VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 3 1995-1996


TỜ TRÌNH
CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
VỀ DỰ KIẾN CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
TỪ NAY ĐẾN HẾT NHIỆM KỲ QUỐC HỘI KHÓA IX
  

(Do ông Vũ Mão, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
đọc tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa IX,
ngày 13-10-1995)

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin trình Quốc hội một số vấn đề về dự kiến chương trình xây dựng pháp luật từ nay đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX.

I- TÌNH HÌNH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
TỪ ĐẦU NHIỆM KỲ ĐẾN NAY

Nghị quyết của Quốc hội khóa IX về công tác xây dựng pháp luật được thông qua tại kỳ họp thứ 2 (tháng 12-1992) đã xác định: “Nhiệm vụ công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa IX là tiếp tục thể chế hóa cương lĩnh, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật hiện hành, định kế hoạch xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung các văn bản đã ban hành, làm cho hệ thống pháp luật phù hợp với Hiến pháp mới, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội và xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, thực hiện Nghị quyết nói trên, công tác lập pháp từ đầu nhiệm kỳ đến nay đã đạt được một số kết quả và còn có một số tồn tại thiếu sót sau đây:

1. Kết quả đạt được:

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay Quốc hội khóa IX đã ra các nghị quyết về công tác xây dựng pháp luật hằng năm của các năm 1993, 1994, 1995 và hai nghị quyết bổ sung giữa năm 1993, 1994 nhằm xác định những dự án luật, pháp lệnh cần ban hành và các biện pháp chủ yếu để bảo đảm việc triển khai thực hiện chương trình. Riêng chương trình xây dựng pháp luật cả nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX, mặc dù đã qua nhiều lần chuẩn bị, nhưng do quá trình chuyển đổi cơ chế còn nhiều vấn đề phức tạp đặt ra, chưa được tổng kết và nghiên cứu đầy đủ nên vẫn chưa đủ cơ sở đề hoàn chỉnh văn bản, trình Quốc hội xem xét. Trong mấy năm qua, chương trình xây dựng pháp luật đã xác định các lĩnh vực cần ưu tiên thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, là cơ sở pháp lý quan trọng để thúc đẩy việc xây dựng các dự án và là căn cứ để các cơ quan nhà nước tiến hành đánh giá, rút kinh nghiệm về hoạt động lập pháp.

Thực hiện các Chương trình xây dựng pháp luật nói trên, Quốc hội đã thông qua được một bộ luật, 26 luật, một nội quy và bốn quy chế; Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua được 32 pháp lệnh và một số nghị quyết có nội dung pháp luật. So với các nhiệm kỳ trước, đây là một số lượng lớn văn bản luật, pháp lệnh được ban hành trong một thời gian không dài (Xin xem phụ lục số 1).

Các luật và pháp lệnh được thông qua đã thể chế hóa nhiều chủ trương chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước. Nội dung các văn bản được thông qua tương đối toàn diện, bao gồm nhiều lĩnh vực, có ưu tiên cho lĩnh vực trọng tâm là kinh tế (15 đạo luật và 7 pháp lệnh) tập trung vào các vấn đề về thuế, tổ chức các loại hình doanh nghiệp, đầu tư trong nước và nước ngoài, đất đai, dầu khí...; đồng thời cũng chú ý đến các lĩnh vực quan trọng khác như tổ chức bộ máy nhà nước, an ninh, quốc phòng, văn hóa, xã hội, đối ngoại... Các văn bản được ban hành đã góp phần phục vụ việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng trật tự kỷ cương, bảo đảm an ninh quốc phòng, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, góp phần đáp ứng những yêu cầu cấp bách của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Nhiều văn bản sau khi ban hành đã đi vào cuộc sống, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân như: Luật đất đai, Bộ luật lao động, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng, Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính...

Về công tác tổ chức chỉ đạo, thực hiện chương trình, đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội với Chính phủ và các cơ quan hữu quan khác để triển khai thực hiện chương trình xây dựng pháp luật được Quốc hội thông qua; đã có quy định kịp thời về phân công, phân nhiệm, về tiến độ chuẩn bị các dự án; đã sớm hình thành các ban soạn thảo để chuẩn bị dự án từ khi khởi thảo đến khi thông qua. Việc thu hút cán bộ, chuyên gia pháp lý có trình độ, có kinh nghiệm ở các Bộ, ngành, các địa phương đóng góp vào quá trình chuẩn bị dự án đã được chú trọng. Hầu hết các dự án lớn, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mọi người dân như Bộ luật lao động, Bộ luật dân sự, Luật đất đai, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, về chính sách xã hội đều được tổ chức lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp. Trình tự thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội, thông qua pháp lệnh tại các phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội từng bước được cải tiến, bổ sung, để tiến tới hoàn thiện. Việc chuẩn bị các văn bản dưới luật đã có bước tiến bộ, nhiều dự án khi đưa trình Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét đã có dự thảo văn bản dưới luật kèm theo.

2. Những tồn tại, thiếu sót:

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, việc xây dựng chương trình vẫn có chỗ chưa được nghiên cứu đầy đủ, chưa nắm hết tình hình thực tế chuẩn bị của các cơ quan trình dự án; việc xác định hình thức, nội dung của một số dự án để đưa vào chương trình có lúc còn thiếu cơ sở khoa học, thực tiễn và tính pháp lý vững chắc, có lúc còn chủ quan, đơn giản, nên nhìn chung các chương trình được thông qua chưa có tính khả thi cao.

Kết quả thực hiện chương trình xây dựng pháp luật từ đầu nhiệm kỳ đến nay vẫn còn nhiều hạn chế. Về số lượng, chương trình hằng năm thường chỉ thực hiện được từ 50% đến 60%, năm cao nhất cũng chỉ trên 70%. Đáng chú ý là một số dự án đã đưa vào chương trình nhưng chưa được xem xét kỹ về quan điểm chỉ đạo nên gặp nhiều vướng mắc trong quá trình xem xét cụ thể; có dự án phải trình đi trình lại nhiều lần, tốn thời gian, công sức mà vẫn chưa ban hành được. Một số dự án chưa được chuẩn bị chu đáo nên có tình trạng khi trình xem xét, thông qua vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về phạm vi, đối tượng điều chỉnh, nội dung chủ yếu, tính khả thi, tính thống nhất với hệ thống pháp luật và cả về kỹ thuật xây dựng văn bản. Mặt khác, việc triển khai thực hiện chương trình có lúc còn thiếu tính đồng bộ, nhất quán; có luật được ban hành, nhưng các văn bản dưới luật kèm theo chưa được chuẩn bị và ban hành kịp thời nên chậm đi vào cuộc sống. Xin nêu ví dụ:

- Dự án Luật ngân sách nhà nước có trong chương trình từ mấy năm nay, được chuẩn bị khá công phu và đã trình Quốc hội cho ý kiến; các ngành, các cấp, các địa phương và các đại biểu Quốc hội đều có yêu cầu sớm thông qua luật này, nhưng do chưa có chính sách tài chính quốc gia làm cơ sở để xây dựng Luật nên vẫn chưa trình được Quốc hội xem xét thông qua.

- Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua từ kỳ họp thứ 5, nhưng cho đến nay, Pháp lệnh về quyền hạn và nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân mỗi cấp và Pháp lệnh quy định về việc giám sát, hướng dẫn của Ủy ban thường vụ Quốc hội và việc kiểm tra, hướng dẫn của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân vẫn đang chuẩn bị chưa được hoàn chỉnh để đưa ra Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét.

- Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua và Chính phủ đã ra Nghị định để thi hành. Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện đã phát sinh một số vướng mắc. Tại kỳ họp thứ 7, vấn đề này đã được Quốc hội cho ý kiến và giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ nghiên cứu bổ sung một số điều cần thiết. Ủy ban thường vụ Quốc hội cùng Chính phủ đã nghiêm chỉnh chấp hành ý kiến của Quốc hội, tổ chức giám sát, kiểm tra tình hình thi hành pháp luật đất đai tại một số địa phương, nhiều lần thảo luận về những đề nghị sửa đổi, bổ sung của Chính phủ. Đây là vấn đề phức tạp, mặc dù đã khảo sát và nghiên cứu khá công phu, nhưng các cơ quan chức năng vẫn chưa tổng kết và thống kê được đầy đủ tình hình giao đất và cho thuê đất rất đa dạng trong cuộc sống, nên Ủy ban thường vụ Quốc hội chưa đủ cơ sở để xem xét, thông qua việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh. Đây là một thiếu sót, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ cùng Chính phủ khẩn trương giải quyết vấn đề này.

Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện chương trình có lúc còn lúng túng, bị động. Tiến độ chuẩn bị của nhiều dự án còn chậm. Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân có lúc còn mang tính hình thức; có dự án thời gian lấy ý kiến rất ngắn nên nhiều địa phương, nhiều cơ quan không bảo đảm tổ chức triển khai lấy ý kiến đúng kế hoạch và tập hợp đầy đủ ý kiến đóng góp. Quy trình xây dựng các dự án chưa được nghiên cứu, cải tiến kịp thời để bảo đảm tính chủ động trong công tác xây dựng pháp luật và bảo đảm chất lượng của dự án. Một số văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh được dự thảo rất chậm; nhiều văn bản đã ban hành nhưng việc hướng dẫn thực hiện không đồng bộ, thiếu nhất quán nên không thể thi hành được. Mặt khác, một số quy định liên quan đến hoạt động lập pháp tại Quy chế xây dựng luật, pháp lệnh, tại Nội quy kỳ họp Quốc hội cũng có chỗ chưa đầy đủ và rõ ràng nên phần nào ảnh hưởng đến tiến độ chuẩn bị và thủ tục thông qua luật, pháp lệnh.

Nhìn chung, tuy còn có những thiếu sót, tồn tại, công tác xây dựng pháp luật từ đầu nhiệm kỳ đến nay đã có bước tiến bộ đáng kể về xây dựng chương trình và tổ chức thực hiện chương trình, góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới. Có được kết quả trên, trước hết là nhờ sự nỗ lực, có gắng chung của các ngành, các cấp, của cơ quan chủ trì soạn thảo trong quá trình xây dựng dự án; sự đóng góp quan trọng của Chính phủ và các cơ quan hữu quan trong việc chỉ đạo triển khai thực hiện chương trình; sự quan tâm của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể và nhân dân đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu trong quá trình xây dựng và triển khai các đạo luật vào cuộc sống. Về phần mình, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, trên cơ sở xác định vị trí quan trọng của nhiệm vụ lập pháp, đã tích cực thực hiện các hoạt động xây dựng pháp luật, xem xét và kết luận về những vấn đề cơ bản và cả các vấn đề cụ thể thuộc các chính sách lớn, định hướng cho việc soạn thảo, không ngừng nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan thẩm định và quyết định dự án; đồng thời, thực hiện nhiệm vụ giám sát, đôn đốc công tác xây dựng pháp luật và triển khai thi hành pháp luật.

II- DỰ KIẾN CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
TỪ NAY ĐẾN HẾT NHIỆM KỲ QUỐC HỘI KHÓA IX

Trên cơ sở Tờ trình của Chính phủ, kiến nghị về xây dựng luật, pháp lệnh của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số thành viên của Mặt trận, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng dân tộc và một số Ủy ban của Quốc hội, ý kiến của Ủy ban pháp luật và của Văn phòng Quốc hội; sau nhiều lần thảo luận, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin trình Quốc hội về dự kiến chương trình xây dựng pháp luật từ nay đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX.

1. Căn cứ để xây dựng chương trình:

Căn vào Nghị quyết của Đảng và định hướng của Nghị quyết về công tác xây dựng pháp luật được thông qua tại kỳ họp thứ 2, chương trình xây dựng pháp luật từ nay đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX cần tập trung thể chế hóa những vấn đề bức xúc đang được đặt ra vào thời điểm kết thúc kế hoạch 5 năm 1991-1995, bắt đầu kế hoạch 5 năm 1996-2000, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới.

Đồng thời, việc xây dựng chương trình này cũng căn cứ vào thời gian còn lại của nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX. Quốc hội khóa IX được bầu vào tháng 7-1992, nếu tính nhiệm kỳ tròn 5 năm thì đến tháng 7-1997 sẽ bầu Quốc hội khóa mới; như vậy, từ sau kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa IX còn có thể tiến hành ba kỳ họp. Thời gian còn lại của nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX là một cơ sở quan trọng để dự kiến số lượng dự án luật, pháp lệnh phù hợp trong dự kiến chương trình.

2. Nội dung của chương trình:

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, chương trình xây dựng pháp luật từ nay đến hết nhiệm kỳ phải đáp ứng được yêu cầu tiếp tục thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm nhưng đồng thời cũng cần thể hiện tính toàn diện và đồng bộ; vừa căn cứ vào yêu cầu cần thiết trước mắt, vừa chú ý tính khả thi để xác định những dự án mà Quốc hội khóa IX nhất thiết phải hoàn thành trong nhiệm kỳ này và chuẩn bị một bước cho đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa tới. Dự kiến chương trình cần bao gồm nhiều dự án thuộc lĩnh vực kinh tế (ngân sách, thuế, thương mại, đầu tư...); lĩnh vực tư pháp, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội (Bộ luật hình sự, tố tụng hình sự...); các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tổ chức bộ máy nhà nước...; đồng thời, cũng để dành vị trí thích đáng cho lĩnh vực văn hóa, xã hội. Dự kiến chương trình gồm hai phần: chương trình chính thức, chương trình dự bị (Xin xem phụ lục số 1).

a) Về các dự án luật:

Chương trình chính thức gồm có 14 dự án luật, cụ thể là:

1. Luật ngân sách nhà nước;

2. Các luật thuế (trị giá gia tăng, thu nhập dân cư, thu nhập công ty);

3. Luật thương mại;

4. Luật hợp tác xã;

5. Luật giáo dục;

6. Bộ luật hình sự (sửa đổi);

7. Luật về thẩm quyền và trình tự ban hành văn bản pháp luật;

8. Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi);

9. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi);

10. Các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của một số luật về tổ chức bộ máy nhà nước (Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân...);

11. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật về sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam;

12. Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi);

13. Luật dân tộc;

14. Luật khoáng sản.

Trong đó, một số dự án cần tập trung công sức xây dựng để trình Quốc hội thông qua trong nhiệm kỳ này:

1. Luật ngân sách nhà nước;

2. Các luật thuế (trị giá gia tăng, thu nhập dân cư, thu nhập công ty);

3. Luật thương mại;

4. Luật hợp tác xã;

5. Luật giáo dục;

6. Bộ luật hình sự (sửa đổi);

7. Luật về thẩm quyền và trình tự ban hành văn bản pháp luật.

Sau đây, xin trình bày thêm một số vấn đề về các dự án luật nói trên:

- Luật ngân sách nhà nước: có yêu cầu cấp thiết sớm ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc lập, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước. Dự án Luật đã được soạn thảo đến lần thứ 28, được trình xin ý kiến Quốc hội, các ngành, các cấp. Tại kỳ họp này, Chính phủ sẽ trình Quốc hội cho ý kiến về dự thảo đề án chính sách tài chính quốc gia và bản dự thảo Luật đã được chỉnh lý.

- Các luật thuế (trị giá gia tăng - TVA, thu nhập công ty, thu nhập dân cư): Trước sự phát triển của đất nước hiện nay, việc xây dựng và áp dụng thuế trị giá gia tăng (TVA), thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập dân cư sẽ là sự sửa đổi cơ bản có ý nghĩa cải cách nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại của hệ thống thuế hiện hành, phù hợp với cơ chế thị trường và là một bước cần thiết để hòa nhập với hệ thống thuế của các nước trong khu vực và thế giới; tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, thúc đẩy việc áp dụng chế độ kế toán, thống kê đối với các doanh nghiệp; hạn chế thất thu thế, góp phần tăng cường công tác quản lý tài chính của đất nước.

- Luật thương mại: đã được chuẩn bị từ năm 1993. Hiện nay, mới có các văn bản đơn hành, trong đó có các quy định về thương mại như Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế... Để tạo cơ sở pháp lý cho việc mở rộng, phát triển các hoạt động thương mại trong nền kinh tế nhiều thành phần, góp phần thúc đẩy và bảo vệ sản xuất, bảo hộ quyền lợi người tiêu dùng, cần sớm ban hành Luật thương mại, dự kiến Luật này sẽ quy định những vấn đề cơ bản về thương mại như quy chế thương nhân, hành vi thương mại, việc quản lý nhà nước đối với các hoạt động thương mại...

- Luật hợp tác xã: Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước, Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật tạo khung pháp lý cho các loại hình doanh nghiệp hoạt động như Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật phá sản doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật doanh nhiệp nhà nước. Tuy nhiên, đối với khu vực kinh tế hợp tác, cho đến nay vẫn chưa có Luật. Bên cạnh các lý do chủ quan và khách quan dẫn đến việc suy giảm hợp tác xã trong thời gian vừa qua, việc chậm ban hành Luật hợp tác xã cũng là một trong những trở ngại nhất định cho sự mở rộng các hình thức hợp tác được thực tế khẳng định hiện nay. Việc ban hành Luật hợp tác xã là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự ra đời và khẳng định tư cách pháp lý của những mô hình kinh tế hợp tác đích thực trở thành các hợp tác xã, đồng thời, tạo điều kiện để Nhà nước quản lý hợp tác xã theo pháp luật.

­- Luật giáo dục: là dự án có phạm vi điều chỉnh khá rộng và quan trọng, tuy việc chuẩn bị chưa nhiều, nhưng xét thấy chiến lược con người là vấn đề trọng yếu trong chính sách của Đảng và Nhà nước, quan hệ đến sự phát triển của đất nước trong nhiều thập kỷ tới; để tạo cơ sở pháp lý phát triển tốt hơn sự nghiệp giáo dục nước nhà, đề nghị Quốc hội cho chuẩn bị khẩn trương để sớm thông qua luật này.

- Bộ luật hình sự (sửa đổi): Bộ luật này được ban hành năm 1985, có hiệu lực thi hành từ 01-01-1986 và đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần; trước thực tế phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, đã bộc lộ một loạt vấn đề cần được xem xét sửa đổi, bổ sung như: các tội phạm về kinh tế do phát triển nền kinh tế thị trường, do mở rộng hợp tác quốc tế, các vi phạm trật tự quản lý, hành chính, an toàn công cộng đã được quy định phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số luật, pháp lệnh mới ban hành, nay cần cụ thể hóa trong Bộ luật hình sự. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung Bộ luật này một cách cơ bản, toàn diện nhằm thể chế hóa chính sách hình sự của nhà nước ta trong hoàn cảnh mới.

- Luật về thẩm quyền và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Dự án này đã được đưa vào chương trình xây dựng pháp luật năm 1993 và được Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ 3. Do còn một số vấn đề về phạm vi điều chỉnh và nội dung của dự án cần được tiếp tục nghiên cứu nên Quốc hội chưa thông qua và giao cho Chính phủ cùng các cơ quan hữu quan tiếp tục chuẩn bị, hoàn chỉnh dự án để trình Quốc hội tại một kỳ họp khác. Đến nay, qua thực tiễn xây dựng pháp luật và việc tiến hành tổng kết xây dựng luật, pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước ban hành năm 1988, đối chiếu với yêu cầu cải cách nền hành chính quốc gia, vấn đề xác định thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật và cải tiến trình tự thủ tục xây dựng các văn bản pháp luật đã trở thành một yêu cầu hết sức bức xúc, cần trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Về dự án này, có thể xây dựng ở hai mức độ khác nhau:

+ Nếu chỉ hạn chế phạm vi điều chỉnh trong việc xây dựng luật, pháp lệnh thì xin trình Quốc hội cho ban hành Luật về trình tự, thủ tục ban hành luật, pháp lệnh; hoặc trên cơ sở tổng kết tình hình thực hiện Quy chế xây dựng luật, pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước ban hành có những sửa đổi, bổ sung cần thiết thì Quốc hội sẽ ra Nghị quyết ban hành Quy chế xây dựng luật, pháp lệnh.

+ Nếu phạm vi điều chỉnh của dự án luật bao gồm các luật, pháp lệnh, các nghị định, các văn bản khác của Chính phủ và cơ quan thuộc Chính phủ thì Quốc hội ban hành Luật về thẩm quyền và trình tự ban hành văn bản pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ. Tại kỳ họp thứ 3 của Quốc hội, đa số đại biểu Quốc hội đề nghị chọn phương án này.

Trong điều kiện hiện nay, để tập trung xây dựng và sớm ban hành được văn bản này, đề nghị Quốc hội xem xét và cho thực hiện ở mức độ thứ hai với phạm vi điều chỉnh bao gồm các luật, pháp lệnh và văn bản pháp luật của Chính phủ.

Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng đã trao đổi nhiều ý kiến về các dự án: Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi), Các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của một số luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật về sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi), Luật dân tộc, Luật khoáng sản và nhận thấy các dự án này đều có yêu cầu cấp thiết ban hành và đều đã được chuẩn bị, nên đề nghị Quốc hội xem xét để đưa vào chương trình chính thức.

Chương trình dự bị gồm có 18 dự án luật, cụ thể là:

1. Bộ luật tố tụng dân sự;

2. Luật xây dựng;

3. Luật tài nguyên nước;

4. Luật bưu chính viễn thông;

5. Luật ngân hàng;

6. Luật hải quan;

7. Luật về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

8. Luật thanh niên;

9. Luật khen thưởng;

10. Luật thi hành án;

11. Luật lập hội;

12. Luật biên giới quốc gia;

13. Luật khoa học, công nghệ;

14. Luật công ty (sửa đổi);

15. Luật doanh nghiệp tư nhân (sửa đổi);

16. Luật quốc tịch (sửa đổi);

17. Luật phòng, chống ma túy;

18. Luật phòng cháy, chữa cháy;

Xét về mặt yêu cầu, các dự án này đều cần thiết phải được ban hành để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước nhà, nhưng do xem xét yêu cầu chung, vì điều kiện thời gian của Quốc hội có hạn và căn cứ vào tình hình chuẩn bị dự án, xin xếp các dự án này vào chương trình dự bị. Đồng thời, đề nghị các ban soạn thảo cần khẩn trương chuẩn bị, hoàn chỉnh văn bản để nếu có điều kiện thời gian và xét thấy dự án đã được chuẩn bị tốt thì có thể trình Quốc hội xem xét thông qua. Số lượng các dự án này khá lớn, vừa dự bị cho chương trình cuối nhiệm kỳ khóa IX, vừa chuẩn bị một bước cho thời gian đầu của nhiệm kỳ Quốc hội khóa X, nhằm bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa trong công tác xây dựng pháp luật.

b) Về các dự án pháp lệnh:

Về việc ban hành pháp lệnh, hiện có ý kiến cho rằng, nên hạn chế việc ban hành pháp lệnh, cần xây dựng luật cho các lĩnh vực ưu tiên hàng đầu, trường hợp chưa thể xây dựng luật thì để Chính phủ ban hành nghị định nhằm đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn và chuẩn bị điều kiện cho việc ban hành luật sau này.

Qua quá trình thảo luận, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy do điều kiện thời gian của Quốc hội có hạn, không thể ban hành văn bản luật cho tất cả các lĩnh vực có yêu cầu mà tập trung xây dựng luật về những vấn đề có yêu cầu bức xúc nhất, điều chỉnh các quan hệ đã tương đối ổn định về các lĩnh vực tổ chức bộ máy, quyền cơ bản của công dân, chính sách thuế, các chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại..., nâng một số pháp lệnh lên thành luật; Ủy ban thường vụ Quốc hội tiếp tục ban hành pháp lệnh về các lĩnh vực được Quốc hội giao nhằm quy định cụ thể một số vấn đề mà các luật còn để lại (như một số vấn đề về đất đai, lao động, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân...) hoặc một số vấn đề chưa có điều kiện ban hành luật; Chính phủ ra văn bản pháp quy để xử lý kịp thời các vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh trong quá trình quản lý điều hành đất nước, sau một quá trình thực hiện sẽ xem xét nâng lên thành luật hoặc pháp lệnh. Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị cần tiếp tục ban hành pháp lệnh còn vì trong thực tế, những pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước trước đây và Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành trong thời gian qua đã đáp ứng nhiều yêu cầu cấp thiết và được thực hiện có hiệu quả trong cuộc sống.

Với tinh thần đó, dự kiến có 26 dự án pháp lệnh trong chương trình xây dựng pháp luật từ nay đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX, trong đó có:

12 dự án pháp lệnh mới được kiến nghị:

1. Pháp lệnh về du lịch;

2. Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế (sửa đổi);

3. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế;

4. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước để tặng nhà giáo, thày thuốc, nghệ sĩ;

5. Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự (sửa đổi);

6. Pháp lệnh kiểm soát bức xạ;

7. Pháp lệnh trọng tài thương mại;

8. Pháp lệnh về người tàn tật;

9. Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động của tổ chức hòa giải cơ sở;

10. Pháp lệnh tình báo;

11. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất;

12. Pháp lệnh về tổ chức giám sát của nhân dân.

14 dự án thuộc chương trình xây dựng pháp luật năm 1995 chuyển sang:

1. Pháp lệnh về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân mỗi cấp;

2. Pháp lệnh quy định về việc giám sát, hướng dẫn của Ủy ban thường vụ Quốc hội và việc kiểm tra hướng dẫn của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân;

3. Pháp lệnh về công chức;

4. Pháp lệnh về phí và lệ phí;

5. Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động;

6. Pháp lệnh tố tụng hành chính;

7. Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ quốc gia (sửa đổi);

8. Pháp lệnh tổ chức luật sư (sửa đổi);

9. Pháp lệnh về dân quân tự vệ;

10. Pháp lệnh về xây dựng lực lượng dự bị;

11. Pháp lệnh về Bộ đội biên phòng;

12. Pháp lệnh về tôn giáo;

13. Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;

14. Pháp lệnh về nhà vắng chủ.

3. Một số biện pháp chính trong việc thực hiện chương trình:

Để đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật từ nay đến hết nhiệm kỳ và nhằm hoàn thành được chương trình đề ra, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị cần thực hiện tốt một số biện pháp chính sau đây:

a) Tiếp tục rút kinh nghiệm về việc thực hiện Quy chế xây dựng luật, pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước ban hành, để cải tiến hơn nữa trình tự, thủ tục xây dựng luật, pháp lệnh; trên cơ sở đó tiếp tục triển khai xây dựng và sớm hoàn thiện việc chuẩn bị dự án Luật về lĩnh vực này để trình Quốc hội xem xét, thông qua.

b) Tăng cường sự phối hợp giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ để chỉ đạo, giám sát, kiểm tra các cơ quan, ban, ngành hữu quan triển khai thực hiện chương trình theo sự phân công và bảo đảm tiến độ đã đề ra. Căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ mới và tình hình chuẩn bị các dự án, Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến việc sắp xếp các dự án trình Quốc hội xem xét, thông qua tại các kỳ họp Quốc hội sắp tới.

Trong quá trình chuẩn bị các dự án, cần đặc biệt chú ý đến việc quán triệt các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng nội dung chủ yếu của các dự án ngay từ đầu để bảo đảm tiến độ đã đề ra, tránh việc phải làm đi làm lại nhiều lần đối với một dự án.

c) Đề nghị Quốc hội xem xét để dành thêm thời gian cho hoạt động lập pháp, có thể tăng thêm thời gian trong các kỳ họp sắp tới hoặc có một kỳ họp chuyên về công tác lập pháp.

d) Tạo thêm điều kiện thuận lợi nhằm bảo đảm hiệu quả của công tác lập pháp; trước hết là xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật ở các ngành, các cấp; đồng thời, có biện pháp thu hút rộng rãi trí tuệ, ý kiến đóng góp của nhân dân, của các chuyên gia, các ngành, các cấp vào việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh.

Trên đây là một số vấn đề về tình hình thực hiện chương trình xây dựng pháp luật từ đầu nhiệm kỳ đến nay, dự kiến chương trình xây dựng pháp luật từ nay đến hết nhiệm kỳ; Ủy ban thường vụ Quốc hội xin trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến, trên cơ sở đó ra Nghị quyết về chương trình xây dựng pháp luật từ nay đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX.

 

 

 


 

Phụ lục 1:

DANH MỤC CÁC DỰ ÁN LUẬT, PHÁP LỆNH

ĐƯỢC QUỐC HỘI, ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI KHÓA IX

THÔNG QUA TỪ ĐẦU NHIỆM KỲ ĐẾN NAY

(tháng 9-1992 đến tháng 10-1995)

A. CÁC LUẬT ĐƯỢC QUỐC HỘI THÔNG QUA

I- KỲ HỌP THỨ NHẤT (tháng 9-1992)

1. Luật tổ chức Chính phủ;

2. Luật tổ chức Tòa án nhân dân;

3. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

II- KỲ HỌP THỨ HAI (tháng 12-1992)

1. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự;

2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự;

3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

III- KỲ HỌP THỨ BA (tháng 6-1993)

1. Luật đất đai;

2. Luật dầu khí;

3. Luật xuất bản;

4. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp;

5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt;

6. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế doanh thu;

7. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;

8. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế lợi tức.

IV- KỲ HỌP THỨ TƯ (tháng 12-1993)

1. Luật bảo vệ môi trường;

2. Luật phá sản doanh nghiệp;

3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân.

V- KỲ HỌP THỨ NĂM (tháng 6-1994)

1. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi);

2. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi);

3. Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất;

4. Luật khuyến khích đầu tư trong nước;

5. Luật sửa đổi Luật doanh nghiệp tư nhân;

6. Luật sửa đổi Luật công ty;

7. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự;

8. Bộ luật lao động.

VI- KỲ HỌP THỨ SÁU (tháng 10-1994)

Không xem xét thông qua Luật (do chuyển thời gian bắt đầu kỳ họp cuối năm sớm hơn trước hai tháng).

VII- KỲ HỌP THỨ BẢY (tháng 4-1995)

1. Luật doanh nghiệp nhà nước;

2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hàng không dân dụng Việt Nam.

VIII- KỲ HỌP THỨ TÁM DỰ KIẾN XEM XÉT THÔNG QUA (tháng 10-1995)

1. Bộ luật dân sự;

2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân (về Tòa hành chính và Tòa lao động);

3. Các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế doanh thu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và biểu thuế nhập khẩu.

B. CÁC PHÁP LỆNH ĐƯỢC
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI THÔNG QUA

I- NĂM 1993

1. Pháp lệnh thú y;

2. Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật;

3. Pháp lệnh phòng, chống lụt bão;

4. Pháp lệnh thi hành án phạt tù;

5. Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án và quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài;

6. Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự;

7. Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự;

8. Pháp lệnh thi hành án dân sự;

9. Pháp lệnh kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;

10. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân;

11. Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam;

12. Pháp lệnh về hành nghề y, dược;

13. Pháp lệnh về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;

14. Pháp lệnh về cơ quan đại diện ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam.

II. NĂM 1994

1. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế;

2. Pháp lệnh thuế bổ sung đối với hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp vượt quá mức diện tích;

3. Pháp lệnh bảo vệ công trình quốc phòng và khu vực quân sự;

4. Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (sửa đổi);

5. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về thuế nhà, đất.

6. Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi;

7. Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”;

8. Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng;

9. Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất;

10. Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức nước ngoài thuê đất tại Việt Nam;

11. Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả;

12. Pháp lệnh bảo vệ công trình giao thông;

13. Pháp lệnh về khai thác và bảo vệ công trình khí tượng thủy văn.

III. NĂM 1995 (trong 9 tháng đầu năm)

1. Pháp lệnh về hàm, cấp ngoại giao;

2. Pháp lệnh phòng, chống nhiễm vi rút gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS);

3. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính;

4. Pháp lệnh sửa đổi Điều 6 của Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam;

5. Pháp lệnh về công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài.


 

Phụ lục 2:

DỰ KIẾN DANH MỤC CỦA DỰ ÁN LUẬT, PHÁP LỆNH

THUỘC CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT

TỪ NAY ĐẾN HẾT NHIỆM KỲ QUỐC HỘI KHÓA IX

A. CÁC DỰ ÁN LUẬT

Chương trình chính thức

1. Luật ngân sách nhà nước;

2. Các luật thuế (trị giá gia tăng, thu nhập dân cư, thu nhập công ty);

3. Luật thương mại;

4. Luật hợp tác xã;

5. Luật giáo dục;

6. Bộ luật hình sự (sửa đổi);

7. Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi);

8. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi);

9. Các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của một số luật về tổ chức bộ máy nhà nước (Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân...);

10. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật về sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam;

11. Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi);

12. Luật dân tộc;

13. Luật khoáng sản;

14. Luật về thẩm quyền và trình tự ban hành văn bản pháp luật (trình Quốc hội xem xét thêm về phạm vi điều chỉnh).

Chương trình dự bị

1. Bộ luật tố tụng dân sự;

2. Luật xây dựng;

3. Luật tài nguyên nước;

4. Luật bưu chính viễn thông;

5. Luật ngân hàng;

6. Luật hải quan;

7. Luật về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

8. Luật thanh niên;

9. Luật khen thưởng;

10. Luật thi hành án;

11. Luật lập hội;

12. Luật biên giới quốc gia;

13. Luật khoa học, công nghệ;

14. Luật công ty (sửa đổi);

15. Luật doanh nghiệp tư nhân (sửa đổi);

16. Luật quốc tịch (sửa đổi);

17. Luật phòng, chống ma túy;

18. Luật phòng cháy, chữa cháy;

B. CÁC DỰ ÁN PHÁP LỆNH

(26 DỰ ÁN)

1. Các dự án pháp lệnh còn lại của chương trình xây dựng pháp luật năm 1995 chuyển sang:

1. Pháp lệnh về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân mỗi cấp;

2. Pháp lệnh quy định về việc giám sát, hướng dẫn của Ủy ban thường vụ Quốc hội và việc kiểm tra hướng dẫn của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân;

3. Pháp lệnh về công chức;

4. Pháp lệnh về phí và lệ phí;

5. Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động;

6. Pháp lệnh tố tụng hành chính;

7. Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ quốc gia (sửa đổi);

8. Pháp lệnh tổ chức luật sư (sửa đổi);

9. Pháp lệnh về dân quân tự vệ;

10. Pháp lệnh về xây dựng lực lượng dự bị;

11. Pháp lệnh về Bộ đội biên phòng;

12. Pháp lệnh về tôn giáo;

13. Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;

14. Pháp lệnh về nhà vắng chủ.

2. Các dự án pháp lệnh mới kiến nghị đưa vào chương trình xây dựng pháp luật từ nay đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX:

1. Pháp lệnh về du lịch;

2. Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế (sửa đổi);

3. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế;

4. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước để tặng nhà giáo, thày thuốc, nghệ sĩ;

5. Pháp lệnh điều tra hình sự (sửa đổi);

6. Pháp lệnh kiểm soát bức xạ;

7. Pháp lệnh trọng tài thương mại;

8. Pháp lệnh về người tàn tật;

9. Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động của tổ chức hòa giải cơ sở;

10. Pháp lệnh tình báo;

11. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất;

12. Pháp lệnh về tổ chức giám sát của nhân dân.


 

Phụ lục 3:

CÁC DỰ ÁN LUẬT TRÌNH QUỐC HỘI THÔNG QUA

TẠI CÁC KỲ HỌP THỨ 9, 10, 11

I- KỲ HỌP THỨ 9 (tháng 4-1996)

1. Luật ngân sách nhà nước;

2. Luật khoáng sản;

3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật về sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam;

4. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi);

5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân;

6. Luật về thẩm quyền và trình tự ban hành luật, pháp lệnh;

7. Luật hợp tác xã.

II- KỲ HỌP THỨ 10 (tháng 10-1996)

1. Bộ luật hình sự (sửa đổi);

2. Các luật thuế (trị giá gia tăng, thu nhập dân cư, thu nhập công ty);

3. Luật thương mại;

4. Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi).

III- KỲ HỌP THỨ 11 (tháng 4-1997)

1. Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi);

2. Luật giáo dục;

3. Các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của một số luật về tổ chức bộ máy nhà nước;

4. Luật dân tộc;

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội
 

Về trang mục lục

Trở về đầu trang