VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 3 1995-1996


TỜ TRÌNH
CỦA CHÍNH PHỦ VỀ ĐIỀU CHỈNH MỘT BƯỚC
TỔ CHỨC BỘ MÁY MỘT SỐ CƠ QUAN
CỦA CHÍNH PHỦ
 

(Do Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt trình bày
tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa IX, ngày 12-10-1995)

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Được sự ủy quyền của Chính phủ, tôi xin trình Quốc hội về điều chỉnh một bước tổ chức bộ máy một số cơ quan của Chính phủ.

Để Quốc hội có căn cứ xem xét, quyết định, xin báo cáo những nét lớn về tình hình tổ chức bộ máy hành chính nhà nước hiện nay, trên cơ sở đó kiến nghị sắp xếp lại một số Bộ và cơ quan ngang Bộ.

I- TÓM TẮT TÌNH HÌNH TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

1. Tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước đã được đổi mới một bước trên cơ sở Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và các văn bản pháp luật khác. Cùng với việc xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã phân biệt chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý kinh doanh. Thông qua các đợt sắp xếp tổ chức đã dần dần thống nhất nhiệm vụ quản lý nhà nước trước đây do nhiều Bộ, Tổng cục phụ trách vào một Bộ (sáp nhập Bộ Nông nghiệp, Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lương thực thành Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm; hợp nhất Bộ Điện lực, Bộ Mỏ và Than thành Bộ Năng lượng; sáp nhập Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp, Tổng cục Dạy nghề thành Bộ Giáo dục và Đào tạo; sáp nhập Bộ Vật tư, Bộ Nội thương, Bộ Ngoại thương thành Bộ Thương mại... chuyển một số Tổng cục thành Tổng công ty: Tổng công ty Cao su, Tổng công ty Dầu khí, v.v. và đặt các Tổng công ty này vào các Bộ có chức năng quản lý nhà nước tương ứng). Giảm bớt được sự trùng lặp, chồng chéo trong hoạt động giữa các Bộ, Tổng cục. Sự chỉ đạo của Chính phủ được tập trung và nhanh nhạy hơn. Chính phủ tập trung được cao hơn trí tuệ của các thành viên vào việc xây dựng pháp luật, xử lý các vấn đề chung về chính sách và cơ chế, giảm dần tính sự vụ và tính cục bộ.

Để đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, Chính phủ cũng đã thành lập một số tổ chức mới như: Kiểm toán Nhà nước, Bảo hiểm xã hội Việt Nam theo cơ chế mới, Tổng cục Đầu tư và Phát triển, Tổng cục Quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, Cục Quản lý công sản, chuẩn bị thành lập Ủy ban Chứng khoán quốc gia. Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo Quyết định 90, 91/TTg và xúc tiến việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước để tạo điều kiện bỏ quan hệ chủ quản đối với doanh nghiệp nhà nước. Thành lập một số khu chế xuất và khu công nghiệp. Đồng thời với những việc trên Chính phủ cũng đã đề nghị Quốc hội cho thành lập Tòa án kinh tế, Tòa án hành chính, xây dựng Luật hành chính..., để nâng cao hiệu lực của công tác kiểm tra, kiểm soát của bộ máy nhà nước.

Mặt khác, công tác quản lý biên chế, xây dựng chức danh, tiêu chuẩn thuộc các ngành hành chính và sự nghiệp cũng được xúc tiến. Đến nay, hầu hết các ngành đã có tiêu chuẩn công chức, cơ cấu ngạch bậc của công chức trong ngành. Biên chế được quy định sát hơn với yêu cầu thực tế, những nơi cần tăng (như Thuế, Hải quan, Giáo dục, Y tế...), có nơi giảm, không cào bằng và bình quân. Mấy năm gần đây đã coi trọng công tác đào tạo lại và bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực hành chính, trình độ ngoại ngữ cho đội ngũ công chức hành chính.

Những tiến bộ trong sự quản lý và điều hành của Chính phủ đã góp phần vào các thành tựu đổi mới bước đầu quan trọng về kinh tế xã hội.

2. Tuy nhiên, quá trình trưởng thành và đổi mới đưa tới sự xuất hiện thêm nhiều vấn đề mới và bộc lộ rõ thêm những yếu kém của bộ máy hành chính nhà nước: tổ chức bộ máy nhà nước cồng kềnh, nhiều tầng nấc, công việc chồng chéo, trùng lắp và nhiều khi cản trở lẫn nhau, hiệu lực và hiệu quả thấp. Nạn quan liêu, lãng phí, tham nhũng nghiêm trọng, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn yếu. Đội ngũ cán bộ, công chức nhìn chung chưa ngang tầm với yêu cầu của đổi mới, một bộ phận không nhỏ thoái hóa biến chất như Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã nhận định. Riêng về cơ cấu tổ chức của Chính phủ vẫn còn đến 53 cơ quan, bao gồm 20 Bộ, bảy cơ quan ngang Bộ và 26 cơ quan thuộc Chính phủ.

II- DỰ KIẾN ĐIỀU CHỈNH MỘT BƯỚC TỔ CHỨC BỘ MÁY MỘT SỐ CƠ QUAN CỦA CHÍNH PHỦ

1. Việc sắp xếp lại một số Bộ và cơ quan ngang Bộ lần này cần phải đáp ứng yêu cầu trước mắt, đồng thời phù hợp với mục tiêu tổng thể cải cách nền hành chính, vừa giữ được sự ổn định cần thiết, vừa tích cực tạo điều kiện thực hiện những bước cải cách bộ máy nhà nước tiếp theo.

2. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy lần này phải nhằm nâng cao hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nước. Việc quản lý vĩ mô đó phải bao quát toàn bộ tình hình kinh tế - xã hội của cả nước không chỉ riêng khu vực nhà nước mà còn các thành phần kinh tế khác. Phải tạo điều kiện để tăng cường tính tập trung thống nhất của Chính phủ trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, đi đôi với việc mở rộng và xác định trách nhiệm, quyền hạn của ngành và địa phương đối với những vấn đề mà các cấp này có khả năng xử lý một cách hiệu quả hơn mà không trái với chính sách chung của Chính phủ. Phải tiếp tục thực hiện những biện pháp về tổ chức và cơ chế nhằm bảo đảm và tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp. Tăng cường vai trò quản lý xuyên suốt của ngành và lĩnh vực của các Bộ tổng hợp, làm cho mọi hoạt động kinh tế xã hội đều nằm trong phạm vi quản lý vĩ mô có hiệu quả của Nhà nước.

3. Định hướng chung của việc sắp xếp lại các Bộ là Bộ quản lý nhiều ngành (kinh tế - kỹ thuật), nhiều lĩnh vực công tác với chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được quy định rõ ràng. Việc đưa ngành nào vào một Bộ phải dựa trên cơ sở các ngành hoặc lĩnh vực công tác đó có những đặc điểm chuyên môn kỹ thuật gần nhau, có phương thức quản lý giống nhau, nếu cùng một Bộ thì có thể hỗ trợ được cho nhau. Những ngành hoặc lĩnh vực công tác xét về tính chất và phương thức hoạt động chưa ghép được vào một Bộ hoặc vì nhu cầu phát triển thì để cơ quan thuộc Chính phủ một thời gian.

Thực tế vừa qua đã cho thấy, do xác định được quan niệm trên nên tuyệt đại đa số các Bộ được sắp xếp, trong đó có những Bộ khối lượng công việc khá lớn vẫn không có trở ngại trong công tác. Tuy nhiên, một vài trường hợp sau khi sắp xếp phải điều chỉnh lại là do gán ép đưa vào Bộ những ngành mà tính chất công việc, phương thức quản lý ít gắn bó với nhau.

4. Để vừa thực hiện được yêu cầu từng bước đổi mới vừa giữ được sự ổn định và liên tục trong hoạt động của Chính phủ, trước mắt cơ cấu của Chính phủ dựa trên cơ sở bộ máy hiện nay nhưng cần điều chỉnh một số tổ chức sau:

1. Hợp nhất Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lâm nghiệp, Bộ Thủy lợi thành Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Việc hợp nhất các ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy lợi là phù hợp vì các ngành này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trên tất cả các phương diện chủ yếu: cùng có đối tượng quản lý là sử dụng đất đai, mặt nước, cùng phát triển cây trồng vật nuôi, áp dụng kỹ thuật sinh học và gắn bó với môi trường sinh thái, sử dụng tư liệu sản xuất và áp dụng loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh giống nhau, lực lượng sản xuất chủ yếu là các hộ nông dân thuộc mọi thành phần kinh tế. Do đó, việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng nguồn nước phát triển cây trồng (kể cả trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc) kế hoạch chăn nuôi, phát triển nguồn lợi thủy sản bảo vệ môi sinh, quản lý, sử dụng đất, nước, việc thực hiện các chính sách pháp luật đều phải được xử lý thống nhất. Theo cơ chế mới chức năng quản lý nhà nước của Bộ đối với các doanh nghiệp, các hợp tác xã nông, lâm, ngư nghiệp đã có những thay đổi cơ bản: kế hoạch sản xuất - kinh doanh cụ thể do các doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân tự đảm nhiệm, Nhà nước tác động chủ yếu thông qua hệ thống chính sách đòn bẩy. Về vật tư phục vụ cho hợp tác xã và nông dân, Nhà nước lo các cân đối chung, lo dự trữ để đề phòng bất trắc, còn việc mua bán thì theo cơ chế thị trường. Việc quản lý rừng và đất rừng, việc phủ xanh đất trống đồi trọc đã chuyển cho chính quyền địa phương phụ trách. Khi xem xét vai trò, vị trí thủy lợi trong mối quan hệ liên ngành với nông nghiệp, lâm nghiệp cho thấy: tuy rằng thủy lợi không chỉ phục vụ cho nông nghiệp mà còn cho các đối tượng khác, song trước hết và chủ yếu là phục vụ cho phát triển nông nghiệp. Vừa đưa chức năng quản lý nhà nước của Bộ Thủy lợi về: quản lý nước và khai thác các công trình thủy lợi, phòng chống lụt bão, bảo vệ, quản lý đê điều, trị thủy các dòng sông, quy hoạch phát triển các hồ nước, sử dụng mặt nước, khai thác các công trình thủy lợi, v.v. vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là để xử lý một cách đồng bộ trong chức năng quản lý nhà nước đối với ngành nông, lâm nghiệp. Vì vậy, việc hợp nhất ba Bộ nói trên sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp của một số tổ chức có cùng chức năng và cùng loại hình chuyên môn nghiệp vụ, khắc phục được tình trạng trước đây giải quyết một công việc nào đó phải do sự phối hợp của ba Bộ nay vào một đầu mối nên việc chỉ đạo điều hành được nhanh nhạy hơn như chương trình cải cách nông thôn (liên quan cả nông, lâm, ngư nghiệp, thủy lợi, việc chỉ đạo khuyến nông, lâm, ngư, việc chỉ đạo chống thiên tai...). Trong kinh tế gia đình của hộ nông dân và trong việc chỉ đạo phát triển kinh tế nông thôn thì lao động nông, lâm, ngư, thủy lợi liên kết nhau không tách rời, thế nhưng trước đây lại do nhiều lĩnh vực của nhiều Bộ quản lý, cơ chế không đồng bộ, đã gây khó khăn cho cơ sở và dễ có kẽ hở trong quản lý.

Thực hiện phương án này sẽ điều chỉnh lại một số chức năng cụ thể như sau:

- Chuyển giao chức năng quản lý nhà nước đối với việc sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng công nghiệp, chế tạo máy móc nông nghiệp từ Bộ trên cho Bộ Công nghiệp quản lý.

- Xác định lại và chuyển giao việc quản lý các lĩnh vực thủy sản nội địa từ Bộ Thủy sản sang cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

- Những tổ chức sự nghiệp công như bệnh viện, một số cơ sở đào tạo dạy nghề công nhân sẽ chuyển lại cho các địa phương quản lý.

2. Hợp nhất Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Năng lượng, Bộ Công nghiệp nhẹ thành Bộ Công nghiệp.

Việc hợp nhất này dựa trên nguyên lý chung là tổ chức chủ thể quản lý phải phù hợp với đối tượng quản lý. Các Bộ trên đều có đối tượng quản lý là sản xuất công nghiệp với các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh giống nhau; do vậy, từ cơ chế phương thức quản lý cho đến chính sách áp dụng cơ bản giống nhau. Mặt khác, trong thực tế với những thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ về khoa học - công nghệ và thông tin trong quản lý nên rất khó phân biệt công nghiệp nặng với công nghiệp nhẹ; khó phân chia một cách tách bạch giữa các Bộ quản lý ngành sản xuất tư liệu sản xuất với các Bộ quản lý ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng. Vì thế, thực tế tổ chức ra nhiều Bộ quản lý theo chuyên ngành hẹp trong khối công nghiệp như hiện nay tạo ra nhiều sự trùng chéo, cắt khúc, phân tán. Vừa qua, Chính phủ đã quyết định thành lập một số tổng công ty mạnh theo Quyết định 91/TTg trong các Bộ này như: Tổng công ty Điện lực Việt Nam, Tổng công ty Than Việt Nam, Tổng công ty Thép Việt Nam, Tổng công ty Dệt may Việt Nam, Tổng công ty Giấy Việt Nam, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam... và thực hiện việc chuyển giao chức năng quản lý nhà nước đối với vốn và tài sản của các doanh nghiệp nhà nước từ các Bộ về cho Bộ Tài chính quản lý trực tiếp nhằm tiến tới xóa bỏ dần cơ chế Bộ chủ quản. Chức năng quản lý nhà nước của các Bộ trên đã có sự thay đổi, nên đòi hỏi phải tổ chức lại cơ quan quản lý nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất của các ngành công nghiệp có đối tượng quản lý giống nhau một cách thống nhất theo loại hình Bộ quản lý đa ngành. Đó chính là cơ sở để hợp nhất Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Năng lượng, Bộ Công nghiệp nhẹ.

3. Hợp nhất Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư thành Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Từ một nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp chuyển sang: “phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” như cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định. Vai trò của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư trong những năm qua đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Với việc thành lập Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư vừa qua đã phát huy tác dụng tích cực đối với lĩnh vực đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Nhất là xây dựng các luật pháp, thể chế, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động thu hút đầu tư. Đến nay, công việc chính của Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư là thẩm định và quản lý việc thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Công việc này lại gắn bó chặt chẽ với việc hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân, vì thế có phần chồng chéo với chức năng thẩm định và tổng hợp các dự án đầu tư của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.

Với bước phát triển mới về kinh tế xã hội đòi hỏi cần phải tập trung thống nhất và giải quyết kịp thời, nhanh nhạy và nhất quán về các lĩnh vực xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và cơ chế quản lý. Vì vậy, xin đề nghị hợp nhất hai Ủy ban này thành Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

4. Tình trạng quản lý đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay đang bị phân tán, trong khi đó vốn ngân sách nhà nước đầu tư trong lĩnh vực này có hạn. Để khắc phục sự lãng phí, thất thoát vốn, vật tư, tình trạng đầu tư tùy tiện phân tán ở các Bộ, ngành, địa phương mà cơ chế quản lý và hệ thống tổ chức hiện nay không kiểm soát được. Vì vậy, cần phải nghiên cứu giao thêm cho Bộ Xây dựng hiện nay chức năng quản lý nhà nước về xây dựng cơ bản chuyên ngành của một số bộ khác. Mặt khác, tốc độ đô thị hóa phát triển nhanh, song còn nặng tính tự phát, thiếu quy hoạch, gây nhiều hậu quả bất lợi cả trước mắt và lâu dài rất khó xử lý. Cho nên, rất cần có sự quản lý nhà nước của Bộ này đối với lĩnh vực xây dựng cơ bản và đối với sự phát triển đô thị trong cả nước. Khi được Quốc hội thông qua lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì cần phải chuyển chức năng quy hoạch phát triển nông thôn của Bộ Xây dựng hiện nay về cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phụ trách. Với lý do trên và để phù hợp với cơ chế mới xin đề nghị Quốc hội cho phép đổi tên Bộ Xây dựng hiện nay thành Bộ Xây dựng và phát triển đô thị.

5. Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Bộ Giao thông vận tải và đổi tên thành Bộ Giao thông công chính.

Tháng 12-1994, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh bảo vệ công trình giao thông, trong đó điều 25, 26 của Pháp lệnh này đã quy định rõ nội dung quản lý nhà nước và bảo vệ công trình giao thông và giao cho Bộ Giao thông vận tải thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Bộ có trách nhiệm tổ chức việc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng, kiểm tra và thanh tra việc bảo vệ hệ thống quốc lộ, đường sông Trung ương và đường sắt quốc gia, bảo đảm hệ thống giao thông quốc gia an toàn thông suốt. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành một số văn bản pháp quy quy định chi tiết Pháp lệnh này trong đó có Nghị định 36/CP, Chỉ thị 317/TTg..., giao nhiệm vụ cụ thể cho Bộ Giao thông vận tải trong việc thực hiện Pháp lệnh trên đồng thời chuyển giao một số nhiệm vụ từ Bộ Nội vụ sang cho Bộ Giao thông vận tải phụ trách.

Như vậy, chức năng, nhiệm vụ của Bộ Giao thông vận tải đã được điều chỉnh. Để phù hợp với sự điều chỉnh trên xin đổi tên Bộ Giao thông vận tải thành Bộ Giao thông công chính.

6. Đổi tên Ủy ban Dân tộc và Miền núi thành Ủy ban Dân tộc.

Sau ba năm thực hiện Nghị quyết Quốc hội về việc thành lập Ủy ban Dân tộc và Miền núi, Chính phủ nhận thấy tên gọi của Ủy ban này cần được đổi lại là Ủy ban Dân tộc để phù hợp hơn và làm rõ lĩnh vực công tác mà Ủy ban đang phụ trách. Là một quốc gia có nhiều dân tộc (54 dân tộc) cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Vì vậy, việc tổ chức một Ủy ban liên ngành để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề dân tộc là hết sức cần thiết. Khái niệm miền núi trong tên gọi của Ủy ban không làm rõ lĩnh vực công tác của Ủy ban và thực ra đồng bào các dân tộc thiểu số không chỉ sống ở miền núi mà cả ở đồng bằng và cũng có nơi tuy là miền núi nhưng không có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Để làm rõ được chức năng của Ủy ban này xin đề nghị Quốc hội đổi tên là Ủy ban Dân tộc.

7. Đổi tên Bộ Thủy sản thành Bộ Hải sản: Việt Nam là một quốc gia ven biển với diện tích rộng gấp ba lần lãnh thổ trên đất liền, vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của nước ta chứa đựng nhiều tài nguyên và tiềm năng phong phú để phát triển kinh tế tổng hợp. Cho đến nay các nguồn lợi biển của nước ta mới khai thác được ở mức thấp. Nghề cá còn đang ở trong tình trạng sản xuất nhỏ lạc hậu, vùng gần bờ đã khai thác gần đến mức tối đa, trong khi vùng ngoài khơi xa còn ít được khai thác do chưa nắm vững ngư trường, thiếu phương tiện thích hợp và các điều kiện cần thiết khác. Nghề nuôi trồng thủy sản gần đây phát triển nhưng hầu hết còn quảng canh, năng suất thấp và hiệu quả thấp, v.v.. Với chủ trương phát triển kinh tế biển, sớm đưa nước ta thành một nước mạnh về biển là mục tiêu chiến lược xuất phát từ yêu cầu và điều kiện khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia trên biển. Để từng bước thực hiện mục tiêu trên, Chính phủ thấy rằng, cần điều chỉnh lại chức năng của Bộ Thủy sản tức là chuyển các lĩnh vực thủy sản nội địa do Bộ quản lý hiện nay cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phụ trách để chuyên lo về các lĩnh vực thuộc về biển. Vì vậy, xin đề nghị đổi tên Bộ Thủy sản thành Bộ Hải sản. Việc đổi tên này không phải là hình thức mà làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của Bộ Hải sản nhằm thực hiện chiến lược kinh tế biển.

8. Đổi tên Bộ Nội vụ thành Bộ Công an.

Bộ Công an thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và tổ chức thực hiện việc xây dựng, quản lý, chỉ huy lực lượng Công an nhân dân nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an ninh chính trị.

Như vậy, về cơ bản chức năng của Bộ Công an không có gì thay đổi lớn so với hiện tại. Chỉ có một số mặt công tác có tính chất quản lý hành chính đơn thuần không phục vụ trực tiếp cho chức năng của công an thì sẽ chuyển giao cho Bộ khác đảm nhiệm.

9. Công cuộc đổi mới của ta hiện nay, đặc biệt là việc triển khai cải cách hành chính càng đòi hỏi về mặt tổ chức phải có một cơ quan đủ mạnh trong Chính phủ để đảm nhiệm những mặt công tác có liên quan chặt chẽ với nhau trong lĩnh vực tổ chức nền hành chính nhà nước. Nghiên cứu xây dựng các đề án về tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước; xây dựng các dự án luật, các văn bản pháp quy của Chính phủ về quy chế công chức nhà nước, hệ thống ngạch, bậc, chính sách tiền lương, thang bảng lương, quản lý công chức, viên chức theo sự phân cấp của Chính phủ; tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức nhà nước; quản lý công tác địa giới hành chính; quản lý nhà nước về các Hội và các tổ chức phi Chính phủ, quản lý công tác lưu trữ, giúp Chính phủ thực hiện các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân, Quốc hội, v.v.. Do vậy đề nghị đổi tên Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ thành Bộ Nội vụ. Vấn đề này đã được đề cập trong kỳ họp thứ I của Quốc hội khóa IX. Qua một quá trình thực hiện, với tên gọi như hiện nay không còn phù hợp trong việc đổi mới tổ chức nền hành chính nhà nước, cần được sửa đổi để thể hiện đầy đủ nhiệm vụ mà tổ chức này đang đảm nhiệm.

Một số cơ quan quan hệ đến việc quản lý nhà nước của Bộ này như Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Cơ yếu Chính phủ, Học viện Hành chính quốc gia, sẽ được nghiên cứu để tổ chức lại một cách hợp lý.

Như vậy, cơ cấu tổ chức của Chính phủ từ 20 Bộ và 7 cơ quan ngang Bộ nếu được Quốc hội thông qua sẽ còn 18 Bộ và 4 cơ quan ngang Bộ gồm:

1. Bộ Quốc phòng;

2. Bộ Công an;

3. Bộ Nội vụ;

4. Bộ Ngoại giao;

5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư;

6. Bộ Tài chính;

7. Bộ Thương mại;

8. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường;

9. Bộ Công nghiệp;

10. Bộ Xây dựng và Phát triển đô thị;

11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;

12. Bộ Hải sản;

13. Bộ Giao thông công chính;

14. Bộ Giáo dục và Đào tạo;

15. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội;

16. Bộ Văn hóa - Thông tin;

17. Bộ Y tế;

18. Bộ Tư pháp;

19. Ủy ban Dân tộc;

20. Ngân hàng Nhà nước;

21. Thanh tra Nhà nước;

22. Văn phòng Chính phủ.

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

1. Sắp xếp lại tổ chức là công việc bức bách để chuyển mạnh hoạt động quản lý nhà nước theo mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm sự đồng bộ giữa đổi mới về kinh tế với đổi mới hành chính nhà nước. Nhưng việc thực hiện rất phức tạp đụng chạm đến đông đảo các cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước. Mặt khác, việc chấn chỉnh tổ chức bộ máy hành chính đòi hỏi phải xử lý đồng bộ cả hệ thống tổ chức các cơ quan của Đảng cũng như tổng thể hệ thống chính trị ở nước ta, nhằm khắc phục tình trạng nhiều hệ thống tổ chức cồng kềnh, chồng chéo, trùng lặp và đều hoạt động kém hiệu quả.

Vì vậy, sau khi được Quốc hội thông qua việc sắp xếp lại các cơ quan nói trên, Chính phủ sẽ có phương án tổ chức thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, trong đó có việc ban hành Nghị định mới của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và cơ cấu tổ chức của các Bộ mới, ban hành chính sách đối với cán bộ công chức, viên chức và giải quyết những việc nảy sinh trong khi sắp xếp lại tổ chức.

2. Đồng thời, trong năm 1995 và những năm tiếp theo, Chính phủ sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước: thành lập thêm một số tổng công ty theo hướng tập đoàn kinh doanh ở một số ngành quan trọng theo Quyết định 91/TTg, tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước theo Quyết định 90/TTg. Phân loại các doanh nghiệp nhà nước theo tính chất hoạt động và xây dựng thể chế nhà nước đối với từng loại, xúc tiến cổ phần hóa các doanh nghiệp có điều kiện. Sắp xếp lại các tổ chức sự nghiệp công, các cơ quan nghiên cứu khoa học, các trường đại học, cao đẳng dạy nghề, các bệnh viện, các cơ sở khám, chữa bệnh ở các ngành và địa phương, v.v...

3. Sau khi Chính phủ tiến hành sắp xếp các Bộ, ngành ở Trung ương và Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp thì sẽ chỉ đạo việc sắp xếp lại các tổ chức của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, đặc biệt chú ý kiện toàn chính quyền cơ sở.

Việc tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp cũng như việc đặt các cơ quan chuyên môn của Trung ương tại địa phương phải theo tư tưởng chỉ đạo chung: không nhất thiết Trung ương có Bộ, ngành nào thì ở địa phương cũng có loại cơ quan đó một cách hình thức. Song, không máy móc dập khuôn mà phải tùy theo đặc điểm của từng địa phương để tổ chức hợp lý.

Xin trình Quốc hội xem xét và quyết định.

 

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội