THUYẾT TRÌNH
CỦA ỦY BAN VĂN HÓA, GIÁO DỤC, THANH NIÊN,
THIẾU NIÊN VÀ NHI ĐỒNG CỦA QUỐC HỘI VỀ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO, VỀ
BÁO CHÍ, XUẤT BẢN CẦN ĐƯỢC QUAN TÂM
(Do bà Trần Thị Tâm Đan, Chủ nhiệm Ủy ban văn hóa, giáo dục,
thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội đọc
tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa IX, ngày 12-10-1995)
Kính thưa Quốc hội,,
Nhân dân ta, Đảng và Nhà nước ta vừa tiến hành kỷ niệm trọng thể 50 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh mồng 2 tháng 9. Nhân dịp này, các cấp, các ngành, trong đó có ngành văn hóa - thông tin, giáo dục - đào tạo và các tổ chức chăm lo cho sự nghiệp phát triển của thế hệ trẻ đều có nhìn nhận và đánh giá những thành tựu, những mặt đạt được để phát huy; những tồn tại, yếu kém cần khắc phục và đề ra những giải pháp để thực hiện phát triển.
Tại kỳ họp này, Chính phủ đã báo cáo về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1995 và nhiệm vụ năm 1996. Bước tiến bộ trong xây dựng kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1996 là đã đưa ra được một số chỉ tiêu định lượng cho văn hóa xã hội. Về cơ bản, Ủy ban chúng tôi tán thành với Báo cáo của Chính phủ. Chúng tôi xin trình bày một số vấn đề cần được quan tâm về giáo dục - đào tạo, về báo chí, xuất bản.
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
Trong kế hoạch 1991-1995, sự nghiệp giáo dục đã vượt qua được thời điểm khó khăn nhất, dần dần đi vào ổn định và có bước phát triển. Điều đó có nguyên nhân từ những thành tựu to lớn đạt được trong sự nghiệp đổi mới về kinh tế; xã hội ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện đã tạo môi trường tốt để thực hiện đổi mới giáo dục, đào tạo. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi cao hơn đối với ngành giáo dục trong việc đào tạo lực lượng lao động và những chuyên gia giỏi, đồng thời tạo ra những điều kiện tốt, để chính ngành giáo dục cũng được hiện đại hóa và phát triển lên trình độ cao.
Ngân sách, cơ chế quản lý, chính sách cho giáo dục vẫn là những vấn đề phải nghiên cứu và tập trung giải quyết cùng với việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy và đổi mới trang thiết bị, sách giáo khoa, giáo trình đang là những yếu tố tác động trực tiếp đến chất lượng giáo dục.
1. Về quản lý ngân sách:
Ngân sách giáo dục - đào tạo năm 1996 được bố trí tăng 13,3% so với năm 1995, thuộc nhóm có tỷ lệ tăng cao. Điều đó nói lên sự cố gắng trong bố trí ngân sách với tinh thần ưu tiên cho giáo dục. Nhưng tỷ lệ này chưa bù đắp được sự tăng giá và tăng tỷ lệ học sinh. Trước tình hình đó, việc điều hành, quản lý, sử dụng ngân sách đòi hỏi phải có sự lựa chọn trọng điểm, đầu tư tập trung và chỉ đạo dứt điểm để tạo nên những chuyển biến, tiến bộ cụ thể, tháo gỡ từng vấn đề. Về mục tiêu, Ủy ban chúng tôi đề nghị tập trung cho phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000, là mục tiêu không thể lùi đối với cấp học nền tảng của ngành học phổ thông, một trình độ dân trí phổ cập tối thiểu để nước ta bước vào thế kỷ XXI. Cho đến nay, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã công nhận phổ cập giáo dục tiểu học được chín tỉnh trong đó có một tỉnh miền núi, tỉnh Tuyên Quang. Trong năm năm tới, chúng ta phải hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học ở 44 tỉnh, nghĩa là mỗi năm, phải công nhận trung bình được chín tỉnh, trong khi đó ba năm qua mới tăng thêm được một tỉnh. Mặt khác, giáo viên bậc tiểu học hiện đang thiếu sáu vạn; hàng chục nghìn lớp học ca ba chủ yếu là thuộc về cấp tiểu học. Đầu tư cho phổ cập giáo dục tiểu học cũng là đầu tư cho miền núi, vùng sâu, vùng xa. Điều đó cho thấy, thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học là một việc làm rất khó và phần việc còn lại trong năm năm tới rất nặng nề.
Để đẩy nhanh tốc độ hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, Ủy ban chúng tôi đề nghị tổ chức thực hiện quỹ bảo trợ giáo dục như Luật phổ cập tiểu học đã quy định. Việc xây dựng quỹ, chính là một hình thức thể chế hóa việc huy động đóng góp của các lực lượng xã hội, của phụ huynh học sinh, đưa việc xã hội hóa giáo dục lên mức cao hơn để tạo cơ sở vật chất cho nhà trường và hỗ trợ cho đời sống giáo viên.
Do thiếu sáu vạn giáo viên tiểu học, nên bên cạnh hệ đào tạo chính quy dài hạn, ngành Giáo dục đã tổ chức đào tạo giáo viên theo hình thức vừa học vừa làm để đáp ứng yêu cầu trước mắt, và sẽ tiêu chuẩn hóa dần trong một số năm. Vì vậy, trong bố trí cơ cấu chi, nhất thiết phải có một khoản chi thỏa đáng cho việc bồi dưỡng giáo viên hằng năm, giải quyết chính sách cho giáo viên dạy hai lớp, dạy nhiều trình độ trong một lớp; hợp đồng với những giáo viên đã về hưu; phụ cấp cho giáo viên vùng cao, vùng sâu...
Sự nghiệp phổ cập giáo dục tiểu học không những chỉ phụ thuộc vào khả năng đầu tư của của Nhà nước và xã hội, mà còn phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm của từng gia đình, sự phấn đấu của từng học sinh, và kể cả tác động của dư luận xã hội. Ủy ban chúng tôi cho rằng, công tác chỉ đạo thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học cần được Chính phủ chỉ đạo tập trung sao cho mỗi cấp ủy Đảng, mỗi cấp chính quyền, từng người dân đều nhận thức được việc góp phần tạo điều kiện cho mỗi trẻ em học xong tiểu học là việc làm trọng đại, rất đáng góp sức để thực hiện. Làm được như vậy chắc chắn mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học sẽ được thực hiện vào năm 2000.
Đối với những lĩnh vực cụ thể, thì việc điều hành ngân sách cũng cần ưu tiên cho những việc có tác dụng trực tiếp ngay đến chất lượng dạy và học. Việc viết lại giáo trình, giáo khoa ở hệ thống Đại học, Cao đẳng là một trong những loại việc đó, bởi lẽ, hàng loạt giáo trình, giáo khoa viết đã từ lâu, đến nay cần sửa chữa bổ sung, cập nhật kiến thức mới. Giáo trình, giáo khoa là phương tiện học tập, là cầu nối giữa quá trình dạy và học, giữ một vai trò quan trọng trong việc biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, là sự nối liền tri thức giữa thế hệ trước và thế hệ sau. Hiện nay, ở các trường Đại học đang có hàng trăm giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ đã công tác 30-40 năm trong ngành, có kinh nghiệm sư phạm, có kiến thức cơ bản vững chắc, nhưng lại ở độ tuổi 55-60 hoặc trên 60 thì việc hằng năm, dành một khoản ngân sách (mỗi năm khoảng 10 tỷ), đầu tư trực tiếp dưới dạng đặt hàng, mua bản thảo để mỗi người viết một giáo trình mà mình có thế mạnh nhất, thì từ nay đến năm 2000, sẽ có một loạt giáo trình mới có chất lượng cao hơn cho việc học tập của sinh viên, cho việc bồi dưỡng cán bộ. Đây cũng là biện pháp sử dụng có hiệu quả lao động chất xám của đội ngũ trí thức. Việc này cần phải làm ngay, nếu không sẽ quá chậm, dẫn đến lãng phí chất xám không thể sửa chữa được.
Việc hiện đại hóa trang thiết bị, phòng thí nghiệm cũng là loại việc cần quan tâm để thực hiện tốt hơn nguyên lý học đi đôi với hành, nâng cao tay nghề của sinh viên. Việc này cần một khoản tiền không nhỏ. Chúng tôi đề nghị Bộ Giáo dục - Đào tạo chỉ đạo các trường xây dựng một danh mục ưu tiên, và có thể chọn một số danh mục để hiện đại hóa, trước tiên ở những trường có điều kiện sử dụng có hiệu quả nhất, còn các trường khác có thể đến đây cùng sử dụng. Chúng ta thực hiện dần từng năm để cơ bản có thể hoàn thành vào năm 2000, tạo cho trường đại học thoát khỏi tình trạng quá lạc hậu về trang thiết bị so với các doanh nghiệp ngay ở trong nước.
Về sự phân công, phân cấp, quản lý, sử dụng ngân sách giáo dục, Ủy ban chúng tôi đề nghị Chính phủ cho thực hiện thống nhất trong cả nước Chỉ thị 287-CT ngày 08-4-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) và Thông tư liên bộ số 35-TTLB ngày 21-4-1994 của Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Tài chính về hướng dẫn quản lý ngân sách giáo dục và đào tạo, khắc phục tình trạng đang tồn tại nhiều cách quản lý ngân sách giáo dục ở các địa phương như hiện nay.
Việc cân đối ngân sách thu chi tại địa phương, chúng tôi đề nghị ngành Tài chính cần tính toán cho sát với khả năng thu chi của từng tỉnh vì thu không đủ thì thường giáo dục là ngành phải rút chi lớn nhất. Theo số liệu của Bộ Giáo dục - Đào tạo, trong 28 tỉnh được xem xét giữa kế hoạch Trung ương giao và kế hoạch địa phương bố trí lại cho giáo dục - đào tạo, thì có ba tỉnh bố trí tăng, đó là Thành phố Hồ Chí Minh trên 15 tỷ, Sông Bé trên hai tỷ, Vĩnh Long trên 300 triệu; 15 tỉnh bố trí giảm với tổng số trên 81 tỷ; có những tỉnh bố trí giảm trên dưới 10% ngân sách Trung ương giao (hàng chục tỷ đồng). Điều đó đã giải thích tại sao những năm qua, ngân sách Trung ương bố trí trên kế hoạch cho giáo dục ngày càng tăng, nhưng những điều kiện dạy và học như sách giáo khoa, sách tham khảo, trang thiết bị, đồ dùng dạy học, phòng thí nghiệm, công tác bồi dưỡng giáo viên phổ thông không thực hiện được bao nhiêu, và lớp học ca ba ngày một tăng. Tình trạng chỉ dạy lý thuyết, không thực hành, và phòng thí nghiệm không hoạt động đã trở thành phổ biến trong ngành học phổ thông. Ủy ban chúng tôi đề nghị, Bộ Tài chính cần chỉ đạo Sở Tài chính và làm việc với Ủy ban nhân dân các tỉnh, trên tinh thần thu đủ thì chi đủ cho ngành Giáo dục - Đào tạo ở địa phương theo chỉ tiêu ngân sách Trung ương giao. Và chúng tôi cũng đề nghị Chính phủ coi kế hoạch ngân sách cho giáo dục - đào tạo năm 1996 là mức tối thiểu, nếu có sự thiếu hụt trong phần thu, thì có thể sử dụng một phần ngân sách dự phòng trong kế hoạch, để bảo đảm cho giáo dục, đào tạo có điều kiện tồn tại và phát triển trong tình hình số lượng học sinh phổ thông đang tăng và giá cả biến động.
2. Về việc thu học phí ở trường phổ thông:
Học phí là nguồn thu nhằm bổ sung nguồn tài chính cho giáo dục - đào tạo, được sử dụng để tăng cường cơ sở vật chất cho nhà trường và hỗ trợ đời sống giáo viên. Nhưng mức hỗ trợ cho giáo viên hiện nay cũng không được bao nhiêu và đầu tư tăng cường cơ sở vật chất cũng rất hạn chế. Vì vậy, ở nhiều trường đã đặt ra nhiều khoản thu, nhất là ở các thành phố, đã vượt xa nhiều lần mức học phí quy định, và việc học thêm tràn lan kể cả cấp tiểu học đã dẫn đến cường độ học tập của học sinh quá căng thẳng, không chỉ trong năm học mà cả thời gian nghỉ hè. Một trong những nguyên nhân sâu xa, chính là mức lương của giáo viên phổ thông không đủ trang trải cho cuộc sống.
Để giải quyết tình hình trên đây, nhiều phụ huynh cho rằng, trên thực tế cần có một khoản thu nhập bổ sung để giải quyết đời sống giáo viên, vì thế nên giao cho chính quyền, tùy theo mức sống ở từng nơi, khả năng đóng góp của của từng địa phương, và chất lượng của từng trường mà quy định công khai thống nhất vào một khoản để dễ quản lý, đó là học phí. Làm được như vậy, sẽ đưa việc huy động đóng góp của phụ huynh học sinh vào trật tự kỷ cương và quan trọng hơn là để cho việc học tập của học sinh bảo đảm được nguyên tắc sư phạm và tính khoa học.
3. Về phân ban ở bậc phổ thông trung học:
Trong kế hoạch giáo dục - đào tạo năm 1996 của Chính phủ, có ghi: “Tiếp tục thí điểm trung học chuyên ban”. Đây là một chủ trương lớn có ý nghĩa quan trọng điều chỉnh mục tiêu ở bậc học này. Trên thực tế, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã triển khai thí điểm từ năm học 1992-1993 ở hai trường phổ thông trung học; năm học 1993-1994 ở 15 trường tại bảy tỉnh. Và năm học 1994-1995 đã mở ra 106 trường trong phạm vi cả nước.
Như vậy, đến nay đã thí điểm thực hiện đầy đủ cả ba chương trình của ba năm học phổ thông trung học. Có hai vấn đề cần lưu ý: thứ nhất, số học sinh tự nguyện vào Ban B (Ban khoa học tự nhiên - kỹ thuật) không đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Thứ hai, là ý kiến của các nhà khoa học công tác lâu năm trong lĩnh vực giáo dục còn khác nhau: một loại ý kiến tán thành; một loại ý kiến không tán thành, do khác nhau về quan điểm cung cấp kiến thức phổ thông ở bậc học này; một loại ý kiến khác băn khoăn về điều kiện để thực hiện chuyên ban.
Ủy ban chúng tôi đề nghị, cần xác định rõ thời gian thí điểm. Sau khi kết thúc, cần tổng kết một cách khoa học, nghiêm túc, cân nhắc kỹ càng và được cấp có thẩm quyền quyết định mới triển khai đại trà. Hiện nay, chỉ nên giữ thí điểm ở 106 trường, không mở rộng thêm, vì đó là con số đã đủ để nghiên cứu và cần thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự nguyện của học sinh trong việc lựa chọn các ban.
4. Về việc đào tạo nghề cho thanh, thiếu niên:
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành Giáo dục - Đào tạo là đào tạo nhân lực. Tham khảo cơ cấu lao động của một số nước công nghiệp hóa thì khoảng 35% lao động chưa lành nghề, 35% lành nghề, 24,5% kỹ thuật viên, 5% kỹ sư, 0,5% chuyên gia cao cấp. Ở nước ta hiện nay, 87% người lao động không được đào tạo nghề, 8% công nhân lành nghề, 2% kỹ sư. Sự bất hợp lý trong cơ cấu lao động của nước ta do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ cơ cấu chưa hợp lý giữa phát triển giáo dục phổ thông và giáo dục dạy nghề. Hiện nay, ở nước ta chỉ có 3,7 triệu/ 6,7 triệu số học sinh tốt nghiệp Tiểu học vào Trung học phổ thông cơ sở, chiếm 58%. Trong đó, 4,5 triệu thanh, thiếu niên ở lứa tuổi 15-17 chỉ có 86 vạn em học phổ thông Trung học. Như vậy, chúng ta còn khoảng trên sáu triệu học sinh học xong Tiểu học và phổ thông Cơ sở, khoảng 60 vạn học sinh học xong phổ thông Trung học không vào Đại học, đang đòi hỏi có những hình thức học nghề phù hợp, trong khi đó, hệ thống dạy nghề hiện nay chỉ mới tiếp nhận được khoảng 23 vạn. Vì vậy, Ủy ban chúng tôi đề nghị trong kế hoạch 5 năm 1996-2000, cần có sự điều chỉnh cơ cấu ngành học, tập trung phát triển trường dạy nghề. Về quy mô trường dạy nghề, về lâu dài không kém ngành học phổ thông để góp phần điều chỉnh cơ cấu lao động phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
5. Về sử dụng đội ngũ cán bộ giảng dạy trong các trường Đại học:
Ở các trường Đại học, việc xây dựng đội ngũ trí thức đang gặp không ít khó khăn, số có trình độ cao thì lớn tuổi, số đang sung sức thì lao vào dạy hết nơi này nơi khác để giải quyết đời sống, không có thời gian để tự bồi dưỡng thông qua nghiên cứu khoa học, viết giáo trình, giáo khoa, sinh viên giỏi tốt nghiệp ra trường không ở lại trường, vì lương của một cán bộ giáo viên vừa tốt nghiệp Đại học kể cả sau đại học ở lại trường chỉ khoảng 250.000 đồng đến 300.000 đồng, nên cũng phải đi làm thêm, không thể tập trung sức cho nghiên cứu, học tập vươn lên trình độ cao.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên ở bậc Đại học, thì việc sử dụng đội ngũ này, sau giai đoạn đào tạo có một vai trò rất quan trọng. Sự trưởng thành của họ được sàng lọc qua công việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học, qua việc tham gia nghiên cứu để giải quyết các vấn đề đang đặt ra trong sản xuất, trong đời sống xã hội. Điều đó có nghĩa là, người cán bộ giảng dạy đại học phải tự đào tạo bồi dưỡng mình là chính; kiến thức thu được ở nhà trường, dù ở cấp nào, cũng còn hạn hẹp và có mức độ.
Ở đại học với hai nhiệm vụ đã được xác định: dạy học và nghiên cứu khoa học. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học ở các trường đại học để phát triển khoa học, có tác dụng trực tiếp đến nâng cao chất lượng giảng dạy, cũng chính là đầu tư cho việc xây dựng phát triển đội ngũ trí thức, và đời sống của họ cũng được giải quyết bằng sự tăng thu nhập qua nghiên cứu khoa học. Vì thế, Ủy ban chúng tôi rất đồng tình với Quyết định 324/QĐ ngày 11-9-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) nhằm phân công hợp lý nhiệm vụ nghiên cứu khoa học giữa các trường Đại học và viện nghiên cứu. Đó cũng chính là biện pháp tổ chức để gắn giáo dục với khoa học, sử dụng hợp lý lực lượng cán bộ khoa học. Điều đáng tiếc, việc triển khai quá chậm, chưa thực hiện được bao nhiêu, trong thời gian tới đề nghị Chính phủ quan tâm chỉ đạo dứt điểm.
Xuất phát từ mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo dục, khoa học - công nghệ và sản xuất là một yêu cầu khách quan, chúng tôi đề nghị Chính phủ một mặt tăng chi ngân sách cho nghiên cứu khoa học của các trường Đại học; mặt khác, có những cơ chế, chính sách khuyến khích các tổng công ty mạnh có sự liên kết chặt chẽ với các trường Đại học trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong tiếp thu chuyển giao công nghệ và hỗ trợ hiện đại hóa trang thiết bị cho nhà trường. Điều đó sẽ có lợi chẳng những cho các trường đại học mà cả đối với các công ty. Chúng tôi cũng đề nghị Chính phủ cho thành lập các đơn vị nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ, tư vấn trực thuộc nhà trường, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán tự cân đối thu chi để huy động lực lượng thày và trò tham gia trực tiếp vào sản xuất, tạo thêm nguồn thu cho nhà trường và cũng là giải pháp góp phần thực hiện tốt hơn nguyên lý giáo dục, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với xã hội, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất.
II- MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THI HÀNH LUẬT BÁO CHÍ,
LUẬT XUẤT BẢN
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1995 tại kỳ họp thứ 6 và kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa IX; Ủy ban chúng tôi đã tiến hành hai đợt giám sát thi hành Luật báo chí, Luật xuất bản tại 12 tỉnh, thành phố, một số tờ báo và Nhà xuất bản của các đoàn thể và các cơ quan Trung ương (bao gồm 32 tờ báo, 11 đài phát thanh, truyền hình, 18 nhà xuất bản), đã nghe báo cáo của lãnh đạo Bộ Văn hóa - Thông tin, Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam và lãnh đạo Đài tiếng nói Việt Nam. Ủy ban chúng tôi có một số ý kiến sau:
Hoạt động báo chí, xuất bản trong những năm thực hiện quá trình đổi mới và nhất là sau 5 năm triển khai và thi hành Luật báo chí, hai năm thực hiện Luật xuất bản đã có những chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả bước đầu.
1. Về báo chí (bao gồm báo in, báo nói, báo hình): trong quá trình chuyển biến của đất nước đã có những đóng góp vào công cuộc đổi mới, thể hiện rõ nhất là khối lượng thông tin và đổi mới trong việc cung cấp thông tin, đưa nhanh, đưa kịp thời đến với nhân dân; góp phần vào việc tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, và pháp luật của Nhà nước. Báo chí đã phát hiện và giới thiệu nhiều gương tốt, những điển hình mới, cổ vũ cho sự phát triển đi lên của đất nước; đưa ra công luận và phê phán những hiện tượng tiêu cực trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội và những hành vi làm trái pháp luật. Báo chí đã là công cụ quan trọng, sắc bén của Đảng và Nhà nước trên các mặt trận tư tưởng, văn hóa, kinh tế, xã hội... Đồng thời, báo chí cũng đang từng bước là diễn đàn của nhân dân, không chỉ đưa thông tin từ trên xuống dưới mà đồng thời phản ánh nguyện vọng của quần chúng tới Đảng và Nhà nước, tạo ra sự sôi động, đa dạng, phong phú về thông tin trong xã hội. Chính vì vậy, báo chí đã góp phần vào việc giữ vững sự ổn định về chính trị, về kỷ cương, phép nước, mở rộng quan hệ đối ngoại, chống âm mưu diễn biến hòa bình.
Tuy nhiên, về hoạt động của báo chí có một số vấn đề cần được quan tâm. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có những tác động phức tạp, thì việc thực hiện nghiêm túc Điều 1, Điều 6 của Luật báo chí là rất quan trọng nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng báo chí là công cụ của Đảng và Nhà nước, là diễn đàn của nhân dân, đồng thời bảo đảm cho báo chí hoạt động theo đúng tôn chỉ, mục đích, nâng cao chất lượng và hiệu quả, không chạy theo kinh doanh đơn thuần.
Sau khi sắp xếp lại, hiện cả nước có 430 tờ báo, tăng 87 tờ và hầu như báo nào cũng ra thêm số phụ. Báo Trung ương thường cân bằng được thu chi, một số ít có lãi. Báo địa phương đại bộ phận phải bù lỗ. Những báo cân bằng được thu chi, có lãi do số lượng phát hành cao, do nguồn thu từ các số báo phụ, do quảng cáo, một số ít do nguồn thu từ nhà in của báo.
Theo chúng tôi, cần tiếp tục sắp xếp hệ thống báo chí theo hướng coi trọng chất lượng. Để ra một tờ báo phải xuất phát từ nhu cầu, xác định rõ tôn chỉ mục đích, có đội ngũ bảo đảm và khả năng hoạt động, không nhất thiết tỉnh nào cũng phải ra nhiều loại báo, ngành nào cũng phải có báo. Nếu thực sự cần thiết thì cho ra dưới hình thức bản tin nội bộ. Hiện nay, chỉ có một số báo khai thác được thông tin thế giới trực tiếp qua vệ tinh, nối mạng internet, còn lại là trao đổi tin cho nhau nên dẫn đến tình trạng đưa tin trùng lặp. Đó là chưa kể có báo không bán được chỉ để biếu, để trao đổi, nhưng rồi lại phải tài trợ, phải bù lỗ.
Có hiện tượng ở một số báo, do không điều tra, kiểm tra và thiếu thận trọng nên đã đưa thông tin không chính xác, sai lệch, không đúng bản chất sự việc, khi xác minh và có ý kiến trở lại vẫn không cải chính như Điều 9 của Luật đã quy định. Một vài trường hợp khi cải chính, lại dùng hình thức “nói lại cho rõ”. Đây là một biểu hiện không dân chủ, cửa quyền của báo chí. Nhưng mặt khác, cũng không ít, những vụ việc báo chí đưa tin chính xác, yêu cầu cá nhân và tổ chức có trách nhiệm trả lời trên báo, thì cũng rơi vào im lặng.
Về xây dựng đội ngũ những người làm báo. Hiện nay, cả nước có hơn 7.200 người làm báo, gần 7.000 người được cấp thẻ nhà báo. Nhìn chung, phần nhiều phóng viên, biên tập viên có trình độ đại học, nhưng số người đào tạo chuyên ngành báo chí tỷ lệ thấp. Việc cập nhật kiến thức rộng, bồi dưỡng về chính trị, nghiệp vụ cho phóng viên, biên tập viên chưa làm được thường xuyên. Những cây bút sắc sảo như trước đây đã từng có, bây giờ không nhiều. Số cán bộ lãnh đạo quản lý, nhất là cán bộ báo chí thông tin đối ngoại thiếu và yếu. Điều quan trọng, thiết yếu là phải lựa chọn, bố trí Tổng biên tập có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, nắm vững quan điểm đường lối của Đảng, phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, và có bản lĩnh để chủ trì tờ báo theo đúng định hướng. Về đào tạo những người làm báo hiện nay đang được thực hiện ở Trường đại học Tuyên giáo, khoa báo chí trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Ở Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh cũng có Khoa báo chí. Trách nhiệm của Bộ Văn hóa - Thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc giao cho những đơn vị nào đào tạo lực lượng làm báo, bố trí đội ngũ cán bộ giảng dạy, xây dựng chương trình, giáo trình, tài liệu phải được định hướng và bảo đảm chất lượng cần được Chính phủ quy định cụ thể.
2. Về xuất bản: Trước đây cả nước có 54 nhà xuất bản, sau khi sắp xếp lại, còn 38 nhà xuất bản, trong đó có 12 nhà xuất bản địa phương. So với việc thi hành Luật báo chí, việc triển khai thực hiện Luật xuất bản có kinh nghiệm hơn, các văn bản dưới luật được ban hành nhanh hơn. Hoạt động xuất bản (bao gồm cả xuất bản, in và phát hành) đã có bước phát triển mới cả về số lượng và chất lượng, cả nội dung và hình thức. Trật tự, kỷ cương đang từng bước lập lại; thị trường sách lành mạnh hơn. Nhu cầu sách về khoa học - kỹ thuật, về ngoại ngữ, về luật và những sách có giá trị văn hóa cao đang là đòi hỏi của bạn đọc, đó là điều đáng mừng. Hoạt động xuất bản đã xuất phát từ quan điểm có nhiều sách tốt, sách hay đến với bạn đọc để góp phần nâng cao dân trí và giao lưu văn hóa. Tuy nhiên, hoạt động xuất bản, in, phát hành và việc thi hành Luật xuất bản có một số vấn đề cần được quan tâm.
Về mô hình hoạt động, hiện nay, nhà xuất bản hoạt động theo hai hình thức: phần lớn là doanh nghiệp, một số là sự nghiệp có thu. Xu hướng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, đã được chấn chỉnh nhưng vẫn còn biểu hiện ở một số nơi.
Một điều đáng quan tâm là sách liên kết khá cao. Ở các nhà xuất bản Trung ương, sách liên kết chiếm tỷ lệ từ 20%-30%, các nhà xuất bản địa phương tỷ lệ cao hơn từ 50%-60%. Đối tượng liên kết hiện nay là: tác giả, cơ quan phát hành và tư nhân làm sách. Liên doanh, liên kết nhằm huy động tiềm lực của xã hội về bản thảo và về vốn. Song, điều thiết yếu là, nhà xuất bản phải bảo đảm được cả ba khâu: bản thảo, số lượng in và giá phát hành như luật định. Điều đáng lưu ý là nhà xuất bản chỉ mới làm được một số khâu trong sách liên kết: cấp giấy phép xuất bản, ký hợp đồng in rồi giao cho bên liên kết thực hiện, cho nên không kiểm soát được số lượng in và khi tiêu thụ không kiểm soát được giá. Những sách bán chạy thường được in nhiều hơn số lượng quy định và giá bán cũng tùy tiện cao hơn, vẫn còn hiện tượng không in giá bán ở bìa và bán không theo giá quy định. Như vậy phía đối tượng liên kết vừa trốn thuế, vừa không bảo đảm quyền lợi của người đọc vì phải mua giá cao và cả quyền lợi thù lao của tác giả cũng bị thiệt thòi.
Hiện nay, việc quản lý khâu in không dễ dàng. Với phương tiện in hiện đại, việc in lậu, in tác phẩm xấu, bói toán mê tín, v.v. là hiện tượng đáng lưu ý cần ngăn chặn. Do đó, nhất thiết phải quản lý chặt chẽ khâu in.
Về hệ thống phát hành, đã có cố gắng trong việc sắp xếp tổ chức và làm ăn có lãi. Song, Công ty phát hành sách cũng gặp khó khăn về vốn, vì vậy, đối với một số sách bán chạy, tư nhân, đại lý hùn vốn lại để mua phần lớn, sau đó, bán lại cho công ty phát hành địa phương với giá thỏa thuận. Do đó, có công ty phát hành sách cấp tỉnh chỉ nhận được sách từ Tổng công ty phát hành sách Trung ương 20%, còn lại 80% lấy từ các đại lý tư nhân, và phải trả lãi ngân hàng tới 50% tiền lãi mà công ty đó làm ra.
3. Từ những thực tế nêu trên, để sự nghiệp báo chí, xuất bản phát triển đúng hướng với chất lượng và hiệu quả cao, đồng thời hoạt động đúng pháp luật, Chính phủ cần nhanh chóng ban hành kịp thời và đồng bộ những văn bản dưới luật nhằm đưa hoạt động và quản lý báo chí, xuất bản vào hành lang pháp luật. Củng cố các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản; phát huy vai trò của Ủy ban nhân dân trong quản lý hoạt động báo chí, xuất bản trên địa bàn, thành lập hệ thống thanh tra chuyên ngành xuất bản như luật định.
Hiện tại, các cơ quan quản lý nhà nước hầu như không thực hiện được, và không thực hiện đúng việc đọc lưu chiểu vì thiếu cán bộ. Để giải quyết vấn đề này cần một biên chế gọn nhẹ, kết hợp với cộng tác viên. Cho nên, cần có một khoản chi nhất định. Việc đọc lưu chiểu nhất thiết phải được chấn chỉnh.
Cần có chính sách hỗ trợ vốn cho nhà xuất bản, Công ty phát hành sách, đồng thời, tăng cường công tác quản lý để công ty phát hành sách nhà nước làm chủ được thị trường sách ở Trung ương cũng như địa phương.
Về chính sách thuế đối với báo chí, xuất bản cũng chỉ mới đặt ra, cần nghiên cứu thêm. Trước mắt, nên thực hiện phương thức ghi thu, ghi chi đầu tư trở lại để nhà xuất bản và các cơ quan báo chí xây dựng và tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện hành nghề cho phóng viên.
Thưa Quốc hội,
Trên đây là một số vấn đề cần quan tâm về giáo dục - đào tạo, về báo chí, xuất bản, Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng trình bày trước Quốc hội.
Xin cảm ơn Quốc hội.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội