BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ TẠI KỲ HỌP THỨ 6, QUỐC HỘI KHOÁ II
(Do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày, ngày 29-4-1963)
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Tôi xin thay mặt Chính phủ kính chào các vị đại biểu.
Tôi xin trình với các vị đại biểu bản báo cáo của Chính phủ. Bản báo cáo gồm ba phần:
Phần I: Phần chủ yếu: Tình hình miền Bắc và những vấn đề lớn của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Phần II: Phong trào yêu nước ở miền Nam.
Phần III: Tình hình quốc tế và chính sách ngoại giao của nước ta.
*
* *
PHẦN I
TRÊN CON ĐƯỜNG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA KẾ HOẠCH
5 NĂM LẦN THỨ NHẤT
I- KIỂM ĐIỂM TÌNH HÌNH VÀ CÔNG TÁC NHỮNG THÀNH TÍCH TRONG MẤY NĂM QUA
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Tính đến nay, 5 năm đã qua kể từ khi nhân dân ta hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ khôi phục kinh tế, bắt tay thực hiện kế hoạch ba năm 1958 – 1960 nhằm cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá. 5 năm ấy đã ghi những biến đổi cách mạng sâu sắc và những thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội ở miền Bắc.
1- Trong một thời gian ngắn, cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa các thành phần kinh tế cá thể và kinh tế tư bản chủ nghĩa tư doanh đã giành được thắng lợi có tính chất quyết định. Cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp đã phát triển nhanh, gọn và lành mạnh. Đó là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đối với nền nông nghiệp nước ta.
Công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp đã kịp thời phát huy những thành quả của cải cách ruộng đất, tránh được sự phân hoá giai cấp ở nông thôn. Những người nông dân tổ chức lại trong các hợp tác xã có thêm lực lượng để tăng vụ và khai hoang, phát triển tiểu thuỷ nông, làm phân bón, cải tiến công cụ, áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến, do đó mà từng bước phát triển sản xuất nông nghiệp một cách toàn diện, nâng cao thu hoạch so với cách làm ăn riêng lẻ, cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của xã viên, đổi mới dần bộ mặt của nông thôn. Sự đoàn kết, giúp đỡ nhau trong nội bộ nông dân được tăng cường. Các công tác giáo dục, văn hoá, y tế, tổ chức dân quân, giữ gìn trị an… đều có nhiều tiến bộ. Hợp tác xã ngày càng làm tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước. Những thắng lợi đó chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và nhiệt tình cách mạng của nông dân nước ta.
Thành phần kinh tế quốc doanh từ năm 1958 đến năm 1962 đã tiếp tục lớn mạnh nhanh chóng, ngày càng củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, kinh tế quốc doanh đã chiếm ưu thế tuyệt đối – với tỷ trọng từ 80% trở lên, trong tất cả các ngành chỉ trừ nông nghiệp, nhưng trong nông nghiệp chúng ta quyết phấn đấu nhằm phát triển nông trường quốc doanh đúng hướng và mạnh mẽ.
Như vậy là ở miền Bắc, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, dưới hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, đang được củng cố từng bước. Đây là một biến đổi cách mạng to lớn và sâu sắc, đánh dấu việc căn bản hoàn thành một nhiệm vụ cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa - nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, mở đầu một giai đoạn mới, chuyển sang lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, đồng thời tiếp tục củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất.
2- Từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng, bắt đầu với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, chúng ta đã ra sức thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Cho đến nay, lực lượng sản xuất của nền kinh tế quốc dân đã lớn mạnh lên khá rõ rệt so với trước.
Các ngành công nghiệp chủ yếu đang thành hình và phát triển thành một hệ thống cân đối. Chúng ta đã và đang xây dựng những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng như điện lực, cơ khí chế tạo, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng và của các ngành công nghiệp nhẹ quan trọng như đường, giấy, dệt… Từ năm 1958 đến năm 1962, số xí nghiệp công nghiệp Trung ương đã tăng lên gần gấp đôi và màng lưới công nghiệp địa phương sản xuất ra hơn một nửa giá trị sản lượng công nghiệp đã thành hình. Năng lượng điện trong 5 năm đã tăng lên gấp rưỡi. Ngành cơ khí năm 1958 mới bắt đầu chế tạo máy công cụ, đến năm 1962 đã cung cấp được 38% nhu cầu về thiết bị lẻ cho các ngành, sản xuất được ngày càng nhiều máy bơm nước và các loại nông cụ cải tiến. Ngành hoá chất năm 1958 chưa có cơ sở nào, đến năm 1962 đã có thể cung cấp cho nông nghiệp hơn bảy vạn tấn phân bón và hàng ngàn tấn thuốc trừ sâu…
Trong nông nghiệp, do những cố gắng to lớn của Nhà nước và nhân dân để phát triển thuỷ lợi, diện tích được tưới nước năm 1962 tăng 76 vạn hécta so với năm 1957 và hiện nay 80% diện tích cấy lúa đã có nước tưới. Về mặt mở rộng diện tích, trong 5 năm chúng ta đã khai hoang được trên 20 vạn hecta, bằng 10% diện tích canh tác và mở thêm diện tích gieo trồng bằng tăng vụ được 50 vạn hécta. Các nông trường quốc doanh đã phát triển khá nhanh, với những thiết bị và kỹ thuật hiện đại. Lực lượng của các hợp tác xã về nông cụ cải tiến, sức kéo, chuồng trại, nhà kho… cũng được tăng cường thêm một bước.
Về đội ngũ lao động biết nghề, năm 1962 các ngành sản xuất có gần 17 vạn công nhân kỹ thuật, tăng gấp 6 lần so với 5 năm trước. Năm 1962, số cán bộ có trình độ kỹ thuật trung cấp là ba vạn bảy nghìn người, tăng gấp 17 lần so với năm 1957 và số cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học vào khoảng một vạn người, tăng gần 12 lần so với năm 1957. Hiện nay, tình trạng thiếu cán bộ và công nhân kỹ thuật đã được giải quyết dần. Cơ sở đào tạo cán bộ và công nhân được mở rộng nhanh chóng bằng nhiều hình thức và chất lượng đào tạo dần dần được nâng cao.
3- Trên cơ sở quan hệ sản xuất đổi mới và theo đà từng bước tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật của nền kinh tế, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và nói chung mọi hoạt động kinh tế tài chính ở miền Bắc đã phát triển với tốc độ khá nhanh. Từ năm 1958 đến năm 1962, bình quân hàng năm giá trị tổng sản lượng công nông nghiệp đã tăng hơn 10%. Về nông nghiệp, giá trị sản lượng trong 5 năm tăng bình quân hàng năm 5,3%, hai năm gần đây hàng năm tăng 6,9%. Sản lượng lương thực (quy ra thóc) trong 5 năm tăng bình quân 4,5%. Điều đáng nêu ở đây là chúng ta đã dần dần thấy rõ vị trí trọng yếu của hoa màu, tích cực mở rộng diện tích trồng màu: năm 1962 tăng trên 57% so với năm 1958 và đưa tỷ trọng hoa màu trong sản lượng lương thực từ khoảng 11% mấy năm trước lên hơn 20% năm 1962 và còn phải nâng tỷ trọng ấy cao hơn nữa.
Vấn đề lương thực là vấn đề quan trọng nhất của chúng ta. Chúng ta quyết phấn đấu đúng hướng và bền bỉ để giải quyết vấn đề ấy. Nhưng so với thời trước, tình hình lương thực miền Bắc đã thay đổi hẳn: trước chiến tranh, dân số miền Bắc có quãng 12 triệu người, Bắc bộ có 8 triệu người, vậy mà hàng năm Bắc bộ phải nhập từ 5 đến 10 vạn tấn gạo để đủ cung cấp cho dân thành thị, còn nông thôn thì nghèo đói kinh niên, hàng vạn người chết đói lúc giáp hạt hoặc thiên tai. Hiện nay, nhân khẩu miền Bắc đã tăng lên quá 17 triệu người. Tuy nhiên, chúng ta đã bước đầu giải quyết vấn đề lương thực và chúng ta đương phấn đấu để giải quyết hẳn vấn đề ấy.
Phải thấy rõ sự quan trọng của lương thực đồng thời phải nhận rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa lương thực, chăn nuôi và cây công nghiệp. Phải đi tới một sự cân đối tốt giữa ba mặt chủ chốt đó của nông nghiệp. Về mặt này, mấy năm gần đây, chúng ta đã có cố gắng và thu được những thành tích bước đầu: bên cạnh lương thực, giá trị sản lượng cây công nghiệp lên đều, bình quân hàng năm 7,3%. Diện tích trồng cây công nghiệp trong 5 năm đã tăng gần gấp đôi. Từ năm 1958 đến nay, đàn trâu tăng trên 24 vạn con, đàn lợn tăng một triệu 29 vạn con. Ngoài ra, nghề nuôi cá phát triển mạnh, năm 1962 tăng gấp 5 lần năm 1958. Diện tích trồng cây gây rừng được mở rộng gấp 7 lần trong vòng 5 năm.
Về mặt công nghiệp, giá trị sản lượng tăng nhanh, từ năm 1958 đến nay bình quân hàng năm tăng gần 20%. Tỷ trọng của công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng công nông nghiệp từ 32,2% năm 1958 đã tăng lên 46,7% năm 1962. Cơ cấu của công nghiệp cũng thay đổi rõ rệt: tỷ trọng của nhóm A trong giá trị sản lượng công nghiệp từ 25,5% năm 1958 đã tăng lên 37% năm 1962.
Nhờ xây dựng mới và mở rộng những cơ sở công nghiệp nặng chủ yếu, sản lượng của các ngành cơ khí, điện lực, nhiên liệu, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng… đã tăng nhanh gấp trên dưới hai lần so với tốc độ tăng trung bình của toàn ngành công nghiệp.
Công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm đã sản xuất được phần lớn hàng tiêu dùng, bao gồm nhiều mặt hàng quan trọng như vải, đường, giấy, đồ sành sứ, đồ sắt tráng men, các loại thuốc thông dụng… Hai năm 1961 và 1962, trong tổng số hàng công nghiệp tiêu dùng đã bán ra, số lượng nhập khẩu chỉ non 10%, còn trên 90% là do công nghiệp và thủ công nghiệp trong nước cung cấp. Đây là một thành tích to lớn của chúng ta trên con đường xây dựng nền kinh tế tự chủ của nước nhà.
Tình hình thương nghiệp, tài chính, ngân hàng cũng có nhiều tiến bộ. Nền thương nghiệp xã hội chủ nghĩa của chúng ta đã ra sức phục vụ đời sống của nhân dân, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, với những cố gắng bền bỉ về các mặt thu mua, cung cấp, bình ổn vật giá… Nhận thức về vai trò và tác dụng cực kỳ quan trọng của ngoại thương đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội dần dần được quán triệt trong các ngành, các cấp, chủ trương tích cực tăng xuất để tăng nhập và thăng bằng ngoại thương đã dần dần trở thành khẩu hiệu chiến đấu chung của nhiều ngành sản xuất cũng như của cơ quan chuyên trách xuất nhập khẩu.
Cơ cấu thu chi thay đổi rõ rệt theo chiều hướng tốt, phần đóng góp của kinh tế quốc doanh cho ngân sách tăng nhanh và đã trở thành nguồn thu chủ yếu. Ngân sách nhà nước thể hiện những bước tiến của nền kinh tế và phản ánh ngày càng rõ tính chất xã hội chủ nghĩa của chế độ ta. Một thành tích đáng kể là tỷ trọng số thu ngoài nước trong ngân sách từ gần 39% năm 1957 đã giảm xuống 20% năm 1962. Công tác ngân hàng đã phát triển đúng hướng và góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế. Trên cơ sở sản xuất phát triển, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh và thu chi tài chính thăng bằng, sức mua của đồng tiền của ta ngày càng củng cố.
4- Đi đôi với công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, trong 5 năm qua, cuộc cách mạng văn hoá và tư tưởng đã được đẩy mạnh, sự nghiệp phát triển giáo dục, khoa học, kỹ thuật, văn hoá, y tế, thể dục, thể thao đã thu được những thành tích tốt đẹp.
Về mặt giáo dục từ năm 1958 đến năm 1962, số học sinh phổ thông đã tăng hơn hai lần rưỡi. Nhiều xã miền xuôi, nhiều huyện miền núi đã có trường cấp II. Ngày nay, số học sinh lớp 10 ở một tỉnh dân số trung bình tại vùng đồng bằng đông gấp mấy lần tổng số học sinh tương đương lớp 10 ở toàn Đông Dương ngày trước. Trong vòng 5 năm, số sinh viên đại học cũng như số học sinh trường trung cấp chuyên nghiệp đều đã tăng lên khoảng 8 lần. Chúng ta đã phát triển mạnh bổ túc văn hoá: nội dung, tổ chức và phương pháp học tập ngày càng được cải tiến, hiện nay đã có hơn một triệu 50 vạn học viên.
Tốc độ phát triển giáo dục rất nhanh và vượt xa tốc độ phát triển kinh tế. Hiện nay, công tác giáo dục đang đặt ra những vấn đề lớn mà chúng ta phải nghiên cứu để giải quyết kịp thời.
Nền khoa học - kỹ thuật trẻ tuổi của chúng ta đang được xây dựng từng bước, gắn liền với công cuộc nghiên cứu để giải quyết những vấn đề khoa học - kỹ thuật trong quá trình thực hiện kế hoạch Nhà nước, gắn liền với sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, với phong trào thi đua hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật. Các bộ môn khoa học - kỹ thuật đã được xây dựng từng bước và đã có những đóng góp thiết thực đối với sản xuất. Công tác phổ biến khoa học thường thức được coi trọng và đương phát huy tác dụng rộng rãi trong nhân dân.
Công tác văn hoá phát triển nhanh, có nội dung lành mạnh, chất lượng ngày càng được nâng cao, nhằm đúng hướng phục vụ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và xây dựng con người mới. Số sách báo xuất bản hàng năm ngày nay gấp 15 lần so với toàn Đông Dương hồi Pháp thuộc. Nhân dân lao động nước ta ngày nay đương làm quen với những tác phẩm lớn trong kho tàng văn học dân tộc cũng như nhiều tác phẩm lớn của văn học thế giới, nhiều người đã tham gia thảo luận sôi nổi về các bộ phim, các vở kịch, các cuốn tiểu thuyết mới của Việt Nam cũng như của nước ngoài. Ở miền Bắc ngày nay, nhiều xã có ban hát chèo, nhiều xí nghiệp có đội văn nghệ nghiệp dư, hầu khắp các đơn vị cơ sở đều có thư viện hoặc tủ sách. Công tác văn hóa ở miền núi đã có nhiều tiến bộ. Nền văn học nghệ thuật ở miền Bắc là một nền văn học xã hội chủ nghĩa đang trên đà lớn mạnh. Mấy năm qua, trong các ngành điện ảnh, văn, thơ, kịch, hoạ, nhạc, vũ… đều đã có những thành công bước đầu, được dư luận khen ngợi. Việc bảo tồn, bảo tàng những di tích quý giá của thời trước, việc phát hiện, sưu tầm và bước đầu nghiên cứu những di sản tốt đẹp của nền văn hoá và văn nghệ của dân tộc đều được coi trọng đúng mức. Việc trao đổi văn hoá với nước ngoài tiếp tục phát triển. Tất cả những điều kể trên làm cho đời sống văn hoá và đời sống tinh thần của nhân dân miền Bắc có sự đổi mới rõ rệt so với trước và chứng tỏ tính ưu việt của chế độ ta.
Công tác y tế đã khắc phục nhiều khó khăn, đẩy lùi được những bệnh xã hội mà chế độ cũ không giải quyết được, như bệnh tả, bệnh dịch hạch, bệnh đậu mùa, bệnh sốt rét, bệnh lao, bệnh hủi… Công tác y tế đã có nhiều thành tích trong việc phát động và tổ chức phong trào vệ sinh ở nông thôn, giữ gìn sức khoẻ cho công nhân và cán bộ, bảo vệ các bà mẹ và trẻ em, phát triển màng lưới y tế, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ trong ngành, nâng cao chất lượng công tác điều trị, kết hợp đông và tây y, sản xuất các loại thuốc. Những thành tựu của chúng ta về phòng và chống bệnh lao, về mổ xẻ, về trị bệnh bại liệt trẻ con với vắc-xin do ta chế tạo… đã có tiếng vang tốt đẹp ra ngoài nước. Ngày nay, tỷ lệ tử vong so với dân số nước ta đã giảm đi rất nhiều so với thời trước, đặc biệt tỷ lệ tử vong của người mẹ và trẻ con mới đẻ giảm xuống rất nhanh chóng.
Phong trào thể dục, thể thao có tính chất quần chúng đã lôi cuốn trên dưới bốn triệu người lao động và thanh niên học sinh. Với số quần chúng tham gia rộng rãi, với những thành tựu bước đầu đầy hứa hẹn, phong trào thể dục, thể thao đã có tác dụng tích cực trong việc bồi dưỡng sức khỏe của nhân dân và góp phần đẩy mạnh sản xuất.
5- Trên cơ sở thắng lợi của cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề “ai thắng ai” ở miền Bắc về căn bản đã được giải quyết, giai cấp bóc lột và chế độ bóc lột về căn bản đã bị xoá bỏ, khối đoàn kết của nhân dân lao động được tăng cường.
Trong mấy năm qua, sinh hoạt dân chủ ở miền Bắc tiếp tục được mở rộng, nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế ngày càng đông đảo, trực tiếp và thiết thực hơn. Đồng thời, nền pháp chế xã hội chủ nghĩa được tăng cường, nghĩa vụ và quyền lợi của người công dân được quy định rõ ràng hơn, nhằm giải quyết đúng mối quan hệ giữa người dân với Nhà nước, với xã hội. Với Luật hôn nhân và gia đình, sự bình đẳng giữa nam nữ dần dần được thể hiện trong đời sống. Trong khi tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta đã luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, làm tốt cuộc vận động bảo vệ trị an, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của bọn tay sai của Mỹ - Diệm và bọn phản cách mạng khác còn lén lút trên miền Bắc.
Nhà nước dân chủ nhân dân trong mấy năm qua đã không ngừng lớn mạnh để quản lý kinh tế và văn hoá, quản lý toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân. Từ năm 1960, việc thi hành Hiến pháp mới, thi hành các đạo luật tổ chức Hội đồng Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc kiện toàn các cơ quan quyền lực và các cơ quan hành chính của Nhà nước. Bộ máy chính quyền từ Trung ương đến địa phương đã được tăng cường thêm theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong mấy năm qua, công cuộc củng cố quốc phòng đã có nhiều tiến bộ. Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vũ trang, các lực lượng nhân dân vũ trang đã làm tròn nhiệm vụ giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ sản xuất, bảo vệ đời sống hoà bình của nhân dân, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, kịp thời đập tan mọi âm mưu phá hoại của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Những thành tích tốt đẹp về giáo dục chính trị và huấn luyện quân sự đã nâng cao ý thức giác ngộ cách mạng, trình độ chiến thuật, kỹ thuật của các lực lượng vũ trang. Đồng thời, với việc xây dựng quân đội thường trực “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy, hiện đại”, lực lượng dân quân tự vệ và quân dự bị được củng cố một cách thuận lợi. Chúng ta nhiệt liệt khen ngợi Quân đội nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã nêu cao truyền thống anh dũng của mình trong việc học tập, rèn luyện cũng như trong việc giữ gìn an ninh và bảo vệ biên cương của Tổ quốc, trong việc đoàn kết với nhân dân và tận tình giúp đỡ nhân dân trong sản xuất và trong đời sống, luôn luôn xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân. Chúng ta tin rằng, trên cơ sở những thành tích đã đạt được, toàn thể cán bộ và chiến sĩ thân yêu của chúng ta sẽ càng ra sức xây dựng quân đội tiến lên chính quy và hiện đại, xây dựng lực lượng Công an nhân dân vũ trang, xây dựng dân quân tự vệ và lực lượng hậu bị, nâng cao khả năng phòng thủ đất nước, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch để giữ gìn hoà bình, bảo vệ biên cương, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
6- Kết quả của các mặt hoạt động kinh tế, văn hoá, nội chính là đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân đã được nâng cao thêm một bước.
Đời sống vật chất của nông dân, mặc dù năm 1960 bị mất mùa nặng, vẫn được cải thiện rõ rệt trong mấy năm gần đây. Mức chênh lệch về thu nhập giữa trung nông và bần nông đã thu hẹp lại một cách rõ rệt, và đã có khoảng 30% số hộ bần nông thu nhập ngang trung nông hoặc trung nông lớp trên. Nhìn chung trong nông dân, 25% số hộ có mức sống khá, 56% số hộ có mức sống trung bình. Non 20% số hộ nông dân còn thiếu thốn, bao gồm những người ở các vùng mà điều kiện sản xuất nông nghiệp đang còn nhiều khó khăn.
Một điều đáng chú ý là nhiều mặt sinh hoạt ở nông thôn đã có sự chuyển biến lớn. Về nhà ở, tại nhiều tỉnh, khoảng 20% số hộ nông dân đã có nhà ngói, và trong năm 1962, bình quân một hộ nông dân đã chi trên 30 đồng để làm nhà. Đời sống của người xã viên hợp tác xã đương đổi mới khá rõ rệt và đó là điều sinh động và phấn khởi ở nông thôn ngày nay. Nói chung (trừ lúc và nơi bị thiên tai nặng thì có khó khăn tạm thời), đời sống vật chất được cải thiện dần về mọi mặt: ăn, mặc, đồ dùng trong nhà. Người nông dân xã viên ngày nay có đời sống văn hoá mà thời trước không thể tưởng tượng được: xem chiếu bóng, đọc sách báo, tiêm phòng dịch, nhiều người có con học trường trung cấp chuyên nghiệp hoặc trường đại học… Ngày nay, con em nông dân lao động chiếm 7,3% tổng số cán bộ kỹ thuật cao cấp, 24,7% tổng số cán bộ kỹ thuật trung cấp, 46,2% tổng số sinh viên đại học và 76% tổng số học sinh các trường kỹ thuật trung cấp.
Đời sống của đồng bào miền núi đã được cải thiện rõ rệt về mọi mặt, ở nhiều nơi sự cải thiện rõ hơn ở miền xuôi.
Đối với công nhân, viên chức, cũng như đối với nhân dân thành thị nói chung, phương hướng chủ yếu để nâng cao đời sống là thu xếp công ăn việc làm cho những người đến tuổi lao động. Trong vòng 5 năm qua, tổng số người được sắp xếp công việc là hơn 30 vạn, do đó gánh nặng gia đình của công nhân, viên chức tính trung bình đã giảm bớt một phần. Ngoài ra, Nhà nước đã lần lượt thi hành nhiều biện pháp để nâng cao thu nhập của công nhân, viên chức như tăng lương hồi năm 1958 và 1960, thi hành lương sản phẩm, nâng cấp, nâng bậc lương, thi hành chế độ tiền thưởng, chế độ bồi dưỡng cho những người làm nghề nặng nhọc, có hại đến sức khỏe và những người làm kíp đêm, ban hành chế độ bảo hiểm xã hội và chú trọng tăng các mặt phúc lợi của công nhân, viên chức. Trong năm 1962, số tiền Nhà nước chi về phúc lợi (xây dựng nhà ở, phụ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp khó khăn làm nhà ăn tập thể, vườn trẻ…) là 91 triệu đồng. Mặt khác, Nhà nước đã cải tiến chế độ phân phối lương thực, thực phẩm và mở cuộc vận động tăng gia sản xuất để tự cải thiện đời sống trong các xí nghiệp và cơ quan. Những thành quả về giáo dục, văn hoá, y tế trong mấy năm qua đã có tác dụng thiết thực nâng cao đời sống văn hoá của công nhân, viên chức cũng như của nhân dân lao động. Về phần mình, Công đoàn đã có nhiều cố gắng và thành tích trong việc chăm lo đời sống của công nhân, viên chức. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay, những người có gia đình đông con nhỏ, bình quân thu nhập quá thấp thì còn gặp khó khăn.
Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, chúng ta phải cố gắng hơn nữa, thiết thực và từng bước cải thiện đời sống của công nhân, viên chức, nhất là những người làm lao động nặng nhọc, những người làm việc ở những vùng xa xôi, cách trở.
DỰA VÀO THUẬN LỢI, KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN,
VỮNG BƯỚC TIẾN TỚI
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Sau khi nêu những tiến bộ và thành tích về các mặt như trên, chúng ta phải nhìn lại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc một cách tổng hợp và cơ bản, đánh giá đúng việc làm của chúng ta, khẳng định những thành tích, làm sáng tỏ những vấn đề lớn đang đặt ra trước mắt chúng ta, nhằm đúng phương hướng và mục tiêu phấn đấu để vững bước tiến tới.
Từ năm 1958 lại đây, trên miền Bắc đã diễn ra những biến chuyển cách mạng sâu sắc:
1- Những biến chuyển cách mạng về quan hệ sản xuất
Chúng ta đều biết mấy năm qua chúng ta đã làm những gì về mặt này và đã thu được những kết quả to lớn như thế nào. Chúng ta đã làm những cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong đó có cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, trong một thời gian ngắn gọn và thuận lợi, không có xao xuyến trong xã hội. Điều đáng mừng nữa là quan hệ sản xuất mới: (hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp, nghề cá, nghề muối, hợp tác xã tiểu thương, xí nghiệp công tư hợp doanh…) ngay sau khi dựng lên là bắt đầu phát huy tác dụng tích cực thể hiện rõ rệt trong việc phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, gây phấn khởi, tin tưởng và đà mạnh mẽ tiến tới. Đó là một thắng lợi vĩ đại của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
2- Những biến chuyển cách mạng về sức sản xuất, về cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
Chúng ta đương bước đầu xây dựng những cơ sở của công nghiệp: công nghiệp nặng: điện, nhiên liệu, cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng…; công nghiệp nhẹ: dệt, giấy, đường, thực phẩm… Những cơ sở này phần lớn đương xây dựng và hàng năm sẽ bước vào sản xuất.
Về nông nghiệp, mấy năm gần đây, chúng ta có cố gắng đúng hướng và tương đối đúng mức hơn nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho nông nghiệp, như về thuỷ lợi, phân bón, thuốc trừ sâu, công cụ cải tiến…
Cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân khác đều được tăng cường từng bước.
Một thành tích đáng quý nữa là đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân biết nghề đã lớn lên về mọi mặt giác ngộ chính trị, trình độ văn hoá và khả năng kỹ thuật.
Nhìn chung lại, chúng ta đã nhằm đúng hướng là từng bước xây dựng một nền kinh tế tự chủ trên cơ sở một nền công nghiệp nặng tương đối hoàn chỉnh, và chúng ta đã thành công bước đầu.
3- Những biến chuyển cách mạng về mặt xã hội, trong tư tưởng của con người
Những biến chuyển này là kết quả tất yếu của những biến chuyển cách mạng về quan hệ sản xuất và sức sản xuất.
Từ trước nhân dân Việt Nam ta đã có những đức tính rất tốt: yêu nước, anh dũng, cần cù, giản dị, đoàn kết tương trợ lẫn nhau. Trong những điều kiện của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, dưới chế độ mới, những đức tính đó càng có dịp tốt để phát triển.
Xã hội miền Bắc ngày nay là xã hội của những người lao động, người công nhân, người nông dân hợp tác xã, người lao động trí óc đoàn kết nhất trí, đồng cam cộng khổ, cùng nhau làm chủ vận mệnh của mình, tự tay mình xây dựng đời sống mới ngày càng tươi sáng của mình. Người công nhân, người nông dân, những người đã sống cái đời nô lệ và đen tối ngày xưa, càng thấy rõ những biến đổi sâu sắc đã diễn ra trong đời người của họ. Quá trình đấu tranh cách mạng: Cách mạng tháng Tám, kháng chiến, cải cách ruộng đất, cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế và văn hoá, những biến đổi to lớn đó đã gắn liền với đời sống và đấu tranh cách mạng của quần chúng lao động nước ta. Chính nhân dân lao động là những người đã làm nên lịch sử của nước ta, cho nên họ đánh giá đúng ý nghĩa to lớn của những biến chuyển cách mạng đã diễn ra, và coi đó là những thắng lợi vĩ đại. Ngày nay, đời sống hàng ngày là tiếp tục cuộc đấu tranh cách mạng từ trước, đưa đến những biến chuyển cách mạng sâu sắc hơn, những thắng lợi to lớn hơn, đời sống vật chất và văn hoá càng được cải thiện hơn.
Những biến chuyển kể trên về ba mặt: quan hệ sản xuất, sức sản xuất và xã hội mới chứng tỏ rằng học thuyết Mác - Lênin và đường lối đúng đắn của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là nguồn phát huy cao độ nhiệt tình cách mạng và lao động sáng tạo vĩ đại của quần chúng và đưa đến những thành tựu huy hoàng ngày nay ở miền Bắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân lao động miền Bắc nước ta đương viết những trang sử vẻ vang nhất của dân tộc Việt Nam ta.
Tất cả những điều đó chứng tỏ tính hơn hẳn của chế độ ta, chế độ dân chủ nhân dân, chế độ bảo đảm quyền thực sự làm chủ của nhân dân lao động. Trong chế độ như vậy, những người lãnh đạo của Đảng và của Nhà nước chỉ có một mục đích duy nhất là hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
Những thắng lợi to lớn kể trên còn chứng minh một điều rất quan trọng nữa: đó là tác dụng to lớn của sự giúp đỡ vô tư và quý báu của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác. Đây là một nguyên tắc, một điều tất yếu: nước ta, một nước xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện thế giới ngày nay, phải dựa vào sự hợp tác giúp đỡ của những nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô và Trung Quốc, để xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đây là những quan hệ theo tinh thần quốc tế vô sản, theo chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nhân dịp này, chúng ta chân thành tỏ lòng biết ơn sâu sắc của chúng ta với Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác. Chúng ta hết lòng cảm ơn các đồng chí chuyên gia các nước anh em, nhất là chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc đã tận tình giúp đỡ chúng ta.
Trong việc kiểm điểm tình hình và công tác, chúng ta đã nêu rõ những thành tích to lớn về các mặt, nhấn mạnh những biến đổi cách mạng sâu sắc trong cơ sở kinh tế và bộ mặt xã hội miền Bắc. Đó là những thuận lợi cơ bản mà chúng ta cần phát huy để tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn. Bên cạnh những thuận lợi ấy, chúng ta phải nhìn thấy đầy đủ và sáng tỏ những chỗ non yếu trong tình hình kinh tế, những chỗ non yếu trong công tác của chúng ta. Đó là những khó khăn mà chúng ta phải khắc phục để tiến tới vững chắc.
Những chỗ non yếu trong tình hình kinh tế của chúng ta biểu hiện tập trung ở ba mặt sau đây:
1- Miền Bắc nước ta đang đứng trước tình hình như sau: chúng ta đã có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhưng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội thì còn non yếu. Từ chỗ hầu như không có gì, trong 5 năm chúng ta mới dựng lên những cơ sở bước đầu, phần lớn còn đương xây dựng chưa đi vào sản xuất. Hiện nay, nền kinh tế quốc dân miền Bắc vẫn còn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, di sản của nền kinh tế phong kiến và thực dân ngày trước. Công nghiệp hiện đại mới chiếm khoảng 20% trong tổng giá trị sản lượng công nông nghiệp. Năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp nặng, điện lực, cơ khí, luyện kim, hoá chất đều còn yếu, khả năng trong nước về trang bị kỹ thuật và cung cấp các loại vật tư và nguyên liệu chủ yếu cho các ngành kinh tế, nhất là cho nông nghiệp, còn rất có hạn. Do đó, cơ sở vật chất và kỹ thuật của nông nghiệp cũng như của các ngành kinh tế quốc dân khác còn non yếu.
Năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển sức sản xuất của một xã hội. Hiện nay năng suất lao động xã hội của ta còn rất thấp. Hàng năm năng suất lao động có tăng, nhưng chưa tăng nhanh. Vì sao vậy? Vì lao động thủ công ở miền Bắc còn chiếm khoảng 95% trong các ngành sản xuất vật chất. Năng suất lao động trong các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh Trung ương tuy mới cơ giới hoá ở một mức độ thấp, đã gấp 10 lần năng suất lao động trong các thành phần kinh tế khác, ở đó hầu hết lao động còn là thủ công.
2- Nền nông nghiệp của ta đã hợp tác hoá, nhưng cơ sở vật chất và kỹ thuật của nền nông nghiệp hợp tác hoá này còn rất non yếu. Chính vì vậy mà năng suất lao động trong nông nghiệp thấp, năng suất cây trồng trên một hecta chưa cao và tăng lên chậm. Lại thêm ruộng đất bình quân mỗi người ở miền Bắc chỉ có khoảng ba sào Bắc bộ (trên 1.000m vuông), vào loại thấp nhất trên thế giới. Mùa màng còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên: chừng ba năm lại có một năm mất mùa, và năm mất mùa ảnh hưởng xấu kéo dài đến hai năm sau.
Khó khăn lớn nhất hiện nay là sản xuất lương thực chưa bảo đảm nhu cầu, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến việc đẩy mạnh chăn nuôi và trồng cây công nghiệp và nếu ba ngành này không phát triển một cách cân đối, vững chắc và mạnh mẽ, thì làm sao chúng ta có được một nền nông nghiệp toàn diện, gồm nhiều ngành, nhiều nghề làm kinh tế nông thôn phồn vinh, làm cơ sở cho công nghiệp phát triển.
3- Nền kinh tế miền Bắc nước ta vốn mất cân đối nghiêm trọng, vì lạc hậu và phụ thuộc. Xây dựng một nền kinh tế phát triển và tự chủ là một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ để dần dần xóa bỏ sự mất cân đối ấy. Điểm 1 và điểm 2 trên đây chính đã nêu rõ những sự mất cân đối rất to lớn. Ngoài ra còn phải kể những sự mất cân đối quan trọng khác do tình hình phát triển và sự quản lý chưa tốt của chúng ta gây nên như: nhu cầu của nhân dân tăng nhanh mà sản xuất chưa đáp ứng kịp, khối lượng tiền và hàng có nơi có lúc không ăn khớp, nhu cầu nhập khẩu thì nhiều mà xuất khẩu thì chưa đẩy mạnh, chưa phát triển đúng mức. Chúng ta phải chú ý đầy đủ đến tình trạng mất cân đối này để có phương hướng, có chủ trương và biện pháp khắc phục.
Trên đây là ba mặt non yếu nổi bật trong tình hình kinh tế, gắn liền với những đặc điểm của miền Bắc nước ta.
Bây giờ xin nói đến những chỗ non yếu, những khuyết điểm trong công tác của chúng ta.
Để đẩy sự nghiệp xã hội chủ nghĩa tiến tới, chúng ta có hai chỗ dựa tốt: đường lối sáng suốt của Đảng và thực tiễn cách mạng phong phú của quần chúng.
Nhưng chưa phải mọi người chúng ta đều nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc đường lối của Đảng, mọi chính sách của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, chúng ta chưa phải đã luôn luôn nắm vững và kịp thời tình hình và đời sống, những kinh nghiệm sinh động và phong phú của quần chúng trong mọi lĩnh vực hoạt động. Chính do chỗ từ hai mặt này đều có thiếu sót nên chúng ta thường chậm phát hiện vấn đề, càng chậm giải quyết vấn đề. Có thể nói, đây là nguồn gốc, nguyên nhân sâu xa của những khuyết điểm của chúng ta.
Những kinh nghiệm gần đây giúp chúng ta nhìn thấy rõ rệt những khuyết điểm ấy ở hai khâu: quản lý kinh tế quốc dân và chỉ đạo thực hiện kế hoạch nhà nước.
Về quản lý, chúng ta chưa chú ý giữ vững sự cân đối, nhịp nhàng về nhiều mặt trong quá trình phát triển kinh tế quốc dân, trong qúa trình thực hiện kế hoạch nhà nước, giữ vững cân đối, nhịp nhàng từ chủ trương cho đến chỉ tiêu và biện pháp thực hiện, cho đến chỉ đạo thực hiện. Đây là một vấn đề rộng lớn và phức tạp, còn mới đối với chúng ta, chúng ta phải cố gắng học tập và tiến bộ cho kịp với yêu cầu của tình hình. Đã phát triển kinh tế một cách có kế hoạch mà không giữ vững các loại cân đối, thì đó là tự mình gây cho mình những khó khăn lớn.
Về chỉ đạo thực hiện, những thiếu sót của chúng ta càng rõ rệt, phần lớn có thể khắc phục được mau chóng nếu mọi người lo lắng và quyết tâm. Ở đây phải nghiêm khắc phê bình tình trạng thiếu tập trung, tình trạng phân tán, thiếu ý thức tổ chức, ý thức trách nhiệm, tinh thần kỷ luật, thiếu tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, thiếu tác phong khẩn trương, tích cực, thiếu ý chí đấu tranh vượt mọi khó khăn để hoàn thành kế hoạch theo chỉ tiêu của Nhà nước.
Tình hình và nhiệm vụ của chúng ta đòi hỏi mọi người nhìn thấy một cách tập trung và sâu sắc những chỗ non yếu kể trên trong công tác của chúng ta, để cùng nhau, giúp nhau trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mỗi người, từng bước khắc phục những khuyết điểm đó.
Hiện nay và trong những năm sắp tới, chúng ta phải đáp ứng những yêu cầu to lớn: chúng ta phải ra sức phát triển nền kinh tế quốc dân nhanh chóng, mạnh mẽ, vững chắc theo những chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nhằm bước đầu thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Chúng ta phải từng bước nâng cao đời sống của nhân dân lao động trên cơ sở phát triển sản xuất, phát triển kinh tế và văn hoá. Cần chú ý rằng dân số nước ta phát triển nhanh, từ hoà bình lập lại đến nay đã tăng 27% (3 triệu 67 vạn người) tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 3,7% (mỗi năm tăng khoảng 65 vạn người) là tốc độ vào loại cao nhất trên thế giới. Dân số tăng là biểu hiện của một chế độ tốt đẹp và một dân tộc lành mạnh. Nhưng tình hình đó cũng đề ra những yêu cầu rất to lớn.
Phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, cải thiện đời sống là tạo điều kiện tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh để hoà bình thống nhất nước nhà.
Để hoàn thành những nhiệm vụ đó, phải dựa vào những thành quả đã đạt được, hết sức phát huy những thắng lợi to lớn của 5 năm vừa qua, kiên quyết khắc phục thiếu sót và khuyết điểm, thúc đẩy sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến tới. Chúng ta phải có ý thức sâu sắc về những vốn quý báu của chúng ta. Đất nước ta giàu, tài nguyên thiên nhiên phong phú. Nhân dân ta giàu lòng yêu nước và nhiệt tình cách mạng, giàu đức tính lao động cần cù, sinh hoạt giản dị và tiết kiệm, chăm học, cầu tiến bộ. Nền kinh tế của chúng ta giàu những khả năng phát triển mạnh mẽ thuận với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta hãy dựa vào cái vốn giàu có ấy, phát huy nó lên để chiến thắng cái nghèo: nghèo tiền vốn, nghèo thiết bị, nghèo kỹ thuật. Dựa vào cái giàu, chúng ta nhất định sẽ từng bước chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu, đưa nước ta tiến lên trên con đường công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, con đường đưa đến ấm no và sung sướng. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất chính là bước đầu trên con đường ấy.
II- NHỮNG VẤN ĐỀ LỚN CỦA KẾ HOẠCH
5 NĂM LẦN THỨ NHẤT
Tại kỳ họp này của Quốc hội, đồng chí Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh sẽ trình bày với các đồng chí đại biểu một bản báo cáo về kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất. Nội dung chủ yếu của bản báo cáo là những vấn đề về phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch, hệ thống chỉ tiêu của kế hoạch, phương hướng, nhiệm vụ và chỉ tiêu của công nghiệp, nông nghiệp, của các ngành kinh tế quốc dân khác, và kèm theo nhiệm vụ và chỉ tiêu là biện pháp thực hiện.
Vì vậy, tôi thấy không phải lập lại bản báo cáo của đồng chí Nguyễn Duy Trinh. Cho nên tôi sẽ trình bày với các đồng chí về những vấn đề lớn của kế hoạch 5 năm và những vấn đề lớn của việc thực hiện kế hoạch. Đây là những vấn đề rất quan trọng và nóng hổi của nền kinh tế quốc dân ở miền Bắc hiện nay, mà tất cả chúng ta đều phải có nhận thức đúng đắn và nhất trí.
Trước khi trình bày đến các vấn đề ấy, tôi xin trích đọc một đoạn nói về phương hướng chung của kế hoạch trong Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương đề ra kiến nghị về kế hoạch 5 năm lần thứ nhất:
“Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phải nhằm phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” (Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III).
Thực hiện nhiệm vụ đó chính là phát huy các thắng lợi đã giành được, khắc phục các khó khăn, tập trung sức giải quyết yêu cầu cơ bản nhất là xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Thực hiện nhiệm vụ đó chính là đẩy lực lượng sản xuất phát triển thêm một bước, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó ra sức phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội để tăng tích luỹ vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, cải thiện từng bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, củng cố miền Bắc về mọi mặt, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.
Để thực hiện nhiệm vụ nói trên, phải hết sức phát huy năng lực sản xuất sẵn có, sử dụng tốt sự giúp đỡ của các nước anh em, từng bước thực hiện nửa cơ giới hoá và cơ giới hoá các ngành sản xuất chủ yếu, bảo đảm vững chắc hơn nữa nhu cầu về vật tư cho sản xuất và xây dựng, nhu cầu về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho đời sống nhân dân.
Phải ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, chú trọng hướng công nghiệp phục vụ nông nghiệp đắc lực hơn.
Phải ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, làm cơ sở thuận lợi hơn cho việc phát triển công nghiệp.
Phải đặc biệt chú trọng tăng thêm nhiều hàng nông sản và hàng công nghiệp có giá trị cho xuất khẩu để đổi lấy thiết bị, nguyên liệu và một phần hàng tiêu dùng cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước anh em.
Phải điều chỉnh từng bước cơ cấu của các ngành sản xuất và xúc tiến việc sơ bộ phân vùng kinh tế, phân bố lực lượng sản xuất hợp lý hơn, cân đối hơn.
Phải làm tốt cuộc vận động “Cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc” và cuộc vận động “Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu”, gắn chặt việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất với việc củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Phải tăng cường đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế và công nhân lành nghề, đặc biệt chú ý sử dụng hợp lý và bồi dưỡng về kỹ thuật và nghiệp vụ cho số cán bộ, công nhân hiện có.
Phải ra sức phát triển kinh tế và văn hoá ở miền núi, tiến dần lên xây dựng những vùng kinh tế mới ở miền núi có nông nghiệp và công nghiệp phát triển.
Phải không ngừng tăng tích luỹ vốn cho việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện bảo đảm một đời sống no ấm, hạnh phúc lâu dài cho toàn dân. Đồng thời, trước mắt, phải chăm lo cải thiện từng bước và có trọng điểm đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Phải kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hoá và củng cố quốc phòng, bảo đảm yêu cầu xây dựng các lực lượng vũ trang, củng cố hậu phương, tích cực bảo vệ sự nghiệp lao động hoà bình ở miền Bắc.
Về mặt lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện, phải làm cho đường lối của Đảng, chính sách của Đảng và Nhà nước thấu suốt đến tận đảng viên và quần chúng nhân dân, tăng cường sự nhất trí về tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn dân. Phải đi sâu hơn nữa vào thực tế, quán triệt tinh thần mạnh bạo và thận trọng trong việc định ra các chủ trương, chính sách, tăng cường chỉ đạo về các biện pháp cụ thể, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện kế hoạch, bảo đảm giữ vững quan hệ cân đối giữa các mặt hoạt động chủ yếu, phát triển kinh tế và văn hoá với nhịp độ nhanh. Phải đáp ứng yêu cầu chung của cả nước, đồng thời phải tập trung sức, tranh thủ những tiến bộ rõ rệt ở các trọng điểm để thúc đẩy toàn diện. Phải sử dụng sức lao động, vật tư và tiền vốn một cách hợp lý nhất, triệt để chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Trong khi phấn đấu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, phải thiết thực chuẩn bị mọi mặt cho kế hoạch dài hạn sau.
Tiếp sau phương hướng chung đó, xin trình bày một cách tổng hợp những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất:
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất dự định sẽ đưa giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp tăng bình quân hàng năm khoảng trên 17%, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng bình quân hàng năm khoảng 6,5%. Số vốn đầu tư trong 5 năm từ 1961 đến 1965 sẽ gần gấp đôi số vốn đã đầu tư trong 5 năm từ 1956 đến 1960, trong đó dành khoảng 86% cho những công trình có tính chất sản xuất, và 14% dành cho những công trình giáo dục, văn hoá, y tế và các công trình không có tính chất sản xuất khác. Trong 5 năm, năng suất lao động của một công nhân, viên chức trong công nghiệp quốc doanh tăng bình quân hàng năm khoảng 8%, năng suất lao động của một công nhân xây lắp tăng bình quân hàng năm khoảng 5,5%. Mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ của thương nghiệp xã hội tăng bình quân hàng năm khoảng 6%. Trên cơ sở phát triển sản xuất và tăng năng suất lao động, đời sống của nhân dân lao động sẽ được nâng cao thêm một bước. Thu nhập thực tế của công nhân, viên chức sẽ tăng lên nhờ tổ chức tốt hơn việc cung cấp lương thực và thực phẩm, ổn định giá cả, nâng cao mức cung cấp cho những người làm lao động nặng nhọc, và tăng cường hơn nữa các mặt phúc lợi. Trên cơ sở thực hiện tốt kế hoạch nông nghiệp, đời sống của nông dân năm 1965 sẽ được nâng lên ngang mức sống của trung nông lớp trên trước đây, nghĩa là sẽ được cải thiện rõ rệt: ăn khá hơn, nhà ở tốt hơn, đồ dùng trong nhà có thêm nhiều hơn, trình độ văn hoá và đời sống văn hoá cao hơn.
Việc hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất sẽ thúc đẩy hơn nữa đà biến chuyển cách mạng hiện nay, đưa lại những thắng lợi to lớn hơn nữa, dần dần đổi mới bộ mặt kinh tế của miền Bắc nước ta. Việc thực hiện kế hoạch 5 năm, việc thực hiện toàn bộ chỉ tiêu của kế hoạch sẽ đưa đến những kết quả như sau:
Trong công nghiệp, sau khi hoàn thành những công trình lớn, đến những năm 1966, 1967, chúng ta đã xây dựng được cơ sở cho những ngành công nghiệp then chốt. Năm 1965, sản lượng điện phát ra sẽ tăng lên gấp hai lần năm 1960. Điện lực sẽ đi trước một bước, cung cấp đủ cho nhu cầu của công nghiệp và còn có khả năng phục vụ đắc lực cho nông nghiệp. Ngành cơ khí sẽ bảo đảm được một phần quan trọng nhiệm vụ trang bị kỹ thuật cho các ngành nông nghiệp, vận tải, nghề cá, các ngành công nghiệp nhẹ, và một phần thiết bị của công nghiệp nặng. Các ngành công nghiệp nguyên liệu sẽ thành hình, với những cơ sở lớn về gang thép và hoá chất cơ bản đi vào sản xuất trong những năm 1966, 1967. Công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm và thủ công nghiệp về cơ bản sẽ sản xuất đủ hàng tiêu dùng cần thiết nhất cho nhân dân và sẽ tăng thêm khá nhiều số lượng và mặt hàng xuất khẩu.
Nhờ cải tiến thiết bị, tăng cường hệ thống sửa chữa, cải thiện việc cung cấp nguyên liệu, vật liệu và cải tiến quản lý xí nghiệp, công suất sử dụng của các nhà máy sẽ được nâng cao và sẽ đạt từ 75 đến 80% công suất thiết kế trở lên.
Trong nông nghiệp, diện tích canh tác được mở rộng, nông trường quốc doanh được củng cố và phát triển, diện tích được bảo đảm tưới nước suốt vụ bằng các công trình thuỷ lợi lớn và bằng máy bơm vào năm 1965 sẽ bao gồm trên 50% toàn bộ diện tích canh tác. 80% diện tích cấy lúa sẽ được bảo đảm có đủ nước tưới. Nông nghiệp sẽ có thêm mấy chục vạn tấn phân lân và phân đạm, thêm nhiều máy kéo, và ngày càng nhiều những nông cụ nửa cơ giới, phương tiện vận tải và máy chế biến nông sản.
Cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế khác như giao thông vận tải, xây dựng cơ bản… đều được tăng cường thêm một bước.
Cơ cấu sản xuất sẽ có chuyển biến rõ, nhiều vùng kinh tế mới sẽ thành hình và phát triển. Trong công nghiệp, tỷ trọng của nhóm A từ 34,2% năm 1960 tăng lên 39% năm 1965, tỷ trọng của công nghiệp Trung ương từ 39% tăng lên gần 50%. Trong nông nghiệp, diện tích trồng cây công nghiệp từ 4,8% sẽ lên khoảng 9% tổng diện tích gieo trồng và tỷ trọng của chăn nuôi trong giá trị sản lượng nông nghiệp sẽ từ 15,3% tăng lên khoảng 16%.
Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nhân lành nghề sẽ không ngừng lớn mạnh. Đến năm 1965, chúng ta sẽ có khoảng gần ba vạn cán bộ tốt nghiệp đại học, trên 12 vạn cán bộ kỹ thuật trung cấp và trên 30 vạn công nhân biết nghề. Đó là vốn quý để đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm sau nữa.
Khu vực kinh tế quốc doanh phát triển với tốc độ nhanh, sẽ ngày càng nâng cao ưu thế và củng cố vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. Qua cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, các hợp tác xã nông nghiệp sẽ được tăng cường về mọi mặt, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nông thôn sẽ được củng cố. Cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thợ thủ công, người buôn bán nhỏ sẽ tiến những bước mới. Tóm lại, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa sẽ được phát triển, sẽ được củng cố và ngày càng hoàn thiện hơn.
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Bây giờ tôi xin trình bày về các vấn đề lớn của kế hoạch 5 năm:
VỀ CÔNG NGHIỆP:
Nói về công nghiệp, chúng ta phải trở lại Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng, cũng như nói về nông nghiệp chúng ta phải trở lại Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương Đảng, bởi vì những văn kiện đó là sự tổng kết những kinh nghiệm bước đầu của chúng ta về công nghiệp và về nông nghiệp, là ánh sáng soi bước đường đi của chúng ta hiện nay.
Tôi xin đọc một đoạn quan trọng trong Nghị quyết về công nghiệp:
“Trong thời gian đầu, khoảng 10 năm (kể từ 1961) chúng ta phải phấn đấu thực hiện một sự chuyển biến căn bản trong nền kinh tế quốc dân, tiến hành trang bị cơ khí và nửa cơ khí một cách phổ biến, xoá bỏ tình trạng thủ công lạc hậu và tình trạng không cân đối nghiêm trọng hiện nay trong nền kinh tế, bảo đảm cho công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác phát triển cân đối, nhịp nhàng, mạnh mẽ, nhằm giải quyết một cách căn bản những nhu cầu thông thường của nhân dân về ăn, mặc, ở, học tập, bảo vệ sức khoẻ; đồng thời chuẩn bị mọi mặt về vật chất, kỹ thuật, cán bộ, công nhân… để tiếp tục phát triển kinh tế toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc.
Chúng ta phải ra sức phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà, tận dụng mọi khả năng trong nước để xây dựng, phát triển công nghiệp, trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế quốc dân, đồng thời phải rất coi trọng và sử dụng tốt sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác về các mặt kỹ thuật, thiết bị, tiền vốn, đào tạo cán bộ, để xây dựng và phát triển công nghiệp, phát triển nền kinh tế của nước ta, mở rộng hơn nữa sự hợp tác quốc tế, góp phần tích cực của nước ta trong việc tăng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa”.
Phải đọc lại đoạn trên để thêm thấm thía về vai trò quan trọng của công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng, để hết lòng hết sức thực hiện đường lối của Đảng là “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”.
Công nghiệp nặng có thể ví như bộ xương trong cơ thể con người. Cách ví này có thể không hay lắm, nhưng ở đây tôi muốn hình dung một cách sinh động và giản đơn cho nhân dân lao động ta thấy rõ sự quan trọng thật là cơ bản của công nghiệp nặng: công nghiệp nặng lớn mạnh lên bao nhiêu thì toàn bộ kinh tế quốc dân lớn mạnh lên bấy nhiêu; cũng như bộ xương con người lớn mạnh lên bao nhiêu, thì cơ thể con người lớn mạnh lên bấy nhiêu. Đối với chúng ta, xây dựng “một nền công nghiệp nặng tương đối hoàn chỉnh”, xây dựng bộ xương cho nền kinh tế quốc dân, tất nhiên là một sự nghiệp lâu dài và gian khổ, nhưng chúng ta quyết chí làm và làm từng bước, trải qua nhiều kế hoạch 5 năm. Và mỗi một bước lớn lên của công nghiệp nặng, đánh dấu một bước lớn lên của nền kinh tế quốc dân, sức sản xuất phát triển mạnh hơn, năng suất lao động tăng lên, cơ thể của nền kinh tế thêm đỏ da thắm thịt.
Mấy năm trước đây, trong chúng ta có người lo rằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng thì có coi nhẹ nông nghiệp không! Nhưng kinh nghiệm gần đây đã chứng tỏ rõ rệt rằng phát triển công nghiệp nặng đúng hướng, đúng mức là phục vụ đắc lực cho nông nghiệp phát triển, bởi vì chỉ có công nghiệp nặng mới xây dựng được cơ sở vật chất và kỹ thuật cho nông nghiệp phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Phải dựa trên cơ sở vật chất và kỹ thuật ngày càng được tăng cường, thì nông nghiệp mới có thể không ngừng thâm canh, tăng năng suất, nhờ đó mà phá xiềng ba sào, đẩy lùi về quá khứ cảnh nghèo nàn và lạc hậu ở nông thôn, và như vậy nông nghiệp lại tạo điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Đối với công nghiệp nhẹ, công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, chúng ta phải lấy sự quan trọng về nhiều mặt: cải thiện đời sống, kích thích sản xuất, tăng nhanh tích luỹ, có thêm hàng xuất khẩu. Hiện nay chúng ta thiếu hàng tiêu dùng, vì khác trước, không chỉ một số ít trong xã hội có thể mua sắm mọi thứ cần dùng trong đời sống; ngày nay hầu hết 17 triệu người ở miền Bắc đều có những yêu cầu về hàng tiêu dùng, và nông thôn rộng lớn của chúng ta đã trở thành thị trường đòi hỏi rất nhiều hàng tiêu dùng. Chúng ta phải tổ chức tốt hơn nữa việc sản xuất, lưu thông và cung cấp hàng tiêu dùng ở nông thôn hợp tác hoá của chúng ta để khuyến khích sản xuất nông nghiệp, thu hút tiền đọng ở nông thôn và để tăng nhanh chóng thành phần nông sản hàng hoá. Quan hệ của công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ với nông nghiệp, liên minh công nông trong cả thời gian dài xây dựng chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa kinh tế và chính trị rất to lớn và sâu sắc. Cho nên trong lúc công nghiệp nặng ra sức trang bị về vật chất và kỹ thuật cho nông nghiệp, thì công nghiệp nhẹ, công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp phải ra sức sản xuất hàng tiêu dùng cho nông thôn.
Như vậy rõ ràng là chúng ta phát triển công nghiệp nặng và nhẹ là nhằm phục vụ nông nghiệp. Ngược lại, nông nghiệp phát triển càng làm cơ sở vững chắc để phát triển công nghiệp.
Chúng ta vui mừng nhận thấy rằng nền công nghiệp trẻ tuổi chúng ta chỉ trong vòng mấy năm đã có lớn lên và đã phát huy tác dụng bước đầu. Tất nhiên con đường công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa của chúng ta còn dài, nhưng từng bước phải điểm lại việc đã làm, xác định phương hướng và nhiệm vụ, đánh giá thành tích để vững bước tiến tới. Những người bạn của chúng ta quê ở châu Á và châu Phi lúc đến thăm nước ta, thường để ý nhiều đến sự phát triển công nghiệp của chúng ta. Những người bạn ấy chú ý đi thăm các loại xí nghiệp công nghiệp và đi thăm các cửa hàng bán hàng tiêu dùng, rồi nói với chúng ta những cảm tưởng sâu sắc và phấn khởi: các bạn Việt Nam tự sản xuất lấy máy công cụ và hàng tiêu dùng, hàng của các bạn chưa tốt lắm đâu, nhưng đó là hàng của mình, tự tay mình làm ra. Ở nước chúng tôi, trong cửa hàng bày tràn ngập mọi thứ hàng đẹp, nhất là hàng tiêu dùng, nhưng đó đều là hàng nhập, thứ gì cũng có, mà đã mấy ai có tiền mua.
Các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ của chúng ta, đồng thời với việc đóng góp to lớn về tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng cho nền kinh tế quốc dân và đời sống của nhân dân, cũng có những đóng góp ngày càng lớn vào việc tích luỹ vốn để không ngừng phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng cải thiện đời sống. Trong tổng số thu của Nhà nước, phần do các ngành công nghiệp quốc doanh đem lại ngày càng lớn.
Tất cả những điều kể trên là sự biểu hiện của sức lao động sáng tạo quý giá của giai cấp công nhân và cán bộ kỹ thuật trong tất cả các ngành công nghiệp ở miền Bắc nước ta.
VỀ NÔNG NGHIỆP:
Về nông nghiệp, thực tiễn chỉ rõ rằng nhiệm vụ, phương hướng phát triển nông nghiệp do Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương vạch ra là đúng. Căn cứ tinh thần cơ bản của Nghị quyết đó kết hợp với kinh nghiệm vừa qua, các cấp, các ngành phải thấu suốt hơn nữa phương hướng phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, tập trung sức phấn đấu làm cho sản xuất nông nghiệp chuyển biến tốt hơn nữa, nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, tăng thêm khối lượng nông sản tiêu dùng trong nông thôn, đồng thời tăng nhanh hơn nữa phần nông sản hàng hoá: lương thực và thực phẩm cho số người không làm sản xuất lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ, hàng nông sản rất quý để xuất khẩu. Làm như vậy là nông thôn hợp tác hoá phục vụ đắc lực cho việc phát triển công nghiệp, từng bước thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Kinh nghiệm thiết thân mấy năm nay đã đem lại cho chúng ta nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của nông nghiệp. Càng ghi sâu nhận thức ấy vào tư tưởng của chúng ta, chúng ta càng nâng cao ý thức và quyết tâm phấn đấu đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tập trung lực lượng cao độ để giải quyết từng bước những vấn đề cơ bản của sản xuất nông nghiệp: nước, phân, cần (sức kéo, nông cụ, kỹ thuật, nghĩa là thâm canh đi đôi với khai hoang, mở thêm diện tích…) giống. Chỉ có như vậy chúng ta mới bảo đảm hoàn thành những chỉ tiêu về sản xuất nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm.
Về phương hướng sản xuất, kinh nghiệm phong phú ở nhiều hợp tác xã khắp các nơi (đồng bằng, trung du, miền núi) đã đưa đến những kết luận đích đáng về sự quan trọng hàng đầu của lương thực (lúa và các loại hoa màu có năng suất cao) và quan hệ cân đối giữa lương thực, chăn nuôi và cây công nghiệp. Một khi ba khâu: lương thực, chăn nuôi, cây công nghiệp phát triển cân đối và mạnh mẽ, thì đó là cơ sở để phát triển đúng hướng và đúng mức kinh tế tập thể của hợp tác xã và kinh tế phụ của gia đình xã viên. Những kinh nghiệm sáng tỏ này phải được nghiên cứu sâu sắc và áp dụng một cách thích hợp với điều kiện của từng vùng ở nông thôn miền Bắc nước ta.
Chúng ta đã thấy những khó khăn lớn và lâu dài trong việc phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, vững chắc và mạnh mẽ theo những chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước. Đồng thời chúng ta phải thấy những thuận lợi rất lớn và cơ bản. Khả năng của công nghiệp để phục vụ nông nghiệp lớn hơn trước khá nhiều, miễn là chúng ta biết sử dụng một cách tập trung, đúng lúc và đúng chỗ, thì nhất định sẽ có hiệu quả. Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp của chúng ta lớn lên nhanh chóng và lành mạnh, cuộc vận động “cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc” sẽ phát huy tác dụng tích cực của hợp tác xã một cách rộng lớn. Mọi cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước từ trên xuống dưới cũng như những người quản trị hợp tác xã và quảng đại quần chúng xã viên cần phải nâng cao ý chí phấn đấu, tận dụng mọi lực lượng và mọi khả năng, quyết vượt mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp nhằm thực hiện những chỉ tiêu của kế hoạch Nhà nước, kế hoạch địa phương và kế hoạch của hợp tác xã.
Nhìn chung lại tình hình sản xuất nông nghiệp của chúng ta, chúng ta có phương hướng đúng; gần đây khắp các nơi đều rút được nhiều kinh nghiệm tốt, đều có điển hình tốt; lực lượng của nông nghiệp có tăng; khả năng của Nhà nước, của công nghiệp để phục vụ nông nghiệp cũng có tăng; thêm vào đó chúng ta đương làm cuộc vận động “cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc”. Phải thấy hết những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, phải kiên trì phấn đấu bền bỉ để từng bước khắc phục những khó khăn đó. Đồng thời phải thấy đầy đủ những thuận lợi, những khả năng, những chỗ dựa ngày càng vững chắc để phấn đấu và chiến thắng. Phải kiên quyết phấn đấu theo tinh thần của Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 5, thực hiện và thực hiện vượt mức những chỉ tiêu về sản xuất nông nghiệp của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất. Phải tập trung ý chí, tập trung lực lượng, tập trung chỉ đạo, từng bước khắc phục những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, từng bước tăng cường lực lượng cho nông nghiệp và cho hợp tác xã, từng bước giành những thắng lợi ngày càng lớn về các mặt sản xuất nông nghiệp. Trung ương phải tập trung chỉ đạo các tỉnh trọng điểm, tập trung lực lượng giúp giải quyết những vấn đề lớn quá sức của các tỉnh. Các cấp uỷ Đảng và Uỷ ban hành chính tỉnh phải tập trung chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, nắm chắc những khâu trọng yếu nhất từng nơi, từng lúc, cố gắng nắm tình hình ở hợp tác xã và từ đó nắm và giải quyết những vấn đề của địa phương.
Trong việc phát triển sản xuất nông nghiệp, chúng ta có chỗ dựa vững chắc, đó là hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Mọi việc làm của chúng ta để phục vụ nông nghiệp phải phát huy tác dụng đến hợp tác xã, đem lại lợi ích thiết thực cho hợp tác xã, tăng cường lực lượng của hợp tác xã, giúp hợp tác xã đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế tập thể của hợp tác xã và kinh tế phụ của gia đình xã viên, đồng thời ra sức tăng dần tỷ trọng của kinh tế tập thể. Đi đôi với việc phát triển sản xuất và cải thiện đời sống ở nông thôn, phải quản lý việc tiêu dùng ở nông thôn, vận động nông dân tiết kiệm. Phải giải thích cho nông dân hiểu Nhà nước và công nghiệp rất cần nhiều loại nông sản: lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp…, nông dân có nhiều nông sản bán cho Nhà nước tức là góp sức vào việc phát triển công nghiệp, xây dựng Tổ quốc giàu mạnh, và ngược lại công nghiệp phát triển và Tổ quốc giàu mạnh lại càng phục vụ đắc lực hợp tác xã và sản xuất nông nghiệp, càng đem lại kinh tế phồn vinh và đời sống tươi đẹp ở nông thôn. Được giáo dục đầy đủ, người nông dân xã viên sẽ nâng cao nhiệt tình cách mạng, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và sẽ hăng hái phấn khởi đẩy mạnh sản xuất để nâng cao đời sống cho mình và làm trọn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Để phát triển nông nghiệp, chúng ta chú trọng hợp tác xã là đúng. Đồng thời chúng ta phải coi trọng đúng mức bộ phận kinh tế quốc doanh trong nông nghiệp, coi trọng những nông trường quốc doanh mà chúng ta đương xây dựng.
Phải ra sức củng cố là chính, đồng thời phát triển tốt nông trường quốc doanh; chú trọng tăng cường quản lý để phát huy hiệu quả tốt hơn nữa.
Trong những năm tới, phải tăng cường chăm sóc các loại cây đã trồng và phát triển thêm diện tích cây công nghiệp, cây ăn quả, chú trọng các loại cây dài ngày tương đối mau thu hoạch (như chè, cam, quýt, dứa, gai v.v…) và các loại cây ngắn ngày (như bông, thuốc lá, lạc v.v…), nhằm tăng thêm nguyên liệu cho công nghiệp và sản phẩm có giá trị cao cho xuất khẩu; đẩy mạnh phát triển chăn nuôi để cung cấp thịt, sữa, len…; đồng thời tích cực giải quyết một phần lương thực. Phải sớm xác định phương hướng sản xuất cụ thể của mỗi nông trường và phải thực hiện chuyên môn hoá sản xuất.
Phải xúc tiến việc xây dựng cơ bản ở các nông trường quốc doanh để trong vòng từ 3 đến 5 năm tới đưa phần lớn đi vào sản xuất ổn định. Phải sắp xếp lại các nông trường quy mô quá lớn hoặc xen kẽ với các hợp tác xã trên một địa bàn quá rộng để cho việc quản lý được thuận tiện hơn.
Các nông trường quốc doanh phải ra sức phấn đấu để tăng năng suất, hạ giá thành, thực hiện tốt việc nạp sản phẩm cho Nhà nước; phải làm gương mẫu và giúp các hợp tác xã áp dụng kỹ thuật mới.
Các ngành thương nghiệp có nhiệm vụ mở rộng giao lưu hàng hoá, phục vụ tốt công cuộc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phát triển, góp phần cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quan hệ sản xuất mới và hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Công tác nội thương phải nhằm tăng cường quan hệ kinh tế giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi, giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã. Phải thực hiện tốt kế hoạch thu mua và cung cấp hàng hoá, sắp xếp hợp lý màng lưới thương nghiệp, tăng cường lãnh đạo thị trường, nhằm kích thích sản xuất phát triển mạnh mẽ, đồng thời nâng cao từng bước đời sống của nhân dân.
VỀ NGOẠI THƯƠNG:
Bây giờ tôi xin trình bày với các đồng chí đại biểu Quốc hội về sự quan trọng đặc biệt của ngoại thương để từ đó rút ra những kết luận đích đáng nhằm tăng cường xuất khẩu.
Ngoại thương trong tình hình hiện nay của nước ta là một khâu rất trọng yếu để từng bước thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Trong cả quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, nhất là thời gian đầu, chúng ta phải nhập – bằng nhiều cách – thiết bị toàn bộ, máy móc, nguyên liệu để xây dựng công nghiệp, trang bị cho nông nghiệp và cho nền kinh tế quốc dân. Đã nhập thì phải xuất để bù và nếu nhập theo cách cho vay dài hạn, thì có thể trả chậm, nhưng phải trả cả vốn và lãi (tuy rằng lãi rất nhẹ, vì đây là giữa các nước xã hội chủ nghĩa với nhau).
Hiện nay và trong những năm tới, chúng ta phải đẩy xuất khẩu phát triển nhanh, có khi nhanh hơn tốc độ phát triển bình quân của kinh tế quốc dân, vì phải xuất để trả những thứ đã nhập trước đây, cộng với phần xuất để thăng bằng xuất nhập hàng năm.
Chúng ta có khả năng làm việc này, nhưng phải có tính toán, có chính sách, có kế hoạch, có biện pháp và có tổ chức thích đáng, và mọi người có trách nhiệm đều phải kiên quyết làm tròn nhiệm vụ của mình.
Điều chủ yếu là nhằm cho đúng các loại hàng xuất khẩu, thấy rõ cơ cấu hàng xuất khẩu của miền Bắc. Lúc nhập, chúng ta biết chọn hàng quý; lúc xuất để trả nợ, chúng ta cũng phải giao hàng quý thì mới công bằng hợp lý và quan hệ kinh tế và buôn bán giữa nước ta với các nước anh em, với mọi nước khác mới ngày càng phát triển tốt đẹp. Phải giữ đúng nguyên tắc bình đẳng, có đi có lại, mọi người đều có lợi. Đất nước chúng ta cộng với lao động sáng tạo của nhân dân ta có những khả năng lớn để sản xuất những loại hàng quý: đó là các loại nông sản và lâm sản; đó là một số sản phẩm công nghiệp; các loại hàng thủ công, hàng mỹ nghệ… đều có thể xuất được. Hiện chỗ yếu đáng tiếc của chúng ta là tỷ trọng hàng nông sản và nông sản chế biến quá thấp. Một nước nông nghiệp nhiệt đới như nước ta phải phấn đấu đưa dần nông sản và nông sản chế biến lên chiếm một tỷ lệ quan trọng trong cơ cấu hàng xuất. Đồng thời phải cố gắng tăng khối lượng và giá trị hàng công nghiệp, nhất là những mặt hàng quý.
Đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển ngoại thương, ngoài tác dụng to lớn nói trên đối với sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, còn có tác dụng tăng cường hợp tác và tương trợ lẫn nhau giữa các nước xã hội chủ nghĩa, tăng cường hợp tác kinh tế và quan hệ hữu nghị với các nước dân tộc chủ nghĩa, nâng cao địa vị quốc tế của nước ta, của dân ta trên thế giới. Đó là một bộ phận, một lợi khí của ngoại giao.
Đẩy mạnh xuất tất nhiên ta sẽ có động chạm ít nhiều tới tiêu dùng trong nước, tiêu dùng cho sản xuất cũng như tiêu dùng cho đời sống. Vậy giải quyết thế nào? Nói chung trên cơ sở bảo đảm nhu cầu thiết yếu trong nước, phải kiên quyết ủng hộ xuất khẩu, dành ưu tiên cho xuất khẩu, vì những lợi ích lớn và lâu dài của nền kinh tế quốc dân và của đời sống hạnh phúc của toàn dân.
VỀ PHÂN VÙNG:
Trong lúc thảo luận kế hoạch 5 năm này, vấn đề phân vùng kinh tế được chú ý nhiều. Như vậy là đúng, vì đây là một vấn đề cấp bách, phải giải quyết. Phải tiến tới phân vùng kinh tế, phân vùng công nghiệp, phân vùng nông nghiệp, thì mới mở đường cho việc tổ chức sản xuất, sản xuất công nghiệp, sản xuất nông nghiệp một cách hợp lý nhất, nghĩa là tập trung ở những nơi có điều kiện thiên nhiên thuận lợi nhất: điều kiện khoáng sản, đất đai, khí hậu, thuỷ lợi, giao thông vận tải…
Ở đây chúng ta gặp một khó khăn khá lớn. Muốn phân vùng thì phải dựa vào những tài liệu đáng tin cậy, mà chúng ta chưa làm được gì bao nhiêu về các loại điều tra cơ bản. Nhưng chúng ta không thể chờ! Hiện nay, chúng ta đã bắt đầu hiểu biết về đất nước chúng ta, về tài nguyên thiên nhiên, về đất đai, sông ngòi, khí hậu, về khả năng kinh tế từng nơi. Đó là những căn cứ có thể dựa. Cố nhiên bước đầu chúng ta chỉ có thể và chỉ cần phân vùng một cách đại lược. Rồi dần dần chúng ta sẽ làm việc phân vùng này một cách chính xác hơn, tuỳ theo sự hiểu biết của chúng ta, nhất là tuỳ theo kết quả của việc sản xuất và kinh doanh ở từng nơi.
Căn cứ việc phân vùng đại lược này, chúng ta có thể nhìn thấy phương hướng sản xuất lớn cho từng nơi. Đối với nông nghiệp, đây là vấn đề rất cấp bách, rất thiết thực, và từ đó chúng ta có thể tập trung lực lượng giải quyết những vấn đề cơ bản nhất về cơ sở vật chất và kỹ thuật cho những vùng nông nghiệp lớn: vùng lúa, vùng cây công nghiệp, vùng lâm nghiệp, vùng chăn nuôi, vùng nông trường tập trung…
Ý nghĩa kinh tế quan trọng của việc phân vùng là tập trung, tập trung phương tiện, tập trung nhân lực, tập trung kỹ thuật. Kết quả là tăng năng suất, tăng sản lượng, hạ giá thành, hợp lý hoá chế biến, vận tải và phân phối, tăng tỷ lệ sản phẩm hàng hoá, tăng khả năng thu mua của Nhà nước.
Tập trung sản xuất đòi hỏi tập trung chỉ đạo. Cơ quan lãnh đạo phải tổ chức việc chỉ đạo trực tiếp, kịp thời, tập trung đối với từng loại sản xuất. Đồng thời phải tính việc tập trung ở những nơi thích hợp các cơ quan nghiên cứu khoa học và kỹ thuật có liên quan, những trường học, những học viện… chứ không để ở Hà Nội như hiện nay. Cho đến các trường phổ thông, chương trình giảng dạy, nội dung và phương pháp giảng dạy đều phải liên hệ mật thiết với nền kinh tế, với đời sống của từng vùng, đó là điều kiện thuận lợi nhất để kết hợp nhà trường với đời sống, học tập với lao động sản xuất. Học sinh trong lúc đi học đã làm quen với nghề nghiệp sẽ phải làm và sau khi ra trường sẽ dễ dàng trở nên người lao động biết nghề.
Hiện nay trên miền Bắc nước ta đã hình thành những khu tập trung công nghiệp: Hòn Gai, Thái Nguyên, Việt Trì, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định… Nhiều khu nhỏ hơn dần dần thành hình. Chúng ta còn phải nghiên cứu tính toán kỹ lưỡng để dần dần đi tới phân vùng công nghiệp.
VỀ VĂN HOÁ:
Trong lúc làm kế hoạch 5 năm và trong lúc trình bày về kế hoạch 5 năm cũng vậy, phải chú trọng các vấn đề kinh tế. Nói kế hoạch chủ yếu là kế hoạch phát triển kinh tế. Như vậy là đúng. Nhưng như vậy không phải là coi nhẹ các vấn đề khác như vấn đề văn hoá, vấn đề nội chính… Cho nên ở đây phải nhấn mạnh rằng các ngành văn hoá, nội chính… phải có ý thức đầy đủ kết hợp sự phát triển của ngành mình một cách ăn khớp, ăn nhịp với sự phát triển của kinh tế.
Bắt đầu từ kế hoạch 5 năm này chúng ta từng bước xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Trên cơ sở đó, chúng ta cũng từng bước xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, xây dựng xã hội và con người xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên, kiến trúc tầng trên phải dựa trên cơ sở vững chắc của kinh tế, nhưng ngược lại cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế, ở nước ta điều này càng rõ rệt.
Hãy nói trước về văn hoá. Nói chung hoạt động văn hoá, tác phẩm văn hoá phải là tấm gương phản chiếu hiện thực ngày nay ở miền Bắc, hiện thực đó hàng ngày đổi mới theo hướng của chủ nghĩa xã hội, đổi mới trong cơ cấu kinh tế, trong quan hệ sản xuất, trong xã hội và trong con người. Sự đổi mới này là cả một cuộc đấu tranh cách mạng, phức tạp và gian khổ như mọi cuộc đấu tranh cách mạng. Nhưng chưa phải mọi người trong nhân dân lao động, trong công nhân, xã viên hợp tác xã… đều có ý thức đầy đủ về cuộc đấu tranh cách mạng này và về nghĩa vụ của mình trong cuộc đấu tranh đó. Chúng ta càng đòi hỏi các ngành văn hoá (giáo dục, văn học, nghệ thuật…) cố gắng đúng hướng hơn nữa đóng góp phần cống hiến của mình vào sự nghiệp xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc: nâng cao nhiệt tình cách mạng, phấn đấu gian khổ, lao động quên mình, mọi người đem hết sức lực của mình góp phần xây dựng đời sống mới. Nói hoạt động văn hoá là nói nội dung tư tưởng, giá trị nghệ thuật và hình thức biểu hiện… Nội dung tư tưởng phải phản chiếu đời sống ngày nay, hiện thực xã hội chủ nghĩa sinh động đương diễn ra khắp mọi nơi. Đó là điều quan trọng nhất, cũng là điều khó khăn nhất. Ở nước ta, người làm công tác văn hoá, người sáng tác nghệ thuật, lúc nào cũng sẵn đề tài. Cuộc đấu tranh anh dũng của dân ta, những biến chuyển cách mạng sâu sắc đương diễn ra khắp mọi nơi, cuộc sống phong phú, muôn màu…, đó là những đề tài, biết bao đề tài xứng đáng với những công trình, những tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật. Còn về hình thức, nói chung nên kén chọn những hình thức thích hợp, dễ quen thuộc với quần chúng. Về xây dựng cơ bản trong ngành văn hoá, trong những năm qua, chúng ta đã có những cố gắng khá lớn. Chúng ta sẽ tiếp tục cố gắng trong phạm vi khả năng, dựa vào sức của Nhà nước đồng thời dựa vào sức của nhân dân, nhằm từng bước phục vụ đời sống văn hoá của quần chúng.
Bây giờ xin nói cụ thể hơn về một số vấn đề của giáo dục.
Vấn đề cấp bách nhất là chất lượng của giáo dục nói chung, nhất là ở trường phổ thông. Mấy năm vừa qua chúng ta đã phát triển quá nhanh, quá rộng, chúng ta chạy theo yêu cầu… Kết quả là chất lượng giảng dạy, trình độ học trò có chiều hướng thấp dần so với trước. Vì sao vậy? Vì chúng ta đào tạo thầy giáo không kịp với tốc độ phát triển của trường phổ thông, nhất là ở cấp II. Cho nên chúng ta phải tính toán lại toàn bộ việc giáo dục, nhất là giáo dục phổ thông, một cách cân đối, nhịp nhàng với khả năng đào tạo giáo viên, và với mọi khả năng khác. Đồng thời, chúng ta phải thực hiện một cuộc cải cách giáo dục nhằm gắn liền nhà trường với đời sống, kết hợp học tập với lao động sản xuất. Đây là những vấn đề vừa quan trọng vừa cấp bách. Chúng ta phải giải quyết đúng đắn và kịp thời các vấn đề ấy.
Một loại vấn đề cấp bách nữa của giáo dục là vấn đề đào tạo cán bộ kỹ thuật các cấp cho các ngành: phải tính toán các mặt: phương hướng đào tạo, kế hoạch, chỉ tiêu đào tạo phải ăn khớp, ăn khớp với nhu cầu trước mắt và sau này của các ngành. Việc tính toán này phải nhằm để sau khi ra trường bất cứ cấp nào, người học sinh, người cán bộ sẽ có chỗ làm, và có khả năng học thêm để tiến bộ trong nghề. Hiện nay ở đôi nơi, tình trạng trái ngược đến nỗi, một bên chúng ta rất cần cán bộ kỹ thuật (ví dụ cho thuỷ lợi), một bên thì lại chậm bố trí công việc cho học sinh tốt nghiệp trường kỹ thuật (thuỷ lợi).
Về nội chính, vấn đề quan trọng và cấp bách nhất là chúng ta phải làm gì để tăng cường Nhà nước, sẽ xin trình bày sau.
VỀ CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG:
Toàn bộ sự nghiệp của chúng ta, tất cả việc làm của chúng ta là nhằm phục vụ con người, phục vụ đời sống, từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân miền Bắc.
Nhân dân ta ai nấy đều hiểu rõ điều đó và rất tin tưởng vào chế độ chúng ta. Nhưng làm thế nào để cải thiện đời sống trong những điều kiện của miền Bắc hiện nay, Nhà nước phải làm gì và mỗi người lao động, mỗi người dân miền Bắc phải làm gì? Đối với điều quan trọng và thiết thực này, chưa phải mọi người ở miền Bắc đều hiểu đúng.
Chủ nghĩa xã hội, đời sống hạnh phúc không phải tự nhiên từ trên trời rơi xuống! Từ trên trời rơi xuống có thể là mưa thuận, nắng hoà, nhưng cũng có thể là bão lụt, hạn hán… Cho nên, ngày nay nhân dân ta đã làm chủ vận mệnh của mình thì nhân dân phải làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, dựa vào sức của mình là chính để phát triển kinh tế và văn hoá và cải thiện đời sống.
Chỉ có thể cải thiện đời sống trên cơ sở phát triển kinh tế và văn hoá, đó là chân lý, đó là quy luật của chủ nghĩa xã hội, trái hẳn với xã hội tư bản chủ nghĩa, ở đấy kinh tế càng phát triển, càng đem lại giàu có cho giai cấp tư sản, thì càng đem lại nghèo khốn cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhưng ở xã hội xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế và cải thiện đời sống liên quan với nhau như thế nào, đó là vấn đề rất thiết thực mà mọi người lao động miền Bắc nước ta đều phải hiểu đúng và sâu sắc. Điểm mấu chốt phải nói ngay là năng suất lao động, sự cần thiết phải tăng càng nhanh càng hay năng suất lao động để đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống. Đối với cả xã hội, cũng như đối với mọi người lao động, việc tăng năng suất là việc lớn nhất, có ý nghĩa quyết định nhất, nhưng thật đáng tiếc là nhận thức của chúng ta chưa xứng với ý nghĩa quan trọng đó, từ các cơ quan lãnh đạo kinh tế quốc dân, lãnh đạo kinh tế quốc doanh, những người trực tiếp quản xí nghiệp và công trường, những người quản trị hợp tác xã, những người lãnh đạo các tổ chức quần chúng, cho đến quảng đại quần chúng lao động ở thành thị và nông thôn. Ở những nước kinh tế phát triển, nhân khẩu tăng rất chậm, lực lượng lao động hầu như cố định, thì sự phát triển của kinh tế, nhất là của công nghiệp, chủ yếu là do tăng năng suất. Ở nước ta, vì chúng ta cần phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp và nông nghiệp nhanh chóng, một mặt chúng ta phải đẩy mạnh hơn nữa việc tăng năng suất, đồng thời chúng ta phải quản lý lực lượng lao động một cách chặt chẽ và sử dụng lực lượng ấy một cách hợp lý, nhằm tăng cường cho những ngành, cho những địa phương cần nhân lực để mở rộng sản xuất, như các ngành sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, thủ công nghiệp ở miền núi và trung du. Và cũng theo quan điểm đó, chúng ta ra sức giảm đến mức thấp nhất tỷ trọng hiện quá cao của những người không sản xuất ở thành thị, những người trong biên chế hành chính của các cơ quan, của các tổ chức, những người thuộc các bộ phận gián tiếp trong khu vực sản xuất, và chuyển sức lao động ấy sang sản xuất. Nhất là trong lúc năng suất lao động của xã hội còn thấp, thì hầu hết mọi người có sức lao động đều phải làm lao động sản xuất, như vậy để tự lo cho đời sống của mình và đóng góp một phần nhỏ vào sản phẩm xã hội.
Hãy trở lại yêu cầu to lớn và cấp bách của kinh tế quốc dân là tăng năng suất lao động của xã hội. Yêu cầu này phải được quán triệt trong ý thức của mọi người chúng ta, nhất là trong ý thức của những người lãnh đạo các cấp, các ngành của nền kinh tế quốc dân. Năng suất lao động càng tăng thì càng có khả năng tăng tích luỹ, đồng thời cải thiện đời sống trước mắt và tích luỹ cũng chỉ để cải thiện đời sống sau này.
Nói rõ những vấn đề trên đây chính là để cổ vũ mọi người lao động nước ta càng ra sức thi đua yêu nước, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật, làm nhiều, nhanh, tốt, rẻ, thi đua tăng năng suất lao động để đẩy mạnh kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân.
VỀ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN:
Bây giờ tôi xin báo cáo về chỉ đạo thực hiện. Người ta thường nói: kế hoạch, những chủ trương và chỉ tiêu của kế hoạch tốt đẹp đến mấy cũng chỉ là trên giấy. Nghĩa là còn phải thực hiện.
Trong bản báo cáo trình Quốc hội, đồng chí Nguyễn Duy Trinh sẽ gắn liền chủ trương, chỉ tiêu với biện pháp thực hiện. Nghĩ tới việc làm là phải nghĩ tới biện pháp biến ý muốn thành hiện thực. Như vậy là đúng, nhưng phải thấy rằng ở đây chỗ yếu, chỗ kém của chúng ta còn nhiều, phải có quyết tâm lớn, bền bỉ và ăn khớp của mọi người để cải tiến và tăng cường chỉ đạo thực hiện một cách vững chắc.
Kinh nghiệm mấy năm nay dẫn đến mấy khâu rất quan trọng sau đây trong chỉ đạo thực hiện:
1- Bộ và tỉnh:
Bộ quản những ngành kinh tế và văn hoá, nhất là những ngành kinh tế quốc doanh. Tỉnh quản kinh tế và văn hoá, nhất là sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân ở địa phương. Bộ và tỉnh phải lập kế hoạch, xây dựng những chỉ tiêu của kế hoạch dưới sự hướng dẫn của Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, và khi kế hoạch ấy đã trở thành bộ phận của kế hoạch Nhà nước, thì Bộ và tỉnh có nghĩa vụ thực hiện kế hoạch ấy dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội đồng Chính phủ.
Hội đồng Chính phủ chúng tôi đã một bước thực hiện việc nâng cao trách nhiệm, mở rộng quyền hạn cho đồng chí Bộ trưởng và Uỷ ban hành chính tỉnh. Chúng tôi sẽ mạnh dạn giao quyền cho Bộ và tỉnh, đi đôi với giữ vững tập trung và đòi hỏi Bộ và tỉnh ra sức phát huy mọi sức lực của mình để hoàn thành vượt mức chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước, đẩy mạnh mọi mặt hoạt động trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình, dưới sự chỉ đạo tập trung và thống nhất của Chính phủ.
2- Sự chỉ đạo của Hội đồng Chính phủ:
Hội đồng Chính phủ là người trực tiếp nắm việc quản lý kinh tế và văn hoá, quản lý đời sống của nhân dân. Hội đồng Chính phủ là người trực tiếp nắm việc thực hiện toàn bộ hệ thống chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước, kế hoạch hàng năm và kế hoạch dài hạn. Cho nên, tăng cường khâu chỉ đạo thực hiện này có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực. Hiện nay, khâu này còn yếu ở chỗ trong việc quản lý kinh tế và văn hoá, trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước, Hội đồng Chính phủ chúng tôi chưa nắm được một cách tập trung và kịp thời tình hình trên mặt trận kinh tế và sản xuất để giải quyết kịp thời và mạnh mẽ mọi vấn đề đã phát hiện.
Chúng tôi đương nghiên cứu vấn đề này theo hướng thành lập một cơ quan chuyên trách chỉ đạo thực hiện kế hoạch.
3- Tăng cường hợp tác xã hội chủ nghĩa:
Đi đôi với việc phân cấp ngày càng rành mạch và đúng mức, chúng ta phải nhấn mạnh hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa mọi ngành, giữa mọi địa phương, giữa mọi người nhất là giữa mọi cơ quan có liên quan. Kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, đòi hỏi một sự phân công ngày càng tinh vi của xã hội, do đó đòi hỏi sự hợp tác xã hội chủ nghĩa ngày càng chặt chẽ. Hoạt động kinh tế và văn hoá của xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của mọi người không thể tồn tại được nếu không có sự hợp tác xã hội chủ nghĩa theo tinh thần: ta vì mọi người, mọi người vì ta. Tuy nhiên, hiện nay, tình trạng bản vị, cục bộ, chỉ biết mình, mặc kệ người khác, có khi đã ký hợp đồng rồi cũng mặc kệ, còn khá phổ biến. Thật là một điều trái ngược dưới chế độ ta, không thể dung thứ trong quan hệ giữa những người cùng nhau xây dựng chủ nghĩa xã hội, có khi giữa những đồng chí đều giữ những trọng trách trong bộ máy Nhà nước. Mọi người chúng ta phải có ý thức đấu tranh chống tình trạng trái ngược này. Bằng việc làm, mọi người chúng ta hãy nêu tấm gương sáng về quan hệ hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa các ngành, giữa các địa phương, giữa mọi người chúng ta, ai nấy đều toàn tâm toàn ý đóng góp phần cống hiến của mình vào việc thực hiện kế hoạch nhà nước.
III- NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA VIỆC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
Ý NGHĨA CỦA KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Ý nghĩa bao trùm nhất của kế hoạch 5 năm thứ nhất là tiếp tục đưa miền Bắc tiến tới những biến đổi cách mạng sâu sắc hơn và giành những thắng lợi to lớn hơn, tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh để hoà bình thống nhất nước nhà.
Lênin nói rằng kế hoạch nhà nước là cương lĩnh thứ hai của Đảng. Câu nói đó có nghĩa là kế hoạch Nhà nước, những chỉ tiêu của kế hoạch là sự thể hiện tập trung nhất đường lối của Đảng, cương lĩnh của Đảng. Đối với chúng ta thực hiện kế hoạch 5 năm, thực hiện chỉ tiêu của kế hoạch tức là thực hiện đường lối của Đảng, Nghị quyết của Đại hội lần thứ III, các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 5 và lần thứ 6.
Nghị quyết Đại hội đã nêu rõ: “Khi công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi quyết định, chúng ta chuyển sang lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đồng thời hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa”.
Từng bước ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, từng bước thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, từng bước xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, mấy ý này liên quan mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau, tác động lẫn nhau: đó là phương hướng phấn đấu cơ bản và lâu dài của chúng ta bắt đầu với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất này.
Gần đây chúng ta nhấn mạnh sự quan trọng của việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Vậy, cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là gì?
“Đó là một nền đại công nghiệp cơ giới hoá đủ sức trang bị kỹ thuật cho nông nghiệp” (Lênin) - Đúng! bộ phận quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định trong cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ giới hoá; đối với chúng ta, là một nền công nghiệp nặng tương đối hoàn chỉnh bao gồm những ngành cơ bản: điện và nhiên liệu, cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng. Phải ưu tiên phát triển những ngành kể trên của công nghiệp nặng để từng bước trang bị kỹ thuật cho nông nghiệp, cho công nghiệp nhẹ và cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đẩy sức sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Có như vậy chúng ta mới có điều kiện tăng nhanh sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, tăng nhanh sản phẩm xã hội. Đồng thời đó là tiền đề để cải tạo không ngừng cơ cấu của nông nghiệp, thực hiện một sự phân công lao động mới trong xã hội, một sự phân bố sức sản xuất mới trên lãnh thổ, thực hiện quy luật của chủ nghĩa xã hội là phát triển kinh tế quốc dân một cách cân đối, nhịp nhàng với tốc độ nhanh, nâng cao từng bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Hãy lấy một ví dụ: Những người lao động miền Bắc nước ta làm ăn rất cần cù. Nhưng chỉ có khoảng 5% làm việc với những phương tiện cơ giới, năng suất lao động tương đối cao, còn khoảng 95% thì làm việc với những công cụ thủ công, phần lớn là công cụ thời trước, mới cải tiến ít nhiều. Mác nói: “Điều phân biệt một thời đại kinh tế này với một thời đại kinh tế khác không phải là những thứ người ta sản xuất ra, mà chính là cách sản xuất những thứ ấy”. Làm ăn theo cách hiện nay ở nước ta: 95% lao động là thủ công, thì hao sức rất nhiều, mà năng suất lao động, giá trị lao động rất thấp, đúng là tay làm hàm nhai, lấy gì để cải thiện đời sống trước mắt và góp phần tích luỹ để cải thiện đời sống ngày mai.
Cho nên vấn đề có ý nghĩa kinh tế to lớn nhất, cấp bách nhất và thiết thực nhất là làm sao trang bị kỹ thuật nghĩa là trang bị dụng cụ cải tiến, nửa cơ giới, cơ giới cho nông nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản, nghề rừng, nghề cá… hiện đương dùng lao động thủ công, dần dần giải phóng hàng triệu người lao động khỏi những công việc quá nặng nhọc và năng suất quá thấp như gánh gồng, tát nước, làm đất…
Cuộc cách mạng kỹ thuật có ý nghĩa to lớn và sâu sa này phải là nội dung chủ yếu của phong trào thi đua yêu nước. Chúng ta đã chặt xiềng xích của những chế độ áp bức bóc lột thời trước. Chúng ta phải tiếp tục chặt cho hết những xiềng xích, hậu quả của nền kinh tế lạc hậu thời trước.
Phải khẳng định rằng hiện nay, nếu chúng ta kịp thời tổng kết kinh nghiệm của quần chúng lao động khắp mọi nơi, nếu chúng ta tận dụng những khả năng của chúng ta về cơ khí, điện, nhiên liệu, vật liệu xây dựng…, nếu chúng ta sử dụng một cách hợp lý hơn lực lượng kỹ thuật trẻ tuổi của chúng ta, thì chúng ta rất có thể làm nhiều hơn, nhanh hơn, tốt hơn việc trang bị kỹ thuật và đẩy mạnh cuộc cách mạng kỹ thuật, và từ đó nâng cao nhanh chóng năng suất lao động ở nhiều ngành sản xuất vật chất, nâng cao không ngừng năng suất lao động của xã hội. Thống nhất quản lý và sử dụng một cách hợp lý nhất mọi khả năng hiện nay của chúng ta để trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế quốc dân, đó là điều có ý nghĩa quan trọng bức thiết mà mọi người chúng ta phải để ý đầy đủ và góp phần thực hiện.
Trước đây lòng chúng ta sục sôi căm thù trước cảnh đời sống nô lệ của dân ta. Lòng căm thù mãnh liệt ấy đã hoàn toàn giải phóng miền Bắc nước ta khỏi mọi chế độ áp bức bóc lột. Hiện nay, chúng ta đang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, đương đấu tranh chống lạc hậu và nghèo nàn, di sản của phong kiến và thực dân. Lòng ta phải sục sôi căm thù trước cảnh đồng bào ta làm ăn còn vất vả quá, người nông dân ta suốt năm chân bùn tay lấm, chị em ta làm lụng còn nặng nhọc quá. Chúng ta đã làm cách mạng giải phóng dân tộc, đã làm cách mạng giải phóng dân chủ, bây giờ chúng ta đương làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, bước đầu giải phóng người lao động khỏi công việc chân tay nặng nhọc, và dần dần tiến lên.
Đi đôi với việc cải tiến kỹ thuật theo trình độ thấp này chúng ta phải cố gắng hết sức sử dụng một cách tập trung và hợp lý nhất mọi thiết bị hiện có, sử dụng đến mức cao nhất công suất máy móc, nhất là không để thiết bị, máy móc nằm chết trong kho hoặc quá nhàn rỗi. Chúng ta phải ra sức tận dụng sự giúp đỡ vô cùng quý báu của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác để xây dựng những xí nghiệp hiện đại, ra sức học tập các đồng chí chuyên gia các nước anh em để làm chủ các loại kỹ thuật hiện đại trong công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Đồng thời cơ quan nghiên cứu khoa học và kỹ thuật nước ta phải có ý thức sâu sắc và mạnh mẽ nghiên cứu và áp dụng kỹ thuật tiên tiến nhất hợp với yêu cầu và khả năng của chúng ta.
Chúng ta thường nói: miền Bắc sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, điều đó không có nghĩa là không trải qua cuộc cách mạng kỹ thuật, không trải qua quá trình công nghiệp hoá. Từ lao động thủ công tiến lên một nền kinh tế phát triển với trình độ cao, làm nền tảng cho một xã hội xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhất định phải trải qua những bước đường tất yếu kể trên.
Cách mạng kỹ thuật và cải tiến kỹ thuật theo những hướng trên đây là nhân tố chủ yếu quyết định sự phát triển kinh tế quốc dân với tốc độ nhanh, quyết định sự đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp, cơ cấu nông nghiệp, sự tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì đó là nhân tố chủ yếu quyết định sự tăng nhanh năng suất lao động, và từ đó tăng tích luỹ để không ngừng tái sản xuất mở rộng, đồng thời tăng thu nhập nhằm cải thiện đời sống cho người lao động. Kỹ thuật là nhân tố cơ động nhất, cách mạng nhất trong sản xuất, và sau khi nhân dân đã làm chủ quan hệ sản xuất, nhân dân phải đẩy sức sản xuất phát triển mạnh mẽ bằng cải tiến kỹ thuật.
Ý nghĩa của cuộc cách mạng kỹ thuật, cải tiến kỹ thuật và trang bị kỹ thuật mới cho nền kinh tế quốc dân phải được quán triệt trong hoạt động mọi ngành, mọi người, phải trở thành nội dung chủ yếu của phong trào thi đua yêu nước.
Công tác tư tưởng phải bồi dưỡng cho nhân dân lao động lòng yêu nước và nhiệt tình cách mạng, nhân sinh quan xã hội chủ nghĩa, ý thức làm chủ tập thể, tinh thần dũng cảm phấn đấu, chiến thắng mọi khó khăn. Song trong giai đoạn hiện nay, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức quý báu ấy là để làm gì? Phát huy yếu tố tinh thần vô cùng to lớn đó là để hướng vào đâu? Chính là để làm cuộc cách mạng kỹ thuật và cải tiến kỹ thuật. Sống và làm việc như người xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc ngày nay chính là dốc hết tình cảm và tài năng của mình vào cuộc cách mạng kỹ thuật và cải tiến kỹ thuật, bởi vì đó là con đường để tạo ra năng suất lao động cao, nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc tấn công vào nghèo nàn và lạc hậu, quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng kỹ thuật, cũng như mọi cuộc cách mạng, là sự nghiệp của quần chúng. Cho nên phải động viên quần chúng tham gia tích cực cuộc vận động này. Đồng thời chúng ta phải nhấn mạnh và nêu cao tác dụng hướng dẫn và chỉ đạo của những cơ quan, những viện có trách nhiệm nghiên cứu và giải quyết vấn đề cực kỳ quan trọng này: Từng bước, từng phần trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế quốc dân, trước hết cho nông nghiệp. Những người làm công tác khoa học, kỹ thuật nước ta hãy nhằm mục tiêu đó mà phấn đấu.
ĐỘNG VIÊN QUẦN CHÚNG THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Kế hoạch, chỉ tiêu không chỉ là con số. Đó là ý chí của con người lúc đã làm chủ vận mệnh của mình và tự tay mình xây dựng đời sống của mình. Kế hoạch nhà nước là biểu hiện tập trung đường lối của Đảng và những chính sách của Đảng và của Nhà nước, đó cũng là biểu hiện tập trung ý chí của nhân dân. Cho nên mọi người chúng ta phải đem hết sức lực và tài năng thực hiện mọi chỉ tiêu của kế hoạch, góp từng viên đá xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Người là vốn quý báu nhất, bởi vì người làm ra tất cả. Còn nghèo về mặt kinh tế và kỹ thuật, chúng ta lại rất giàu về vốn con người, chúng ta sẽ dần dần xoá bỏ nghèo khổ và lạc hậu, chúng ta sẽ dần dần xây dựng một nền kinh tế phồn vinh trên cơ sở một nền kỹ thuật tiên tiến. Chúng ta sẽ làm việc này trong thời gian lịch sử tương đối ngắn, không phải trải qua hàng thế kỷ như những nước tư bản chủ nghĩa phương Tây, và quyết không thể dùng những thủ đoạn đẫm máu của chúng. Chúng ta sẽ làm được sự nghiệp vĩ đại đó vì chúng ta có chế độ xã hội tốt đẹp nhất của lịch sử loài người, chế độ của những người chân chính tự do đương ra sức phát huy mọi tài năng của mình để xây dựng đời sống hạnh phúc cho mình.
Chúng ta tự hào về con người chúng ta, về những người lao động ở miền Bắc, những người công nhân, người xã viên hợp tác xã, người lao động trí óc… Chúng ta đã thấy rõ những người bình thường đó đã làm nên những việc phi thường qua phong trào thi đua yêu nước. Hiện nay, chúng ta có gần 400 tổ và đội lao động xã hội chủ nghĩa, hàng mấy nghìn tổ, đội khác đang quyết tâm phấn đấu giành danh hiệu vẻ vang ấy. Chúng ta có 70 anh hùng lao động, hàng vạn chiến sĩ thi đua, hàng chục vạn lao động tiên tiến. Bất cứ ở đâu hàng ngày đều xuất hiện những người tốt, những việc tốt, những đơn vị tốt, những cơ sở tốt… Biết bao gương sáng hàng ngày, hàng giờ thúc giục mọi người chúng ta hãy cố lên làm tốt hơn nữa công việc của mình. Chúng ta hãy đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua, kêu gọi mọi người hãy cố gắng hơn lên, “người người thi đua, ngành ngành thi đua”, thì chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn trở ngại, sự nghiệp của chúng ta càng phát triển, tiến bộ của chúng ta càng to lớn.
Một điều quan trọng mà chúng ta chưa chú ý đúng mức là hiện nay chúng ta có một đội ngũ nhân viên kỹ thuật quý giá: một vạn cán bộ kỹ thuật tốt nghiệp đại học, bốn vạn cán bộ kỹ thuật trung cấp và 17 vạn công nhân biết nghề. Con người là vốn quý báu nhất, con người có đạo đức xã hội chủ nghĩa và có trình độ kỹ thuật càng là vốn quý báu. Nhưng chúng ta chưa có chính sách và kế hoạch sử dụng một cách hợp lý nhất nhân viên kỹ thuật của chúng ta. Vị trí của họ là ở xí nghiệp, công trường, hợp tác xã, ở thành thị, ở nông thôn, ở miền xuôi, miền núi, miền biển, ở bên cạnh những thiết bị hiện đại, những công cụ cơ giới, ở mọi nơi cần đến hiểu biết kỹ thuật của họ. Chúng ta phải biết quý trọng và tận dụng lực lượng kỹ thuật đó của chúng ta. Họ sẽ lớn lên nhanh chóng trong trường học của lao động sản xuất, của đời sống. Không nên điều họ đi làm bất cứ việc gì khác với nghề của họ. Phải nâng đỡ và dìu dắt họ: những bước đầu bao giờ cũng bỡ ngỡ, nhưng họ sẽ quen dần và sẽ được tôi luyện.
Đồng thời chúng ta phải ra sức bằng mọi cách đào tạo ngày càng nhiều những cán bộ kỹ thuật trong đó phải chăm lo đào tạo những cán bộ có trình độ cao khớp với nhu cầu của các ngành.
Vốn con người của chúng ta còn quý ở một chỗ khác nữa: Đó là đội ngũ những người thanh niên học xong trường phổ thông và bước vào lao động sản xuất. Đây là một thắng lợi của giáo dục phổ thông: đào tạo từng lớp thanh niên nam và nữ có trình độ văn hoá (từ lớp 5 đến lớp 10) có hiểu biết chính trị, có sức khoẻ. Mấy năm nay, chúng ta đã cố gắng rất lớn giúp cho mọi người lao động nước ta ở thành thị và nông thôn học cấp tốc đến trình độ cấp I rồi đến cấp II. Nhờ đó hiện nay trình độ trung bình của công nhân là lớp 4, của xã viên hợp tác xã nông nghiệp là lớp 2, lớp 3. Bây giờ hàng năm chúng ta có hàng chục vạn người thanh niên có trình độ văn hoá phổ thông, bổ sung vào đội ngũ những người đương làm lao động sản xuất. Chúng ta phải quý trọng và sử dụng tốt sức lực mới này. Phải nhớ rằng hiện nay, vì sự phát triển quá nhanh của nhân khẩu ở miền Bắc, tỷ trọng người lao động đối với dân số có khuynh hướng thấp dần, cho nên chúng ta càng phải chuẩn bị tốt về mọi mặt để chuyển sức lao động mới có ít nhiều học thức này vào sản xuất. Đồng thời phải cố gắng hết sức bằng mọi cách giúp đỡ những thanh niên còn rất trẻ và ham học này tiếp tục học tập để tiến bộ không ngừng và phát triển tài năng của mình.
Cùng với phong trào thi đua yêu nước, chúng ta sẽ làm mấy cuộc vận động lớn. Tất cả các cuộc vận động này đều nhằm động viên đến mức cao nhất nhiệt tình và sức lao động sáng tạo của hàng triệu người lao động ở xí nghiệp, công trường, hợp tác xã, khắp mọi nơi trên miền Bắc.
Về cuộc vận động “cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc” Nghị quyết của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng đã nêu rõ: “Mục đích của cuộc vận động này là nhằm cải thiện đời sống của nông dân xã viên và của nhân dân nói chung, tăng cường lực lượng của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và bảo đảm nhu cầu của Nhà nước. Muốn thế, cuộc vận động phải thấu suốt Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng bảo đảm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, làm cho nông nghiệp trở thành cơ sở vững chắc để phát triển công nghiệp, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh nhằm thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà” và sau cùng “Bộ Chính trị mong rằng toàn Đảng ra sức lãnh đạo, toàn dân hăng hái tham gia và ủng hộ cuộc vận động đó. Tất cả sẽ đồng lòng, dốc sức, quyết đưa cuộc vận động đến thành công”.
Nông dân miền Bắc đã tự nguyện tổ chức lại, thành lập hợp tác xã, đi vào con đường xã hội chủ nghĩa và nhờ đó đã đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, đem lại những kết quả tốt đẹp mà mọi người chúng ta đều biết. Như vậy hợp tác xã đã cố gắng rất nhiều, và hiện nay đương đòi hỏi một cách bức thiết Nhà nước dân chủ nhân dân và công nghiệp quốc doanh ra sức từng bước tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho hợp tác xã, từng bước trang bị kỹ thuật cho hợp tác xã, từng bước cung cấp cho hợp tác xã mọi vật tư và hàng tiêu dùng cần thiết.
Lênin nói: “Mỗi một chế độ mới nảy nở ra, đều cần phải có một giai cấp tương đương giúp đỡ về tài chính. Hiện nay chế độ xã hội mà chúng ta phải đặc biệt giúp đỡ là chế độ hợp tác xã… Phải cho hợp tác xã hưởng những đặc quyền về kinh tế, tài chính, ngân hàng…” (Bàn về hợp tác xã).
Hiện nay, không chỉ nhận thức của các cơ quan nhà nước chúng ta về mặt này đã bước đầu được nâng cao, mà lực lượng của các ngành để phục vụ hợp tác xã và sản xuất nông nghiệp cũng lớn lên, cho nên chúng ta tin rằng mọi cơ quan của Nhà nước thuộc các khối kinh tế, văn hoá, nội chính, mọi ngành kinh tế quốc doanh đều nhận rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình và đều cố gắng làm trọn những việc phải làm. Ở đây cần nhấn mạnh rằng giúp hợp tác xã và sản xuất nông nghiệp tức là giúp mình, tức là nhằm đúng phương hướng và nhờ đó mà mở rộng hoạt động và lớn lên. Nông thôn hợp tác hoá, nông thôn phồn vinh là thị trường lý tưởng của các ngành công nghiệp nặng và nhẹ… là đối tượng hoạt động rất hấp dẫn của các ngành khác.
Cuộc vận động lớn thứ hai đương làm là cuộc vận động “nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu”. Kinh tế quốc doanh của chúng ta ngày càng phát triển. Chúng ta mong muốn đẩy nó phát triển ngày càng mạnh, quy mô ngày càng lớn, ngày càng phát huy tác dụng lãnh đạo đối với toàn bộ kinh tế quốc dân, đối với kinh tế tập thể của nông dân, của thợ thủ công. Nhưng mặt khác, chúng ta còn non kém từ trên xuống dưới trong việc quản lý kinh tế quốc doanh. Cho nên tất cả cơ quan quản lý kinh tế quốc dân, nhất là cơ quan quản lý kinh tế quốc doanh, phải nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của cuộc vận động này và có đầy đủ ý thức làm cho tốt. Cuộc vận động phải làm ở cơ sở: xí nghiệp, công trường, nông trường, cửa hàng… Nhưng cuộc vận động ở cở sở chỉ có kết quả tốt khi nó được lãnh đạo chặt chẽ từ cơ quan lãnh đạo ở Bộ. Vì vậy, các ngành kinh tế quốc doanh phải có kế hoạch về toàn bộ cuộc vận động này, từ trên xuống, đặc biệt chú trọng những khâu trọng yếu nhất. Mục đích là cải tiến quản lý đi đôi với cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ quản lý kinh tế quốc doanh lên một mức, đưa việc quản lý vào nền nếp, thể hiện bằng những chế độ, thể lệ, quy định của Nhà nước, nhằm tận dụng mọi khả năng của chúng ta về vốn, vật tư, thiết bị và máy móc, nhân lực, lực lượng kỹ thuật. Mục đích đó phải được thể hiện bằng những mục tiêu phấn đấu thiết thực về tăng năng suất lao động, tăng phẩm chất sản phẩm, hạ giá thành, tăng tích luỹ cho Nhà nước và đem lại phúc lợi cho công nhân. Phải kết hợp rất chặt chẽ cuộc vận động này với việc thực hiện kế hoạch nhà nước, kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm, kế hoạch hàng quý. Phải coi cuộc vận động này là một biện pháp quan trọng bậc nhất nhằm bảo đảm hoàn thành tốt kế hoạch. Nó phải gây tin tưởng và phấn khởi sâu sắc trong cán bộ từ trên xuống, trong cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, trong quảng đại quần chúng công nhân ở xí nghiệp, công trường, nông trường và nhân viên ở các cửa hàng. Cơ quan lãnh đạo các ngành chuẩn bị kế hoạch cho toàn bộ cuộc vận động đầy đủ và ăn khớp chừng nào thì lúc mở cuộc vận động ở cơ sở công việc làm sẽ gọn gàng, sôi nổi, sâu sắc và đem lại kết quả thiết thực chừng nấy.
Kết hợp chặt chẽ với cuộc vận động này, các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất cũng như các cơ quan sự nghiệp, hành chính, đều phải kiên quyết hơn nữa trong việc chấn chỉnh tổ chức, giảm nhẹ biên chế, cải tiến công tác văn thư, chống nạn giấy tờ vô ích và chống hội họp tràn lan. Đây là một công tác quan trọng có tác dụng chống tệ nạn quan liêu, lãng phí và nâng cao hiệu suất công tác của các cơ quan nhà nước.
Cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi, là một chính sách rất lớn có tầm quan trọng về mọi mặt đối với miền Bắc nước ta. Nó nhằm cải tạo một cách cơ bản sự mất cân đối nghiêm trọng hiện nay: trung du và miền núi, đất rộng, tài nguyên rất phong phú nhưng người lại quá thưa, trong lúc đó, ở đồng bằng mật độ dân số lại quá cao. Phân bố lại sức sản xuất, trước hết là sức người, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, khai thác các nguồn lâm sản, đẩy mạnh mọi hoạt động kinh tế ở trung du và miền núi, đó là yêu cầu cấp bách của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa của dân ta ở miền Bắc, phù hợp với nguyện vọng của đồng bào miền núi, với lợi ích của đồng bào cả nước. Thêm sức lao động, Việt Bắc và Tây Bắc sẽ trở nên những vùng phát triển toàn diện: có nông nghiệp, có lâm nghiệp, có công nghiệp, đời sống vật chất và văn hoá sẽ đổi mới nhanh chóng: đó là biểu hiện tốt đẹp của tình đoàn kết dân tộc ở miền Bắc nước ta.
Chúng ta chưa đánh giá hết những tài nguyên thiên nhiên phong phú của những vùng như Việt Bắc, Tây Bắc, các tỉnh trung du, Tây Nghệ An, Thanh Hoá v.v… Chúng ta rất mong muốn làm sao khai thác nhanh hơn và nhiều hơn những nguồn lợi rất lớn về: khoáng sản, lâm sản, chăn nuôi, các loại cây công nghiệp… ở những nơi đó. Chúng ta phải mạnh dạn đầu tư vốn vào đó, nhất là vốn lao động. Rất may mắn là vốn này chúng ta đương có sẵn, đó là những người lao động ở đồng bằng, ở các đô thị. Nhà nước chúng ta phải kịp thời ban hành mọi chính sách nhằm khuyến khích người lao động ở đồng bằng và đô thị hăng hái tiến lên trung du và miền núi tham gia khai thác lâm nghiệp, làm sản xuất nông nghiệp chung quanh các thị xã, thị trấn đương xây dựng công nghiệp, làm sản xuất nông nghiệp ở nơi nhiều đất ruộng thiếu người cày cấy, làm giao thông vận tải, làm các nghề thủ công…
Trong những điều kiện như vậy, người làm kế hoạch yêu cầu nhân lực để phát triển trung du và miền núi chủ yếu là các tỉnh ở miền núi và trung du, các ngành như Tổng cục Lâm nghiệp và các cơ quan đó phải có sự bàn bạc chu đáo với các tỉnh ở đồng bằng, cùng nhau tính toán yêu cầu về nhân lực và kế hoạch tổ chức việc làm ăn của nhân lực ấy đến nơi đã định. Tổng cục Khai hoang có trách nhiệm đặc biệt chăm lo việc tổ chức đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi.
Cùng với phong trào thi đua yêu nước, ba cuộc vận động lớn trên đây, tuy nội dung cụ thể khác nhau, nhưng đều giống nhau ở một chỗ: phát huy lực lượng của quần chúng làm đòn xeo để phát triển nông nghiệp, phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế và văn hoá, từng bước xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên lao động, Hội Liên hiệp phụ nữ sẽ ra sức động viên đoàn viên và hội viên trong đoàn thể mình, động viên mọi tầng lớp nhân dân lao động tham gia đông đảo và mạnh mẽ vào các cuộc vận động cách mạng to lớn nói trên nhằm hoàn thành thắng lợi toàn bộ chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất.
TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
“ Nhà nước dân chủ nhân dân ở miền Bắc trong giai đoạn hiện nay là công cụ chủ yếu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng trên mọi mặt trận, giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội và thống nhất nước nhà...
Nhà nước dân chủ nhân dân có nhiệm vụ tiến hành công tác giáo dục, tổ chức và hướng dẫn nhân dân thực hiện sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng và củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân”. (Nghị quyết của Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam).
Dưới ánh sáng của đoạn trích trên của Nghị quyết, chúng ta hãy xem công việc chúng ta phải như thế nào?
Ở kỳ họp này, Quốc hội sẽ thảo luận và phê chuẩn kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất, biến những chỉ tiêu và biện pháp thực hiện chỉ tiêu thành pháp lệnh. Kế hoạch nhà nước là sự thể hiện đường lối của Đảng và ý chí của nhân dân. Cho nên Nhà nước của nhân dân phải biến kế hoạch nhà nước thành pháp lệnh, và phải bảo đảm pháp lệnh đó được thực hiện.
Chính quyền của chúng ta, theo lời nói của Lênin, một triệu lần dân chủ hơn bất cứ chính quyền tư sản nào, bởi vì bản chất của nó, lẽ tồn tại của nó là phục vụ lợi ích của nhân dân, và thực sự là hàng ngày, hàng giờ nó làm việc cho nhân dân. Để phục vụ nhân dân một cách có hiệu lực nhất, Nhà nước chúng ta phải tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ: một mặt phải mở rộng dân chủ đến quảng đại quần chúng nhân dân, tạo mọi cơ hội cho người dân nói hết ý nghĩ của mình, một mặt phải tăng cường tập trung để thể hiện ý chí của nhân dân cả nước. Hiện nay, chúng ta đã có một bộ máy Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nhưng chúng ta chưa tận dụng nó, chưa ra sức trau dồi nó cho thêm sắc bén, có hiệu lực. Tận dụng nó để làm gì? Để thực hiện kế hoạch nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý văn hoá, quản lý đời sống. Và chính trong quá trình thực hiện kế hoạch nhà nước mà chúng ta không ngừng trau dồi nó làm cho nó thêm sắc bén, có hiệu lực.
Hãy trở lại ví dụ về kế hoạch 5 năm này. Trước khi trình ra Quốc hội, dự thảo kế hoạch đã được thảo luận nhiều lần ở các cơ quan có liên quan. Những chỉ tiêu về sản xuất công nghiệp đã được thảo luận từ xí nghiệp và công trường, những chỉ tiêu về sản xuất nông nghiệp đã được thảo luận từ hợp tác xã và các tỉnh. Có làm tốt việc thảo luận dân chủ này thì chỉ tiêu của kế hoạch mới vững chắc ở hai chỗ: một là có căn cứ, hai là những người xây dựng chỉ tiêu đã chuẩn bị để thực hiện chỉ tiêu ấy. Đến lúc kế hoạch được trình ra Quốc hội thì đó là đợt cuối cùng của quá trình thảo luận dân chủ, và khi kế hoạch nhà nước đã trở thành pháp lệnh, thì tất cả cơ quan của bộ máy nhà nước đều có nghĩa vụ bảo đảm việc thực hiện kế hoạch, tuỳ theo quyền hạn và trách nhiệm của mình dưới sự chỉ đạo tập trung và thống nhất của Hội đồng Chính phủ. Và để bảo đảm việc thực hiện kế hoạch, chủ yếu phải nắm hai khâu đầu mối là Bộ và tỉnh. Người lãnh đạo Bộ: Bộ trưởng phải trực tiếp nắm cả ngành hoạt động của Bộ cho đến cơ sở trực thuộc. Người lãnh đạo tỉnh: Uỷ ban hành chính tỉnh phải nắm toàn bộ hoạt động của địa phương cho đến hợp tác xã. Toàn bộ chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước là một hệ thống liên quan mật thiết với nhau về nhiều mặt, cho nên hệ thống chỉ tiêu đó phải được thực hiện ăn khớp với nhau về số lượng và chất lượng, về thời gian và không gian. Cho nên chúng ta đòi hỏi một cách nghiêm chỉnh những người lãnh đạo ở Bộ và tỉnh cùng những người có trách nhiệm lớn, nhỏ trong bộ máy của Nhà nước, hãy nâng cao ý thức trách nhiệm, ý thức kỷ luật làm đầy đủ nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước. Đồng thời chúng ta cũng đòi hỏi một cách nghiêm chỉnh những người đó hãy nâng cao nhiệt tình xã hội chủ nghĩa, và tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, cùng với mọi cơ quan, mọi đơn vị có liên quan, đồng tâm, hiệp lực, thực hiện toàn bộ chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước. Đồng thời, các cơ quan chỉ đạo (Hội đồng Chính phủ ở Trung ương, Bộ trưởng đối với các cơ quan và xí nghiệp thuộc Bộ, Uỷ ban hành chính ở địa phương). Phải chủ động đứng ra tổ chức sự hợp tác giữa các ngành, các cấp cho nhịp nhàng, ăn khớp. Hiện nay, trong bộ máy nhà nước còn có tình trạng thiếu trách nhiệm, thiếu kỷ luật không thể dung thứ được. Hãy nhắc lại câu nói của Lênin: “Ý chí, nếu là ý chí của Nhà nước, cần được thể hiện bằng luật pháp do chính quyền quy định, còn khác đi, thì chữ “ý chí” chỉ là một âm thanh trống rỗng làm rung chuyển không khí mà thôi”.
Nhà nước là kỷ luật. Để thực hiện kỷ luật của Nhà nước, chúng ta còn phải làm và tiếp tục làm một loại công việc rất trọng yếu: ban hành những điều quy định của Nhà nước về chức năng, trách nhiệm và quyền hạn của mọi cơ quan trong bộ máy nhà nước, về mọi chế độ, thể lệ, tiêu chuẩn, định mức… nhằm quản lý chặt chẽ hoạt động của mọi ngành, mọi người trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, đời sống.
Xã hội của chúng ta ngày càng phát triển, càng trở nên phức tạp, càng đòi hỏi các loại quy định nói trên của Nhà nước. Chúng ta cần coi trọng hơn nữa việc làm luật, việc lập quy này và cố gắng thoả mãn yêu cầu một cách kịp thời.
Đồng thời phải nhấn mạnh nghĩa vụ của mọi người là phải tôn trọng và tuân theo mọi điều quy định của Nhà nước, từ những điều khoản của Hiến pháp và những đạo luật đã ban hành cho đến mọi chế độ, thể lệ… quản lý hoạt động trong mọi lĩnh vực. Hiện nay tình trạng coi thường, làm trái luật pháp còn khá phổ biến, ví dụ có những cơ quan tự tiện cho mình quyền định giá hàng, vạch vùng thu mua, ra lệnh bắt người, giữ người, cấm đi lại trên đường giao thông công cộng… hoặc có những cơ quan phục vụ như bưu điện, bệnh viện, cửa hàng… tự ý đóng cửa trong giờ làm việc, bỏ mặc nhu cầu của nhân dân. Hoặc có tình trạng kỷ luật lao động rất lỏng lẻo, tình trạng tự ý dùng giờ làm việc để hội họp và học tập. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có tổ chức với trình độ cao, nghĩa là có kỷ luật. Tất nhiên đây là kỷ luật tự giác, nhưng để làm cho mọi người tiến tới tự giác sống một cách có kỷ luật trong xã hội xã hội chủ nghĩa, phải kiên trì giáo dục, đi đôi với xử lý thoả đáng những người vi phạm kỷ luật.
Để quản lý tốt, Nhà nước phải phân cấp quản lý cho các ngành ở Trung ương cho các tỉnh, đến các cơ sở: xí nghiệp, công trường… theo tinh thần mạnh dạn phân quyền, mở rộng dân chủ trên cơ sở giữ vững tập trung, tăng cường tập trung. Nghĩa là Trung ương phải giao cho địa phương cái gì và nắm cái gì, giao cái gì có tác dụng phát huy tính tích cực, tính chủ động của các ngành và địa phương cho đến cơ sở, nhưng phải nắm cái gì và nắm chắc, quản cho được, giữ vững tập trung và thống nhất, bảo đảm việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, những chỉ tiêu chủ yếu nhất, đường lối chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước. Hiện nay trong sinh hoạt kinh tế, cũng như sinh hoạt chính trị, phải coi chừng tình trạng phân tán, thiếu tập trung. Cho nên phân cấp quản lý không có nghĩa là gây thêm phân tán, mà trái lại càng phải đưa đến tăng cường tập trung.
Nói phân cấp quản lý, nói kỷ luật nhà nước là nói đến chế độ thủ trưởng trong bộ máy nhà nước. Chúng ta đã có những quy định bước đầu về chế độ thủ trưởng ở các cơ quan nhà nước, ở các ngành kinh tế quốc doanh, cho đến cơ sở: xí nghiệp và công trường. Bây giờ mọi người chúng ta đều nhất trí ở chỗ phải làm nổi bật quyền hạn và trách nhiệm của người thủ trưởng, đòi hỏi người đó sử dụng quyền hạn của mình để làm tròn trách nhiệm của mình. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn đó, mọi người chúng ta phải chăm lo tạo mọi điều kiện thuận lợi để người thủ trưởng làm việc tốt, tin vào sức của mình, mạnh dạn dùng quyền của mình chỉ đạo sản xuất, chỉ đạo công việc một cách kịp thời, đúng đắn và có hiệu quả.
Để bảo đảm thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nhà nước dân chủ nhân dân, làm nhiệm vụ của chuyên chính vô sản, phải kịp thời và đúng mức trừng trị mọi lực lượng thù địch của chủ nghĩa xã hội, âm mưu gây thiệt hại đến lợi ích của nhân dân. Chúng ta phải cảnh giác cao độ đối với mọi âm mưu của chúng, tay sai của đế quốc Mỹ và chính quyền miền Nam. Dựa vào lực lượng của quần chúng, các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước phải luôn luôn sẵn sàng làm trọn trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ lao động hoà bình của nhân dân miền Bắc, trong việc bảo vệ biên cương của miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Dân ta rất tốt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân ta ngày càng được rèn luyện trong quá trình đấu tranh cách mạng, ngày càng phát huy những đức tính tốt đẹp của mình. Ngày nay dựa trên cơ sở vật chất và kỹ thuật ngày thêm vững mạnh, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ngày thêm củng cố và hoàn thiện: đó là những điều kiện rất tốt để chúng ta từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là quá trình giác ngộ theo chủ nghĩa xã hội của toàn dân ta, quá trình tiến tới sự đoàn kết nhất trí ngày càng sâu sắc giữa các tầng lớp nhân dân lao động, quá trình củng cố khối liên minh công nông trong Mặt trận thống nhất của dân tộc, nâng cao lòng tin tưởng và phấn khởi của toàn dân đối với tiền đồ vẻ vang của sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc, chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và hoà bình thống nhất Tổ quốc.
PHẦN II
MIỀN NAM ANH DŨNG TRÊN CON ĐƯỜNG CHIẾN THẮNG
NHỮNG THẮNG LỢI VẺ VANG CỦA PHONG TRÀO
YÊU NƯỚC Ở MIỀN NAM
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Để nêu bật diễn biến của tình hình ở miền Nam từ khi đế quốc Mỹ can thiệp quân sự vào miền Nam Việt Nam cho đến nay, chúng ta hãy nhắc lại mấy sự kiện quan trọng sau đây:
- Tuyên bố chung Giônxơn – Ngô Đình Diệm ngày 13-5-1961.
- Kế hoạch Stalây - Taylo nhằm “bình định miền Nam Việt Nam trong 18 tháng” bắt đầu từ giữa năm 1961.
- Thành lập Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn do tướng Háckin đứng đầu ngày 8-2-1962.
- Sự lớn mạnh nhanh chóng của phong trào yêu nước ở miền Nam dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam từ năm 1961 nhất là trong năm 1962; những thắng lợi liên tiếp trong việc phá kế hoạch Stalây - Taylo; ảnh hưởng vang dội của Mặt trận trên trường quốc tế, nhất là nhân dịp đi thăm của những người đại biểu của Mặt trận ở nhiều nước.
- Trận Ấp Bắc (Mỹ Tho) ngày 02-01-1963.
- Bức thư ngỏ của 62 nhân sĩ, trí thức Mỹ gửi Tổng thống Mỹ Kennơđi ngày 01-3-1963.
Những sự kiện kể trên soi sáng diễn biến của tình hình và từ đó mọi người có thể rút ra những kết luận đích đáng. Tổng thống Kennơđi đã thú nhận rằng ông ta đương ở trong một đường hầm và không thấy lối ra! Tất nhiên bọn đế quốc xâm lược Mỹ còn muốn đi sâu vào đường hầm thì làm sao có lối ra! Nhưng ngược lại, đối với nhân dân Việt Nam ta thì tình hình đương sáng tỏ: bọn xâm lược Mỹ đã thất bại bước đầu, phong trào yêu nước ở miền Nam đã thắng lợi bước đầu và cuối cùng nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Nếu đối với đế quốc Mỹ, tình hình ngày càng khó khăn và đen tối, thì đối với đồng bào miền Nam, đối với chúng ta, tình hình lại ngày càng sáng sủa và tốt đẹp. Đó là quy luật phát triển biện chứng của cuộc chiến tranh ở miền Nam nước ta, và đó cũng là quy luật phát triển biện chứng của tình hình thế giới trong thời đại chúng ta, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, thời đại diệt vong của chủ nghĩa đế quốc.
Sau khi Phó Tổng thống Mỹ Giônxơn đi thăm Sài Gòn, giữa năm 1961, bọn xâm lược Mỹ công bố kế hoạch Stalây - Taylo nhằm “bình định miền Nam Việt Nam trong 18 tháng”. Tướng Taylo là một nhà quân sự, hiện nay là Tổng tham mưu trưởng của quân đội Mỹ; Stalây là một nhà kinh tế; cả hai đều là những người cộng tác tin cậy của Kennơđi. Kế hoạch Stalây - Taylo là một sự tổng kết kinh nghiệm, theo quan điểm đế quốc, của những cuộc chiến tranh đàn áp phong trào giải phóng dân tộc ở một số nơi trên thế giới. Bọn xâm lược Mỹ rất tin tưởng vào kế hoạch này, và yên trí rằng cuối năm 1962 miền Nam Việt Nam sẽ được “bình định”, lực lượng yêu nước sẽ bị tiêu diệt…
Nhưng tình hình đã diễn biến ngược lại ý đồ của đế quốc Mỹ và đúng với dự đoán của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ngay sau bản công bố chung Giônxơn – Ngô Đình Diệm, nhất là sau khi kế hoạch Stalây - Taylo ra đời, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã kêu gọi toàn thể đồng bào miền Nam, không phân biệt giai cấp, đảng phái, tôn giáo, chủng tộc, mọi người như một, hãy đứng lên đoàn kết một lòng và chiến đấu anh dũng, quyết phá kế hoạch Stalây - Taylo, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập dân tộc, giành quyền sống, quyền tự do, giành hoà bình thống nhất Tổ quốc. Mũi nhọn của cuộc đấu tranh đã chĩa vào quân xâm lược Mỹ, cuộc đấu tranh yêu nước ở miền Nam cổ vũ cả dân tộc đứng lên hy sinh tất cả, quyết giành thắng lợi cuối cùng.
Chúng ta còn nhớ hoạt động tấp nập của các giới cầm quyền Mỹ, nhất là các tướng tá hải, lục, không quân Mỹ ở Hoa Thịnh Đốn (1), Sài Gòn, Hônôlulu (2), nhằm tăng cường nhanh chóng cho lực lượng quân sự của Mỹ và của chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam. Chúng ta còn nhớ những lời tuyên bố huênh hoang của chúng đầu năm 1962 rằng: “Chỉ trong vòng một năm, cuộc chiến tranh sẽ kết thúc thắng lợi…”.
Đến nay 18 tháng đã qua, và đầu năm 1963 này, không phải bọn xâm lược Mỹ ca khúc khải hoàn, mà trái lại: khắp nơi ở miền Nam, một phong trào đấu tranh rộng lớn và vô cùng mạnh mẽ đương dâng lên từ nông thôn, rừng núi cho đến đô thị; và từ đó vang dội đi khắp thế giới tin chiến thắng Ấp Bắc và những tin chiến thắng khác: ở Dmrong (Đà Lạt), Plemơrông (Plâycu)… và nhiều nơi khác trên đất nước miền Nam anh hùng. Cách đây không lâu, đồng bào ta lại thắng nhiều trận mới, nhất là tại Cà Mau. Chúng ta nhiệt liệt hoan hô những thắng lợi của phong trào yêu nước ở miền Nam!
Vì sao kế hoạch Stalây-Taylo không đem lại kết quả mong muốn cho bọn xâm lược Mỹ?
Như mọi người đều biết, kế hoạch Stalây - Taylo gồm hai điểm chủ yếu:
1- Lập “ấp chiến lược” để tập trung dân;
2- Tăng cường hoạt động quân sự để tiêu diệt lực lượng yêu nước.
Đó là âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ nhằm dập tắt phong trào cách mạng ở miền Nam, đồng thời tạo điều kiện tiến công miền Bắc, phá hoại hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.
Về kế hoạch lập “ấp chiến lược”, bọn Mỹ - Diệm đặt ở đây những hy vọng rất lớn. Chúng tính toán một cách ngu xuẩn rằng hễ chúng tập trung được nhân dân miền Nam vào “ấp chiến lược”, thì không những chúng có thể khủng bố và khống chế nhân dân, mà chúng còn có thể tiêu diệt dễ dàng lực lượng yêu nước bị bật ra ngoài. Cho nên chúng đã dùng mọi lực lượng và mọi thủ đoạn từ đàn áp trắng trợn, khủng khiếp, đến dụ dỗ, mua chuộc để thực hiện kế hoạch lập “ấp chiến lược”, trước ở những nơi xung yếu, rồi khắp mọi nơi. Kế hoạch “ấp chiến lược” là kế hoạch dồn 14 triệu người ở nông thôn, ở thành thị, ở miền núi vào những trại tập trung, chà đạp lên đời sống, phong tục, tập quán, tự do dân chủ, đến những tình cảm và quyền lợi thông thường nhất của con người. Cho nên nhân dân miền Nam đã đứng lên, động viên tất cả lực lượng của mình, vận dụng mọi hình thức đấu tranh, vật lộn đêm ngày, tháng này qua tháng nọ, quyết phá cho được “ấp chiến lược”.
Cho đến nay phần lớn “ấp chiến lược” bị phá, nhiều ấp đã bị phá đi phá lại mấy chục lần. Có nơi “ấp chiến lược” đã trở thành làng chiến đấu của nhân dân yêu nước. Toàn bộ kế hoạch lập “ấp chiến lược” của chúng đã vấp sức kháng cự mãnh liệt của đồng bào miền Nam, nên đã không thể thực hiện theo như ý muốn của chúng. Lập “ấp chiến lược” đối với bọn Mỹ - Diệm và phá “ấp chiến lược” đối với đồng bào yêu nước ở miền Nam là một cuộc đấu tranh giằng co vô cùng ác liệt, một cuộc đấu tranh vĩ đại, có một ý nghĩa rất quan trọng về nhiều mặt của phong trào yêu nước ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định về tay đồng bào ta ở miền Nam!
Song song với kế hoạch “ấp chiến lược”, bọn Mỹ - Diệm tăng cường hoạt động quân sự hòng tiêu diệt lực lượng yêu nước ở miền Nam. Ở đây chúng cũng tính toán một cách ngu xuẩn rằng nếu chúng tăng cường lực lượng quân sự của chúng đến một mức nào đó thì chúng sẽ thắng. Cho nên chúng ra sức tăng nhanh quân số của các loại lực lượng vũ trang của chúng, đồng thời chúng ra sức tăng cường thiết bị và trang bị quân sự hiện đại: vũ khí, giao thông vận tải, thông tin liên lạc… Để nắm chắc quân đội của Ngô Đình Diệm, Bộ chỉ huy của tướng Háckin bố trí một hệ thống quân sự Mỹ từ trên xuống dưới, trực tiếp chỉ huy các tổ chức và các đơn vị vũ trang của Ngô Đình Diệm, cả trong các cuộc chiến đấu. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của sĩ quan Mỹ, lực lượng vũ trang của bọn Mỹ Diệm liên tiếp mở những cuộc hành quân lớn, tập trung nhiều lực lượng, nhiều binh chủng nhằm càn quét hầu khắp các vùng ở miền Nam Việt Nam: triệt hạ làng mạc, đốt phá mùa màng, giết hại nhân dân, ép buộc nhân dân lập “ấp chiến lược”. Không từ một thủ đoạn tàn ác dã man nào, gần đây bọn đế quốc xâm lược Mỹ đã dùng chất độc hoá học gieo rắc xuống làng xóm, đồng ruộng miền Nam, phá hoại cây cối, hoa màu, giết hại súc vật, làm nhiễm độc đồng bào chúng ta. Hành động vô cùng độc ác này của chúng đã gây một làn sóng công phẫn mãnh liệt ở nước ta và trên thế giới.
Từ hơn một năm nay, đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam một vạn rưởi quân, các loại vũ khí hiện đại và rất nhiều thiết bị chiến tranh, thành lập một bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn, trực tiếp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, một cuộc chiến tranh không tuyên bố. Đây là một sự kiện vô cùng nghiêm trọng trong tình hình quốc tế hiện nay, một mối đe doạ trực tiếp đối với an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đối với hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới, một sự vi phạm cực kỳ trắng trợn Hiệp định Giơnevơ (1954) và hiến chương Liên hợp quốc.
Bọn xâm lược Mỹ tưởng rằng lực lượng quân sự mạnh mẽ và những thủ đoạn tàn ác của chúng có thể khuất phục đồng bào miền Nam nước ta. Chúng đã tưởng lầm. Chúng càng làm bốc cháy trong lòng đồng bào miền Nam, trong lòng tất cả các tầng lớp nhân dân miền Nam ngọn lửa đấu tranh bất khuất, nguyện hy sinh tất cả để giết giặc cứu nước, cứu nhà. Cả miền Nam nước ta sục sôi chí căm thù, và mỗi một người dân miền Nam, bất kỳ trai, gái, già, trẻ, bất kỳ ở đồng ruộng, rừng núi hay thành thị, đều là người chiến sĩ yêu nước, sẵn sàng giết giặc, cứu nước. Trong quá trình chiến đấu gian khổ và anh dũng chống kẻ địch mạnh hơn về lực lượng quân sự, phong trào yêu nước ở miền Nam đã lớn lên nhanh chóng về mọi mặt, về mặt tinh thần cũng như về mặt vũ khí và trang bị nhờ nguồn chiến lợi phẩm đánh lấy được ở chiến trường, hoặc do binh sĩ của chính quyền miền Nam mang đến. Đầu năm ngoái, tướng Háckin đến Sài Gòn lập bộ chỉ huy quân sự Mỹ. Đầu năm nay cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam liên tiếp thắng những trận có ý nghĩa quan trọng, gây ảnh hưởng vang dội ở miền Nam, trong dư luận nước Mỹ và dư luận thế giới. Đó là sự trả lời đích đáng và có ý nghĩa thấm thía đối với tham vọng xâm lược của bọn cuồng chiến Mỹ.
Trong việc lập “ấp chiến lược” và tăng cường hoạt động quân sự, kế hoạch Stalây - Taylo rất coi trọng việc lôi kéo người Thượng Tây Nguyên (3). Từ lâu chúng coi Tây Nguyên là một vùng rất quan trọng về chiến lược, từ lâu chúng rất mong muốn nắm chắc vùng đó. Để lôi kéo đồng bào Thượng 2, chúng đã dùng mọi thủ đoạn, kết hợp đàn áp với dụ dỗ, mua chuộc, thậm chí bọn xâm lược Mỹ lợi dụng lòng thù ghét của đồng bào đối với chính quyền Ngô Đình Diệm để tranh thủ đồng bào. Trong suốt năm 1962 chúng đã cố gắng rất lớn trong việc này và có lúc vào khoảng cuối năm, chúng đã khoe khoang về những “thành tích” của chúng: tách được người Thượng khỏi rừng núi và khỏi ảnh hưởng của phong trào yêu nước! Nhưng sự thật như thế nào? Ngày 18-3-1963, người ta nghe thấy đài phát thanh FEBC báo tin là từ đầu năm đến nay, đã có trên 4.000 người thuộc các dân tộc Tây Nguyên rời những trại tập trung mới lập của Mỹ, mang theo cả vũ khí. Tờ báo Mỹ “Tin hàng tuần” số ra ngày 12-2-1963 đã viết: “Người Thượng được Mỹ cung cấp vũ khí ở các trung tâm huấn luyện, về sau lại trở thành những người của cộng sản”.
Đồng bào Tây Nguyên, những người con anh dũng của rừng núi Tây Nguyên và của dân tộc Việt Nam, vẫn làm chủ núi rừng của mình, giữ vững lòng yêu nước và truyền thống bất khuất; đồng bào đã và đang chiến thắng vẻ vang!
18 tháng đã qua: kế hoạch Stalây - Taylo đã tỏ rõ là phá sản.
Gần đây, bọn xâm lược Mỹ buộc phải nói đến một cuộc chiến tranh lâu dài. Như vậy chúng đã bắt đầu thừa nhận những thất bại của chúng. Còn nhân dân ta, đồng bào ta ở miền Nam đã từng đấu tranh chống đế quốc xâm lược, đồng bào quyết kiên trì cuộc đấu tranh bền bỉ và gian khổ chống xâm lược Mỹ. Càng đánh lực lượng của đồng bào sẽ càng lớn lên, tình hình quốc tế sẽ càng biến chuyển có lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng ở miền Nam, càng bất lợi cho đế quốc Mỹ xâm lược và hiếu chiến.
Phong trào yêu nước ở miền Nam sẽ còn phải trải qua những thử thách to lớn hơn nữa, nhưng chúng ta tin chắc rằng những thử thách đó sẽ bị vượt qua, và thắng lợi cuối cùng sẽ về tay đồng bào miền Nam ta.
Bây giờ chúng ta hãy điểm lại những nhân tố đã đưa lại thắng lợi có ý nghĩa quan trọng trình bày trên đây. Chúng ta tin rằng những nhân tố ấy sẽ đưa lại những thắng lợi to lớn hơn trong thời gian tới, để cuối cùng đi đến thắng lợi quyết định trong công cuộc đấu tranh để tự giải phóng của nhân dân miền Nam.
Những nhân tố của thắng lợi là:
1. Phong trào yêu nước của nhân dân ta ở miền Nam lớn lên nhanh chóng, dần dần trở thành lực lượng không thể chiến thắng, và cuối cùng sẽ đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam
Về sự lớn mạnh nhanh chóng của cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam, gần đây hội nghị của Ban thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã nhận định như sau:
“Trong năm 1962 và những tháng đầu năm 1963, nhân dân miền Nam đã trải qua những thử thách lớn lao. Đế quốc Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam. Chúng đã dốc toàn lực đánh phá phong trào cách mạng miền Nam, thi hành cái gọi là “kế hoạch Stalây - Taylo” nhằm “bình định miền Nam trong vòng 18 tháng”. Nhưng chúng đã bị sa lầy, bước đầu bị thất bại về chiến thuật đánh nhanh và đã buộc phải nói đến một cuộc chiến tranh lâu dài”.
Nhận định trên là một sự đánh giá đúng mức những thắng lợi to lớn mà đồng bào miền Nam ta đã giành được từ ngày quân xâm lược Mỹ đến bờ cõi miền Nam nước ta, đồng thời nhận định đó mở ra triển vọng tất thắng trong cuộc đấu tranh gian khổ và lâu dài để giải phóng miền Nam.
Chúng ta hãy so sánh tình hình đầu năm 1963 này với tình hình đầu năm 1962. Lúc bấy giờ đế quốc Mỹ tưởng chừng nuốt sống được phong trào yêu nước ở miền Nam. Đến bây giờ lực lượng so sánh đã có sự thay đổi rõ rệt: lực lượng yêu nước đã lớn mạnh về mọi mặt, khắp mọi nơi, sức mạnh và khí thế của phong trào đương lên, nhân dân miền Nam tin tưởng vững chắc vào chính nghĩa và thắng lợi.
Bọn xâm lược Mỹ cho rằng chúng thất bại vì binh lính của chính quyền miền Nam không chịu đánh. Đúng lắm! Từ khi sĩ quan Mỹ, trực tiếp chỉ huy quân đội của chính quyền miền Nam, thì tập đoàn Ngô Đình Diệm càng tỏ rõ là công cụ, là tay sai của đế quốc Mỹ, và việc đế quốc Mỹ sử dụng quân đội của Ngô Đình Diệm để tàn sát đồng bào đã thức tỉnh nhiều người trong hàng ngũ quân đội và bộ máy chính quyền của Ngô Đình Diệm. Họ đã và sẽ tham gia đông đảo phong trào yêu nước, trở thành người chiến sĩ cứu nước và sẽ quay súng bắn vào đầu bọn cướp nước và bán nước. Vừa qua nhiều binh lính và nhân viên chính quyền cả đến tỉnh trưởng của chính quyền miền Nam cũng lên tiếng phản đối bọn xâm lược Mỹ rải chất độc hoá học ở Bến Tre và nhiều nơi khác. Thậm chí trong binh sĩ Mỹ, dần dần cũng có người, sau khi nhìn thấy rõ rệt sự thật của cuộc chiến tranh “bẩn thỉu” mà họ là nạn nhân, đã chán nản đến cực độ và đã tự tử. Tất cả những chuyển biến này chứng tỏ sức cảm hoá của cuộc đấu tranh yêu nước chính nghĩa của đồng bào ta ở miền Nam.
Bọn xâm lược Mỹ chỉ biết vũ khí, sức mạnh và tàn bạo, coi đó là nhân tố quyết định. Sự thật ở miền Nam cũng như ở mọi nơi khác trên thế giới ngày nay chứng tỏ rằng nhân tố quyết định là cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân. Chúng càng dựa vào vũ lực và tàn bạo, thì nhân dân càng đoàn kết và kiên quyết đấu tranh và nhất định sẽ chiến thắng chúng. Kế hoạch Stalây - Taylo nhằm đánh vào nhân dân, hòng khuất phục lòng yêu nước của nhân dân, và từ đó tiêu diệt mọi lực lượng yêu nước của nhân dân: “Tách cá khỏi nước”, để rồi tát nước và bắt cá! Nhưng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam càng làm cho cá và nước gắn bó như xương thịt với nhau, hễ đâu có nước thì có cá, hễ đâu có nhân dân là có phong trào yêu nước và người chiến sĩ yêu nước, cuộc đấu tranh sẽ lớn mạnh, sẽ dâng lên như nước thuỷ triều và sẽ chôn vùi bọn xâm lược Mỹ và các loại tay sai của chúng.
Việc địch dùng chất độc hoá học làm phương tiện chiến tranh ở miền Nam hoàn toàn không chứng tỏ rằng chúng mạnh, đó là hành động của bọn cùng đường không từ chối một tội ác ghê tởm nào! Cả dân tộc Việt Nam ta đều đứng lên cực lực lên án tội ác tày trời của đế quốc xâm lược Mỹ và bọn Ngô Đình Diệm. Khắp thế giới sôi nổi, dư luận phẫn nộ đối với chúng. Nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội, khoa học có tên tuổi ở các nước đã lên tiếng vạch mặt tội ác đó của đế quốc Mỹ; tiêu biểu là bức thư của nhà triết học nổi tiếng của nước Anh, ông Béctrăng Rútxen, gửi cho Tổng thống Mỹ: “Chiến tranh hoá học được dùng với mục đích phá hoại mùa màng, gia súc và làm cho nhân dân chết đói. Chính phủ Mỹ đã che giấu sự thật về việc tiến hành cuộc chiến tranh này, sự thật là cuộc chiến tranh đó đã vi phạm Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương”. Hiện nay ở nước ta cũng như trong dư luận quốc tế, cuộc đấu tranh chống bọn Mỹ - Diệm dùng chất độc hoá học làm lợi khí chiến tranh vẫn tiếp tục sôi nổi và mạnh mẽ.
2. Với cương lĩnh đúng đắn của mình, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, người tổ chức mọi thắng lợi của phong trào yêu nước ở miền Nam, đã trở thành người đại diện chân chính của nhân dân Việt Nam ở miền Nam
Ngày 20-12-1960, ngày thành lập Mặt trận, là một ngày lịch sử vẻ vang của đồng bào miền Nam và của dân tộc Việt Nam. Hoạt động của Mặt trận gắn liền với một giai đoạn đấu tranh quyết liệt và thắng lợi vĩ đại của lực lượng yêu nước ở miền Nam chống cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày thành lập, ảnh hưởng và uy tín của Mặt trận lan rộng khắp miền Nam và ăn sâu trong mọi tầng lớp đồng bào từ nông thôn đến thành thị, từ rừng núi đến miền biển, và từ miền Nam thanh danh của Mặt trận vang dội khắp thế giới.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là lực lượng lãnh đạo phong trào yêu nước ở miền Nam, là người tổ chức mọi thắng lợi của nhân dân miền Nam trong cuộc đấu tranh thần thánh chống bọn xâm lược Mỹ và bè lũ Ngô Đình Diệm để giải phóng miền Nam. Mặt trận tiêu biểu cho sức đoàn kết và đấu tranh của mọi tầng lớp nhân dân miền Nam không phân biệt giai cấp, đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Cương lĩnh của Mặt trận thể hiện ý chí của 14 triệu đồng bào miền Nam: ý chí độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh và hoà bình thống nhất nước nhà.
Uy thế của Mặt trận ở miền Nam ngày càng lớn, uy thế đó bắt nguồn từ lòng tín nhiệm của nhân dân đoàn kết dưới ngọn cờ của Mặt trận. Một thí dụ gần đây chứng tỏ một cách hùng hồn uy thế này là lệnh ngừng bắn của Mặt trận trong mấy ngày Tết. Chính binh lính của chính quyền miền Nam nô nức hưởng ứng lệnh của Mặt trận, reo mừng không phải đánh nhau và được vui chơi trong ngày Tết. Rất rõ ràng, Mặt trận tiêu biểu cho ý nguyện của 14 triệu nhân dân miền Nam, là người đại diện chân chính của nhân dân miền Nam.
Dần dần dư luận quốc tế nhìn thấy sự bất lực, sự thối nát, sự mất lòng dân của chính quyền Ngô Đình Diệm, đồng thời nhìn thấy ngày thêm rõ rệt lực lượng và uy tín to lớn của Mặt trận, nhìn thấy đường lối, chính sách đúng đắn của Mặt trận. Đoàn đại biểu của Mặt trận do giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu đã được hoan nghênh nhiệt liệt ở nhiều nơi. Hiện nay Mặt trận có đại diện chính thức ở một số nước, và có chân trong nhiều tổ chức quốc tế như Hội đồng đoàn kết Á - Phi, tổ chức quốc tế của phong trào thanh niên, sinh viên, tổ chức quốc tế các nhà báo, Hội đồng hợp tác kinh tế các nước châu Á; nhiều tổ chức quốc tế đã thành lập những Uỷ ban đoàn kết và ủng hộ nhân dân yêu nước ở miền Nam Việt Nam; nhiều tổ chức quốc tế và nhiều nước đã giúp đỡ nhân dân miền Nam Việt Nam về tài chính, thuốc men, dụng cụ y tế…
3. Sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới là nguồn sức mạnh tăng thêm phấn khởi và tin tưởng cho phong trào yêu nước ở miền Nam, là chỗ dựa vững chắc của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam
Cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam ở miền Nam có một ý nghĩa quốc tế quan trọng, vì vậy mà được nhân dân thế giới nhiệt liệt đồng tình và kiên quyết ủng hộ. Hiện nay, đế quốc Mỹ xâm lược và hiếu chiến là kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân thế giới, của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đế quốc Mỹ coi cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam của chúng là một cuộc chiến tranh “thí nghiệm”, chúng ra sức làm tốt “thí nghiệm” này để rồi áp dụng ở nhiều nơi khác. Cho nên đồng bào ta ở miền Nam quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ để tự giải phóng cho mình, đồng thời để chứng minh cho nhân dân thế giới rằng trong thời đại ngày nay, bất cứ dân tộc nào, miễn là đoàn kết một lòng và hy sinh phấn đấu đến cùng nhất định sẽ thành công trong cuộc đấu tranh chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Chính vì thấy rõ tính chất chính nghĩa và ý nghĩa quốc tế của cuộc đấu tranh yêu nước ở miền Nam mà nhân dân thế giới triệt để ủng hộ cuộc đấu tranh ấy. Sự ủng hộ này biểu hiện lòng phẫn nộ của nhân dân thế giới đối với chính sách xâm lược và hiếu chiến của đế quốc Mỹ, đồng thời biểu hiện niềm tin tưởng vào sự tất thắng của cuộc đấu tranh yêu nước ở miền Nam. Đó là một sự cổ vũ mạnh mẽ, một chỗ dựa vững chắc của phong trào giải phóng miền Nam.
Nhân dịp này, nhân dân Việt Nam ta chân thành tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với nhân dân Liên Xô, nhân dân Trung Quốc, nhân dân Cuba và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa khác, đối với nhân dân Inđônêxia, nhân dân Angiêri và nhân dân các nước trên thế giới.
Cuộc đấu tranh chính nghĩa của đồng bào ta ở miền Nam được sự ủng hộ nhiệt liệt của dư luận thế giới đã đem lại một kết quả rất đáng chú ý: dư luận ở Mỹ ngày càng thấy rõ rằng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam nước ta nhất định sẽ thất bại, và đòi Chính phủ Kennơđi chấm dứt cuộc chiến tranh “bẩn thỉu và tàn bạo” đó, một cuộc chiến tranh không tuyên bố, hoàn toàn trái ngược với lợi ích của nhân dân Mỹ. Tiêu biểu cho dư luận ngày càng rộng rãi này là bức thư ngỏ của 62 nhân sĩ Mỹ gồm những người thuộc các giới chính trị, khoa học, văn nghệ, kinh tế, tôn giáo, quân sự. Thể hiện lập trường đúng đắn của dư luận tiến bộ ở Mỹ, bức thư vạch rõ sự thật là Chính phủ Mỹ cố tình kéo dài tình trạng chia cắt nước Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành một căn cứ quân sự Mỹ; bức thư tố cáo Chính phủ Mỹ đưa binh sĩ cùng vũ khí Mỹ đi mở một chiến tranh không tuyên bố ở cách xa nước Mỹ hàng vạn dặm để cứu vãn chế độ độc tài và tàn bạo của Ngô Đình Diệm, chống lại Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, là khối liên hiệp các chính đảng, các dân tộc và các tôn giáo khác nhau, đại diện cho một phong trào dân tộc rộng lớn. Bức thư nhận định rằng Mỹ không thể nào thắng, mặc dầu có lực lượng quân sự to lớn, và đi đến kết luận: Phải chấm dứt sự can thiệp quân sự của Mỹ vào miền Nam Việt Nam, và phải trở lại Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương.
Nhân dân Việt Nam ta nhiệt liệt hoan nghênh hành động đầy dũng cảm của các giới tiến bộ ở nước Mỹ, những người đại diện chân chính của nhân dân Mỹ, yêu chuộng tự do và công lý cho mình và cho mọi dân tộc khác trên thế giới.
Trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống bọn đế quốc xâm lược Mỹ, nhân dân Việt Nam phân biệt rõ rệt đế quốc Mỹ là kẻ thù và nhân dân Mỹ là người bạn của mình bên kia Thái Bình Dương, và nguyện sát cánh với nhân dân Mỹ để đấu tranh chống cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ vì hữu nghị giữa hai dân tộc và hoà bình thế giới.
TIẾN TỚI HOÀ BÌNH THỐNG NHẤT TỔ QUỐC
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Từ trước chúng ta đã nhìn thấy bọn đế quốc, nhất là đế quốc xâm lược Mỹ, là ngoan cố đến cùng. “Đánh chết nết không chừa” chính là bản chất của chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động. Hiện nay, mặc dầu liên tiếp bị thất bại ở miền Nam, đế quốc Mỹ vẫn ráo riết tăng cường lực lượng của chúng, tìm trăm phương nghìn kế đẩy mạnh việc lập “ấp chiến lược” và mở rộng hành quân càn quét. Vi phạm trắng trợn Hiệp định Giơnevơ và bất chấp mọi luật pháp quốc tế, đế quốc Mỹ một mặt tăng cường cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam, mặt khác chúng ra sức tung gián điệp và biệt kích, tăng cường hoạt động phá hoại miền Bắc.
Nhân dân Việt Nam ta đã từng đấu tranh chống đế quốc xâm lược để tự giải phóng, đã rút ra những bài học quý báu trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài, nhưng nhất định thắng lợi, hiện nay đương rút ra những bài học nóng hổi trong cuộc đấu tranh chống xâm lược Mỹ. Cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào ta ở miền Nam đã vượt qua những thử thách to lớn, đang trên quá trình từ yếu trở nên mạnh, từ nhỏ trở nên lớn, và ngày nay, trước những thử thách càng khó khăn, nhân dân miền Nam anh dũng đương vững bước tiến tới. Thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ về tay đồng bào miền Nam và nhân dân Việt Nam ta.
Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Tinh thần và tình cảm của nhân dân miền Bắc luôn luôn hướng về miền Nam gian khổ và anh dũng. Nhân dân miền Bắc nhận rõ rằng cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam đã có tác dụng bảo vệ hoà bình ở miền Bắc, đẩy lùi âm mưu “Bắc tiến” của Mỹ - Diệm. Những người con của miền Nam trên đất Bắc cũng như toàn thể đồng bào miền Bắc đã đem hết tình thương nhớ miền Nam chuyển thành nhiệt tình cách mạng và sức lao động sáng tạo để xây dựng miền Bắc. Cuộc đi thăm miền Bắc của đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam cuối năm ngoái là một biểu hiện sinh động của mối tình Nam - Bắc, của ý chí sắt đá thống nhất Tổ quốc của toàn dân ta; đó là hình ảnh cảm động của lòng ta và của nước ta là một, không có giới tuyến, đó là cảnh tượng thân yêu của ngày mai Nam - Bắc một nhà.
Hàng ngày tin tức từ miền Nam anh dũng vạch trần những tội ác tày trời của giặc, kể lại những hy sinh không bờ bến và những chiến công oanh liệt của đồng bào miền Nam. Nhân dân miền Bắc luôn luôn ở bên cạnh đồng bào miền Nam, hết lòng hết sức ủng hộ cuộc đấu tranh vĩ đại của đồng bào vì lợi ích của dân tộc. Càng tưởng nhớ đồng bào, càng ra sức đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tăng cường lực lượng miền Bắc, với ý thức sâu sắc rằng miền Bắc vững mạnh là nhân tố rất quan trọng của sự nghiệp giải phóng miền Nam và hoà bình thống nhất Tổ quốc.
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Trong buổi họp cuối cùng ngày 21-7-1954, kết thúc Hội nghị Giơnevơ, Đoàn đại biểu của Chính phủ ta đã nói:
“Hội nghị đã định ngày thực hiện nền thống nhất của nước Việt Nam. Nền thống nhất ấy, chúng tôi sẽ thực hiện, chúng tôi sẽ giành được, cũng như chúng tôi đã giành được hoà bình. Không một sức mạnh nào trên thế giới, trong nước hay ngoài nước, có thể làm chúng tôi đi chệch ra ngoài con đường tiến tới thống nhất bằng hoà bình và dân chủ. Đó sẽ là bước hoàn thành nền độc lập dân tộc của chúng tôi.
Nhân dân Việt Nam! Đồng bào miền Nam! Thắng lợi thuộc về chúng ta! Độc lập và thống nhất Tổ quốc chúng ta là ở trong tay chúng ta. Những người yêu chuộng hoà bình và công lý trên toàn thế giới đều đồng tình với chúng ta. Đồng bào hãy nhớ lấy lời Hồ Chủ tịch: “Cuộc đấu tranh phải gian khổ, nhưng cuối cùng chúng ta nhất định thắng”.
Hội nghị Giơnevơ là một thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam. Hiệp định Giơnevơ đã quy định rành mạch những điều khoản cần thiết để chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình, đồng thời quy định những điều khoản cần thiết để củng cố hoà bình và ngăn ngừa chiến tranh trở lại, như những điều khoản ngăn cấm việc tăng vũ khí và nhân viên quân sự từ ngoài vào, ngăn cấm việc lập căn cứ quân sự của nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, ngăn cấm việc tham gia vào các khối liên minh quân sự…
Sự thực hiện đúng đắn những điều khoản ấy của Hiệp định Giơnevơ 1954 là bảo đảm cho việc giữ vững hoà bình ở Việt Nam, đồng thời góp phần giữ vững hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.
Từ trước đến nay cũng như từ nay về sau, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà luôn luôn nghiêm chỉnh và triệt để thi hành Hiệp định Giơnevơ, đồng thời kiên quyết đòi mọi bên hữu quan cùng phải làm như vậy.
Nhưng vì sao Hiệp định Giơnevơ không được thực hiện?
Kẻ vi phạm trắng trợn Hiệp định Giơnevơ và gây chiến tranh ở miền Nam Việt Nam cũng như kẻ gây tình hình căng thẳng và nguy cơ chiến tranh ở nhiều nơi trên thế giới, như ở Lào hiện nay, là đế quốc Mỹ xâm lược và hiếu chiến.
Đấu tranh để thực hiện Hiệp định Giơnevơ nhằm lập lại hoà bình ở miền Nam và đi tới hoà bình thống nhất nước Việt Nam chính là đấu tranh chống cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Chỉ có đánh bại cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam, thành lập ở miền Nam một Chính phủ liên hiệp dân tộc dân chủ theo cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, thì mới có điều kiện thực hiện hoà bình thống nhất.
Căn cứ bản cương lĩnh của mình, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã nêu ra những chủ trương cứu nước khẩn cấp: chấm dứt chính sách và hành động xâm lược của đế quốc Mỹ; các phái hữu quan ở miền Nam Việt Nam đình chỉ hoạt động quân sự, lập lại hoà bình, giải tán tất cả các “ấp chiến lược”; thành lập ở miền Nam Việt Nam một Chính phủ liên hiệp dân tộc dân chủ gồm đại biểu các đảng phái, các khuynh hướng chính trị, các giới, các tôn giáo và các dân tộc ở miền Nam; Chính phủ ấy có nhiệm vụ trước mắt là tổ chức tổng tuyển cử ở miền Nam để bầu Quốc hội, và thi hành những chính sách tự do dân chủ cấp bách; về mặt đối ngoại, Chính phủ ấy sẽ thi hành đường lối ngoại giao hoà bình trung lập, đặt quan hệ hữu hảo với tất cả các nước, trước hết là các nước láng giềng, không gia nhập vào một khối quân sự nào, không thừa nhận cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở miền Nam, nhận viện trợ của tất cả các nước không kèm điều kiện chính trị.
Đó là con đường duy nhất đúng đắn, hợp lý hợp tình, đó là giải pháp hiện thực nhất để chấm dứt chiến tranh, khôi phục hoà bình và bình thường hoá tình hình miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nhiều lần giải thích rõ rệt quan điểm của mình về việc thực hiện hoà bình thống nhất nước Việt Nam. Thống nhất bằng phương pháp hoà bình, nghĩa là không phải bằng chiến tranh, bằng vũ lực, mà bằng thương lượng, thoả thuận, nhân nhượng lẫn nhau không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào. Thống nhất Tổ quốc là việc của nhân dân Việt Nam, không ai có quyền can thiệp vào. Những người đại biểu chân chính của hai miền phải gặp nhau, cùng nhau bàn bạc và giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến việc thống nhất Tổ quốc.
Hoà bình thống nhất là một cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân cả nước ta, của cả dân tộc Việt Nam ta. Đó là kết quả của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và của sự nghiệp cách mạng dân tộc và dân chủ ở miền Nam. Hoà bình thống nhất là thắng lợi tất yếu của sức đoàn kết và đấu tranh của mọi người Việt Nam yêu nước, được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
*
* *
Từ trước đến nay, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là người giương cao ngọn cờ ghi những nguyện vọng sâu sắc nhất của dân tộc Việt Nam ta là độc lập và tự do khắp cả nước, là hoà bình và thống nhất. Cách đây 18 năm, nhân dân ta làm Cách mạng tháng Tám thành công, dựng lên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Từ đó cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta đã giành thêm nhiều thắng lợi vẻ vang, lực lượng của nhân dân ta đã lớn mạnh hơn nhiều. Đồng thời tình hình thế giới đã biến chuyển theo chiều hướng thuận lợi cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Ngày nay, nhân dân ta tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, không có lực lượng phản động nào có thể ngăn cản được, và chúng ta nhất định sẽ thành công trong việc thực hiện một nước Việt Nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần giữ gìn hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.
PHẦN THỨ III
TÌNH HÌNH QUỐC TẾ VÀ
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA NƯỚC TA
VỀ TÌNH HÌNH QUỐC TẾ
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Nước ta là một bộ phận của thế giới. Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta gắn liền với sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới. Quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta là hình ảnh thu hẹp của quá trình cách mạng của nhân dân thế giới. Từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đến nay, mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, chính là mục tiêu phấn đấu của nhân dân thế giới. Sự nhất trí về mục tiêu phấn đấu này là chứng minh hùng hồn về chân lý phổ biến và những thắng lợi huy hoàng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong quá trình đấu tranh cách mạng gian khổ và lâu dài để giành thắng lợi từng bước cho mình, nhân dân ta một lòng tin tưởng vào chỗ dựa vững chắc là phong trào cách mạng của nhân dân thế giới. Đồng thời chúng ta luôn luôn ra sức góp phần của mình vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới. Thực tiễn cách mạng của nước ta là một khúc ca sinh động của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng ta nhìn thấy tình hình thế giới ngày nay và thời đại của chúng ta theo một quan điểm cách mạng, đúng như bản Tuyên bố Mátxcơva năm 1960 đã nhận định:
“Thời đại chúng ta mà nội dung căn bản là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại, là thời đại đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội đối lập, là thời đại cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng giải phóng dân tộc, là thời đại chủ nghĩa đế quốc sụp đổ và hệ thống thuộc địa bị thủ tiêu, là thời đại ngày càng có nhiều dân tộc tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa, là thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới".
Đúng như vậy, nhân dân ta cũng như nhân dân thế giới đương sống một thời đại rất oanh liệt và vẻ vang. Hai lực lượng vĩ đại của lịch sử loài người ngày nay: phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc, là những người bạn chiến đấu anh dũng chống chủ nghĩa đế quốc hiếu chiến và xâm lược, đứng đầu là đế quốc Mỹ, để giành những thắng lợi ngày càng to lớn, càng có ý nghĩa quyết định cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Phe xã hội chủ nghĩa lớn mạnh nhanh chóng về mọi mặt. Liên Xô, trung tâm của phe xã hội chủ nghĩa, đương vững bước tiến lên xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa cộng sản, xã hội lý tưởng của loài người. Những thành tựu tuyệt vời của khoa học và kỹ thuật xô viết mà đỉnh cao là những chuyến bay vũ trụ của Gagarin, Titốp, Pôpôvích, Nicôlaép làm sáng tỏ cho nhân dân toàn thế giới tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và những khả năng không bờ bến của trí tuệ con người. Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đương xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội. 650 triệu người giàu lòng hăng hái và ý chí quật cường, đương phấn đấu anh dũng để xây dựng nước Trung Hoa mới. Trước những thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, bọn đế quốc và phản động thế giới lo sợ chừng nào, thì nhân dân thế giới càng vui mừng phấn khởi chừng nấy. Các nước xã hội chủ nghĩa khác từ Âu sang Á đương đạt những thành tựu quan trọng trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đương vững bước tiến lên.
Từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời, sau thắng lợi vĩ đại của Liên Xô trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II, đánh bại quân phát xít Đức, Ý ở phương Tây và quân phiệt Nhật ở phương Đông, và sau thắng lợi lịch sử của nhân dân Trung Quốc vĩ đại, đưa đến sự thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, thì cán cân lực lượng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa phong trào độc lập dân tộc và các thế lực thực dân đế quốc, giữa hoà bình và chiến tranh, đã nghiêng hẳn về phía cách mạng và nhân dân. Cho nên bọn đế quốc và phản động căm thù sâu sắc các nước xã hội chủ nghĩa, chúng không từ một thủ đoạn gian ác nào nhằm phá hoại sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhằm phá hoại sự đoàn kết thân ái giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Nhưng từ trước đến nay chúng đã luôn luôn thất bại, từ nay về sau chúng cũng sẽ thất bại.
Dưới ngọn cờ toàn thắng của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa sẽ khắc phục mọi khó khăn bất kỳ từ đâu đến, sẽ đẩy mạnh tốc độ phát triển của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội, sẽ tăng cường sự đoàn kết thân ái và sự hợp tác về mọi mặt giữa các nước xã hội chủ nghĩa, tăng cường sức mạnh vô địch của phe xã hội chủ nghĩa, sẽ phát huy ảnh hưởng và uy tín của chủ nghĩa xã hội đối với nhân dân toàn thế giới, sẽ góp phần cống hiến ngày càng có ý nghĩa quyết định vào lịch sử tiến hoá của loài người.
Dựa vào phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, phong trào giải phóng dân tộc hiện nay đương bồng bột tiến tới. Tuyên bố Mátxcơva năm 1960 đã đánh giá rất cao phong trào cách mạng này:
“Một thời kỳ lịch sử mới trong đời sống của loài người đã bắt đầu: các dân tộc giành được giải phóng ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh đã bắt đầu tích cực tham gia hoạt động chính trị quốc tế.
Sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân là không thể tránh khỏi. Sự sụp đổ của chế độ nô dịch thuộc địa trước sức tấn công của phong trào giải phóng dân tộc, đứng về mặt ý nghĩa lịch sử, là hiện tượng quan trọng thứ hai sau sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới”.
Thật vậy, ngày nay các dân tộc đương đấu tranh để giành lại hoặc giữ gìn độc lập dân tộc bao gồm một ngàn rưởi triệu người ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh, bên cạnh một ngàn triệu người của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Còn dân số các nước tư bản chủ nghĩa thì chỉ chừng 500 triệu người. Nhìn trên bản đồ thế giới và tính đến những tài nguyên vô cùng phong phú của khối các nước dân tộc chủ nghĩa, chúng ta càng nhận rõ tầm quan trọng to lớn của cuộc đấu tranh cách mạng của gần một nửa loài người để hoàn thành độc lập dân tộc và tiến lên tự tay mình xây dựng đời sống mới của mình. Ngày nay, cuộc đấu tranh của những dân tộc còn bị áp bức đương sôi nổi ở nhiều nơi trên thế giới, ở Đông Nam châu Á (miền Nam Việt Nam, Bờrunây…) ở nhiều nơi thuộc châu Phi (Ănggôla, Nam Phi), ở hầu khắp nơi trên châu Mỹ la tinh.
Người ta thường ví châu Mỹ latinh như cái sân sau của nước Mỹ và bọn đế quốc Mỹ vẫn yên trí rằng châu Mỹ la tinh đời đời phải là sân sau của nước Mỹ, hoàn toàn thoát khỏi phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc. Nhưng bọn đế quốc Mỹ càng cố sức đè nén và kìm hãm các nước ở châu Mỹ latinh, thì phong trào đấu tranh của quần chúng lại càng rộng rãi và mạnh mẽ. Thủ tướng Phiđen Caxtơrô đã nói: “Ở toàn bộ châu Mỹ la tinh, bọn đế quốc Mỹ đương ngồi cheo leo trên một núi lửa có thể bùng nổ bất cứ lúc nào”. Đúng thế! Và núi lửa đó đã bùng nổ ở Cuba. Chắc chắn rằng cuộc nổ dây chuyền sẽ tiếp diễn!
Ở những nước mới giành được độc lập, tình hình đương phát triển. Ở nhiều nước, chủ nghĩa thực dân cũ đã nhường chỗ cho chủ nghĩa thực dân mới không kém ác nghiệt. Ở đó chế độ kinh tế và đời sống của nhân dân mà phần rất lớn là nông dân chưa được cải thiện bao nhiêu. Trên con đường tiến tới xoá bỏ lạc hậu và nghèo nàn, kinh nghiệm sinh động của các nước này đều chứng tỏ rằng họ không thể tin cậy vào các nước đế quốc. Trong những điều kiện như vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân những nước này để hoàn thành độc lập dân tộc, xây dựng kinh tế dân tộc và đời sống mới của mình là một cuộc đấu tranh rất phức tạp và gian khổ, và con đường duy nhất để tiến lên là tiếp tục đấu tranh chống đế quốc, chống chủ nghĩa thực dân mới, và chắt chặt quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, dựa hẳn vào sự ủng hộ và sự giúp đỡ vô tư của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Đầu thế kỷ này, Lênin đã nhìn thấy tầm quan trọng có ý nghĩa lịch sử của những cuộc nổi dậy – mà Lênin gọi là những cơn bão táp – của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Lênin đoán trước tác dụng vĩ đại của phong trào giải phóng dân tộc đối với tiến hoá của lịch sử. Năm 1913 trong bài “Vận mệnh lịch sử của học thuyết Mác”, Lênin viết: “Ngày nay chúng ta đương sống ở thời đại những cơn bão táp đó và “ảnh hưởng ngược lại” của phong trào ấy đối với châu Âu”, Lênin có những lời nói đầy phấn khởi và tin tưởng đối với nhân dân châu Á, mà Lênin coi là nguồn gốc của những bão táp cách mạng rung chuyển cả thế giới, và đối với “nước Cộng hoà Trung Hoa vĩ đại” (sau cách mạng Tân Hợi năm 1911).
Ngày nay, bên cạnh nhân dân châu Á, nhân dân châu Phi, nhân dân châu Mỹ la tinh đã nhảy lên vũ đài chính trị thế giới, quyết tự mình làm chủ vận mệnh của mình và tích cực tham gia giải quyết những vấn đề lớn của thế giới.
Ngày nay, trong lúc “cuộc tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản đã đi vào một giai đoạn mới” (tuyên bố Mátxcơva 1960) thì chế độ áp bức và bóc lột của bọn tư bản độc quyền nhà nước ở các nước tư bản càng đè nặng trên lưng giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Do đó, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống nền thống trị về kinh tế và chính trị của các giới độc quyền ngày càng phát triển về bề rộng và bề sâu. Thống kê của nhiều nước chứng tỏ rằng phong trào đấu tranh, nhất là phong trào bãi công lớn mạnh hẳn lên ở nhiều nước Tây Âu, Mỹ và Nhật… Gần đây, ở Pháp, phong trào bãi công của thợ mỏ – được quảng đại quần chúng công nhân Pháp hưởng ứng – là một cuộc biểu thị mạnh mẽ lực lượng của giai cấp công nhân Pháp, giàu truyền thống cách mạng vẻ vang. Giai cấp công nhân ở các nước tư bản ngày càng bị bóc lột và áp bức nặng nề, đời sống ngày càng bấp bênh, quyền lợi chính trị và quyền tự do dân chủ ngày càng bị tước đoạt, gánh nặng của cuộc chạy đua vũ trang ngày càng tăng. Tất cả những điều đó tạo những tiền đề thuận lợi cho giai cấp công nhân ở các nước tư bản liên minh rộng rãi với các tầng lớp nhân dân khác đứng lên đấu tranh chống chế độ thống trị của bọn tư bản độc quyền nhà nước để giành quyền sống và tự do dân chủ, bảo vệ hoà bình và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tình hình đó báo hiệu rằng chúng ta đứng trước những phong trào đấu tranh rộng rãi và mạnh mẽ của giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Tóm lại, đối với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân, tình hình của thế giới là tốt, là thuận, đương phát triển theo chiều hướng thắng lợi lớn hơn. Và như vậy là tình hình đối với bọn đế quốc và các lực lượng phản động là xấu, là nghịch, đương dẫn đến nguy cơ thất bại lớn hơn.
Phe đế quốc do Mỹ cầm đầu tiếp tục trên đà suy yếu. Nền kinh tế của các nước đế quốc đang gặp những khó khăn không thể giải quyết nổi. Sự thực những năm qua đã chứng tỏ rằng sự phát triển khoa học và kỹ thuật trong sản xuất và sự đổi mới về thiết bị trong một số nước tư bản lớn sau Chiến tranh thế giới lần thứ II chỉ đưa lại những bước phát triển tạm thời, mà không giải quyết được những mâu thuẫn căn bản gắn liền với bản chất của chủ nghĩa đế quốc. Quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản đang chi phối mạnh mẽ sự thay đổi trong lực lượng so sánh giữa các nước đế quốc với nhau. Địa vị khống chế của đế quốc Mỹ tiếp tục bị suy yếu; Pháp và Tây Đức đang cố sức vươn lên; bọn quân phiệt Tây Đức và Nhật Bản đang ngóc đầu dậy. Giữa các tập đoàn tư bản lũng đoạn các nước phương Tây đang diễn ra một quá trình câu kết mới biểu hiện trong liên minh Bon – Pari, trong khối “Thị trường chung”…, càng khơi sâu những mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự. Lịch sử lại chứng kiến tình trạng các nước đế quốc đang xâu xé nhau gay gắt nhằm tranh giành khu vực ảnh hưởng, cướp dựt thị trường nguyên liệu và đầu tư, đó là một cuộc xâu xé mà kết quả tất nhiên sẽ càng làm chủ nghĩa đế quốc suy yếu và đi tới diệt vong.
Nhưng càng đến ngày tận số, chủ nghĩa đế quốc lại càng tỏ ra hung hãn và điên cuồng hơn bao giờ hết. Để cứu vãn nguy cơ diệt vong, bọn chúng đang ráo riết chuẩn bị chiến tranh: chiến tranh thế giới, chiến tranh hạt nhân chống các nước xã hội chủ nghĩa; chiến tranh cục bộ chống phong trào giải phóng dân tộc ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Ngày nay, cuộc chạy đua vũ trang ở các nước tư bản chủ nghĩa chi phối sâu sắc toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở những nước đó. Ngày nay bọn đế quốc bộc lộ một cách trắng trợn bộ mặt hiếu chiến và xâm lược của chúng trước nhân dân toàn thế giới. Ngày nay, nguy cơ của chiến tranh đương uy hiếp nghiêm trọng đời sống hoà bình của nhân dân thế giới.
Vì vậy, bản tuyên bố Mátxcơva năm 1960 đã nói rất đúng: “vấn đề nóng hổi nhất ngày nay là vấn đề chiến tranh và hoà bình”. Nghĩa là phải động viên mọi lực lượng đấu tranh kiên quyết và mạnh mẽ chống bọn đế quốc hiếu chiến, đứng đầu là đế quốc Mỹ, phải ra sức gìn giữ và củng cố hoà bình.
Để chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình, phải làm gì? Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “bảo vệ hoà bình tức là chống chiến tranh. Kẻ gây ra chiến tranh là chủ nghĩa đế quốc thực dân xâm lược, đứng đầu là đế quốc Mỹ, cho nên muốn chống chiến tranh, muốn bảo vệ hoà bình thì phải chống chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu”. Đó là kinh nghiệm thực tiễn của nhân dân ta và cũng là kinh nghiệm thực tiễn của nhân dân thế giới.
Ngày nay lực lượng bảo vệ hoà bình thế giới bao gồm nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân các nước dân tộc chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa và phong trào hoà bình thế giới. Tất cả những lực lượng này phối hợp chặt chẽ với nhau và nhằm nguồn gốc của chiến tranh là chủ nghĩa đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ, mà đấu tranh kiên quyết, thì đó là sức mạnh hoàn toàn có khả năng ngăn ngừa chiến tranh thế giới và bảo vệ hoà bình thế giới.
Theo tinh thần ấy, chúng ta hoàn toàn ủng hộ những cố gắng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, các nước yêu chuộng hoà bình kiên quyết và bền bỉ đấu tranh chống chạy đua vũ trang, chống các liên minh quân sự như những khối Đông Nam Á. Bắc Đại Tây dương, khối Trung ương, chống liên minh quân sự giữa Tây Đức và Pháp; đòi thủ tiêu các căn cứ quân sự của các nước đế quốc trên lãnh thổ nhiều nước khác; đòi cấm thử, tàng trữ, sản xuất và sử dụng vũ khí hạt nhân, đòi thành lập những vùng không có vũ khí nguyên tử, thực hiện giải trừ quân bị, củng cố hoà bình thế giới.
VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA NƯỚC TA
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Chính sách ngoại giao của nước ta là một bộ phận khăng khít của sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, đồng thời góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
Hiện nay chính sách ngoại giao của nước ta phải phục vụ thiết thực cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, và cho sự nghiệp hoà bình thống nhất Tổ quốc chúng ta. Chính sách đó một mặt phải nhằm tăng cường đoàn kết thân ái và hợp tác anh em giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa, tăng cường quan hệ hữu nghị về mọi mặt giữa nước ta và các nước dân tộc chủ nghĩa, một mặt chĩa mũi nhọn vào chủ nghĩa đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ, vạch trần âm mưu gây chiến và xâm lược của chúng, kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Trước hết chúng ta phải ra sức tăng cường đoàn kết thân ái và hợp tác anh em giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa: thống nhất ý chí, phối hợp hành động, kề vai sát cánh, cùng nhau giải quyết mọi vấn đề quốc tế lớn có lợi cho hoà bình và chủ nghĩa xã hội. Phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh là chỗ dựa vững chắc của nhân dân ta trong việc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt, và trong cuộc đấu tranh để thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc trên cơ sở Hiệp định Giơnevơ. Chúng ta phải cố gắng hơn nữa trong việc tăng cường hợp tác tương trợ giữa nước ta với Liên Xô, với Trung Quốc và với các nước anh em về các mặt kinh tế, khoa học và kỹ thuật. Nhờ có sự hợp tác tương trợ này mà chỉ trong vòng mấy năm, chúng ta đã xây dựng nên những cơ sở bước đầu của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Sự nghiệp chúng ta càng phát triển, lực lượng của chúng ta càng lớn lên, thì quan hệ hợp tác tương trợ giữa nước ta với các nước anh em càng mở rộng và tăng cường. Nhân dân ta luôn luôn nhận rõ rằng mọi thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng của mình từ trước tới nay cũng như từ nay về sau đều không thể tách khỏi sự đồng tình, sự ủng hộ và giúp đỡ đầy tinh thần quốc tế vô sản cao cả của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác. Nhân dân ta luôn luôn mang trong lòng niềm biết ơn chân thành và sâu sắc đối với sự đồng tình, sự ủng hộ và giúp đỡ vô cùng quý báu đó.
Chúng ta rất vui mừng nhận thấy rằng tình hữu nghị và mối quan hệ anh em về mọi mặt giữa nước ta với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác ngày càng củng cố và phát triển. Chúng ta hiểu sâu sắc rằng trong cuộc đấu tranh quyết liệt ngày nay giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc, giữa hoà bình và chiến tranh, sự đoàn kết thân ái trong phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế là bảo đảm vững chắc cho mọi thắng lợi của chúng ta. Chính vì thế, nhân dân Việt Nam ta, cũng như nhân dân thế giới, rất thiết tha với tình đoàn kết anh em giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn hết lòng hết sức đóng góp phần mình vào sự đoàn kết anh em giữa các Đảng Cộng sản và công nhân, cột trụ để đoàn kết giai cấp công nhân và nhân dân thế giới vì sự nghiệp vĩ đại của hoà bình và chủ nghĩa xã hội.
Trong tình hình phong trào cộng sản đã lớn mạnh, các Đảng Cộng sản và công nhân đang hoạt động trong những điều kiện rất khác nhau, sự phát triển của phong trào cách mạng đề ra cho các Đảng nhiều vấn đề phức tạp, thì việc Đảng này và Đảng nọ có quan điểm khác nhau về một số vấn đề nào đó là điều khó tránh khỏi.
Bọn đế quốc và phản động quốc tế đang hí hửng trước những bất đồng ý kiến ấy, và hòng tìm cách khoét sâu thêm sự bất hoà giữa các nước xã hội chủ nghĩa và trong phong trào cộng sản quốc tế. Song, rõ ràng là bọn đế quốc và phản động sẽ thất vọng. Các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế sẽ ra sức khắc phục mọi sự bất hoà, sẽ thực hiện sự đoàn kết thân ái trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, sẽ lớn mạnh hơn bao giờ hết và sẽ tiếp tục đánh cho chúng những đòn chí tử, giành cho sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp bảo vệ hoà bình những thắng lợi càng to lớn hơn nữa.
Đúng như bản Tuyên bố của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ngày 10-2-1963 đã nói, các Đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới “có đầy đủ điều kiện để khắc phục những sự bất đồng ý kiến, giữ vững và tăng cường sự đoàn kết trong hàng ngũ của mình. Chúng ta có kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc, chúng ta có tư tưởng chung là chủ nghĩa Mác - Lênin. Chúng ta có mục tiêu phấn đấu chung là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chúng ta có cương lĩnh chung là hai bản tuyên bố Mátxcơva năm 1957 và năm 1960”.
Với tinh thần ấy, chúng ta vui mừng nhận thấy rằng giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có trao đổi thư nhằm đi tới hội đàm giữa hai Đảng. Chúng ta tin chắc rằng, với sự cố gắng của hai Đảng và sự đóng góp chung của các nước xã hội chủ nghĩa và các Đảng Cộng sản và công nhân, sự đoàn kết thân ái trong phe xã hội chủ nghĩa và trong phong trào cộng sản quốc tế trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin và hai bản tuyên bố Mátxcơva nhất định sẽ được tăng cường và củng cố.
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Nhân dân Việt Nam ta nhiệt liệt hoan nghênh Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vĩ đại nhận lời mời của Hồ Chủ tịch, trong mấy ngày nữa, sẽ đến thăm nước ta, và tin tưởng rằng cuộc đi thăm hữu nghị này sẽ thắt chặt hơn nữa tình anh em gắn bó như môi với răng giữa nhân dân hai nước Việt, Trung. Hiện nay, Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ đương đi thăm hữu nghị một số nước ở Đông Nam Á. Chúng ta nhận rằng cuộc đi thăm có ý nghĩa chính trị quan trọng đó là một đóng góp tích cực vào sự nghiệp giữ gìn hoà bình và tăng cường hữu nghị giữa nhân dân các nước ở khu vực này.
Nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Trung Quốc để giải phóng Đài Loan, lãnh thổ của Trung Quốc, chống âm mưu của đế quốc Mỹ muốn tạo ra hai nước Trung Quốc, và đòi khôi phục địa vị hợp pháp của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ở Liên hợp quốc. Về vấn đề biên giới Trung - Ấn, Chính phủ Trung Quốc trước sau như một chủ trương giải quyết bằng phương pháp thương lượng hòa bình, như đã từng giải quyết tốt đẹp vấn đề biên giới với các nước láng giềng khác. Chúng ta hoàn toàn ủng hộ lập trường đúng đắn và những cố gắng chân thành của Chính phủ Trung Quốc, lập trường và cố gắng đó đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc đàm phán trực tiếp giữa Trung Quốc và Ấn Độ để giải quyết vấn đề tranh chấp biên giới có lợi cho việc củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị lâu đời giữa hai nước, có lợi cho sự nghiệp đoàn kết Á - Phi và hòa bình thế giới.
Cùng chung một cảnh ngộ đất nước bị chia cắt, chúng ta kiên quyết ủng hộ những đề nghị của Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên và cuộc đấu tranh của nhân dân Triều Tiên nhằm hòa bình thống nhất đất nước, đòi quân đội Mỹ phải rút khỏi Nam Triều Tiên, để cho nhân dân Triều Tiên tự giải quyết lấy vận mệnh của mình. Chúng ta tin chắc rằng, thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về nhân dân Triều Tiên anh em, Nam - Bắc Triều Tiên nhất định sẽ thống nhất.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết ủng hộ những đề nghị của Chính phủ Liên Xô và Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Đức nhằm thủ tiêu những tàn tích của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, ký hòa ước với nước Đức và trên cơ sở đó bình thường hóa tình hình Tây Bá Linh (4). Chúng ta ủng hộ những đề nghị của Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Đức nhằm lập lại quan hệ bình thường giữa hai nước Đức.
Hiện nay, mặc dầu liên tiếp bị thất bại, đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục những âm mưu xâm lược Cuba và đương lôi kéo bọn tay sai của chúng ở châu Mỹ la tinh nhằm xâm lược Cuba. Nhưng bên cạnh nhân dân Cuba anh hùng có Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, có nhân dân châu Mỹ latinh và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Nhân dân Việt Nam, cũng như nhân dân thế giới, triệt để ủng hộ cuộc đấu tranh anh dũng và bền bỉ của nhân dân Cuba nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, thể hiện trong 5 điểm của Thủ tướng Phiđen Caxtơrô, và tin tưởng sắt đá rằng cuộc đấu tranh vĩ đại đó nhất định sẽ thắng lợi vẻ vang.
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, vị trí địa lý của nước ta ngày càng thắt chặt quan hệ của chúng ta với các nước của khối dân tộc chủ nghĩa, người bạn chiến đấu thân thiết của chúng ta. Mấy năm gần đây chúng ta không ngừng mở rộng quan hệ hữu nghị về mọi mặt với các nước đó ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh.
Chúng ta vui mừng nhận thấy rằng quan hệ của nước ta với các nước Đông Nam Á, với các nước láng giềng đã phát triển tốt đẹp.
Là một nước láng giềng có chung hàng nghìn cây số với Vương quốc Lào, và là một nước ký kết Hiệp định Giơnevơ về Lào, chúng ta hết sức quý trọng tình hữu nghị với nhân dân Lào và hết sức quan tâm đến sự phát triển của tình hình Lào. Chúng ta hài lòng nhận thấy rằng trong thời gian qua quan hệ hợp tác về mọi mặt giữa nước ta với Vương quốc Lào được củng cố và phát triển trên cơ sở 5 nguyên tắc chung sống hoà bình và tinh thần Băng Đung. Chúng ta trước sau như một ủng hộ mọi cố gắng của Chính phủ liên hiệp dân tộc Vương quốc Lào do hoàng thân Xuvana Phuma làm Thủ tướng, nhằm xây dựng một nước Lào hoà bình, trung lập, độc lập, thống nhất và phồn vinh. Chúng ta luôn luôn nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Giơnevơ năm 1962 về Lào và các điều cam kết của chúng ta.
Và cũng như nước ta, các nước xã hội chủ nghĩa khác có liên quan đều ra sức đóng góp phần của mình vào việc ổn định tình hình Lào trên cơ sở giữ vững Hiệp định Giơnevơ, giữ vững Chính phủ liên hiệp và chính sách hoà bình trung lập.
Nhưng ngược lại, đế quốc Mỹ, từ trước đến nay, vẫn theo đuổi một chính sách trái hẳn, nhằm phục vụ âm mưu biến nước Lào thành căn cứ quân sự của Mỹ. Ký Hiệp định Giơnevơ năm 1962 về Lào chẳng qua là một kế hoãn binh, vì lúc bấy giờ tình hình đương biến chuyển không có lợi cho chúng. Cho nên ngay sau khi tham gia ký kết, chúng liền trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ: Chúng đã dùng máy bay quân sự tiếp tế bọn phỉ đánh thuê cho chúng, chúng đã giữ lại ở Lào nhân viên quân sự Mỹ và nhân viên quân sự một số nước theo Mỹ… Gần đây tình hình trở nên rất nghiêm trọng, như mọi người đều biết. Chính đế quốc Mỹ là kẻ thủ phạm ám sát ông Kinim Phônxêna và nhiều nhân vật trung lập khác, uy hiếp nghiêm trọng an ninh của Chính phủ liên hiệp, dùng quân đội tiến đánh lực lượng trung lập và lực lượng yêu nước khác ở cánh đồng Chum và nơi khác. Chúng muốn gây ra một tình hình hỗn loạn để chứng minh rằng chính sách hoà bình trung lập và Chính phủ liên hiệp ba phái không thể duy trì được, Hiệp định Giơnevơ về Lào cuối cùng không đem lại kết quả gì, hòng nhân cơ hội đó, thực hiện những ý đồ thâm độc của chúng. Đồng thời để phá hoại quan hệ hữu nghị giữa nước ta và Vương quốc Lào, chúng vu cáo quân đội Việt Nam còn ở lại Lào và có liên quan đến các vụ xung đột ở cánh đồng Chum! Nhưng mọi thủ đoạn vô liêm sỉ của đế quốc Mỹ không thể nào đánh lừa được nhân dân Lào và dư luận quốc tế. Tình hình Lào hiện nay, cũng như từ bao năm nay, chứng minh một cách rõ rệt chính sách can thiệp nguy hiểm của đế quốc Mỹ ở Lào.
Trước tình hình đó, ngày 15 tháng 4, Chính phủ ta đã ra Bản tuyên bố nhằm vạch trần âm mưu của đế quốc Mỹ ở Lào và kêu gọi Chính phủ các nước tham gia Hội nghị Giơnevơ năm 1962 về Lào hãy quan tâm đầy đủ và cảnh giác cao độ đối với tình hình Lào hiện nay, và khẩn thiết yêu cầu hai vị Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ năm 1962 về Lào cần có biện pháp cấp bách và có hiệu quả nhằm chặn bàn tay can thiệp và gây chiến của đế quốc Mỹ, ổn định tình hình Lào, bảo vệ Hiệp định Giơnevơ năm 1962 về Lào, bảo vệ hoà bình, trung lập ở Lào, bảo vệ hoà bình và an ninh ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Trong thời gian qua quan hệ giữa nước ta và Vương quốc Campuchia có những phát triển mới. Trước sau như một, Chính phủ ta và nhân dân ta kiên quyết ủng hộ chính sách hoà bình trung lập của Cămpuchia. Chúng ta nhiệt liệt ủng hộ cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Cămpuchia nhằm giữ vững nền hoà bình trung lập của mình chống mọi hành động khiêu khích của các bọn tay sai của đế quốc Mỹ. Theo tinh thần đó Chính phủ ta đã tuyên bố sẵn sàng ký kết một hiệp nghị quốc tế bảo đảm hoà bình trung lập và toàn vẹn lãnh thổ của Cămpuchia theo đề nghị của Chính phủ Cămpuchia. Chúng ta hoan nghênh những thành tựu mà nhân dân Cămpuchia đã đạt được về mọi mặt đối nội và đối ngoại dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Thái tử Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanúc, vị lãnh tụ kính mến của nhân dân Cămpuchia. Chúng ta đánh giá cao những cống hiến của nước bạn đối với sự nghiệp bảo vệ hoà bình ở Đông Dương và Đông Nam Á. Chúng ta tin chắc rằng việc tăng cường những mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Cămpuchia sẽ có lợi cho sự phồn vinh của hai nước, có lợi cho hoà bình và an ninh của các dân tộc trong khu vực này.
Đối với nước Cộng hoà Inđônêxia, nhân dân nước ta sẵn có mối cảm tình nồng hậu. Chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh những thắng lợi của nhân dân Inđônêxia trong cuộc đấu tranh thu hồi miền Tây Iriăng. Chúng ta gửi lời chúc mừng thắm thiết tới nhân dân Inđônêxia anh em nhân dịp 1-5 sắp tới. Ngày Tây Iriăng trở về với nước Cộng hoà Inđônêxia. Sự ủng hộ nhiệt tình của Chính phủ và nhân dân Inđônêxia đối với phong trào yêu nước ở miền Nam nước ta đã có một tiếng vang sâu rộng trong lòng nhân dân ta.
Đối với tất cả các nước dân tộc chủ nghĩa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ la tinh, chúng ta tiếp tục cố gắng phát triển quan hệ về mọi mặt với những nước đó.
Đã từng sống cùng khổ dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đã từng vùng dậy để giành độc lập dân tộc, hiện nay phải tiếp tục đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, để củng cố độc lập, bảo vệ chủ quyền và xây dựng đất nước, nhân dân ta và nhân dân các nước dân tộc chủ nghĩa cùng chung một mục tiêu phấn đấu. Chúng ta cần và có những khả năng để tăng cường quan hệ hữu nghị về mọi mặt giữa nước ta và những nước đó.
Nhân dân và Chính phủ nước ta luôn luôn nhiệt liệt ủng hộ các dân tộc đang đấu tranh chống những âm mưu xâm lược của bọn đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ.
Chúng ta hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh anh dũng và tất thắng để giành độc lập tự do của nhân dân Bắc Kalimăngtan, nhân dân Kênia, Angôla và của tất cả các dân tộc còn bị áp bức ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh.
Chúng ta đồng tình và ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Inđônêxia, nhân dân Mã Lai (5) và các nước hữu quan chống việc thành lập liên bang đại Mã Lai do các nước đế quốc âm mưu dựng lên nhằm duy trì chế độ thực dân của chúng, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực này, và uy hiếp hoà bình ở Đông Nam Á.
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Từ ngày thành lập đến nay, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chúng ta trước sau như một, luôn luôn theo đuổi chính sách ngoại giao hoà bình. Cùng với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước yêu chuộng hoà bình trên thế giới, chúng ta kiên quyết đấu tranh chống chính sách xâm lược và gây chiến của đế quốc Mỹ và các nước đế quốc khác để bảo vệ hoà bình, để thực hiện chính sách ngoại giao hoà bình.
Các nước xã hội chủ nghĩa thiết tha yêu chuộng hoà bình và luôn luôn đứng hàng đầu trong cuộc đấu tranh bền bỉ để duy trì và củng cố hoà bình, cần thiết cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Những người phấn đấu cho chủ nghĩa xã hội càng quý trọng đời sống và lao động sáng tạo của con người bao nhiêu, thì càng hết lòng hết sức đấu tranh để ngăn ngừa một cuộc chiến tranh thế giới mới –một cuộc chiến tranh hạt nhân và hậu quả khủng khiếp của nó – cho nên chính sách ngoại giao của các nước xã hội chủ nghĩa là chính sách chung sống hoà bình giữa những nước có chế độ xã hội khác nhau như tuyên bố Mátxcơva năm 1960 đã nói: “Trong những điều kiện mà thế giới chia làm hai hệ thống, thì nguyên tắc duy nhất đúng đắn và hợp lẽ phải trong quan hệ quốc tế là sự chung sống hoà bình giữa các Nhà nước có chế độ xã hội khác nhau”.
Nhìn lại thời gian qua, chúng ta phấn khởi nhận thấy rằng hoạt động ngoại giao của chúng ta đã thu được những kết quả quan trọng. Địa vị quốc tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không ngừng được nâng cao, công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, sự nghiệp đấu tranh yêu nước ở miền Nam và hoà bình thống nhất đất nước của nhân dân ta ngày càng được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước trên thế giới.
Chúng ta tin tưởng sâu sắc rằng, dựa vào lực lượng ngày càng lớn mạnh của nước ta, của dân ta, ở miền Bắc, ở miền Nam, dựa vào lực lượng ngày càng lớn mạnh của phe xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, hoạt động ngoại giao của nước ta, của dân ta sẽ giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong thời gian tới.
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Tôi đã trình bày xong với các đồng chí đại biểu bản báo cáo của Chính phủ về tình hình nước ta: miền Bắc, miền Nam, về tình hình quốc tế. Từ tình hình đó toát ra một điểm và điểm đó là chân lý của thế giới ngày nay, nơi đương diễn ra cuộc đấu tranh cách mạng vĩ đại để chuyển loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng là phá xiềng xích, xiềng xích của áp bức, bóc lột, xiềng xích của lạc hậu và nghèo nàn, cách mạng là đấu tranh và chiến thắng, cách mạng là phấn khởi: “cách mạng là ngày hội của những người bị áp bức” (Lênin). Nhân dân Việt Nam ta, ở miền Bắc, ở miền Nam, cũng như nhân dân khắp mọi nơi trên thế giới đương sống những ngày oanh liệt. Nhân dân ta hãy nâng cao nhiệt tình cách mạng và ý chí đấu tranh ngang với sự nghiệp vĩ đại của mình: xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, hoà bình thống nhất Tổ quốc, ngang với sự nghiệp vĩ đại của nhân dân thế giới là hoà bình và chủ nghĩa xã hội.
Sự nghiệp của chúng ta, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một sự nghiệp dũng cảm. Chúng ta phải dũng cảm để vượt mọi khó khăn bất cứ từ đâu đến, những khó khăn tất yếu của đấu tranh cách mạng lúc quân thù càng bị đánh bại càng táo bạo và điên cuồng, những khó khăn của quá trình trưởng thành của công cuộc cách mạng. Dũng cảm để thực hiện tốt đẹp kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất, thực hiện vượt mức toàn bộ chỉ tiêu của kế hoạch, dũng cảm để thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1963; dũng cảm để từng bước xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; từng bước thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; dũng cảm để phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, dũng cảm để đẩy mạnh mọi hoạt động của chúng ta ở miền Bắc, tăng cường lực lượng của miền Bắc về mọi mặt và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân.
Dưới ngọn cờ toàn thắng của Đảng sáng ngời những chữ thân yêu: Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, chúng ta hãy dũng cảm tiến lên!
Những thắng lợi càng to lớn hơn nữa đương đón chờ chúng ta, những người dân Việt Nam dũng cảm!
1. Oasinhtơn: Thủ đô Hoa Kỳ (BT).
2. Hônôlulu: Thành phố thuộc bang Haoai (Mỹ) (BT).
3, Một từ cũ để chỉ những người thuộc các dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên (BT).
4. Tây Béclin.
5. Malaixia (BT).