phương nhưng đạt rất thấp, chín tháng mới được 710 tỷ đồng/1.850 tỷ đồng kế hoạch cả năm, tuy có những vấn đề còn vướng mắc nhưng chưa được giải quyết triệt để trong khi thực tế tình hình quản lý và sử dụng đất đai ở đô thị phát sinh và diễn biến phức tạp mà không kiểm soát được chặt chẽ đất đai và cũng không thu được vào ngân sách...
Tình hình trên cho thấy, mặc dù số thu tám tháng, chín tháng đều là số ước chưa thật vững chắc và nhiều ý kiến cho là cao, khó đạt được nhưng nhiệm vụ còn lại từ nay đến cuối năm cũng nặng, số thu ba tháng cuối năm phải đạt 33,7% số ước thu cả năm, nhất là thuế ngoài quốc doanh 39%, thu từ kinh tế quốc doanh 35,4%, các khoản thu về đất 60,9%, thuế xuất nhập khẩu 32%... Vì vậy, đòi hỏi phải có sự tập trung chỉ đạo điều hành đồng bộ và kiên quyết của Chính phủ, các ngành, các cấp tăng cường áp dụng các biện pháp chống thất thu, chống buôn lậu một cách sát sao và quyết liệt hơn, kể cả những biện pháp cưỡng chế để thu đủ thuế và tận thu các khoản nợ đọng thuế thì mới có khả năng hoàn thành được số thu như dự kiến.
3. Về chi ngân sách nhà nước: việc dự toán chi trên cơ sở kế hoạch thu không chắc chắn, trong khi đó các yêu cầu chi đã được bố trí thì không thể trì hoãn và nguồn thu khó khăn như trên nên ngân sách nhà nước năm 1995 luôn trong trạng thái căng thẳng và bị động. Hơn nữa, chúng ta vẫn chưa khắc phục được hiện tượng tiêu xài lãng phí, mặc dù, Quốc hội đã có Nghị quyết, Chính phủ đã có sự chỉ đạo thường xuyên, song còn có quá nhiều lễ hội, hội thảo, hội nghị, xây cất, mua sắm chưa thật cần thiết, v.v.. Việc cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản vẫn là vấn đề nan giải, ước tám tháng mới được 5.270 tỷ đồng bằng 41% kế hoạch vốn cả năm, nếu trừ thanh toán khối lượng nợ năm 1994 gần 1.400 tỷ đồng mà không nằm trong dự toán chi ngân sách năm 1995 thì vốn cấp cho kế hoạch năm 1995 mới được 30,4%, trong khi khối lượng đã đạt 50% kế hoạch năm - đây là tình trạng kéo dài nhiều năm mà chưa khắc phục được trong tình hình thu như trên. Số ước chi cả năm 1995 cũng dựa trên số ước thu, nếu không có những giải pháp hữu hiệu để đạt được mức thu như dự kiến, nhất là số thu về thuế xuất nhập khẩu, các khoản thu về đất, bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, thu về vay nợ nước ngoài bù đắp thiếu hụt ngân sách thì sẽ không bảo đảm được các yêu cầu chi để hoàn thành các nhiệm vụ đề ra.
4) Về thiếu hụt ngân sách nhà nước: dự kiến cả năm 8.610 tỷ đồng, vượt 880 tỷ đồng so với mức Quốc hội cho phép. Đây là mức thiếu hụt ngân sách dựa trên cơ sở ước thu, ước chi như trên. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng, mặc dù chi có giảm nhưng số thu trong nước bị hụt lớn hơn số giảm chi, đã phải vay trong và ngoài nước để bù đắp thiếu hụt ngân sách tăng thêm 880 tỷ đồng nhưng vẫn còn để lại nợ thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản gần 1.300 tỷ đồng. Mặt khác, cũng thấy nhiều khoản ước thu cũng khó có khả năng chắc chắn, trong khi nhu cầu chi không giảm, thậm chí, có thể còn phát sinh những khoản mới (chính sách xã hội, thiên tai...). Vì vậy, nếu không có biện pháp xử lý quyết liệt và triệt để hơn kể cả thu và chi ngân sách cuối năm, thì số thiếu hụt ngân sách nhà nước sẽ còn lớn hơn nhiều mà cũng khó có nguồn bù đắp nên sẽ để lại hậu quả nặng nề cho năm 1996, nhất là nợ thanh toán khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản sẽ khá lớn.
II- VỀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1996
Tại cuộc họp toàn thể thành viên Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội tại Hà Nội vào các ngày 18, 19, 20 tháng 9 năm 1995, Bộ Tài chính đã báo cáo về dự toán ngân sách nhà nước năm 1996.
Sau khi nghiên cứu, xem xét, Ủy ban chúng tôi đã có ý kiến cụ thể về các khoản thu, chi và cân đối ngân sách trong bản báo cáo của Bộ Tài chính; Chính phủ đã rà soát, tính toán lại và trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước năm 1996 như sau:
- Tổng số thu: 62.000 tỷ đồng, bằng 116,2% số ước thực hiện năm 1995; trong đó thu từ thuế và phí 58.500 tỷ đồng.
-Tổng số chi: 71.200 tỷ đồng, bằng 114,9% số ước thực hiện năm 1995, trong đó chi đầu tư phát triển 15.400 tỷ đồng.
- Mức thiếu hụt ngân sách nhà nước: 9.200 tỷ đồng, bằng 3,28% GDP.
Ủy ban chúng tôi xin trình Quốc hội một số ý kiến nổi lên như sau:
1. Ủy ban kinh tế và ngân sách nhất trí với những nhận định về thuận lợi, khó khăn và những nhiệm vụ đặt ra cho năm 1996. Chúng tôi cũng tán thành những quan điểm, những nguyên tắc chủ yếu trong bố trí ngân sách nhà nước năm 1996 như báo cáo của Chính phủ. Chúng tôi hoan nghênh Chính phủ đã rà soát, tính toán, bố trí lại một số khoản thu, chi cho hợp lý hơn, bảo đảm chi đầu tư phát triển không thấp hơn mức trả nợ. Ủy ban chúng tôi cũng tán thành với hướng bố trí ngân sách dành số thu về đất, về nhà ở công, về xổ số kiến thiết để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở địa phương; chưa đặt vấn đề giảm mức thu thuế đối với người trồng lúa mà sử dụng nguồn thu này để đầu tư trở lại cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, ưu tiên cho thủy lợi, cho các vùng khó khăn. Đồng thời, chúng tôi đề nghị Chính phủ nên xem xét tiếp tục dành một phần khoản thu thuế xuất nhập khẩu qua biên giới đất liền và số thu về kết quả chống buôn lậu để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng biên giới; để lại cho địa phương một phần số thu về phí giao thông, về tiền phạt vi phạm hành chính để địa phương chủ động đáp ứng kịp thời các nhu cầu sửa chữa đường sá và một số khoản chi tiêu gắn với công tác này.
2. Trên cơ sở rút kinh nghiệm của năm 1995 và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội năm 1996, Ủy ban chúng tôi thấy cần lưu ý một số điểm sau đây trong việc tính toán cân đối ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách nhà nước:
a) Dự toán ngân sách nhà nước cần được lập một cách tích cực nhưng phải dựa trên cơ sở các thông tin số liệu chính xác. Kế hoạch thu ngân sách nhà nước phải dựa trên kế hoạch phát triển kinh tế chắc chắn, có tính khả thi, đồng thời phải lường hết những diễn biễn các mặt kinh tế - xã hội có ảnh hưởng tới các nguồn thu, diện thu. Việc cân đối ngân sách nhà nước cần rà soát kỹ các nguồn thu, kể cả các khoản vay nhưng không ỷ lại vào vay để bù đắp thiếu hụt ngân sách, bảo đảm có cơ sở tương đối chắc chắn để bố trí, phân bổ cho các nhiệm vụ chi. Kế hoạch chi ngân sách nhà nước phải được dự toán chặt chẽ và bố trí khoản dự phòng cần thiết để xử lý các nhu cầu chi đột xuất (thiên tai...), đồng thời, cố gắng dành vốn khá hơn cho đầu tư phát triển, tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1996 và những năm sau. Các nguồn vốn vay trong và ngoài nước phải được đa dạng hóa và bảo đảm tính khả thi, tránh vay thương mại nước ngoài hoặc vay trong nước với thời hạn ngắn, lãi suất cao để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Tính toán thu chắc chắn để bố trí chi; đến tháng 4 năm 1996, nếu thu khá, sẽ trình Quốc hội bổ sung, không nên bố trí phân bổ chi như hai năm 1994, 1995, đến khi thu không đạt thì bị động liện tục.
b) Theo dự toán, Chính phủ dự kiến tổng số thu ngân sách nhà nước năm 1996 là 62.000 tỷ đồng, tăng 16,2% so với ước thực hiện năm 1995, trong đó, thu về thuế và phí là 58.500 tỷ đồng, tăng 16,1%. Nếu nhìn vào số so sánh năm sau với năm trước thì tốc độ tăng thu dự kiến năm nay thấp hơn so với vài năm gần đây (1994/1993: 30%, 1995/1994: 28%) trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn và lạm phát cũng còn ở mức trên 10%. Tuy nhiên, Ủy ban chúng tôi cho rằng, điều quan trọng là phải tính toán kỹ và làm rõ được cơ sở các nguồn thu, xác định đúng mức số thu năm 1995 và mức độ thất thu để từ đó cả Trung ương, địa phương, các ngành, các cấp đồng tâm hiệp lực tổ chức các biện pháp thu một cách phù hợp nhằm thu đủ, thu đúng theo pháp luật. Chỉ có như vậy số dự toán thu ngân sách mới có tính hiện thực, tránh gây sự căng thẳng cho ngân sách nhà nước trong quá trình điều hành thực hiện không bị lúng túng, bị động.
Việc tính chỉ số trượt giá vào kế hoạch tăng thu phải cân nhắc thận trọng, thật cụ thể loại giá nào thì tác động đến tăng hoặc giảm thu ở khoản nào vì nếu áp dụng đồng loạt một cách máy móc thì khoản tăng thu do trượt giá ghi trong dự toán kế hoạch sẽ không sát, còn ngân sách nhà nước về thực chất cũng không được cải thiện.
Trong kỳ họp này, Chính phủ trình Quốc hội thông qua sửa đổi một số điều của các luật thuế và ban hành một số chính sách có liên quan, cần lưu ý xem xét, tính toán kỹ sẽ tác động tới tăng giảm mức thu như thế nào, ở ngành nào, lĩnh vực nào với mức độ ra sao... khi xác định nguồn thu.
Nhiều ý kiến trong Ủy ban chúng tôi cho rằng, vẫn còn có khả năng tăng thu hơn, nhất là trong lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhập khẩu, phí và lệ phí, đất và nhà ở công... nếu có các biện pháp chống thất thu triệt để, có cơ chế chính sách thu thích hợp và có sự kiểm soát chặt chẽ để có nguồn bổ sung thêm vốn đầu tư phát triển và tăng thêm dự bị phí để chủ động điều hành trong năm vì hai khoản này dự kiến bố trí còn quá eo hẹp.
c) Về chi ngân sách nhà nước năm 1996, theo dự toán là 71.200 tỷ đồng (kể cả trả nợ gốc, lãi), tăng 14,9% so với số ước thực hiện năm 1995, trong đó chi đầu tư phát triển chiếm 21,6% (năm 1995, là 22,3%), chi thường xuyên chiếm 56,2% (năm 1995, là 61%), chi trả nợ 17,3% (năm 1995, là 16,7%). Xét về cơ cấu chi thì các khoản chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên đều giảm, chi trả nợ tăng. Điều đó có nghĩa là đã đến lúc nhiều khoản nợ đến hạn phải trả, kể cả vay trong nước và ngoài nước. Như vậy, càng khẳng định tính cấp thiết của việc tính toán chặt chẽ về hiệu quả và tiết kiệm trong sử dụng vốn vay, kể cả vay cho đầu tư phát triển phải bảo đảm hiệu quả, tạo được nguồn trả nợ.
Để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội và thực hiện đúng chức năng là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước, trong tình hình ngân sách hiện nay còn khó khăn, Ủy ban chúng tôi cho rằng, ngân sách nhà nước năm 1996 chỉ nên tập trung giải quyết vốn cho những dự án có tính khả thi cao. Trước hết, vẫn phải ưu tiên cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng như các công trình giao thông, đặc biệt là thủy lợi, chi cho khuyến nông - lâm - ngư nghiệp gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, chi cho phủ xanh đồi núi trọc, giải quyết việc làm; đồng thời cũng phải bảo đảm mức chi cần thiết cho quốc phòng - an ninh, giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội, đặc biệt cũng phải dành thỏa đáng cho các khoản chi về chính sách xã hội do hậu quả của cuộc chiến tranh lâu dài để lại (như: quy tập mộ liệt sĩ, thực hiện Pháp lệnh người có công với nước, Pháp lệnh Bà mẹ Việt Nam anh hùng...).
Tiền lương cũng là vấn đề nổi lên gay gắt, nhất là các đối tượng có mức lương thấp trong khu vực hành chính - sự nghiệp và người về hưu. Lương thực tế hiện nay chỉ bằng khoảng 70% so với năm 1993, là thời điểm bắt đầu thực hiện chế độ lương mới. Đây là một vấn đề bức xúc cần được xem xét, giải quyết. Trước mắt, để bảo đảm ổn định xã hội, giảm bớt khó khăn về đời sống, nhất là những người lương thấp, Ủy ban chúng tôi đề nghị Chính phủ nghiên cứu và có phương án cụ thể với những giải pháp khả thi, phù hợp với khả năng ngân sách để trình Quốc hội xem xét, quyết định.
3. Ủy ban chúng tôi tán thành những biện pháp để thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 1996 trong báo cáo của Chính phủ và xin nhấn mạnh một số điểm:
a) Tập trung khai thác tích cực các nguồn thu và triển khai mạnh mẽ công tác chống thất thu thuế. Tiếp tục thực hiện cải cách hệ thống chính sách thuế cho hợp lý hơn nhằm mục đích vừa khuyến khích phát triển và bảo hộ sản xuất trong nước, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, vừa bảo đảm nguồn thu ngày càng tăng cho ngân sách nhà nước. Để các sắc thuế phát huy được công cụ điều tiết thật sự có hiệu quả, trước hết phải lập lại kỷ cương trong nền kinh tế về chấp hành nghiêm chỉnh chế độ kế toán, chứng từ hóa đơn. Chính phủ cần đặt chương trình phổ biến, tuyên truyền sâu rộng đi đôi với các biện pháp hành chính nghiêm ngặt về việc mua bán hàng hóa phải có chứng từ hóa đơn. Cần có những xử phạt nghiêm minh trong việc không thực hiện Pháp lệnh về kế toán, thống kê để trốn lậu thuế. Đồng thời, tiếp tục củng cố tổ chức bộ máy quản lý thu thuế, có chế độ đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ thuế theo đúng các tiêu chuẩn về trình độ nghiệp vụ và phải qua thi tuyển theo chế độ công chức.
Cùng với việc đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực quốc doanh, cần chú trọng hơn nữa tới công tác quản lý tài chính đối với các xí nghiệp đầu tư nước ngoài cũng như khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, bảo đảm thu đúng, thu đủ thuế theo pháp luật.
b) Thực hiện nghiêm ngặt tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách nhà nước, bảo đảm chi đúng mục đích có hiệu quả, kể cả trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản cũng như trong chi thường xuyên. Chính phủ cần sớm xây dựng các loại định mức, tiêu chuẩn chi tiêu thống nhất trong cả nước, nhất là tiêu chuẩn tiếp khách, hội nghị, mua sắm trang thiết bị và phương tiện hoạt động ở các cơ quan, đơn vị nhà nước.
Ủy ban chúng tôi đề nghị, cần củng cố và hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý và cấp vốn đầu tư phát triển; đồng thời cần nghiên cứu có những quy định về thủ tục, trình tự đầu tư và xây dựng đối với từng loại công trình, dự án cụ thể cho phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế để một mặt khắc phục những ách tắc hiện nay, tránh các sơ hở gây lợi dụng tiêu cực; mặt khác, bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh theo Nghị định 177/CP của Chính phủ. Thực hiện nghiêm ngặt cơ chế đấu thầu trong xây dựng cơ bản, chỉ thanh toán theo giá đã nhận thầu.
c) Để bảo đảm việc quản lý và tổ chức thực hiện các dự án chương trình mục tiêu quốc gia được đúng mục đích, có hiệu quả và tránh thất thoát, Ủy ban chúng tôi đề nghị Chính phủ cần nghiên cứu tập trung đầu mối quản lý các dự án và phân rõ trách nhiệm giữa ngành Trung ương và địa phương theo hướng giao cho địa phương chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý, chỉ đạo và điều hành các dự án trên địa bàn.
d) Cần tiếp tục sửa đổi cơ chế phân cấp quản lý ngân sách giữa Trung ương và địa phương theo hướng vừa bảo đảm tính tập trung thống nhất của Trung ương, vừa phát huy được tính chủ động, tích cực tạo nguồn thu, chống thất thu và tăng thu, tiết kiệm chi để bảo đảm cân đối ngân sách của địa phương.
e) Hoàn thiện Dự án Luật ngân sách nhà nước để trình Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý trong việc lập, phân bổ và điều hành ngân sách nhà nước. Thực hiện chế độ kiểm toán nhà nước bắt buộc đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có sử dụng vốn, kinh phí và tài sản của Nhà nước, tiến tới quyết toán ngân sách nhà nước phải được kiểm toán trước khi trình ra Quốc hội xem xét, phê chuẩn.
4. Cuối cùng, do chưa thể xác định được chính thức số thu và số chi đối với từng Bộ, ngành và địa phương nên trong báo cáo Chính phủ chưa phân bổ ngân sách cụ thể đến từng Bộ, ngành Trung ương và từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mà mới dự kiến các nguồn thu và phân bổ nhiệm vụ chi cho từng lĩnh vực. Trong tình hình còn khó khăn đó, Ủy ban chúng tôi đề nghị Quốc hội sau khi phê chuẩn tổng dự toán ngân sách nhà nước năm 1996, giao cho Chính phủ phân bổ cụ thể ngân sách cho các Bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành phố có sự tham gia của Ủy ban chúng tôi và ủy quyền cho Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trên đây là một số ý kiến chính của Ủy ban kinh tế và ngân sách về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1995 và phương hướng nhiệm vụ năm 1996; về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 1995 và dự toán ngân sách nhà nước năm 1996, kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội