BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ
VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
(Do Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Khánh
trình bày tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa IX,
ngày 12-10-1995)
Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Tôi xin thay mặt Chính phủ báo cáo về kết quả cải cách một bước nền hành chính nhà nước trong thời gian vừa qua và chủ trương, biện pháp cải cách hành chính trong thời gian tới.
I- KẾT QUẢ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
TRONG THỜI GIAN VỪA QUA
Cải hành chính là một chủ trương được đề ra trong văn kiện Đại hội lần thứ 7 của Đảng. Trong những năm 1992, 1993, 1994, Chính phủ đã tổ chức nghiên cứu, xây dựng chương trình và chỉ đạo một số việc về cải cách hành chính như đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy quản lý, xây dựng quy chế công chức, tiến hành sửa đổi một số thủ tục hành chính, v.v..
Năm 1995, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII có Nghị quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nhà nước. Chính phủ đã có chương trình thực hiện Nghị quyết đó; Chương trình tập trung vào ba việc lớn:
- Cải cách thể chế hành chính.
- Điều chỉnh tổ chức và các mối quan hệ trong bộ máy hành chính.
- Xây dựng đội ngũ công chức.
VỀ CẢI CÁCH THỂ CHẾ HÀNH CHÍNH
Thể chế hành chính Nhà nước là hệ thống các văn bản pháp quy tạo khuôn khổ pháp luật cho các cơ quan hành chính thực hiện chức năng quản lý, điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thể chế là hình thức pháp lý để đưa đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống, để mọi tổ chức, cá nhân sống và làm việc theo pháp luật.
Việc cải cách thể chế nhằm hai yêu cầu cơ bản:
Một là, xây dựng thể chế của nền hành chính dân chủ thực hiện quyền lực của dân, phát huy trí tuệ của dân, phục vụ lợi ích và đáp ứng nguyện vọng của dân, đồng thời, thiết lập và bảo đảm trật tự, kỷ cương theo pháp luật trong đời sống xã hội.
Hai là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thúc đẩy sự hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả các yếu tố của thị trường, tạo sự thích ứng về thể chế kinh tế - xã hội của nước ta với luật pháp và tập quán quốc tế.
Thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo việc cải cách thể chế hành chính tập trung vào những vấn đề lớn dưới đây:
1. Đặt nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính là khâu đột phá trước mắt của cải cách hành chính, để khắc phục những khuyết điểm, những yếu kém trong công việc hành chính hằng ngày đụng chạm trực tiếp đến đời sống và hoạt động sản xuất - kinh doanh của nhân dân và các doanh nghiệp, đồng thời, thông qua rà soát thủ tục hành chính mà phát hiện những chỗ cần bổ sung, đổi mới trong chính sách, pháp luật, tổ chức bộ máy, quy chế làm việc và hoạt động của các cơ quan hành chính.
Trong năm 1995, Chính phủ đã ban hành thủ tục hành chính mới trong năm lĩnh vực trọng điểm là đầu tư của các nước ngoài; xuất nhập cảnh; cấp phép xây dựng và quyền sử dụng đất xây dựng; cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, Chính phủ đang chuẩn bị ban hành thủ tục mới trong hai lĩnh vực trọng điểm khác là xuất, nhập khẩu; thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh. Chế độ thu lệ phí cũng được chỉnh đốn cùng với việc sửa đổi thủ tục.
Trong rất nhiều thủ tục hành chính hiện nay, việc lựa chọn bảy trọng điểm vừa nêu đã tỏ ra là đúng đắn. Sau khi xem xét kỹ các thủ tục hiện hành, Chính phủ và các Bộ có liên quan đã bãi bỏ nhiều thủ tục rườm rà, chồng chéo, gây phiền hà, bớt đi nhiều khâu xét duyệt không hợp lý, không đúng thẩm quyền và không cần thiết. Có những trường hợp, thủ tục mới đã giảm được một nửa số giấy tờ so với thủ tục trước đây[1]. Tiếp theo các cơ quan cấp Trung ương, một số cơ quan hành chính địa phương và cơ sở đã chủ động sửa đổi, đơn giản hóa hoặc hủy bỏ những thủ tục rắc rối do mình tự đặt ra. Những cố gắng bước đầu đó của các cấp hành chính đã được nhân dân và các doanh nghiệp trong nước, ngoài nước hoan nghênh.
Tuy nhiên, việc thi hành các thủ tục hành chính mới còn chậm và chưa nghiêm chỉnh. Việc công bố, hướng dẫn để dân biết, thực hiện thủ tục mới và chưa giám sát việc chấp hành của công chức nhà nước chưa được chỉ đạo tốt. Người dân có việc đến cơ quan nhà nước vẫn còn phải chờ đợi, chầu chực, nhiều khi phải cầu cạnh, còn nhiều cán bộ, nhân viên nhà nước giải quyết công việc của dân kém nhiệt tình, chưa với ý thức trách nhiệm phục vụ dân. Tệ cửa quyền, sách nhiễu, gây phiền hà chưa giảm được là bao.
Thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp sẽ tiếp tục kiểm tra nghiêm khắc việc thi hành các thủ tục hành chính mới đã ban hành, đồng thời, tiếp tục sửa đổi các thủ tục hành chính trong những lĩnh vực quan hệ nhiều đến đời sống của nhân dân và hoạt động của các tổ chức cơ sở.
Việc sửa đổi các thủ tục hành chính, tuy mới tập trung vào mấy khâu trọng điểm, đã làm bộc lộ rõ hơn những yếu kém của công tác quản lý hành chính ở các cấp, cho thấy rõ hơn phương hướng và cách thức khắc phục những yếu kém ấy, cũng cho thấy rằng, cải cách thủ tục hành chính gắn rất chặt với cải cách kinh tế, với toàn bộ các mặt về thể chế, về cơ chế, về tổ chức bộ máy và về đội ngũ cán bộ của Nhà nước nói chung... Đó chính là ý nghĩa và tác dụng của khâu đột phá.
2. Giải quyết các khiếu kiện của dân, xúc tiến việc thiết lập Tòa án hành chính.
Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị 64 ngày 25 tháng 01 năm 1995 quy định cụ thể trách nhiệm, thẩm quyền và thủ tục của các cấp hành chính trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, Chính phủ đang chuẩn bị ban hành quy chế tiếp công dân, quy chế “hòm thư dân nguyện” và chế độ thông tin đối với nhân dân.
Tuy nhiên, đơn thư khiếu kiện của dân đến nay vẫn tồn đọng nhiều, nhất là khiếu kiện về nhà, chủ yếu là do chưa có cơ quan đủ thẩm quyền và chưa có phương thức hoạt động phù hợp để giải quyết các trường hợp tranh chấp phức tạp. Tình hình đòi hỏi bức bách phải có tòa án hành chính để xử lý các khiếu kiện của dân đối với các quyết định của cơ quan hành chính. Quốc hội đã quyết định thành lập Tòa án hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân. Hiện nay, Chính phủ đang cùng Tòa án nhân dân tối cao khẩn trương đào tạo thẩm phán hành chính, xúc tiến công tác chuẩn bị, giải quyết các vấn đề về tổ chức, chỉ đạo. Dự kiến phải sang năm 1996, mới thiết lập xong hệ thống Tòa án hành chính và phải có thời gian mới đưa được hệ thống này vào hoạt động có hiệu quả.
3. Góp phần đổi mới quy trình lập pháp và tiến hành đổi mới quy trình lập quy, tiếp tục hoàn chỉnh thể chế kinh tế mới.
Chín tháng vừa qua, Nhà nước ta đã rất coi trọng công tác xây dựng pháp luật. Nhiều luật và pháp lệnh đã được Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành. Chính phủ đã chỉ đạo ráo riết việc chuẩn bị và ban hành các văn bản cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành luật và pháp lệnh; công việc này có tiến bộ hơn các năm trước.
Chính phủ đã xây dựng một số dự luật mới về kinh tế trình Quốc hội trong nhiệm kỳ này là Luật dân sự, Luật tố tụng dân sự, Luật ngân sách, Luật hợp tác xã, Luật xây dựng, sửa đổi, bổ sung các luật về thuế, về đầu tư nước ngoài, về công ty... Đối với một số vấn đề kinh tế xã hội phải sớm có các quy định mang tính thể chế mà chưa cần hoặc chưa có điều kiện xây dựng thành Luật, Pháp lệnh, thì Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp quy theo thẩm quyền, chủ yếu bằng hình thức Nghị định, để kịp thời hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động của các tổ chức và của công dân, như điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của Tổng công ty, điều lệ bảo hiểm xã hội, điều lệ tổ chức và hoạt động của kiểm toán Nhà nước, quy định về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ và giao thông đô thị...
Trong việc xây dựng thể chế mới; Chính phủ cố gắng bám sát tình hình thực tế ở các địa phương và cơ sở, kịp thời phát hiện những vấn đề do cuộc sống đặt ra và chỉ đạo nghiên cứu một cách nghiêm túc, tổ chức làm thí điểm trong trường hợp cần thiết, để làm cơ sở cho việc ban hành văn bản pháp quy về các vấn đề ấy. Ví dụ, vấn đề đất đai ở đô thị, xu thế tích tụ ruộng đất ở nông thôn, quyền khai thác và sử dụng đất trồng cây lâu năm, xử lý những tranh chấp về nhà đất, những vấn đề mới trong việc hình thành đồng bộ cơ chế thị trường, ngăn ngừa và xóa bỏ các thị trường ngầm, v.v..
Tuy đã có một số cố gắng và tiến bộ, song việc xây dựng thể chế chưa theo kịp tiến trình đổi mới, nhiều vấn đề nóng bỏng cần có sự điều chỉnh của pháp luật chưa được thể chế hóa.
Để khắc phục tình trạng bất cập về xây dựng thể chế, chúng tôi thấy rằng, cần phải gấp rút nâng cao trình độ kiến thức về pháp luật của bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi, tổ chức tốt sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng như giữa các cơ quan hành chính ở Trung ương và các địa phương.
4. Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, lập lại trật tự, kỷ cương nhà nước.
Việc làm nổi bật trong thời gian qua là giải quyết mấy vấn đề nóng bỏng và khó khăn, như cấm sản xuất, lưu thông và đốt pháo nổ; xử lý việc xây dựng nhà vi phạm Pháp lệnh bảo vệ đê điều; xử lý các vi phạm luật đất đai ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; khôi phục trật tự, an toàn giao thông đô thị và giao thông đường bộ. Những chủ trương đúng đắn, sát với tình hình thực tế, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, đi đôi với sự chỉ đạo tập trung, kiên quyết, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, các tổ chức của Đảng, các đoàn thể nhân dân và chính quyền các cấp, đã tạo được sức mạnh tổng hợp cho việc lập lại trật tự, kỷ cương, xử lý các vi phạm. Những kết quả đạt được đã góp phần khôi phục lòng tin của nhân dân vào hiệu lực của chính quyền, tạo điều kiện đẩy tới việc thiết lập trật tự kỷ cương nhà nước trong các lĩnh vực khác.
Qua việc xử lý mấy vấn đề gai góc nói trên, mọi người đều thấy rõ hậu quả nguy hại của tình trạng buông lỏng trật tự, kỷ cương kéo dài trong nhiều lĩnh vực: Luật pháp không được chấp hành nghiêm túc, những hành vi phạm pháp không được phát hiện, phê phán và xử lý nghiêm minh, thói quen lẩn tránh và coi thường luật pháp không chỉ trong một số công dân mà cả trong không ít cơ quan, cán bộ, công chức của Nhà nước.
Ở đây, thấy rõ những khuyết điểm trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật, trong công tác thanh tra thi hành pháp luật. Và điều rất không bình thường, rất đáng lo ngại, là nhiều khi những hành vi tiêu cực, trái với pháp luật, trái với đạo đức lại có sự dính líu, bao che hoặc tiếp tay của cán bộ, công chức nhà nước, những người có chức, có quyền. Nhiều cơ quan hành chính chưa coi giữ gìn trật tự, kỷ cương theo pháp luật là nhiệm vụ hàng đầu, không kịp thời và kiên quyết ngăn chặn các hiện tượng vi phạm ngay khi mới phát sinh, thậm chí còn vì lợi ích cá nhân hoặc lợi ích cục bộ mà làm ngơ hoặc dung túng; để đến khi tình hình tới mức nghiêm trọng mới xử lý và phải trả giá rất đắt cả về công sức và sự thiệt hại. Ở những nơi ấy, chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức, của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, các nguyên tắc kỷ luật của Đảng và Nhà nước đã không được thực hiện.
Kết quả bước đầu lập lại trật tự, kỷ cương trong một số lĩnh vực dưới sự chỉ đạo tập trung, kiên quyết của Đảng và Chính phủ cũng đã cho những kinh nghiệm quý báu về tổ chức và quản lý có liên quan chặt chẽ với cải cách hành chính, với nhiệm vụ chấn chỉnh bộ máy quản lý hành chính. Tuy nhiên, từ những việc làm mang tính chất “chiến dịch” để lập lại trật tự trong một vài lĩnh vực, phải đi tới xây dựng nền nếp tôn trọng, giữ gìn trật tự, kỷ cương theo pháp luật một cách thường xuyên, bền vững trong cơ quan nhà nước và trong toàn xã hội.
ĐIỀU CHỈNH TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ
TRONG HỆ THỐNG HÀNH CHÍNH
Việc chấn chỉnh tổ chức bộ máy đi liền với đổi mới quy chế hoạt động của hệ thống hành chính, dựa trên nhận thức đúng về vai trò, chức năng của Nhà nước, của cơ quan hành chính khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, về nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước.
1. Cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ được điều chỉnh từng bước theo hướng giảm số cơ quan quản lý chuyên ngành, tiến tới xóa bỏ cơ chế “chủ quản” của cơ quan hành chính đối với các doanh nghiệp.
Tiền đề cho việc điều chỉnh này là sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, thành lập một số tổng công ty lớn ở một số ngành kinh tế - kỹ thuật và phân định rõ tính chất hoạt động của các loại doanh nghiệp (những doanh nghiệp hoạt động hoàn toàn theo cơ chế kinh doanh trên thị trường và những doanh nghiệp làm chức năng dịch vụ công ích). Trên cơ sở đó, quy định lại chức năng quản lý nhà nước của các Bộ và các Ủy ban nhân dân đối với các hoạt động kinh tế, đối với các doanh nghiệp.
Chính phủ đã sắp xếp lại một số cơ quan trực thuộc và xây dựng phương án điều chỉnh tổ chức một số Bộ, cơ quan ngang Bộ, trình Quốc hội xem xét, quyết định trong kỳ họp này. Cơ cấu tổ chức bộ máy của từng Bộ cũng đang được xem xét để điều chỉnh cho hợp lý hơn, xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng tổ chức, từng đơn vị.
Cùng với điều chỉnh tổ chức, Chính phủ nghiên cứu cải tiến chế độ làm việc để thực hiện đầy đủ trách nhiệm và thẩm quyền của Bộ trưởng, xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp giữa các Bộ trong việc giải quyết những vấn đề có tính liên ngành, khắc phục tình trạng đưa những công việc thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của Bộ lên Thủ tướng. Chính phủ cũng đang chỉ đạo nghiên cứu để quy định rõ hơn về mối quan hệ giữa các Bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước.
2. Mối quan hệ Trung ương - địa phương trong hệ thống hành chính nhà nước là vấn đề phức tạp đang còn những vướng mắc. Chính phủ đang chỉ đạo tiếp tục nghiên cứu những vấn đề đang còn ý kiến khác nhau.
Chính phủ đã trình Quốc hội Dự thảo Luật ngân sách sau hai năm xây dựng, trong đó có các quy định cụ thể về phân cấp quản lý ngân sách giữa Trung ương và địa phương. Chủ trương của Chính phủ là thực hiện cơ chế phân giao ngân sách ổn định và bổ sung có định mức, tạo điều kiện cho Ủy ban nhân dân địa phương thực hiện quyền chủ động về ngân sách, đề cao vai trò và trách nhiệm của Hội đồng nhân dân trong việc quyết định ngân sách.
Sự phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ tương đối cao của nước ta trong mấy năm qua đã thúc đẩy quá trình đô thị hóa, đặt ra những vấn đề mới về xây dựng, phát triển và quản lý các đô thị. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy định tạm thời về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Ủy ban nhân dân một số thành phố là đơn vị hành chính thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhưng có vị trí quan trọng và trình độ phát triển khá, được Thủ tướng Chính phủ giao cho một số thẩm quyền và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh ủy quyền giải quyết một số lĩnh vực thuộc quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh. Chính phủ đã tổ chức sơ kết việc này và sẽ ban hành quy chế chính thức về đô thị loại hai, đồng thời chỉ đạo nghiên cứu quy chế về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các thành phố và thị xã khác thuộc cấp tỉnh.
Chính phủ cũng đang chỉ đạo các cơ quan của Chính phủ cùng các Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố nghiên cứu về vị trí, chức năng, trách nhiệm và tổ chức của chính quyền cấp huyện, cấp quận và cấp phường cho phù hợp với tình hình mới.
Chính phủ đã chuẩn bị xong và sẽ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội trong quý IV năm 1995 dự thảo Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, xã, phường, thị trấn) và Pháp lệnh về thẩm quyền giám sát, hướng dẫn của Ủy ban thường vụ Quốc hội và thẩm quyền hướng dẫn, kiểm tra của Chính phủ với Hội đồng nhân dân.
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH
Thực tiễn quản lý, điều hành công việc của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước cho thấy phải gấp rút xây dựng một đội ngũ những người làm hành chính chuyên nghiệp, được tuyển chọn và đào tạo theo tiêu chuẩn chức danh, đủ phẩm chất và năng lực thực thi công vụ. Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước là khâu có ý nghĩa quyết định đối với thành công của cải cách hành chính.
Việc đào tạo công chức mới theo tiêu chuẩn chức danh phải đi đôi với việc bồi dưỡng, đào tạo lại những công chức hiện đang làm việc, mà những cán bộ này có những ưu điểm và nhược điểm gắn liền với sự phát triển của bộ máy nhà nước.
Mấy năm nay, việc xây dựng chức danh, tiêu chuẩn thuộc các ngành hành chính, sự nghiệp đã được xúc tiến, cùng với việc cải tiến chế độ tiền lương. Đến nay, hầu hết các ngành đã có tiêu chuẩn công chức, cơ cấu ngạch bậc trong ngành. Thủ tướng Chính phủ đã quyết định và bắt đầu triển khai kế hoạch đào tạo công chức hành chính ngạch chuyên viên chính, bồi dưõng cán bộ quản lý hành chính nhà nước ở các cấp về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước, về ngoại ngữ; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý hành chính ở Học viện Hành chính quốc gia và các trường chính trị, trường hành chính tỉnh, thành phố. Năm 1995, Học viện Hành chính quốc gia mở 80 lớp đào tạo và bồi dưỡng cho 8.200 cán bộ quản lý nhà nước và chuyên viên hành chính của các cơ quan Trung ương và địa phương.
Chính phủ cũng đang chỉ đạo thực hiện kế hoạch từng bước chính quy hóa các công sở, nâng cao kỷ luật và phong cách làm việc, ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý hành chính, tăng cường các phương tiện thông tin liên lạc cho các cơ quan để nâng cao hiệu suất công tác và hiệu lực quản lý.
Chính phủ đang xây dựng quy chế công chức, làm cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống ngạch, bậc, tiêu chuẩn các chức danh trong bộ máy hành chính để đưa việc tuyển dụng, đánh giá, đào tạo và bồi dưỡng công chức đi dần vào quy củ.
Để thực hiện quy chế công chức, cần phải soát xét đội ngũ công chức, đánh giá và sắp xếp lại theo tiêu chuẩn chức danh. Đây là công việc hết sức cần thiết để chỉnh đốn các cơ quan nhà nước, nhưng rất phức tạp và khó khăn, phải tiến hành chu đáo, thận trọng.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước trong sạch, có phẩm chất và có năng lực, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo ráo riết cuộc đấu tranh chống tệ tham nhũng và tệ lãng phí của công, chống bệnh quan liêu và tệ cửa quyền trong cơ quan hành chính ở các cấp; phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể nhân dân, huy động các cơ quan thông tin đại chúng tham gia cuộc đấu tranh này, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Như Chính phủ đã nhiều lần báo cáo với Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, mặc dù Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp tích cực chỉ đạo các Bộ, các cấp chính quyền địa phương đấu tranh phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, không dung thứ bất cứ hành vi tham nhũng nào, đồng thời sửa đổi các cơ chế, quy chế, khắc phục những sơ hở trong quản lý kinh tế, tài chính nhưng tình trạng tham nhũng và lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng. Tình hình đó đòi hỏi các cấp chính quyền phải nỗ lực cao hơn nữa, phải tiếp tục đấu tranh quyết liệt hơn nữa ở mọi ngành, mọi cấp, ở từng cơ quan, từng đơn vị cơ sở.
Qua chín tháng thực hiện cải cách một bước nền hành chính nhà nước, xin nêu ra một số nhận xét chung sau đây:
1. Thực tiễn cho thấy cải cách hành chính đã trở thành một trong những khâu then chốt của tiến trình đổi mới và phát triển đất nước. Đồng thời, thực tiễn cũng chỉ rõ cải cách hành chính là một công cuộc khó khăn, phức tạp và rộng lớn, gắn liền với việc kiện toàn Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, lại đụng chạm nhiều đến những lợi ích cục bộ, lợi ích cá nhân ngay trong bộ máy nhà nước.
Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã chủ trương tiến hành cải cách hành chính một cách khẩn trương nhưng vững chắc, có trọng điểm; trước mắt, năm 1995 và năm 1996, tập trung làm một số công việc bức xúc để chấn chỉnh một bước tổ chức và hoạt động hành chính, lập lại trật tự kỷ cương nhà nước, chuẩn bị cho những bước tiếp theo vào những năm sau.
Chín tháng thực hiện là thời gian còn rất ngắn, và một số kết quả đã thu được, tuy còn khiêm tốn, song là bước đầu quan trọng, và điều quan trọng nhất là chủ trương cải cách hành chính đã được nhân dân đồng tình, ủng hộ và tham gia có hiệu quả vào những công việc cụ thể để lập lại trật tự kỷ cương nhà nước.
2. Thực tiễn cũng cho thấy mối quan hệ chặt chẽ, quyện chặt với nhau, thúc đẩy lẫn nhau giữa cải cách kinh tế và cải cách hành chính. Mối quan hệ này cần được nhận thức rõ và thể hiện rõ trong hành động của các cấp, các ngành qua từng phần, từng việc của cải cách kinh tế cũng như cải cách hành chính. Các chủ trương, biện pháp cải cách kinh tế phải tạo thuận lợi và thúc đẩy cải cách hành chính, thiết lập và giữ vững trật tự kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về kinh tế, cũng như các chủ trương, biện pháp cải cách hành chính phải có tác dụng thúc đẩy cải cách kinh tế, hoàn thiện cơ chế kinh tế...
3. Chính phủ đã đề ra nhiều chủ trương, kế hoạch chỉ đạo cụ thể, có khả năng thực thi, nhưng việc thực hiện còn chậm. Các Bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng có kế hoạch triển khai, thành lập Ban chỉ đạo, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt đã trực tiếp chỉ đạo công tác này, nhưng kết quả thực hiện không đều, một số nơi đạt kết quả thấp là do chỉ đạo chưa sâu, kém chủ động, kiểm tra thanh tra không chặt chẽ, không kiên quyết xử lý các vi phạm.
Kinh nghiệm thực tế là: để thực hiện có kết quả các chủ trương về cải cách hành chính, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng, các Chủ tịch Ủy ban nhân dân phải thực hiện rất ráo riết các biện pháp đôn đốc, kiểm tra, kịp thời phát hiện và chấn chỉnh các lệch lạc, xử lý nghiêm minh các hành vi phạm pháp, vi phạm kỷ luật hành chính, trước hết là trong cơ quan quản lý nhà nước.
4. Cải cách hành chính là công việc liên quan đến chính sách, cơ chế, pháp luật, tổ chức, cán bộ, v.v., nên các chủ trương phải thật rõ, các biện pháp và kế hoạch phải thật cụ thể, chỉ đạo phải tập trung, kiên quyết, liên tục, đồng thời phải thông tin thông báo, phổ biến công khai, rộng rãi để nhân dân biết, hưởng ứng và tích cực tham gia thực hiện và giám sát các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện, thì mới mang lại kết quả tốt và bền vững.
Các công việc về cải cách hành chính phải được sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự ủng hộ và tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, thực sự tạo được sức mạnh tổng hợp của Đảng, Nhà nước và nhân dân, cùng hợp lực để giải quyết những công việc bức bách, khó khăn.
II- CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
TRONG THỜI GIAN TỚI
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định mục tiêu của cải cách hành chính là nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội.
Cải cách hành chính phải phục vụ nhiệm vụ phát triển và đổi mới toàn diện đất nước mà trọng tâm là phục vụ đắc lực cải cách kinh tế, tăng cường năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phương hướng và nguyên tắc chung chỉ đạo việc chấn chỉnh tổ chức bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính là:
- Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp tập trung chủ yếu vào quản lý kinh tế vĩ mô, chăm lo các vấn đề văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, duy trì hiệu lực của pháp luật, củng cố quốc phòng, an ninh, thi hành chính sách đối ngoại; không can thiệp trực tiếp vào việc điều hành sản xuất - kinh doanh; tiến tới xóa bỏ chế độ chủ quản đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế kinh doanh.
- Vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ sát hợp với chức năng chỉ đạo, điều hành của hệ thống hành chính và với đặc điểm của từng ngành, từng lĩnh vực. Xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các cấp hành chính, trước hết là về lập quy và về ngân sách.
- Xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm tập thể và cá nhân; bảo đảm sự lãnh đạo tập thể về những vấn đề quan trọng, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân của thủ trưởng cơ quan trong công tác điều hành.
Theo các phương hướng và nguyên tắc chung đó, chương trình cải cách hành chính của Chính phủ trong những tháng cuối năm 1995 và năm 1996, tiếp tục hướng vào việc tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa chính quyền các cấp với nhân dân, xác định rõ hơn chức trách, thẩm quyền của các cấp hành chính và mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và các địa phương, điều chỉnh một bước tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và từng bước thực hiện chế độ công vụ và quy chế công chức, đẩy mạnh việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công chức Nhà nước:
1. Chính phủ tiếp tục chỉ đạo việc nghiên cứu để sửa đổi thủ tục hành chính trong các lĩnh vực tác động trực tiếp tới đời sống và sản xuất - kinh doanh của nhân dân; trước mắt sẽ ban hành một số thủ tục mới về xuất, nhập khẩu; thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, về công chứng, hộ khẩu, hộ tịch, thi hành án, đăng ký xe máy, về hoạt động văn hóa và dịch vụ,...
Chính phủ sẽ quy định cụ thể thẩm quyền ban hành các thủ tục hành chính trên nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất về thủ tục hành chính nhà nước ở các ngành, các cấp, tập trung thẩm quyền này vào Chính phủ và một số Bộ, lập lại trật tự trong việc ban hành thủ tục hành chính.
Về thể chế hành chính, Chính phủ sẽ chỉ đạo nghiên cứu để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành một số luật, pháp lệnh hoặc Chính phủ ban hành các văn bản pháp quy tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và cho việc tiến hành cải cách hành chính, như chế độ quản lý tài chính và tài sản công, quy chế về tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính, phân định thẩm quyền hành chính, các chế độ công vụ, công chức và công sở, chế độ tài phán hành chính, v.v..
Để cho thể chế hành chính có khả năng thực hiện, phải tăng cường công tác lập quy của Chính phủ, tiếp tục đổi mới quy trình, nâng cao chất lượng các công việc của Chính phủ về nghiên cứu và ban hành các văn bản pháp quy.
Chính phủ sẽ dành nhiều thời gian hơn nữa để thảo luận các dự án luật, pháp lệnh và thông qua các văn bản của Chính phủ, đề cao hơn nữa trách nhiệm của các thành viên Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ trong việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, các nghị định của Chính phủ.
Chính phủ sẽ rà soát lại chương trình lập quy, tập trung có trọng điểm vào một số vấn đề cấp bách về kinh tế, văn hóa, trật tự an toàn xã hội, không đề ra quá nhiều công việc. Kiên quyết khắc phục tình trạng văn bản pháp quy ban hành không kịp thời, không cụ thể, không rành mạch, thậm chí chồng chéo, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện.
Trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp quy, Chính phủ và các Bộ sẽ phối hợp chặt chẽ với các Hội đồng và Ủy ban của Quốc hội, với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tranh thủ ý kiến của các nhà khoa học, các chuyên gia, các cán bộ quản lý.
2. Trong bộ máy hành chính hiện nay vẫn diễn ra khá phổ biến tình trạng làm việc và điều hành một cách tùy tiện, trái pháp luật. Chưa thể nói được rằng, Nhà nước ta đã tạo ra được một môi trường pháp luật thật tốt để mỗi người dân, mỗi tổ chức an tâm làm ăn dưới sự bảo hộ của pháp luật và bộ máy hành chính. Cùng với những hiện tượng tùy tiện, trái pháp luật là tình trạng buông lỏng sự kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, đối với việc thi hành pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, cần phải khẩn trương chấn chỉnh tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính, lập lại trật tự trong chính bản thân bộ máy hành chính, giải quyết những vấn đề cơ bản về tổ chức và quản lý của cơ quan hành chính.
Trước hết, xác định rõ hơn chức năng và trách nhiệm quản lý của cơ quan hành chính ở các cấp trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, làm cho nhận thức về chức năng và trách nhiệm quản lý Nhà nước được quán triệt trong toàn bộ hệ thống cơ quan hành chính.
Vai trò và trách nhiệm quản lý kinh tế vĩ mô của cơ quan hành chính nhà nước tập trung vào việc khuyến khích, tạo các điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển trong một hành lang pháp luật thống nhất, đồng bộ và ổn định; điều hành và kiểm soát chặt chẽ kinh tế vĩ mô bằng lực lượng kinh tế nhà nước bao gồm hệ thống tiền tệ, tài chính, ngân hàng, lực lượng dự trữ quốc gia, lực lượng doanh nghiệp nhà nước và các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế; kiểm tra và kiểm soát kinh tế vi mô thuộc các thành phần bằng lực lượng thuế, kiểm toán, hệ thống kế toán thống nhất, hệ thống thanh tra nhà nước kết hợp với các cơ quan tài phán của hệ thống tư pháp.
Cơ quan quản lý hành chính nhà nước phải thực hiện chức năng công ích, chăm lo các công việc về phát triển xã hội, các phúc lợi chung về giáo dục, y tế, văn hóa cho quảng đại quần chúng, chăm sóc người có công, hỗ trợ người nghèo và những người có hoàn cảnh khó khăn, xây dựng hạ tầng cơ sở kinh tế và xã hội.
Làm được như trên, thì bộ máy hành chính sẽ dần dần thoát khỏi các hoạt động sự vụ không cần thiết, xóa dần được chức năng “chủ quản” của các cơ quan hành chính nhà nước đối với doanh nghiệp, các Bộ và Ủy ban nhân dân các cấp tập trung được năng lực, công sức vào nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Một trong những biện pháp để tạo điều kiện xóa bỏ chức năng “chủ quản” của các cơ quan hành chính là sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, xây dựng một số tổng công ty nhà nước có vị trí quan trọng và quy mô tương đối lớn, có khả năng hoạt động tự chủ và có hiệu quả. Việc này phải được tiến hành phù hợp với nhu cầu phát triển của bản thân các doanh nghiệp, gắn liền với việc đổi mới các thể chế quản lý doanh nghiệp phù hợp với tính chất của từng loại doanh nghiệp.
Quốc hội và chính phủ sẽ quy định rõ hơn mối quan hệ giữa Chính phủ và các Bộ với chính quyền địa phương, chủ yếu là cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, bổ sung, sửa đổi chế độ phân cấp quản lý nhà nước trên các lĩnh vực ngân sách, quy hoạch phát triển kinh tế văn hóa, quyền lập quy, quyền cấp đất là những vấn đề bức thiết hiện nay.
Các pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, về thẩm quyền giám sát, hướng dẫn kiểm tra của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân dự kiến ban hành trong quý IV năm 1995 sẽ tạo điều kiện tăng cường các cơ quan hành chính, giải đáp được nhiều vấn đề về mối quan hệ giữa Trung ương và địa phương.
Trên cơ sở xác định rõ chức năng, trách nhiệm và phương thức quản lý nhà nước, sẽ tiếp tục thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính ở Trung ương và các địa phương theo hướng giảm dần số lượng Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, quy định cụ thể tổ chức bộ máy ở Trung ương và các cấp với quy chế hoạt động thích hợp với từng ngành, từng lĩnh vực.
Trong việc điều chỉnh tổ chức bộ máy, phải xây dựng các phương án cụ thể của từng ngành, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các Bộ cho phù hợp với tình hình và yêu cầu mới, nhất là sau khi Bộ không còn làm chức năng “chủ quản” các doanh nghiệp nữa; loại bỏ những loại việc trùng lắp giữa các Bộ, làm rõ phạm vi trách nhiệm và thẩm quyền của từng Bộ trong những loại việc liên quan đến nhiều ngành. Trong từng Bộ cũng soát lại chức năng, nhiệm vụ của các Cục, Vụ, Ban, phòng, bỏ đi những khâu thừa, chồng chéo, định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng tổ chức, từng đơn vị, từ đó mà bớt giấy tờ, bớt phiền hà, công việc nhanh hơn và có hiệu quả hơn.
3. Cuối năm 1995, Chính phủ sẽ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội các dự thảo pháp lệnh về chế độ công vụ và quy chế công chức.
Chế độ công vụ bao gồm những vấn đề về trách nhiệm và kỷ luật đối với công chức, về đạo đức của người công chức trong khi thi hành nhiệm vụ, quy định cụ thể những loại việc mà người công chức nhà nước không được làm để bảo đảm sự trong sạch, uy tín và hiệu quả quản lý của cơ quan nhà nước. Cần có một chế độ công vụ chung cho tất cả các cơ quan hành chính nhà nước; và quy chế công vụ riêng của từng Bộ, từng ngành.
Quy chế công chức quy định cụ thể các công việc về tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng công chức, chế độ lương, bảo hiểm xã hội, khen thưởng, kỷ luật và phân cấp trách nhiệm quản lý công chức. Năm 1996, Chính phủ sẽ ban hành và chỉ đạo thực hiện từng bước quy chế tuyển dụng công chức mới qua thi tuyển và đề bạt cán bộ quản lý qua kiểm tra, sát hạch bằng những hình thức thích hợp.
4. Năm 1996, Chính phủ sẽ tiến hành khẩn trương việc bồi dưỡng đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước theo các tiêu chuẩn chức danh, tổ chức tập huấn cho cán bộ, viên chức ở tất cả các ngành, các cấp về chế độ công vụ và Quy chế công chức.
Thủ tướng Chính phủ đã duyệt kế hoạch mở lớp đào tạo và bồi dưỡng cán bộ hành chính nhà nước của Học viện Hành chính quốc gia. Năm 1996, sẽ mở trên 90 lớp cho 8.700 cán bộ, gồm các cán bộ lãnh đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành và huyện, quận, chuyên viên hành chính ở các cơ quan Trung ương, cán bộ phụ trách Văn phòng các bộ và các Ủy ban nhân dân. Hiện nay, đang chuẩn bị mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán hành chính cho các Tòa án hành chính. Các trường chính trị và trường hành chính các tỉnh, thành phố cũng tăng cường quy mô đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý của các địa phương.
Trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức nhà nước, sẽ rất chú trọng bồi dưỡng, đào tạo lại các công chức chuyên ngành về quản lý kinh tế, trước hết các các cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô hoạt động trong các cơ quan và tổ chức của Chính phủ, của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đi đôi với bồi dưỡng, đào tạo các cán bộ trực tiếp quản lý kinh doanh, quản lý doanh nghiệp.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thời gian thực hiện chương trình của Chính phủ về cải cách một bước nền hành chính theo Nghị quyết Trung ương 8 mới được trên chín tháng. Song, thực tiễn đã làm rõ thêm tính bức xúc và phức tạp của cải cách hành chính. Có những vấn đề có thể giải quyết ngay trước mắt, có những vấn đề còn phải tiếp tục nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn, bởi vì, cải cách hành chính có quan hệ mật thiết đến cải cách kinh tế, đến các vấn đề về tư tưởng và về tổ chức, đến việc tăng cường tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta nói chung.
Chính phủ sẽ chỉ đạo khẩn trương để giải quyết kịp thời những vấn đề trước mắt như đã trình bày ở trên và tiếp tục chỉ đạo nghiên cứu những vấn đề cơ bản để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận và quyết định trong năm 1996 và những năm sau.
Kết quả bước đầu đã đạt được cho phép chúng ta tin tưởng rằng: có sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, có những quyết định kịp thời và sự giám sát chặt chẽ của Quốc hội, có sự phối hợp và hỗ trợ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, có sự cố gắng vươn lên của tất cả cán bộ, công chức trong hệ thống hành chính nhà nước, đặc biệt là có sự hưởng ứng ủng hộ và giám sát của nhân dân, công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước ta trong thời gian tới sẽ được tiến hành khẩn trương, liên tục và có kết quả, bộ máy quản lý hành chính trong cả nước sẽ được chấn chỉnh, tăng cường và hoạt động có chất lượng, có hiệu lực, đáp ứng được yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của nước ta.
Xin cảm ơn.
PHỤ LỤC
BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ “VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH”
MỘT SỐ QUY ĐỊNH MỚI VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
(THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 38/CP)
1. Lĩnh vực phân bổ ngân sách và vốn xây dựng cơ bản:
Trước Nghị định 38/CP, cả hai cơ quan Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính cùng có chức năng và song song thực hiện việc hướng dẫn, lập, thẩm định, tổng hợp kế hoạch và dự toán ngân sách nhà nước, nên các cơ quan kế hoạch và tài chính thuộc các Bộ, ngành và địa phương phải thực hiện cùng một quy trình đối với cả hai cơ quan, nhiều việc trùng lặp, phải qua nhiều cửa, mất thời gian đi lại và chờ đợi. Kế hoạch giao chậm, thường là tạm giao từ đầu năm, giữa năm điều chỉnh lại khá phức tạp; cơ chế cấp phát các khoản kinh phí ngân sách và vốn đầu tư xây dựng cơ bản rất phân tán: có khoản cấp qua kho bạc, có khoản cấp ủy quyền qua Sở Tài chính, có khoản cấp phát qua Ngân hàng đầu tư và phát triển. Quy chế ghi vốn và ghi kế hoạch đối với các công trình đầu tư quy mô nhỏ (dưới 1 tỷ đồng) không hợp lý.
Theo Nghị quyết 38/CP, Chính phủ đã ban hành hai văn bản:
a) Nghị định 178/CP ngày 28 tháng 10 năm 1994, định rõ:
+ Bộ Tài chính là cơ quan chủ trì, thống nhất quản lý nhà nước về tài chính, kế toán, ngân sách, giải tỏa được các khâu trùng lặp nói trên;
+ Chuyển chức năng, cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản và vốn tín dụng ưu đãi từ Ngân hàng đầu tư và phát triển sang Bộ Tài chính (Tổng cục Đầu tư và Phát triển), khắc phục tình trạng phân tán trong khâu cấp phát.
b) Quyết định 467/TTg ngày 29 tháng 8 năm 1994 quy định lại theo hướng đơn giản hóa điều kiện ghi vốn và ghi kế hoạch đối với các công trình xây dựng cơ bản quy mô dưới 1 tỷ đồng, giảm bớt các khoản thiết kế phí và phí làm luận chứng kinh tế kỹ thuật.
2. Lĩnh vực đầu tư trực tiếp của nước ngoài:
- Trước Nghị quyết 38/CP:
Việc thẩm định hồ sơ dự án và triển khai dự án phải thông qua năm Hội đồng với 5 bộ hồ sơ riêng:
+ Hội đồng thẩm định hồ sơ để cấp giấy phép đầu tư;
+ Hội đồng thẩm định về cấp đất để cấp giấy thuê đất;
+ Hội đồng thẩm định về môi trường để cấp giấy phép bảo đảm môi trường;
+ Hội đồng thẩm định về an toàn lao động để cấp giấy phép an toàn lao động;
+ Hội đồng thẩm định về thiết kế để cấp giấy phép xây dựng.
- Nghị định 191/CP ngày 28 tháng 12 năm 1994 ban hành quy chế hình thành, thẩm định và thực hiện dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài, đã điều chỉnh lại như sau:
+ Đơn giản hóa khâu phân loại để thẩm định dự án: chỉ phân hai nhóm A và B, bỏ nhóm C.
+ Bãi bỏ các Hội đồng xem xét riêng biệt các khâu cấp giấy phép đầu tư, cấp đất, cấp giấy phép an toàn lao động đối với các thiết bị công nghệ, cấp giấy phép về môi trường (trừ một số công trình đặc biệt có tác động lớn đến môi trường).
Những khâu này được xem xét đồng thời trong quá trình thẩm định hồ sơ dự án để cấp giấy phép đầu tư. Ngay cả đối với các dự án nhóm A (thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng) cũng chỉ lập Hội đồng thẩm định hồ sơ khi các Bộ trưởng liên quan có ý kiến khác nhau.
+ Phân cấp thẩm quyền cấp đất: Thủ tướng Chính phủ chỉ ra quyết định cấp đất đối với các dự án nhóm A; ủy quyền cho Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chính ra quyết định cấp đất cho các dự án nhóm B.
+ Bỏ thủ tục các Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp giấy phép về an toàn lao động đối với thiết bị công nghệ; Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường cấp giấy phép môi trường (trừ một số công trình đặc biệt). Các Bộ này chỉ công bố tiêu chuẩn Việt Nam về an toàn lao động đối với thiết bị công nghệ, về môi trường và thực hiện chức năng giám sát trong quá trình vận hành công trình.
Bỏ thủ tục Bộ Xây dựng duyệt thiết kế để cấp giấy phép xây dựng (Bộ chỉ thẩm định thiết kế về mặt kiến trúc và tư cách pháp nhân của người thiết kế).
3. Lĩnh vực cấp đất, cấp giấy phép xây dựng tại đô thị:
- Trước khi ban hành Nghị quyết 38/CP:
Do thiếu văn bản pháp luật nên Ủy ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương tự quy định các thủ tục cấp đất và cấp giấy phép xây dựng riêng cho địa phương mình.
Tại hai thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh:
+ Việc cấp đất phải qua hai bước:
a) Bước 1: giới thiệu địa điểm: phải lập hồ sơ gồm sáu đến tám loại giấy tờ, mất trên hai tháng.
b) Bước 2: Cấp giấy phép sử dụng đất: phải nộp hồ sơ năm loại giấy tờ và mất gần hai tháng.
+ Việc cấp phép xây dựng: phải qua bốn bước, 26 loại giấy tờ (ở Thành phố Hồ Chí Minh).
Thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng không thống nhất: có nơi do cơ quan chuyên môn cấp, có nơi do Ủy ban nhân dân cấp.
- Chính phủ đã ban hành các văn bản điều chỉnh lại như sau:
+ Về cấp đất: Nghị định 88/CP ngày 17-8-1994 thay thế Nghị định 47/CP ngày 15-3-1972:
Đơn giản hồ sơ, chỉ còn bốn loại giấy tờ sau: Đơn xin giao đất theo mẫu của Tổng cục Địa chính; Dự án đầu tư được cơ quan nhà nước có thẩm quyền duyệt theo Nghị định 177/CP ngày 20-10-1994; Bản đồ địa chính khu đất xin giao tỷ lệ 1/200-1/500 và phương án đền bù, và định thời gian xem xét xong trong 25 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ.
+ Về cấp giấy phép xây dựng: Nghị định 91/CP ngày 17-8-1994 thay thế Quyết định 115/CT ngày 02-5-1986; Quyết định 536-BXD/GP ngày 14-12-1994 và Thông tư 24-BXD/KTQH ngày 16-12-1994 của Bộ Xây dựng.
Đơn giản hồ sơ, chỉ còn ba loại giấy tờ: Đơn xin phép xây dựng; các bản vẽ kiến trúc chính thuộc hồ sơ thiết kế xây dựng được duyệt theo Quyết định 536-BXD/GD ngày 14-12-1994 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và bản chứng minh quyền sử dụng đất; định thời gian xem xét trong 45 ngày đối với các công trình lớn hơn 200 m2; 30 ngày đối với nhà ở của tư nhân và 10 ngày đối với nhà ở có nguy cơ sụp đổ kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Đối với công trình nhà dân có quy mô dưới 200 m2 thì không phải thẩm định hồ sơ thiết kế xây dựng như trước đây, tránh phiền hà cho dân.
Cơ quan cấp phép xây dựng tập trung chủ yếu ở Văn phòng kiến trúc sư trưởng hoặc Sở Xây dựng (nơi không có Văn phòng Kiến trúc sư trưởng). Các loại giấy tờ cấp phép xây dựng được quy định thành mẫu áp dụng thống nhất trong cả nước.
4. Lĩnh vực xuất, nhập cảnh:
- Trước khi ban hành Nghị quyết 38/CP:
+ Thẩm quyền quyết định cho phép xuất cảnh, nhập cảnh tập trung ở các cấp:
· Thủ tướng Chính phủ: Đối với Bộ, Thứ trưởng và cấp tương đương;
· Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và thành phố Trực thuộc Trung ương: đối với tất cả cán bộ, nhân viên trong biên chế nhà nước và công dân ngoài biên chế nhà nước.
+ Thẩm quyền xét duyệt nhân sự: Ngoài xác nhận và quyết định của Thủ trưởng các cơ quan quản lý trực tiếp, phải qua hệ thống các cơ quan Công an:
· Bộ Nội vụ và Công an tỉnh, thành phố: Đối với cán bộ, nhân viên trong biên chế nhà nước.
· Sở Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các Cục An ninh của Bộ Nội vụ: Đối với nhân sự ngoài biên chế nhà nước.
Do tập trung cao, không có phân cấp, nên người xin cấp hộ chiếu xin thị thực xuất nhập cảnh phải xin chữ ký xác nhận nơi mình cư trú, từ Công an xã, phường, quận, huyện, tỉnh, thành phố đến Bộ Nội vụ và chờ đợi rất lâu.
- Chính phủ đã ban hành Nghị định 24/CP ngày 24 tháng 3 năm 1995 thay thế cho năm văn bản trước đó:
+ Phân cấp thẩm quyền quyết định cho phép xuất cảnh, nhập cảnh cho Thủ trưởng Bộ, ngành, Chủ tịch tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thủ trưởng các cơ quan sự nghiệp (Tổng cục hoặc Cục quản lý chuyên ngành thuộc Bộ, Viện nghiên cứu, Đại học quốc gia...), giám đốc các Sở thuộc tỉnh, Tổng giám đốc các doanh nghiệp quy mô quốc gia.
Thủ tướng Chính phủ: chỉ xem xét đối với Bộ trưởng và cấp tương đương.
+ Đổi mới khâu xét duyệt nhân sự:
Theo quy định trước đây, Bộ Nội vụ xét duyệt nhân sự từ cấp Thứ trưởng trở xuống. Nay Nghị định 24/CP quy định:
Bỏ thủ tục Bộ Nội vụ xét duyệt nhân sự đối với công chức, viên chức, nhân viên và những người thuộc biên chế các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhà nước được cử đi nước ngoài. Nhưng Bộ Nội vụ có quyền đình chỉ xuất cảnh khi phát hiện nhân sự thuộc đối tượng không được xuất cảnh hoặc chưa được phép xuất cảnh vì lý do an ninh quốc gia hoặc đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bộ Nội vụ cũng không xét duyệt nhân sự và không làm thủ tục cấp giấy phép nhập cảnh như trước đây đối với các đoàn khách của Nhà nước, khách là đại diện Chính phủ nước ngoài, của tổ chức Liên hợp quốc; đối với nhân viên các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước ngoài và cơ quan đại diện các tổ chức quốc tế, người nước ngoài do Chính phủ họ hoặc tổ chức quốc tế, giới thiệu (qua đường ngoại giao) vào làm việc với cơ quan đại diện của họ tại Việt Nam; các đối tượng là khách nước ngoài mời vào làm việc với các cơ quan của Đảng, đoàn thể nhân dân cấp Trung ương.
Cơ quan có thẩm quyền quyết định nhập cảnh đối với các đối tượng nói trên chịu trách nhiệm về nhân sự và thông báo danh sách nhân sự cho Bộ Nội vụ để theo dõi. Nếu phát hiện nhân sự thuộc đối tượng không được nhập cảnh Việt Nam thì Bộ Nội vụ phối hợp với Bộ Ngoại giao từ chối việc nhập cảnh.
+ Bỏ thủ tục xác nhận của Công an quận, huyện, tỉnh trong hồ sơ xin cấp hộ chiếu và thị thực của công dân ngoài biên chế nhà nước (chỉ cần có xác nhận của Công an phường, xã).
+ Định rõ thời gian cấp hộ chiếu và thị thực xuất cảnh từ năm ngày đến 10 ngày tùy thuộc các đối tượng trong hoặc ngoài biên chế; định rõ thời gian xét duyệt nhân sự của Bộ Nội vụ đối với các đối tượng thuộc thẩm quyền của Bộ Nội vụ không quá năm ngày.
5. Lĩnh vực khiếu nại tố cáo của công dân:
- Trước Nghị quyết 38/CP: không quy định rõ thẩm quyền ba cấp trong việc chấp hành Pháp lệnh, thẩm quyền của Chánh thanh tra không được thực thi.
- Ngày 25 tháng 01 năm 1995, Thủ tướng đã ra Chỉ thị 64/TTg, sau đó Tổng Thanh tra Nhà nước đã ra Thông tư hướng dẫn quy định rõ trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
- Quyết định quan trọng nhất trong vấn đề này là Quốc hội thành lập Tòa án hành chính.
Lưu tại Phòng Lưu trữ
Văn phòng Quốc hội