VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP II 1960 - 1964

PHẤN ĐẤU HOÀN THÀNH THẮNG LỢI KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ QUỐC DÂN 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 - 1965)

(Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa II,
do Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước
Nguyễn Duy Trinh trình bày, ngày 29-4-1963)

 

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Trong kỳ họp thứ 9 của khóa I (tháng 12 năm 1958), Quốc hội đã thông qua kế hoạch ba năm phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa (1958-1960). Sau khi hoàn thành kế hoạch ba năm, miền Bắc nước ta đã chuyển sang thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó đến nay, nhân dân ta đã phấn đấu không ngừng để củng cố và phát triển quan hệ sản xuất mới, phát triển lực lượng sản xuất, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) là một bước quan trọng mở đầu thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam đã vạch rõ, trong thời gian kế hoạch 5 năm, chúng ta phải "xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa". Trong khi thực hiện nhiệm vụ đó, chúng ta phải đồng thời chuẩn bị cơ sở về mọi mặt cho bước phát triển trong kế hoạch dài hạn sau.

Căn cứ vào Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng, Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bàn về phương hướng, nhiệm vụ và những biện pháp chủ yếu để củng cố và phát triển hợp tác xã nông nghiệp, phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc; Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định phương hướng, nhiệm vụ và những biện pháp chủ yếu về xây dựng và phát triển công nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

Đường lối của Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng và các nghị quyết hội nghị lần thứ 5 và lần thứ 7 của Ban Chấp hành trung ương Đảng đã đem lại cho nhân dân ta một nguồn tin tưởng mới vững chắc, động viên mọi người thêm quyết tâm, hăng hái phấn đấu đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng tiến tới.

Căn cứ vào nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III, và tiếp theo các hội nghị lần thứ 5 và lần thứ 7 của Trung ương Đảng, Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp gần đây đã nhận định chung tình hình phát triển kinh tế và văn hóa ở miền Bắc trong 5 năm qua, và có kiến nghị về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Nghị quyết đó có ý nghĩa rất quan trọng, vì những phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất trình bày trong bản nghị quyết đó thể hiện một cách đầy đủ đường lối của Đảng về thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong những năm trước mắt.

Theo tinh thần cơ bản của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng, Hội đồng Chính phủ đã thảo luận nhiệm vụ, phương hướng, hệ thống chỉ tiêu và các biện pháp chủ yếu của kế hoạch 5 năm để trình ra Quốc hội. Đồng chí Thủ tướng đã giới thiệu và nhấn mạnh những vấn đề lớn của kế hoạch 5 năm và của việc thực hiện kế hoạch. Sau đây, tôi xin trình Quốc hội bản báo cáo của Chính phủ về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Đồng thời, xin trình Quốc hội thông qua kế hoạch nhà nước năm 1963.

Bản báo cáo này gồm bốn phần:

1. Miền Bắc nước ta đang trải qua những chuyển biến cách mạng vĩ đại.

2. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

3. Tiến lên hoàn thành thắng lợi kế hoạch Nhà nước năm 1963, làm đà cho việc hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

4. Cải tiến quản lý kinh tế - tài chính, đẩy mạnh thi đua yêu nước, phát huy lực lượng sáng tạo của nhân dân, phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch.

PHẦN THỨ NHẤT

MIỀN BẮC NƯỚC TA ĐANG TRẢI QUA
NHỮNG CHUYỂN BIẾN CÁCH MẠNG VĨ ĐẠI

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, và được các nước xã hội chủ nghĩa anh em giúp đỡ, nhân dân ta ở miền Bắc đã thực hiện những nhiệm vụ cách mạng to lớn. Sau khi hoàn thành cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế, chúng ta đã tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa; hiện nay đang chuyển sang thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng từng bước cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta.

Trong 5 năm qua, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn trong cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội; nền kinh tế và xã hội miền Bắc đang trải qua những chuyển biến cách mạng sâu sắc, vĩ đại.

Hiện nay trên toàn miền Bắc, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể đã mở rộng phổ biến và đang được củng cố.

Cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp đã làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi nhiều, là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử, mở ra những triển vọng mới đối với nền nông nghiệp nước ta; đồng thời là một thắng lợi quan trọng nhất của cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Cuối năm 1958, mới có 4,7% số hộ nông dân lao động tham gia hợp tác xã. Năm 1962 đã có khoảng 29.800 hợp tác xã, bao gồm 87,7% số hộ, trong đó có 9,739 hợp tác xã bậc cao, bao gồm 36,8% số hộ. Ở đồng bằng và trung du, 76% số thôn có hơn một vạn hợp tác xã quy mô thôn, bao gồm trên 63% tổng số hộ xã viên. Cuộc vận động hợp tác hóa làm nhanh và gọn, đã kịp thời phát huy những thành quả của cải cách ruộng đất, làm cho quan hệ sản xuất mới và sớm được xác lập, và sản xuất nông nghiệp được tiếp tục phát triển.

Từ năm 1960 đến nay, công tác quản lý hợp tác xã có những tiến bộ rõ rệt, cuộc vận động cải tiến quản lý trong đợt thí điểm vừa qua đã đem lại kết quả tốt. Nhờ mở rộng quy mô và thực hiện phân công lao động mới, các hợp tác xã nông nghiệp có thêm lực lượng để phát triển thủy lợi, tăng vụ và khai hoang, làm phân bón, cải tiến nông cụ… Sau khi tham gia hợp tác xã, bần nông và trung nông lớp dưới làm ăn thuận lợi hơn, phần đông thu nhập khá hơn lúc làm ăn riêng lẻ.

Cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ, và đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa nói chung đạt kết quả tốt. Trên 95% thợ thủ công chuyên nghiệp, gồm gần 30 vạn người, đã được tổ chức lại. Nhiều hợp tác xã thủ công nghiệp đã phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, khai thác các nguồn nguyên liệu trong nước, tự cải tiến thiết bị, tăng thêm tích lũy để mở rộng sản xuất. Các xí nghiệp công tư hợp doanh được sắp xếp hợp lý hơn trước.

Đồng thời, thành phần kinh tế quốc doanh phát triển nhanh, đã giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân. Ngoài các ngành do Nhà nước nắm hoàn toàn như Ngân hàng, Ngoại thương, Vận tải đường sắt, trong các ngành khác, kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.

Công nghiệp quốc doanh phát triển nhanh, năm 1957 mới chiếm 26,3% giá trị sản lượng công nghiệp, năm 1962 chiếm 59,4%. Công nghiệp quốc doanh trung ương, phần lớn với thiết bị và kỹ thuật hiện đại, đã giữ vai trò nòng cốt trong công nghiệp và trong nền kinh tế. Lực lượng vận tải quốc doanh năm 1957 chiếm 50,2% trong khối lượng hàng hóa luân chuyển, năm 1962 chiếm 78,2%. Trong tổng mức bán lẻ của thương nghiệp thuần túy, tỷ trọng của thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán từ 31,3% năm 1957 đã lên tới 83% năm 1962.

Nhìn chung, kinh tế quốc doanh đã giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế; cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhất là cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp, đang phát huy ảnh hưởng tích cực ngày càng rõ rệt. Sự biến đổi ấy về cơ cấu xã hội của nền kinh tế đã tạo ra những khả năng mới để tăng cường lực lượng sản xuất, phát triển các ngành kinh tế quốc dân một cách có kế hoạch và củng cố thêm vững chắc nền chuyên chính dân chủ nhân dân.

Cơ sở vật chất và kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân được tăng cường một bước; cơ cấu các ngành sản xuất, nhất là trong công nghiệp, có những tiến bộ bước đầu. Trong thời gian từ năm 1958 đến năm 1962, Nhà nước đã đầu tư vào các ngành kinh tế và văn hóa 2.926,5 triệu đồng, trong đó vốn bỏ vào khu vực sản xuất chiếm 82,2%, khu vực không sản xuất chiếm 17,8%. Năm 1961 và 1962, số vốn đầu tư vào xây dựng kinh tế và văn hóa đã tăng lên gấp 2,9 lần so với năm 1957.

Để thực hiện từng bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã tập trung phần lớn vốn tích lũy, lực lượng công nhân, cán bộ kỹ thuật và sự giúp đỡ của các nước anh em vào việc xây dựng và phát triển công nghiệp. Trong 5 năm qua, Nhà nước đã đầu tư vào công nghiệp 1.185,3 triệu đồng, bằng 40% tổng số vốn xây dựng về kinh tế và văn hóa; riêng hai năm gần đây, tỷ trọng đó chiếm trên dưới 45%. Theo phương hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, các ngành công nghiệp chủ yếu như điện lực, chế tạo cơ khí, luyện kim, hóa chất và một số các ngành công nghiệp nhẹ như đường, giấy, dệt… đang được xây dựng. Hệ thống công nghiệp của ta đang tiến lên ngày càng cân đối hơn, tạo cơ sở trong nước để nâng cao dần khả năng trang bị kỹ thuật cho các ngành và cung cấp những loại hàng tiêu dùng thông thường cho nhu cầu của đời sống nhân dân. Bộ mặt kinh tế của một số địa phương như Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Việt Trì, Thanh hóa, Vinh… ngày càng đổi mới.

Đối với nông nghiệp, trong 5 năm qua, Nhà nước đã đầu tư 460 triệu đồng, trong đó phần dành cho khu vực sản xuất tập thể chiếm 59,2%. Ngoài ra, Nhà nước còn cho vay dài hạn 102,3 triệu đồng (chỉ tính số dư nợ) để giúp đỡ các hợp tác xã nông nghiệp. Hai năm gần đây, vốn đầu tư vào nông nghiệp tăng lên nhiều so với trước, mỗi năm gấp từ bốn lần đến sáu lần so với năm 1957. Trong ba năm 1958 - 1960, vốn đầu tư vào nông nghiệp chỉ chiếm có 11,9% tổng số vốn đầu tư về kinh tế và văn hóa, nhưng năm 1961 tỷ trọng ấy là 16,2% và năm 1962 là 23,3%.

Nhờ những cố gắng về xây dựng thủy lợi, năm 1962 có khoảng 1/3 diện tích canh tác được tưới nước chủ động suốt vụ; kể cả các công trình thủy lợi loại nhỏ do nhân dân làm thì diện tích gieo trồng được tưới nước lên khoảng trên 2 triệu hécta, tăng 76 vạn hécta so với năm 1957, trong đó có khoảng 80% diện tích cấy lúa có được tưới nước.

Cũng trong 5 năm, chúng ta đã khai hoang được trên 20 vạn hécta, bằng 10% diện tích canh tác, và mở thêm diện tích gieo trồng 50 vạn hécta, tăng hệ số sử dụng ruộng đất lên 1, 6 lần.

Các nông trường quốc doanh phát triển tương đối nhanh, với những thiết bị và kỹ thuật hiện đại. Năm 1962 có 58 cơ sở, với 73,200 hécta đất gieo trồng, tăng 11 lần so với năm 1958.

Dựa trên quan hệ sản xuất mới và cơ sở vật chất - kỹ thuật mới tăng thêm, lực lượng lao động xã hội bắt đầu được phân bố lại theo chiều hướng tiến bộ. Các ngành công nghiệp, xây dựng và vận tải năm 1957 chiếm 9% lực lượng lao động xã hội, năm 1962 chiếm 13,3%. Hàng chục vạn lao động ở đồng bằng đã chuyển lên các vùng trung du và miền núi, tham gia xây dựng công nghiệp, phát triển nông trường, lâm trường, mở rộng khai hoang, xây dựng những vùng kinh tế mới. Hầu hết những người trước đây thiếu việc làm và số lao động trẻ tăng thêm hàng năm đã được thu hút vào sản xuất.

Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng kinh tế, việc đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật được đẩy mạnh: tính đến năm 1962, các ngành sản xuất có gần 17 vạn công nhân kỹ thuật, tăng gấp 6 lần so với năm 1957; số cán bộ có trình độ kỹ thuật trung cấp có 3 vạn 7 nghìn người, tăng gấp 17 lần; cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học gần một vạn người, tăng gấp 12 lần. Hiện nay, miền Bắc có 16 trường đại học, 134 trường trung cấp chuyên nghiệp và 148 trường, lớp công nhân kỹ thuật. Các trường ấy đang đào tạo có hệ thống trên 26.500 sinh viên, hơn 6 vạn rưỡi học sinh chuyên nghiệp trung cấp và trên một vạn công nhân kỹ thuật; ngoài ra, 10 vạn công nhân được kèm cặp trực tiếp trong các cơ sở sản xuất.

Cũng trong 5 năm qua, sau khi hoàn thành khôi phục kinh tế, chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc phát triển sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Quan hệ giữa các ngành trong công nghiệp, giữa công nghiệp và nông nghiệp được điều chỉnh dần và ngày càng đi vào cân đối. Dựa trên sản xuất phát triển, vốn tích lũy trong nước đã được tăng thêm, bảo đảm phần lớn nhu cầu mở mang xây dựng cơ bản, thực hiện tái sản xuất mở rộng. Nhờ phát huy truyền thống tự lực cánh sinh kết hợp với sự giúp đỡ và hợp tác quốc tế, chúng ta đã trưởng thành một bước trong việc xây dựng nền kinh tế tự chủ của nước ta.

Sản xuất nông nghiệp trong và sau khi hợp tác hóa, vẫn phát triển khá và đang có nhiều tiến bộ. Giá trị sản lượng nông nghiệp trong 5 năm tăng bình quân hàng năm 5,3%. Trong thời gian 1958-1960, bình quân hàng năm tăng 4,4%; riêng hai năm gần đây, hàng năm tăng 7%.

Trong 5 năm qua, sản lượng lương thực (quy ra thóc) tăng bình quân hàng năm 4,5%. Sản xuất hoa màu tăng khá nhanh, bình quân hàng năm tăng 13%, trong năm 1962 chiếm 19% sản lượng lương thực. Cây công nghiệp tăng tương đối đều, hàng năm khoảng 7,3%; sản lượng một số cây như đay, cói, mía, lạc, thuốc lá tăng khá. Về chăn nuôi, đàn trâu năm 1957 có 1.238.000 con, năm 1962 có 1.480.000 con, bình quân hàng năm tăng 3,6%. Đàn lợn năm 1962, đạt 4.239.000 con, vượt năm 1958 là năm cao nhất trước đây trên 25 vạn con, và trong 5 năm đã tăng bình quân hàng năm 7,5%. Nghề nuôi cá phát triển khá nhanh, năm 1962 đạt khoảng 7 vạn tấn, tăng gấp 3,8 lần năm 1957. Diện tích trồng cây gây rừng cũng đã được mở rộng gấp 7 lần.

Sản xuất công nghiệp phát triển thêm nhiều mặt hàng, cung cấp được một số tư liệu sản xuất với khối lượng ngày càng lớn, giải quyết được một phần nhu cầu thiết bị lẻ và cung cấp được phần lớn hàng tiêu dùng. Trong 5 năm qua, giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp tăng gấp hai lần rưỡi, bình quân hàng năm tăng 19,8%; nhóm A tăng gấp bốn lần và nhóm B tăng gấp hai lần, tỷ trọng nhóm A từ 25,5% năm 1958 đã tăng lên 37% trong năm 1962. Riêng công nghiệp quốc doanh năm 1962 đã tăng gấp 5,6 lần so với năm 1957.

Ngành cơ khí trẻ tuổi của chúng ta đã có những tiến bộ đáng kể: năm 1960, chế tạo 117 loại máy; năm 1962, tăng lên 197 loại máy, sản xuất thêm một số loại máy công cụ với trình độ kỹ thuật cao hơn, các loại máy phát lực và động cơ điện với công suất lớn hơn.

Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, chúng ta chú trọng kết hợp phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp, hướng từng bước công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Năm 1960, chúng ta cung cấp cho nông nghiệp 140 máy bơm nước, trong hai năm 1961-1962 cung cấp được 1.970 chiếc, góp phần quan trọng vào việc chống hạn, bảo đảm diện tích gieo cấy. Cũng trong 5 năm, chúng ta đã cung cấp gần 26 vạn tấn phân lân các loại. Về công cụ lao động, trong 5 năm, đã sản xuất 1.310 tấn máy nông nghiệp và khoảng 26 triệu nông cụ các loại; riêng trong hai năm 1961-1962, sản xuất 900 tấn máy nông nghiệp và 13 triệu nông cụ.

Các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm đã tăng thêm nhiều mặt hàng và khối lượng sản phẩm, trong đó có những loại hàng thiết yếu như vải, đường, giấy, thuốc men… Từ chỗ hầu hết các loại hàng tiêu dùng phải mua của nước ngoài, chúng ta đã sản xuất và cung cấp được phần rất lớn, và tăng thêm nhiều hàng tiêu dùng cho xuất khẩu.

Trong các ngành sản xuất và xây dựng, các phong trào Đại Phong,Duyên Hải, Thành Công với hàng nghìn "hợp tác xã tiền tiến" và "tổ" hoặc "đội lao động xã hội chủ nghĩa" đã động viên đông đảo quần chúng lao động hăng hái thi đua cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất.

Dựa trên sản xuất phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động đã được cải thiện từng bước. Hầu hết những người có sức lao động đều có việc làm; mọi người ăn, mặc khá hơn trước, trình độ văn hóa ngày càng được nâng cao.

Đời sống vật chất của nông dân hàng năm được cải thiện thêm. Mặc dù năm 1960 bị mất mùa, trong hai năm gần đây, đời sống của nông dân được cải thiện thêm một bước về ăn, mặc, ở… So với trước kia, mức sống của nông dân tăng lên rõ rệt. Hiện nay, khoảng 25% số nông hộ có mức sống tương đối khá, khoảng 56% số nông hộ có mức sống trung bình.

Đối với công nhân, viên chức, Nhà nước đã cải tiến chế độ tiền lương và tăng lương, mở rộng việc trả lương theo sản phẩm, thực hiện hàng năm việc nâng bậc; chú trọng giải quyết việc làm cho người trong gia đình và tăng thêm các khoản phúc lợi; bảo đảm cung cấp lương thực, một phần các loại thực phẩm và vải mặc. Nhờ đó, trong 5 năm qua, thu nhập thực tế của công nhân viên chức, cán bộ có tăng, tuy gần đây đời sống có bị ảnh hưởng, vì việc cung cấp thực phẩm có khó khăn.

Về mặt văn hóa, từ năm 1958, chúng ta đã căn bản xóa nạn mù chữ ở đồng bằng và trung du; tiếp đó, phong trào bổ túc văn hóa phát triển mạnh, thu hút hàng năm khoảng một triệu rưỡi người học ngoài giờ làm việc, nội dung học tập gắn chặt hơn với thực tế sản xuất và công tác. Hiện nay nói chung công nhân đã có trình độ lớp 4-5, nông dân xã viên nói chung ở lớp 1-2, riêng thanh niên nông thôn phần lớn học lớp 3, lớp 4.

Giáo dục phổ thông mấy năm gần đây phát triển khá nhanh: việc phổ cập giáo dục cấp I đang hoàn thành ở đồng bằng và thực hiện dần ở miền núi. Năm học 1962-1963, miền Bắc có khoảng 2,6 triệu học sinh phổ thông, trong đó có 46 vạn học sinh cấp II và 52 ngàn học sinh cấp III. Việc dạy và học bằng chữ dân tộc thiểu số đang được mở rộng.

Các công tác văn hóa được tiếp tục củng cố và phát triển, nhằm phục vụ sản xuất và xây dựng con người mới: sổ sách, báo tăng nhanh; công tác văn nghệ, điện ảnh phát triển lành mạnh. Ở các xí nghiệp, hợp tác xã, phong trào văn nghệ quần chúng đang mở rộng.

Về mặt bảo vệ sức khỏe, chúng ta đã có những tiến bộ rõ rệt. Trong 5 năm qua, số giường bệnh tăng 43%, số bác sĩ và y sĩ tăng gấp 3,6 lần, số bệnh viện, bệnh xá tăng gấp 2,6 lần. Ở nông thôn, khoảng 4.800 xã đã có trạm y tế với 31.000 giường bệnh cấp cứu và đỡ đẻ, cùng với 130 đội y tế lưu động chuyên chữa mắt hột, chống sốt rét, phòng bệnh và chống dịch. Phong trào vệ sinh phòng bệnh ngày càng mở rộng. Công tác bảo vệ các bà mẹ và trẻ em được chú ý hơn trước.

Thưa các đồng chí đại biểu,

Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc mới được tiến hành trong 5 năm. Nhìn chung, sự nghiệp cách mạng của ta đang tiến những bước vững chắc.

Từ một nền kinh tế phụ thuộc, lạc hậu, chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế tự chủ, đang từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Cùng với sự phát triển của thành phần kinh tế quốc doanh, cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã xóa bỏ chế độ người bóc lột người, thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, xây dựng quan hệ xã hội mới, quan hệ hợp tác giữa người lao động. Nhất là cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, đã tổ chức đông đảo quần chúng nông dân thành một lực lượng lao động tập thể; các hợp tác xã nông nghiệp là những cơ sở sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong quá trình phát triển và củng cố, đang làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi rất nhiều.

Dựa vào nguồn sức mạnh của quan hệ sản xuất mới, nhân dân ta đã phát huy không ngừng truyền thống phấn đấu anh dũng và lao động cần cù, ra sức xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, giải quyết phần lớn những nhu cầu thiết yếu về đời sống, tăng cường khả năng trong nước về trang bị kỹ thuật và cung cấp vật tư cho các ngành kinh tế quốc dân.

Nhân dân ta, Đảng và Chính phủ ta đã có những cố gắng rất lớn, vừa tập trung sức cải tạo và xây dựng kinh tế, vừa cải thiện từng bước đời sống của nhân dân. Trong xã hội ta, hầu hết những người có sức lao động đều có việc làm; mọi người ăn mặc khá hơn trước và có những tiến bộ rõ rệt về mặt văn hóa.

Trên cơ sở những tiến bộ mới về cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân ta ngày thêm củng cố, khối liên minh công nông và khối đoàn kết dân tộc ngày càng tăng cường.

Rõ ràng là đất nước ta, nhân dân ta, xã hội ta ở miền Bắc đang trải qua những chuyển biến cách mạng vĩ đại. Chủ nghĩa xã hội không còn là lý tưởng và mơ ước nữa, mà đang trở thành hiện thực. Những thắng lợi đã giành được là thắng lợi chung của sức phấn đấu anh dũng và lao động sáng tạo của nhân dân ta, của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, với sự giúp đỡ quý báu của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Miền Bắc đã lớn mạnh thêm về mọi mặt, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tích cực bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Để nhận rõ hơn nữa ý nghĩa của thắng lợi, phải đánh giá đúng mức những khó khăn lớn chúng ta đã và đang vượt qua, những khó khăn trong trưởng thành của một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.

Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được xây dựng, còn phải được củng cố và hoàn thiện. Vấn đề lớn nhất hiện nay trong nền kinh tế của ta là cơ sở vật chất và kỹ thuật còn yếu, lao động thủ công vẫn chiếm phần rất lớn trong các ngành sản xuất vật chất, trình độ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và năng suất lao động xã hội còn thấp.

Trong nông nghiệp, các ngành trồng trọt và chăn nuôi phát triển không cân đối, tổ chức sản xuất còn phân tán; kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu, mùa màng còn phụ thuộc khá nhiều vào các điều kiện tự nhiên; những khả năng của nền nông nghiệp nhiệt đới mới bắt đầu được phát huy. Ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ bản lại có ít, bình quân đầu người chỉ được khoảng ba sào Bắc bộ, mà lại sử dụng chưa thật hợp lý. Vì thế, sản xuất nông nghiệp chưa làm cơ sở thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp.

Công nghiệp hiện đại chiếm một tỷ lệ còn nhỏ trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp và nông nghiệp; phần lớn các cơ sở quan trọng còn đang xây dựng. Nhiều xí nghiệp đang sản xuất phát huy công suất thiết bị còn thấp; việc cung cấp nguyên liệu chưa được bảo đảm; trình độ kỹ thuật của cán bộ, công nhân và trình độ quản lý xí nghiệp còn yếu. Trước mắt, công nghiệp chưa phục vụ tốt yêu cầu phát triển của nông nghiệp và của các ngành kinh tế khác.

Nhìn chung, giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân, trước hết là giữa nông nghiệp và công nghiệp, còn nhiều chỗ không cân đối. Đó là hậu quả của chế độ cũ mà chúng ta còn phải phấn đấu để thanh toán từng bước.

Trong những điều kiện nói trên, mức tăng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân còn bị hạn chế nhiều. Trong việc phân phối, chúng ta phải giải quyết mâu thuẫn lớn giữa một bên là nhu cầu các mặt phát triển nhanh, và một bên là khả năng sản xuất tăng lên chưa kịp.

Các tầng lớp nhân dân ở miền Bắc nước ta, sau khi được giải phóng khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, đều có những yêu cầu chính đáng về cải thiện đời sống. Đồng thời dân số phát triển nhanh. Cho nên nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội tăng lên nhiều.

Chúng ta phải dành một phần tích lũy và dần dần tăng tích lũy cho sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cơ bản để nâng cao sản xuất, tăng thêm của cải, bảo đảm cải thiện không ngừng đời sống của nhân dân. Ngoài phần giúp đỡ của các nước anh em, chủ yếu là về thiết bị toàn bộ, ta phải tự giải quyết vốn trong nước, phải tăng nguồn hàng xuất khẩu để đổi lấy những thiết bị và nguyên liệu cần thiết mà trong nước chưa sản xuất được. Quy mô xây dựng và sản xuất mở rộng thì nhu cầu về vốn và vật tư ngày càng lớn.

Chúng ta lại phải tăng cường củng cố quốc phòng, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân ta.

Trước mắt, sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng chưa đáp ứng kịp nhu cầu ngày càng tăng của toàn xã hội, nhân dân ta còn phải chịu một phần thiếu thốn. Tiền vốn và vật tư chưa thỏa mãn được nhu cầu to lớn về xây dựng kinh tế; việc mở rộng xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất phải dựa vào mức tích lũy vốn có thể thực hiện được, thì mới bảo đảm phát triển các mặt hoạt động kinh tế và văn hóa một cách cân đối và với nhịp độ nhanh.

Đó là những khó khăn tất yếu mà nhân dân ta, Nhà nước ta cần phải nhận rõ và kiên trì phấn đấu giải quyết dần từng bước.

Trong 5 năm qua, chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, giành được những thắng lợi bước đầu rất quan trọng trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Như bản báo cáo của đồng chí Thủ tướng đã nói rõ, chính nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn về đường lối của Đảng, nhân dân ta đã phát huy rõ rệt vai trò làm chủ của mình, tự tay xây dựng đất nước, xây dựng đời sống, phát triển không ngừng những thành quả của cách mạng; tuy nhiên, chúng ta có một số khuyết điểm, nhất là trong việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Từ Chính phủ cho đến các Bộ và Uỷ ban hành chính các địa phương, các cơ sở sản xuất, cần phải nâng hơn nữa trình độ quản lý kinh tế, bảo đảm chấp hành tốt hơn nữa đường lối, phương hướng của Đảng và chính sách của Đảng và của Nhà nước.

PHẦN THỨ HAI

KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT PHÁT TRIỂN
KINH TẾ QUỐC DÂN, XÂY DỰNG BƯỚC ĐẦU CƠ SỞ
VẬT CHẤT VÀ KỸ THUẬT CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

I. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CHUNG
CỦA KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT

Thưa các đồng chí đại biểu,

Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phải nhằm "phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội" (Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III).

Thực hiện nhiệm vụ đó chính là phát huy các thắng lợi đã giành được, khắc phục các khó khăn, tập trung sức giải quyết yêu cầu cơ bản nhất là xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Thực hiện nhiệm vụ đó chính là đẩy lực lượng sản xuất phát triển thêm một bước, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó ra sức phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội để tăng tích lũy vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, cải thiện từng bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, củng cố miền Bắc về mọi mặt, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.

Để thực hiện nhiệm vụ nói trên, phải hết sức phát huy năng lực sản xuất sẵn có, sử dụng tốt sự giúp đỡ của các nước anh em, từng bước thực hiện nửa cơ giới hóa và cơ giới hóa các ngành sản xuất chủ yếu, bảo đảm vững chắc hơn nữa nhu cầu về vật tư cho sản xuất và xây dựng, nhu cầu về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho đời sống của nhân dân.

Phải ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, chú trọng hướng công nghiệp phục vụ nông nghiệp đắc lực hơn.

Phải ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, làm cơ sở thuận lợi hơn cho việc phát triển công nghiệp.

Phải đặc biệt chú trọng tăng thêm nhiều hàng nông sản và hàng công nghiệp có giá trị cho xuất khẩu để đổi lấy thiết bị, nguyên liệu và một phần hàng tiêu dùng cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước anh em.

Phải điều chỉnh từng bước cơ cấu của các ngành sản xuất và xúc tiến việc sơ bộ phân vùng kinh tế, phân bố lực lượng sản xuất hợp lý hơn, cân đối hơn.

Phải làm tốt cuộc vận động "cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc" và cuộc vận động "nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế - tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu", gắn chặt việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất với việc củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Phải tăng cường đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế và công nhân lành nghề, đặc biệt chú ý sử dụng hợp lý và bồi dưỡng về kỹ thuật và nghiệp vụ cho số cán bộ, công nhân hiện có.

Phải ra sức phát triển kinh tế và văn hóa ở miền núi, tiến dần lên xây dựng những vùng kinh tế mới ở miền núi có nông nghiệp và công nghiệp phát triển.

Phải không ngừng tăng tích lũy vốn cho việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện bảo đảm một đời sống ấm no, hạnh phúc lâu dài cho toàn dân. Đồng thời, trước mắt phải chăm lo cải thiện từng bước và có trọng điểm đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.

Phải kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa và củng cố quốc phòng, bảo đảm yêu cầu xây dựng các lực lượng vũ trang, củng cố hậu phương, tích cực bảo vệ sự nghiệp lao động hòa bình ở miền Bắc.

Về mặt lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện, phải làm cho đường lối của Đảng, chính sách của Đảng và Nhà nước thấu suốt đến tận đảng viên và quần chúng nhân dân, tăng cường sự nhất trí về tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn dân. Phải đi sâu hơn nữa vào thực tế, quán triệt tinh thần mạnh bạo và thận trọng trong việc định ra các chủ trương, chính sách, tăng cường chỉ đạo về các biện pháp cụ thể, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện kế hoạch, bảo đảm giữ vững quan hệ cân đối giữa các mặt hoạt động chủ yếu, phát triển kinh tế và văn hóa với nhịp độ nhanh. Phải đáp ứng yêu cầu chung của cả nước, đồng thời phải tập trung sức, tranh thủ những tiến bộ rõ rệt ở các trọng điểm để thúc đẩy toàn diện. Phải sử dụng sức lao động, vật tư và tiền vốn một cách hợp lý nhất, triệt để chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Trong khi phấn đấu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, phải thiết thực chuẩn bị mọi mặt cho kế hoạch dài hạn sau.

Căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ trên đây, chúng tôi trình Quốc hội những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) như sau:

Công nghiệp

Giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp năm 1965 sẽ tăng khoảng trên 119% so với năm 1960, bình quân hàng năm tăng khoảng trên 17%.

Những sản phẩm chủ yếu năm 1965 phải đạt tới:

- Điện phát ra

660.000.000 kw/giờ

- Than sạch

5.000.000 tấn

- Gang

85.000 tấn

- Quặng cơrôm

32.000 tấn

- Apatít

1.400.000 tấn

- Máy cắt gọt kim loại

730 cái

- Máy bơm nước

1.200 cái

Giá trị sản lượng ngành công nghiệp cơ khí quốc doanh và công tư hợp doanh so với năm 1960 tăng khoảng 270%.

- Phân lân

224.000 tấn

- Xi măng

710.000 tấn

- Gỗ tròn (vận chuyển đến chỗ phân phối)

1.215.000 m 3

- Thủy tinh

15.000 tấn

- Cá (đánh ở biển và sông)

200.000 tấn

- Nước mắm

60.000.000 lít

- Muối

250.000 tấn

- Đường và mật

50.000 tấn

- Đồ hộp

7.600 tấn

- Chè

3.600 tấn

- Thuốc lá

160.000.000 bao

- Vải và lụa

134.000.000 mét

- Giấy

35.500 tấn

- Thuốc chữa bệnh

60.000.000 đồng

- Xe đạp

100.000 chiếc

Nông nghiệp

Giá trị sản lượng nông nghiệp năm 1965 sẽ tăng khoảng 37% so với năm 1960, bình quân hàng năm tăng khoảng 6,5%

Những sản phẩm chủ yếu năm 1965 phải đạt tới:

- Lương thực (quy ra thóc)

7.100.000 tấn

- Bông hạt

9.000 tấn

- Đay bẹ

31.000 tấn

- Gai bẹ (khô)

3.000 tấn

- Cói khô

40.000 tấn

- Lạc vỏ

50.000 tấn

- Diện tích trồng trẩu

10.000 hécta

- Mía cây

870.000 tấn

- Thuốc lá khô

6.000 tấn

- Chè khô

3.600 tấn

- Cà phê

3.000 tấn

- Diện tích trồng dâu tằm

6.000 hécta

Diện tích trồng các loại cây công nghiệp và cây ăn quả so với tổng số diện tích gieo trồng sẽ chiếm khoảng 9%.

- Diện tích trồng cây gây rừng 108.000 hécta

- Diện tích canh tác được bảo đảm chủ động tưới nước khoảng 50%. Riêng diện tích lúa được bảo đảm có đủ nước tưới là 80%.

- Diện tích khai hoang (kể cả của nhân dân và của nông trường quốc doanh trong 5 năm) 450.000 hécta

- Trâu bò

2.550.000 con

- Ngựa

54.000 con

- Lợn

5.800.000 con

- Dê

182.000 con

- Thịt hơi (trâu, bò, lợn)

282.000 tấn

- Sản lượng cá nuôi

110.000 tấn

Vận tải

- Khối lượng hàng hóa vận tải (tính theo tấn/cây số) năm 1965 so với năm 1960 tăng khoảng 90%.

Xây dựng cơ bản

- Vốn đầu tư vào các ngành kinh tế và văn hóa trong 5 năm là 3.883 triệu đồng.

Tỷ trọng đầu tư vào các ngành %

- Khu vực sản xuất khoảng 86%

Công nghiệp trên 48%

Nông nghiệp 21%

Vận tải và bưu điện trên 12%

- Khu vực không sản xuất 14%

Nhà ở 4,8%

Văn hóa, giáo dục, bảo vệ sức khỏe 4,5%

Nội thương

- Mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ trong thương nghiệp xã hội tăng bình quân trong 5 năm khoảng 6%.

- Riêng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa tăng khoảng 8%.

Ngoại thương

Năm 1965 so với năm 1960

- Xuất khẩu tăng khoảng 74%

- Nhập khẩu tăng khoảng 30%

Lao động

- Số nhân viên công tác trung bình năm 1965 thuộc khu vực Nhà nước là 750.000 người.

Trong đó khu vực sản xuất 578.000 người.

Năng suất lao động và giá thành

- Năng suất lao động của một công nhân viên sản xuất công nghiệp quốc doanh Trung ương tăng bình quân trong 5 năm khoảng 8%.

- Năng suất lao động của một công nhân xây lắp do trung ương quản lý tăng bình quân khoảng 5,5%.

- Năng suất lao động của một nhân viên vận tải tăng bình quân hàng năm khoảng 7,5%.

- Giá thành sản phẩm hàng hóa có thể so sánh được của công nghiệp quốc doanh trung ương bình quân hàng năm giảm khoảng 3,9%.

- Giá thành vận tải của Bộ Giao thông vận tải bình quân hàng năm giảm khoảng 6,9%.

- Phí lưu thông của ngành nội thương bình quân hàng năm giảm khoảng 4,3%.

Đào tạo công nhân và cán bộ

- Số công nhân kỹ thuật ra trường trong 5 năm 194.000 người.

- Số sinh viên đại học tốt nghiệp trong 5 năm 26.270 người.

- Số học sinh trung cấp tốt nghiệp trong 5 năm 107.100 người.

Văn hóa, giáo dục, y tế

- Số sách xuất bản năm 1965 34.000.000 bản

- Số báo xuất bản 78.000.000 tờ

- Số học sinh phổ thông đầu năm học 3.550.000 người

- Số giường bệnh 29.500 giường.

 

II. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
CỦA CÁC NGÀNH KINH TẾ VÀ VĂN HÓA

1. Công nghiệp

Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta là tiến lên xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ xây dựng và phát triển công nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất nhằm bước đầu trang bị kỹ thuật và cung cấp vật tư cho nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải và các ngành kinh tế khác; cung cấp các loại vật phẩm tiêu dùng thông thường cho nhu cầu của xã hội, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân; phát triển những ngành có khả năng xuất khẩu; đồng thời tạo cơ sở để tiến lên mạnh hơn, vững chắc hơn trong việc thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm tới, phải ra sức đưa công nghiệp tiến lên một bước mới, thúc đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng.

Phải giải quyết tốt hơn vấn đề cung cấp nguyên liệu cho các xí nghiệp của trung ương, nâng cao hơn nữa mức sử dụng công suất thiết bị. Đồng thời phải chú trọng phát huy hơn nữa năng lực sản xuất của công nghiệp địa phương và của thủ công nghiệp.

Phải tập trung sức xây dựng các ngành chủ yếu của công nghiệp nặng, phát triển ngành cơ khí theo một quy hoạch chung hợp lý, nâng cao năng lực chế tạo và sửa chữa cơ khí, bảo đảm đưa điện lực đi trước một bước, ra sức xây dựng các cơ sở nguyên liệu chính (gang, thép, nhiên liệu, hóa chất…), đặc biệt chú ý đẩy mạnh ngành than gỗ. Phải hướng công nghiệp phục vụ nông nghiệp đắc lực hơn, tăng thêm cơ sở vật chất và kỹ thuật và cung cấp thêm nhiều vật tư cho nông nghiệp.

Đồng thời với việc phát triển công nghiệp nặng, phải ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Chú trọng các ngành chế biến hoa màu, đánh cá, làm muối, hết sức cố gắng giải quyết tốt hơn các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của nhân dân, nhất là về ăn và mặc, và nhu cầu khác về học tập, bảo vệ sức khỏe, đồ dùng trong nhà.

Đi đôi với việc trực tiếp giải quyết nhu cầu trong nước, phải đẩy mạnh sản xuất công nghiệp phục vụ xuất khẩu. Ngoài việc chú trọng các ngành công nghiệp khai thác, phải phát triển các ngành chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản phát triển sản xuất một số hàng gia công với nguyên liệu bên ngoài để tăng nguồn hàng công nghiệp xuất khẩu.

Theo phương hướng ấy, đến năm 1965, giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp tăng trên 119% so với năm 1960, bình quân hàng năm tăng trên 17%.

Để thực hiện nhiệm vụ đó, chúng ta tập trung hơn nữa vốn đầu tư cho công nghiệp, đẩy mạnh xây dựng các công trình trọng điểm, mở rộng và cải tiến thiết bị các xí nghiệp hiện có, xây dựng một số công trình gối đầu sang kế hoạch sau. Vốn đầu tư vào công nghiệp trong 5 năm chiếm khoảng trên 48% tổng mức đầu tư vào kinh tế và văn hóa, trong đó nhóm A chiếm khoảng dưới 80% và nhóm B chiếm khoảng trên 20%.

Phải xúc tiến việc bước đầu phân vùng công nghiệp; quy hoạch một số ngành công nghiệp chủ yếu, xác định quy mô của các xí nghiệp, quy hoạch công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp, tạo điều kiện tận dụng mọi khả năng sản xuất, phát triển thêm nhiều mặt hàng.

Phải đẩy mạnh phong trào thi đua hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, bảo đảm phát triển sản xuất công nghiệp với nhịp độ nhanh và cân đối hơn, đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.

Đồng thời phải tích cực chuẩn bị cho kế hoạch dài hạn sau: đẩy mạnh thăm dò địa chất, điều tra cơ bản, chuẩn bị thiết kế, xây dựng các công trình gối đầu, ra sức đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật...

1. Nhiệm vụ của các ngành công nghiệp nặng

- Cơ khí: nhiệm vụ của ngành cơ khí là phải phục vụ đắc lực hơn, việc trang bị kỹ thuật cho các ngành hiện đang dùng nhiều lao động, năng suất thấp, chú trọng nông nghiệp, nghề cá, nghề gỗ, vận tải, xây dựng cơ bản, nhất là xây dựng thủy lợi và đường sá; mở rộng sản xuất các mặt hàng cơ khí trang bị cho công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp, sản xuất một số thiết bị cho công nghiệp nặng; đẩy mạnh sản xuất phụ tùng, giải quyết tốt hơn nhu cầu sửa chữa.

Riêng đối với nông nghiệp, ngành cơ khí phải cung cấp thêm nhiều các loại máy bơm nước, nông cụ cải tiến và nửa cơ khí, phương tiện vận tải cải tiến, máy chế biến nông sản và một phần các loại máy móc nông nghiệp.

Sản lượng cơ khí năm 1965 sẽ tăng 169% so với năm 1960, bình quân hàng năm tăng 21%. Riêng cơ khí quốc doanh tăng 270%, bình quân hàng năm tăng 30%. Phấn đấu đến năm 1965, chúng ta có thể tự cung cấp 13% nhu cầu về thiết bị toàn bộ và 66% nhu cầu về thiết bị lẻ.

Để thực hiện nhiệm vụ đó, phải xác định sớm phương hướng trang bị kỹ thuật cho các ngành, dựa vào đó xúc tiến quy hoạch, sắp xếp lại các cơ sở chế tạo và sửa chữa, xây dựng một số cơ sở mới, cải tạo và bổ sung thiết bị cho cơ sở cũ để cân đối dây chuyền sản xuất, tạo điều kiện thực hiện mạnh hơn việc chuyên môn hóa và hiệp tác hóa sản xuất, và tiêu chuẩn hóa từng bước kỹ thuật sản xuất. Phải xây dựng nhà máy đóng tầu, nhà máy động cơ điêden, nhà máy sản xuất phụ tùng ôtô, xưởng dụng cụ gắt gọt, xưởng kéo dây điện, nhà máy cơ khí Cẩm Phả, nhà máy cơ khí Uông Bí, xưởng sửa chữa kỹ thuật điện, nhà máy xe đạp, mở rộng nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo và xưởng dụng cụ điện. Phải tăng cường lực lượng thiết kế ở cơ sở và lực lượng thiết kế tập trung; nâng cao trình độ kỹ thuật và tích cực đào tạo công nhân chế tạo cơ khí.

Ngoài cơ khí chế tạo, cơ khí sửa chữa cũng rất quan trọng và có tác dụng lớn trong việc nâng cao mức sử dụng các máy móc hiện có. Phải đẩy mạnh sản xuất phụ tùng; quy hoạch tốt mạng lưới sửa chữa ôtô, máy kéo, phương tiện vận tải đường thủy, thiết bị các nhà máy…

- Điện lực: Phải đẩy mạnh việc xây dựng nhà máy nhiệt điện Uông Bí, tiếp tục mở rộng lên 10 vạn kilôoát, hoàn thành nhà máy điện Bắc Giang, mở rộng nhà máy điện Vinh, xúc tiến xây dựng nhà máy thủy điện Thác Bà; kịp thời xây dựng các đường dây tải điện, chú trọng các đường dây 6 kilôvôn và 35 kilôvôn đi sâu vào đồng bằng, phục vụ việc tưới và tiêu nước, phục vụ công nghiệp địa phương. Chú trọng phát triển các trạm phát điện nhỏ ở nông thôn và miền núi.

Đến năm 1965, sản lượng điện phát ra phải đạt 660 triệu kilôoát/giờ, so với năm 1960 tăng 158%. Phải sớm có quy hoạch về sử dụng bơm điện để tăng sức điện phục vụ nông nghiệp năm 1965 lên khoảng gấp 4 lần so với năm 1962.

- Luyện kim: Trước mắt, chúng ta phấn đấu trong năm 1966, căn bản xây dựng xong khu gang thép Thái Nguyên với công suất thiết kế 20 vạn tấn thép/năm. Đồng thời, phải xúc tiến công tác chuẩn bị sản xuất: xác định rõ trữ lượng các loại quặng sắt, phương pháp xử lý các loại quặng, phương án sản phẩm gang và thép, giải quyết nhu cầu về nhiên liệu, gạch chịu lửa, v.v.. Trong những năm tới, cần tận dụng các lò điện hiện có, trang bị thêm máy cán thép để sản xuất một số thép hợp kim cần thiết. Khởi công xây dựng xưởng pherô xilixiom. Nghiên cứu mở rộng khu gang thép Thái Nguyên lên một quy mô lớn hơn.

Sản xuất gang thép là một việc mới, có nhiều vấn đề phức tạp về kỹ thuật và tổ chức sản xuất, phải khẩn trương chuẩn bị cán bộ và công nhân, học tập nắm vững kỹ thuật, để bảo đảm đưa xí nghiệp gang thép đi vào sản xuất đúng thời hạn.

- Than: Nhu cầu về than trong các năm tới tăng lên rất nhiều, cho nên phải chuyển hướng mạnh, tăng thêm vốn đầu tư vào ngành than, nhằm tăng thêm thiết bị, mở rộng và cải tạo các mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả, khôi phục mỏ Mông Dương, đẩy mạnh xây dựng mỏ Vàng Danh. Tích cực khai thác các mỏ than khác và các mỏ địa phương; đẩy mạnh khai thác than nhiệt lượng thấp. Phấn đấu đến năm 1965 sản lượng than đạt khoảng 5 triệu tấn.

Khôi phục và xây dựng lò cốc ở Hòn Gai, xúc tiến sản xuất thử và xác định các tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật để tiến lên mở rộng sản xuất than cốc. Tích cực thăm dò thêm than mỡ.

Ngoài ra, phải sớm ban hành chính sách tiêu dùng nhiên liệu, nhằm sử dụng hợp lý các loại than, khuyến khích dùng than nhiệt lượng thấp, tiết kiệm triệt để nhiên liệu.

- Hóa chất, phân bón: Phải bảo đảm nhu cầu về phân lân và giải quyết một phần thuốc trừ sâu cho nông nghiệp. Đẩy mạnh xây dựng nhà máy phân đạm để cuối năm 1965 hoặc đầu năm 1966 bắt đầu sản xuất. Xây dựng một số xưởng nhỏ sản xuất một số loại hóa chất. Tích cực chuẩn bị phát triển các hóa chất cơ bản cho kế hoạch sau: mở rộng xưởng axít xuynphuarich, xây dựng nhà máy xút và xưởng thuốc trừ sâu. Xúc tiến công tác nghiên cứu và chuẩn bị xây dựng nhà máy bông sợi nhân tạo.

Về apatít, phải mở rộng khai thác, tăng sản lượng năm 1965 lên 1,4 triệu tấn. Chuẩn bị xây dựng nhà máy làm giầu quặng trong kế hoạch sau.

- Khai thác và chế biến gỗ: Phải nhanh chóng khắc phục tình trạng lạc hậu hiện nay, đưa công nghiệp gỗ lên hàng những ngành quan trọng nhất. Muốn vậy, phải tăng thêm máy móc và các loại công cụ nửa cơ giới, công cụ cải tiến cho ngành lâm nghiệp, chú trọng cơ giới hóa việc kéo gỗ và việc vận chuyển gỗ. Tổ chức hợp lý lực lượng sơn tràng, khuyến khích và hướng dẫn sơn tràng mở rộng khai thác gỗ, nứa. Trong việc khai thác gỗ, phải tận dụng cành ngọn; đồng thời, phải phát triển cơ sở tẩm gỗ, nâng cao chất lượng các loại gỗ tạp. Phấn đấu đưa mức khai thác gỗ năm 1965 lên 1,31 triệu mét khối, trong đó bảo đảm đưa đến địa điểm phân phối 1,21 triệu mét khối, mức tẩm gỗ lên khoảng 20 vạn mét khối. Phải rất coi trọng khai thác nứa, luồng, mây, song và các lâm sản phụ khác.

Phải điều chỉnh lực lượng xẻ gỗ hiện nay đang tập trung quá mức cần thiết ở Hà Nội, Hải Phòng về những nơi gần nguyên liệu và thuận lợi về giao thông đường thủy, kết hợp với các cơ sở tẩm gỗ. Sắp xếp lại các cơ sở đóng đồ gỗ, các xí nghiệp đóng thuyền đánh cá, thuyền vận tải. Phát triển hơn nữa gỗ dán, gỗ lạng, gỗ ván sàn, bảo đảm quy cách và phẩm chất tốt để tăng xuất khẩu. Xúc tiến nghiên cứu sấy gỗ, ép gỗ, chưng gỗ để tổng hợp lợi dụng gỗ hơn nữa.

- Vật liệu xây dựng: Phải bảo đảm nhu cầu về vật liệu xây dựng của Nhà nước, đồng thời mở rộng hơn việc cung cấp vật liệu xây dựng cho nhân dân; đẩy mạnh hơn nữa sản xuất ximăng, gạch, ngói, vôi, đặc biệt chú ý tăng nhanh vôi, bảo đảm nhu cầu về vôi cho việc cải tạo đất. Năm 1965, sản lượng ximăng phải đạt 71 vạn tấn, sản lượng vôi ít nhất phải đạt 80 vạn tấn. Chú trọng giúp đỡ, khuyến khích các cơ sở thủ công sản xuất gạch, ngói, vôi, trang bị một số máy móc, cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật để đẩy mạnh sản xuất; tiết kiệm mức sử dụng than, chú trọng dùng than nhiệt lượng thấp trong việc sản xuất gạch, ngói, vôi. Phát triển các loại vật liệu xây dựng khác như thủy tinh; thiết bị vệ sinh, sứ cách điện, bêtông nhẹ, sỏi, đá…

2. Nhiệm vụ của các ngành công nghiệp nhẹ

Chúng ta tập trung vốn cho công nghiệp nặng là cần thiết, nhưng vẫn phải chú trọng đúng mức xây dựng và phát triển công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng. Phải tích cực khai thác và mở rộng các cơ sở sẵn có, phát triển thêm một số cơ sở mới; tận dụng tài nguyên, nhân lực, kỹ thuật ở địa phương, mở rộng sản xuất thêm nhiều mặt hàng, nhằm giải quyết nhu cầu trong nước là chính, đồng thời phải rất quan tâm tăng thêm các loại hàng tốt để xuất khẩu.

Phải có kế hoạch tiến lên bảo đảm vững chắc nhu cầu về nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ, nhất là các loại nguyên liệu nông sản; chú trọng lợi dụng tổng hợp nguyên liệu, phát triển thêm nhiều mặt hàng với giá thành hạ.

- Công nghiệp thực phẩm: Phải chuyển biến mạnh các ngành chế biến hoa mầu, đánh cá, làm muối.

Phải làm cho công nghiệp chế biến hoa mầu phục vụ kịp thời việc thay đổi cơ cấu lương thực. Lợi dụng tổng hợp hoa mầu làm bột, miến, bánh, kẹo, nước chấm, rượu, kết hợp chế biến thức ăn để chăn nuôi. Khuyến khích và giúp đỡ hợp tác xã nông nghiệp phát triển chế biến hoa mầu; ở các vùng trung du, miền núi, có thể xây dựng một số xưởng cơ giới và nửa cơ giới, quy mô phù hợp với sản lượng mầu trong địa phương.

Đánh cá, chế biến thủy sản: Trong khi chú trọng cải tiến nghề lộng, phải phát triển nghề khơi, tăng thêm thuyền lớn thuyền máy đi khơi. Các cơ sở quốc doanh đánh cá phải là những trung tâm áp dụng kỹ thuật mới và hướng dẫn kỹ thuật cho các hợp tác xã đánh cá. Cần phát triển thêm một số cơ sở quốc doanh đánh cá, trang bị thêm thuyền máy, tàu đánh cá, xây dựng bến và cầu tàu… Đối với các hợp tác xã, Nhà nước phải tích cực giúp đỡ phát triển thêm cơ sở đóng thuyền, đan lưới và sắm thêm thuyền, lưới. Phát triển nghề chế biến thủy sản, làm nước mắm. Phấn đấu đến năm 1965 đạt 20 vạn tấn cá, 60 triệu lít nước mắm.

Muối: Nhu cầu về muối tăng lên nhiều; ngoài phần bảo đảm cho người ăn, còn phải cung cấp muối cho công nghiệp, cho chăn nuôi. Phải đẩy mạnh phát triển các đồng muối, tăng diện tích sản xuất muối lên 4.000 hécta. Chú trọng dùng thi công cơ giới trong việc xây dựng các đồng muối lớn; cố gắng sớm đưa các cơ sở quốc doanh ở Đồ Sơn, Nghệ An vào sản xuất. Phát triển các hệ thống dẫn nước vào các ruộng muối, cải tiến phương pháp phơi cát, và chuyển sang phơi nước ở những nơi có điều kiện. Tăng cường chỉ đạo cải tiến kỹ thuật, cải tiến công cụ lao động làm muối; tích cực vận động làm thêm muối vụ thu - đông, tăng năng suất đồng muối. Năm 1965, sản lượng muối phải đạt 25 vạn tấn.

Đường và mật: Phải tích cực phát triển sản xuất đường của công nghiệp quốc doanh và đường của hợp tác xã thủ công, đưa sản lượng đường và mật năm 1965 lên 5 vạn tấn, trong đó của quốc doanh khoảng 3 vạn tấn. Các xí nghiệp quốc doanh địa phương cần cải tiến thiết bị, cải tiến kỹ thuật, tăng tỷ lệ lấy đường từ mía. Phải quy hoạch các vùng trồng mía, tăng thêm cung cấp mía cho các nhà máy. Xây dựng thêm một nhà máy đường 350 tấn mía/ngày; mở rộng các nhà máy đường Việt Trì và Nghệ An lên 500 tấn mía/ngày.

Chè, thuốc lá, hoa quả: Tích cực khai thác nguồn chè sẵn có của nhân dân miền núi, xây dựng thêm một số xưởng chế biển nhỏ. Khuyến khích cải tạo các nương chè ở Phú Thọ, tăng thêm nguyên liệu cho nhà máy. Đẩy mạnh chế biến thuốc lá, hoa quả hộp, tăng nguồn hàng xuất khẩu. Phát triển chế biến các loại nước giải khát. Tận dụng các loại hạt có dầu, phát triển nghề ép dầu.

- Dệt, da, may mặc: Phải tích cực giải quyết nguyên liệu cho ngành dệt, chú trọng đẩy mạnh khai thác, chế biến các loại cây có sợi và tơ tằm, tăng cường năng lực sản xuất sợi. Hoàn thành nhà máy dệt 8-3. Sắp xếp lại và cải tiến kỹ thuật ngành vải thủ công. Sản lượng vải và lụa năm 1965 phải đạt 134 triệu mét, trong đó có 125 triệu mét vải, 8 triệu mét lụa hóa học, khoảng 1,5 triệu mét lụa tơ tằm (chưa kể vải màn, hàng dệt kim, chăn sợi).

Phát triển chế biến gai, trang bị máy làm sợi cho các vùng trồng gai tập trung. Đẩy mạnh trồng cói và chế biến cói, trang bị máy chẻ cói, đan chiếu. Tận dụng các loại da thuộc, phát triển da nhân tạo, tăng sản lượng đồ dùng bằng da.

- Đẩy mạnh sản xuất giấy và bột giấy. Xây dựng nhà máy giấy Vạn Điểm sản xuất 9.000 tấn bột và 6.000 tấn giấy/năm. Tăng thiết bị cho các nhà máy giấy quốc doanh trung ương và địa phương.

- Chú trọng đẩy mạnh sản xuất các hàng tiêu dùng khác: Phát triển mạnh đồ gỗ, đồ sành, sứ, thủy tinh, tăng thêm các mặt hàng văn hóa phẩm, nhằm thỏa mãn nhu cầu về học tập cũng như các nhu cầu về giải trí, nghệ thuật, thể dục thể thao, đồ chơi trẻ em; phát triển đồ dùng gia đình, bóng đèn, phích nước, xe đạp… Đẩy mạnh chế biến thuốc tây, thuốc nam, hết sức chú ý dùng dược liệu trong nước và cải tiến việc chế biến cho hợp vệ sinh.

3. Công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp

Đến năm 1965, công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp còn chiếm trên 50% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, cung cấp một phần rất lớn nhu cầu về hàng tiêu dùng cho nhân dân và phần quan trọng về tư liệu sản xuất cho các ngành, nhất là cho nông nghiệp. Phải đi sâu nghiên cứu nhu cầu của địa phương, khả năng nguyên liệu, lao động, tiền vốn để xác định phương hướng sản xuất, bảo đảm đem lại hiệu quả kinh tế tốt. Việc phát triển công nghiệp địa phương ở các tỉnh phải nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống của địa phương là chính, đồng thời chú trọng cung cấp một phần sản phẩm cho các tỉnh lân cận và tăng thêm nguồn hàng xuất khẩu. Riêng ở thành phố Hà Nội và Hải Phòng, năng lực sản xuất của công nghiệp địa phương khá lớn, cho nên phải phát huy những năng lực ấy, nhằm cung cấp một phần cho nhu cầu của địa phương, một phần quan trọng là để phục vụ nhu cầu của các tỉnh, của trung ương và nhu cầu xuất khẩu.

Phải ra sức phát triển hàng tiêu dùng, đồng thời mở rộng sản xuất tư liệu sản xuất, nhằm cung cấp các loại công cụ cải tiến và nửa cơ khí, cung cấp vật tư, trước hết cho nông nghiệp, thủ công nghiệp và các ngành kinh tế khác trong địa phương (nghề cá, nghề rừng, vận tải, xây dựng…). Phải đặc biệt chú ý phát triển các ngành: thực phẩm (chế biến hoa mầu, cá, muối…), khai thác, chế biến gỗ và tre, đóng thuyền, làm nông cụ, sửa chữa cơ khí, vật liệu xây dựng, dệt các loại hàng bằng tơ tằm, đay, gai, cói.

Để tạo điều kiện thuận lợi phát triển mạnh mẽ công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp, phải xúc tiến quy hoạch toàn diện công nghiệp địa phương (kể cả thủ công nghiệp), căn cứ vào nhu cầu sản phẩm, khả năng cung cấp nguyên liệu, kỹ thuật sản xuất, yêu cầu cải tiến kỹ thuật và tiền đồ phát triển của từng ngành mà sắp xếp và phân công hợp lý giữa công nghiệp trung ương và địa phương, giữa công nghiệp quốc doanh và thủ công nghiệp, mở rộng sự phân công và hợp tác giữa các địa phương.

Việc xây dựng công nghiệp quốc doanh địa phương phải nhằm những ngành mà nhu cầu có nhiều, thủ công nghiệp không đủ sức bảo đảm; tổ chức sản xuất có tính chất tương đối tập trung, cần phải trang bị cơ giới hoặc nửa cơ giới; và công nghiệp quốc doanh địa phương cần hướng dẫn kỹ thuật cho thủ công nghiệp. Phải chú trọng đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật, tăng cường trang bị cho những bộ phận dùng nhiều sức lao động.

Phải phát triển và tận dụng lực lượng thủ công nghiệp, giúp đỡ các ngành nghề có tiền đồ, khôi phục và phát triển các ngành nghề có truyền thống, chú ý ngành sản xuất hàng mỹ nghệ; phát triển thủ công nghiệp ở nông thôn, tận dụng lao động nhàn rỗi và nguyên liệu trong nông nghiệp để tăng thêm việc làm và tăng thu nhập cho nông dân.

Tăng cường công tác quản lý công nghiệp địa phương. Hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp, chú trọng cải tiến quản lý và tăng cường trang bị kỹ thuật cho các hợp tác xã. Cải tiến các chế độ gia công, cung cấp, tiêu thụ, giá cả, thuế khóa… để thúc đẩy thủ công nghiệp phát triển. Tăng cường đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật, phân phối hợp lý cán bộ có trình độ đại học và trung cấp cho các địa phương và những cơ sở sản xuất cần thiết.

2. Nông nghiệp

Việc thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong hai năm qua đã đem lại những kết quả rõ rệt về các mặt củng cố hợp tác xã, tăng vụ, khai hoang, làm thủy lợi; sản xuất hoa mầu và chăn nuôi bắt đầu chuyển biến tốt. Thực tiễn chỉ rõ rằng nhiệm vụ, phương hướng phát triển nông nghiệp đã được đề ra trong nghị quyết đó là đúng.

Căn cứ vào tinh thần cơ bản của nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương Đảng, kết hợp với kinh nghiệm thu được trong thời gian vừa qua, các cấp, các ngành phải thấu suốt hơn nữa phương hướng phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, tập trung sức phấn đấu làm cho sản xuất nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực chuyển biến tốt hơn nữa, nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, tăng thêm khối lượng nông sản tiêu dùng trong nông thôn, đồng thời tăng thêm nhiều nông sản hàng hóa phục vụ cho công nghiệp và cho xuất khẩu, tạo cơ sở thuận lợi hơn cho việc thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Phải hết sức chú trọng thực hiện thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất, đồng thời tích cực khai hoang,phát triển các ngành nghề.

Phải chủ động điều chỉnh từng bước quan hệ cân đối giữa các ngành trong nông nghiệp: ra sức phát triển lương thực, tạo cơ sở thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi và trồng cây công nghiệp; tích cực phát triển chăn nuôi, bảo đảm phân bón và sức kéo để tăng năng suất cây trồng.

Trọng tâm là phải đẩy mạnh sản xuất lương thực: tích cực phấn đấu để tiến lên giải quyết vấn đề lương thực một cách vững chắc. Phải ra sức thâm canh để tăng sản lượng lúa, đồng thời hết sức phát triển hoa mầu bằng cách vừa tăng diện tích, vừa chú trọng tăng năng suất.

Giải quyết tốt hơn vấn đề thức ăn cho chăn nuôi, phát triển mạnh lợn, trâu, bò, và các loại gia súc, gia cầm khác; tiếp tục nuôi cá nhiều hơn nữa.

Khuyến khích mở rộng thêm diện tích và tăng năng suất trồng các loại cây công nghiệp, xúc tiến quy vùng trồng tập trung một số loại cây công nghiệp chủ lực nhằm phục vụ tốt cho nhu cầu của công nghiệp và của xuất khẩu.

Để bảo đảm yêu cầu nói trên, giá trị sản lượng nông nghiệp năm 1965 phải tăng khoảng 37% so với năm 1960, bình quân hàng năm tăng khoảng 6,5%.

Chúng ta phải có quyết tâm cao, phấn đấu bền bỉ và tích cực để bảo đảm thực hiện nhịp độ phát triển đó. Đi đôi với việc cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, điều rất quan trọng và cấp bách là Nhà nước phải tăng cường giúp đỡ các hợp tác xã hơn nữa trong việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật. Đồng thời phải xúc tiến việc sơ bộ phân vùng nông nghiệp, dựa vào đó mà xác định đúng đắn phương hướng sản xuất của từng địa phương và thực hiện một cách có hiệu quả các biện pháp kỹ thuật, tiến dần lên một nền sản xuất nông nghiệp được tổ chức hợp lý hơn. Phải tập trung chỉ đạo đối với các tỉnh trọng điểm, các vùng có nhiều khả năng phát triển sản xuất.

Phải thực hiện hệ thống biện pháp kỹ thuật một cách đầy đủ và sát với thực tế từng vùng, đặc biệt phải tập trung giải quyết tốt hơn các khâu thủy lợi, phân bón, giống, phòng và trừ sâu bệnh. Đẩy mạnh hơn nữa việc cải tiến nông cụ và sử dụng thật rộng rãi các loại nông cụ cải tiến và nông cụ nửa cơ giới.

Phải tăng cường kinh tế hợp tác xã bằng cách tích cực mở rộng sản xuất như thâm canh, khai hoang, phát triển chăn nuôi tập thể, phát triển thêm các ngành nghề, làm cho tỷ trọng của kinh tế tập thể ngày càng tăng và vượt hẳn tỷ trọng của kinh tế phụ của gia đình xã viên. Trên cơ sở sản xuất phát triển, cần nâng cao thích đáng v iệc tiêu dùng của nông dân, đồng thời vận động nông dân tiết kiệm tiêu dùng những thứ có thể tiết kiệm được để tăng nguồn hàng nông sản xuất khẩu, đổi lấy máy móc và các loại nguyên liệu cần thiết nhằm phục vụ nông nghiệp. Ở chung quanh các thành phố, khu công nghiệp, phải tổ chức tốt việc sản xuất rau và khuyến khích hơn nữa phát triển chăn nuôi, đồng thời tổ chức một số trại chăn nuôi của Nhà nước, để bảo đảm vững chắc việc cung cấp thực phẩm cho công nhân, viên chức, và nhân dân thành thị.

1. Nhiệm vụ cụ thể về sản xuất

- Lương thực: Năm 1965 phải phấn đấu đạt khoảng trên 7 triệu tấn lương thực (quy ra thóc); diện tích trồng mầu phải chiếm khoảng 24% trong diện tích trồng cây lương thực; sản lượng mầu phải chiếm khoảng 30% trong sản lượng lương thực.

So với năm 1960, sản lượng lương thực năm 1965 tăng khoảng gần 44%, riêng sản lượng mầu gấp gần ba lần.

Phải rất coi trọng sản xuất lúa. Trong điều kiện xét rõ là có lợi, phải tăng vụ lúa để bù cho những diện tích chuyển sang trồng mầu, trồng cây công nghiệp, hoặc dùng vào xây dựng cơ bản; và phải tích cực thực hiện mọi biện pháp để tăng năng suất lúa, nhất là ở các đồng lúa quan trọng, phải tập trung các lực lượng vật chất và kỹ thuật để tăng nhanh sản lượng lúa.

Để tăng thêm nhiều hoa màu, phải ra sức phát triển các loại cây có năng suất cao như khoai riềng, khoai nước, khoai môn… và thâm canh tăng năng suất ngô, khoai, sắn và các loại rau. Các tỉnh đồng bằng phải tích cực mở rộng thêm diện tích trồng mầu. Để góp phần tích cực giải quyết vấn đề lương thực, các nông trường và lâm trường quốc doanh phải đẩy mạnh sản xuất hoa mầu; các đơn vị quân đội, cơ quan, trường học, nhân dân các thành phố, thị trấn, tùy điều kiện và khả năng, phải tham gia sản xuất lương thực và rau, và coi đó là một nhiệm vụ lâu dài.

- Cây công nghiệp và cây ăn quả: Phải tích cực tăng diện tích trồng cây công nghiệp và cây ăn quả, bảo đảm năm 1965 chiếm khoảng 9% tổng diện tích gieo trồng. Giá trị sản lượng cây công nghiệp năm 1965 tăng khoảng gấp hai lần so với năm 1960.

Phải ra sức phát triển mía, chè, thuốc lá, bông, dâu tằm, dừa, v.v., nhằm tăng thêm nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp, bảo đảm sử dụng tốt công suất các nhà máy đã có và chuẩn bị nguyên liệu cho một số nhà máy sẽ xây dựng thêm. Đối với những cây công nghiệp và cây ăn quả có giá trị xuất khẩu như: đay, gai, cói, lạc, trẩu, sở, chuối, dứa, cam, quýt…, cần phải phát triển thật mạnh.

Chú trọng phát triển các loại cây làm thuốc.

Phải xúc tiến quy hoạch bước đầu các vùng chuyên trồng cây công nghiệp. Ở đồng bằng, phải tích cực mở rộng các vùng đã có sẵn tập quán trồng cây công nghiệp và tăng thêm diện tích ở những nơi trồng còn quá ít, vừa mở rộng diện tích, vừa thâm canh tăng năng suất. Ở trung du và miền núi thì nông trường quốc doanh, các cơ sở khai hoang và các hợp tác nông nghiệp phải phát triển mạnh cây công nghiệp và cây ăn quả.

Đối với những vùng trồng tập trung cây công nghiệp, Chính phủ và Uỷ ban hành chính tỉnh phải bảo đảm bán đủ phần lương thực còn thiếu để khuyến khích các hợp tác xã phát triển trồng cây công nghiệp và bán sản phẩm cho Nhà nước. Đồng thời, phải chú trọng cung cấp hàng hóa, cung cấp đủ giống tốt, đủ thuốc trừ sâu, thêm phân bón hóa học, thêm sức kéo, tăng cường cán bộ hướng dẫn kỹ thuật...

- Chăn nuôi: Để đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, đi đôi với việc tăng cường chỉ đạo về tổ chức và kỹ thuật, cần phải giải quyết vững chắc cơ sở thức ăn cho gia súc. Vì thế ngoài 5% ruộng đất để lại cho xã viên, cần tăng thêm 5% nữa, do hợp tác xã sử dụng, để trồng hoa mầu và trồng cỏ, làm thức ăn cho lợn và trâu bò. Năm 1965, số trâu bò cày phải đạt khoảng trên 1,7 triệu con, đàn lợn phải đạt khoảng 5,8 triệu con.

Phải đặc biệt chú ý tăng nhanh số trâu bò đẻ, nhất là ở trung du và miền núi, tăng nhanh số lợn nái, và nâng cao tỷ lệ súc vật con đẻ ra nuôi được.

Đi đôi với việc phát triển trâu bò của hợp tác xã là chủ yếu, Nhà nước tổ chức một số nông trường quốc doanh và trại chăn nuôi để cung cấp sức kéo, cung cấp sữa, v.v..

Ra sức khuyến khích gia đình xã viên nuôi lợn, đồng thời phát triển rộng rãi, vững chắc chăn nuôi lợn tập thể quy mô nhỏ trong các đội sản xuất, trong các hợp tác xã, và đẩy mạnh nuôi lợn ở các nông trường quốc doanh.

Phát triển rộng rãi chăn nuôi gà, vịt, ngan, ngỗng, thỏ, ong; chú ý nuôi thêm nhiều dê ở vùng đảo và vùng núi.

Tiếp tục đẩy mạnh nuôi cá, chú trọng tăng cường hướng dẫn kỹ thuật đi đôi với mở rộng diện tích để tăng sản lượng cá mạnh hơn nữa.

Tích cực phát triển việc nuôi cánh kiến.

- Trồng cây gây rừng: Xúc tiến các công tác điều tra, khảo sát, phân vùng lâm nghiệp, tích cực bảo vệ, tu bổ và cải tạo rừng. Tăng vốn đầu tư trồng thêm nhiều các loại cây làm gỗ trụ mỏ, bồ đề, nứa, luồng… ở trung du, cần vận động hợp tác xã và nông dân trồng nhiều trẩu, sở. Đẩy mạnh trồng rừng phòng hộ. Ở đồng bằng, chú trọng trồng nhiều tre, xoan… để bảo đảm nhu cầu về xây dựng nhà ở của nông thôn.

-Nông trường quốc doanh: Phải ra sức củng cố là chính, đồng thời phát triển tốt nông trường quốc doanh; chú trọng tăng cường quản lý để phát huy hiệu quả tốt hơn nữa.

Trong những năm tới, phải chăm sóc tốt các loại cây đã trồng, mở rộng thêm diện tích trồng cây công nghiệp và cây ăn quả, chú ý các loại cây dài ngày tương đối mau thu hoạch (như chè, cam, quít, dứa, gai…) và các loại cây ngắn ngày (như bông, thuốc lá, lạc…) nhằm tăng thêm nguyên liệu cho công nghiệp và các vật tư có giá trị cao cho xuất khẩu; phát triển chăn nuôi để cung cấp thịt, sữa, len…; đồng thời tích cực giải quyết một phần lương thực. Đối với mỗi nông trường, phải xác định phương hướng cụ thể, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất.

Xúc tiến việc xây dựng cơ bản để đến khoảng những năm 1965-1967 phần lớn các nông trường đi vào sản xuất ổn định.

Các nông trường quốc doanh phải phấn đấu tăng năng suất, hạ giá thành, thực hiện tốt việc nộp sản phẩm cho Nhà nước, phải làm gương mẫu giúp đỡ các hợp tác xã áp dụng kỹ thuật mới.

2. Xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật và áp dụng kỹ thuật tiến bộ trong nông nghiệp

Để phát triển nông nghiệp mạnh mẽ và vững chắc, vấn đề xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho nông nghiệp, cải tiến kỹ thuật và trang bị kỹ thuật cho lao động nông nghiệp trở thành một yêu cầu vô cùng cấp bách. Phải chú trọng hơn nữa việc đầu tư vào nông nghiệp và hướng công nghiệp phục vụ nông nghiệp nhiều hơn nữa.

Phải hướng dẫn các hợp tác xã tăng thêm tích lũy vốn, sử dụng tốt số vốn đó và sức lao động của xã viên nhằm tăng thêm tài sản cố định dùng vào sản xuất. Về phần đầu tư của Nhà nước, trong 5 năm, số vốn dành cho nông nghiệp chiếm 21% tổng mức đầu tư vào kinh tế và văn hóa, trong đó dùng trên 2/3 để xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho khu vực sản xuất tập thể và non 1/3 để xây dựng nông trường quốc doanh. Ngoài ra, phải tăng thêm cung cấp vật tư và vốn cho vay dài hạn đối với các hợp tác xã. Việc chỉ đạo và hướng dẫn kỹ thuật phải gắn sát hơn với quần chúng, với cơ sở sản xuất, đi sâu vào từng vùng, từng loại cây, phục vụ tốt việc thực hiện thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất, khai hoang và phát triển các ngành nghề.

- Vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi. Phải sớm có kế hoạch toàn diện, cụ thể và phải tăng cường chỉ đạo để chuyển đồng bào ở miền xuôi lên miền núi, mở rộng thêm diện tích ruộng đất, xây dựng những vùng kinh tế mới, phát triển cây công nghiệp, lương thực, chăn nuôi, khai thác lâm sản và phát triển công nghiệp địa phương. Hình thức chủ yếu là xen ghép đồng bào miền xuôi lên từng đội, từng tổ vào các hợp tác xã sẵn có, phát huy sự đoàn kết, tương trợ trong hợp tác xã, đẩy mạnh sản xuất để cải thiện đời sống xã viên, đồng thời làm giàu cho hợp tác xã và cho Tổ quốc. Với sự giúp đỡ của Trung ương và sự tham gia tích cực của các tỉnh đồng bằng, các tỉnh ở trung du và miền núi có trách nhiệm chủ yếu trong việc sắp xếp nơi sản xuất, sắp xếp lao động, chỉ đạo sản xuất và chỉ đạo kỹ thuật. Phải đặc biệt coi trọng vấn đề bảo vệ rừng, giữ đất, giữ mầu, làm thủy lợi để bảo đảm phát huy hiệu quả tốt và lâu dài.

Ở đồng bằng và miền biển, những nơi còn đất hoang, phải mở rộng thêm diện tích canh tác.

Đi đôi với việc khai hoang, phải tiếp tục đẩy mạnh tăng vụ; đồng thời trên diện tích khai hoang và tăng vụ, phải hết sức chú trọng thực hiện thâm canh, tăng năng suất.

Trong 5 năm, phải khai hoang thêm khoảng 45 vạn hécta (kể cả nông trường quốc doanh). Năm 1965, đưa chỉ số sử dụng ruộng đất bình quân lên 1,8 lần.

- Thủy lợi: Phải tập trung sức đẩy mạnh công tác thủy lợi, nhằm mở rộng hơn nữa diện tích được tưới nước, thu hẹp một bước diện tích bị úng, đồng thời tích cực củng cố đê, kè, cống để phòng và chống lụt. Đến năm 1965, phải bảo đảm tưới chủ động cho khoảng 50% diện tích canh tác, đủ nước tưới cho 80% diện tích lúa, cho các vùng trồng tập trung cây công nghiệp và mở rộng hơn nữa việc tưới cho hoa mầu.

Để thực hiện nhiệm vụ đó, phải hết sức coi trọng việc quản lý và khai thác những hệ thống công trình đã có, gấp rút làm thêm kênh mương để dùng hết năng lực tưới và tiêu nước của các hệ thống ấy. Tích cực hoàn thành các công trình đang làm dở và xây dựng thêm một số công trình như các trạm bơm Bạch Hạc, Đại Độ, Trịnh Xá, Vĩnh Bảo, Mỹ Đô, sông Tranh, Nam sông Mã, Đức Thọ…, các cống sông Lấn, Vĩnh Trị… các hồ chứa nước Nậm Rốm, Cẩm Sơn, Cẩm Ly..., đập suối Củn, đê Hà Đông… Phải tăng thêm và sửa chữa kịp thời các loại máy đào đắp, nạo vét, vận chuyển đất; mở rộng việc thi công cơ giới các công trình đầu mối và kênh chính. Các địa phương phải tổ chức những đội chuyên làm thủy lợi trong hợp tác xã nông nghiệp để có điều kiện sử dụng công cụ cải tiến và tăng năng suất lao động. Do điện và cơ khí có khả năng phục vụ nông nghiệp ngày càng nhiều hơn, cần phát triển máy bơm điện, bơm dầu, bơm ga để phục vụ đắc lực cho tưới và tiêu nước. Các vùng trồng rau, cây công nghiệp và hoa mầu phải tích cực đào giếng để lấy nước tưới.

Cần nhanh chóng nghiên cứu các biện pháp giải quyết thủy lợi ở miền núi và cho các nông trường.

Thực hiện rộng rãi chế độ kỹ thuật tưới nước để góp phần cải tạo đất và tăng năng suất cây trồng.

- Bón phân và cải tạo đất: Phải tăng các loại phân hữu cơ, chủ yếu là phân chuồng, năm 1965 lên khoảng 8 tấn một hécta. Cố gắng tăng mức cung cấp phân đạm cho những vùng trồng tập trung cây công nghiệp và các đồng lúa quan trọng. Tích cực sử dụng phân lân nhiều và tốt hơn. Phải bảo đảm năm 1965 có khoảng 40 vạn hécta lúa được thả bèo hoa dâu; trồng rộng rãi các cây phân xanh khác (điền thanh, cốt khí, muồng…). Ra sức tìm thêm các nguồn phân khác như phân bùn… Giải quyết tốt các yêu cầu về ống xiphông, hồ chứa phù sa, phương tiện vận chuyển… để lấy phù sa sông Hồng bón ruộng mạnh hơn nữa.

Để cải tạo đất bạc mầu, đi đôi với việc thực hiện các biện pháp luân canh, trồng cây gây rừng để chống xói mòn, bón phân xanh, phân chuồng và phân hóa học, phải bón vôi cho các đất chua và bạc mầu từ 500 kilô đến 1 tấn trên mỗi hécta. Tăng thêm đầu tư vào việc cải tạo đất; bảo đảm đủ than, tăng phương tiện vận chuyển than và đá để nung vôi.

- Vấn đề giống: Phải làm rộng rãi và tốt công tác chọn, nhân và phổ biến giống. Bảo đảm đến năm 1965, các ruộng lúa của hợp tác xã đều dùng giống đã chọn lọc, trong đó có khoảng 50% là các loại giống tốt. Phổ biến rộng các giống ngô và khoai có năng suất cao, cung cấp kịp thời giống tốt các loại cây công nghiệp chủ yếu như mía, lạc, bông, gai, thuốc lá, dừa… cho những vùng trồng tập trung. Cung cấp rộng rãi giống các cây làm phân xanh, chú trọng nhân thật nhiều giống những cây mới phát triển rộng (khoai riềng, khoai nước, dừa…).

Phải có đủ giống gia súc tốt, nhất là giống lợn để đẩy mạnh chăn nuôi sinh sản. Nhà nước phải tăng thêm đầu tư vào công tác giống, đồng thời phải hướng dẫn các hợp tác xã chọn, nhân và giữ gìn giống, đem lại những tiến bộ mới theo yêu cầu nói trên.

- Phòng, trừ sâu bệnh: Phải sản xuất và nhập đủ thuốc trừ sâu cho cây trồng và trừ dịch, bệnh cho gia súc. Tích cực diệt chuột.

- Công cụ cải tiến, công cụ nửa cơ giới và cơ giới: Để giải quyết tình hình thiếu sức kéo ở đồng bằng, chủ yếu phải tích cực tăng thêm số trâu bò cày kéo, đẩy mạnh phát triển chăn nuôi trâu bò đẻ ngay ở đồng bằng, thực hiện tốt kế hoạch chuyển tiếp trâu bò ở miền núi xuống trung du và đồng bằng, bảo vệ và chăm sóc tốt trâu bò. Đồng thời phải cố gắng tăng thêm máy kéo để mở rộng thêm diện tích được cày bừa bằng máy. Trước mắt, phải tập trung số máy kéo hiện có vào các vùng thiếu sức kéo và có điều kiện dùng máy (các vùng trồng tập trung cây công nghiệp, trồng mầu và các đồng lúa quan trọng được tưới nước chủ động), quản lý tốt việc sử dụng để nâng cao hiệu suất máy kéo và hạ giá công cày máy.

Phải thí nghiệm và có kết luận sớm về các loại công cụ cải tiến và nửa cơ giới. Loại nào đã được kết luận là dùng tốt thì phải tổ chức sản xuất, bảo đảm cho nhu cầu theo chất lượng quy định, với giá thành hạ. Các hợp tác xã cần sắm thêm các loại nông cụ cải tiến và nửa cơ giới, và các công cụ vận chuyển thích hợp với từng vùng. Phát triển việc dùng ổ bi vào các guồng nước, tời, các xe vận chuyển, các máy chế biến nông sản…

3. Vận tải và bưu điện

1. Phải ra sức phát triển giao thông vận tải, khắc phục một bước tình trạng mất cân đối trong mấy năm gần đây giữa giao thông vận tải và yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa và củng cố quốc phòng.

Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, phải cải tạo và xây dựng từng bước các đường giao thông thành một mạng lưới thống nhất và hợp lý hơn. Phát triển vận tải đường sắt, cải tạo và đẩy mạnh phát triển đường thủy, phát triển thích đáng vận tải ôtô, bước đầu xây dựng vận tải hàng không, nhằm vận tải kịp thời các mặt hàng chính, trên các đường giao thông chính, đồng thời phát triển giao thông vận tải đi sâu vào nông thôn, đi sâu vào miền núi.

Ra sức tăng cường phương tiện nạo vét lòng lạch, phương tiện bốc dỡ, phương tiện chuyên dùng và sức kéo, tích cực nửa cơ giới hóa và cơ giới hóa vận tải đường thủy, sử dụng phổ biến các loại phương tiện vận tải cải tiến, tổ chức tốt mạng lưới sửa chữa, xây dựng từng bước lực lượng dự trữ về các loại phương tiện vận tải.

Phải ra sức cải tiến công tác quản lý vận tải , chủ yếu là phải nắm vững các lực lượng vận tải và các luồng hàng, quản lý tốt việc sử dụng phương tiện, phân bố và điều độ công tác vận tải thống nhất, hợp lý, nhanh chóng. Phấn đấu hạ giá thành vận tải.

Năm 1965, khối lượng hàng hóa vận chuyển trong nước tăng khoảng 70% tính theo tấn và tăng khoảng 90% tính theo tấn/cây số, khối lượng hành khách luân chuyển tăng khoảng gấp đôi so với năm 1960; bình quân hàng năm, tăng khoảng trên 11% tính theo tấn, khoảng 14% tính theo tấn/cây số và khoảng 15% về hành khách luân chuyển.

Nhiệm vụ cụ thể của từng ngành vận tải như sau:

Đường sắt : Đến năm 1965, khối lượng hàng vận chuyển bằng đường sắt sẽ tăng khoảng trên 92% tính theo tấn và 112% tính theo tấn/cây số so với năm 1960. Phải xúc tiến làm đường sắt phía Nam (cầu Hàm Rồng, đoạn Hàm Rồng - Vinh, đoạn Cầu Giát - Nghĩa Đàn) và một số đường chuyên dụng ở Thái Nguyên, Bắc Giang, Uông Bí, Na Dương - Kỳ Lừa. Cải tạo kỹ thuật những đoạn cần thiết trên các đường Hải Phòng - Lao Cai và Hà Nội - Mục Nam Quan để tăng thêm năng lực vận tải.

Tăng thêm đầu máy và toa xe chở apatít, chở xăng dầu, toa xe khách.

Đường sông: Khối lượng hàng hóa chở bằng đường sông năm 1965 so với năm 1960 sẽ tăng khoảng 72% tính theo tấn và khoảng 63% tính theo tấn/cây số. Phải phát triển mạnh vận tải đường sông là ngành có nhiều khả năng tiềm tàng nhưng chưa được tận dụng. Phải tăng cường nạo vét các đường sông nối các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Việt Trì, Bắc Giang. Phá đá và cải thiện lòng lạch các đoạn quan trọng trên các sông lớn.

Phát triển mạnh lực lượng thuyền, tăng thêm sức kéo bằng
ca-nô, tàu lai. Tăng phương tiện bốc dỡ cơ giới và cải tiến ở các bến sông quan trọng (Hà Nội, Việt Trì, Nam Định, Hàm Rồng…).

Đường biển: Đến năm 1965, khối lượng hàng hóa chuyên chở bằng đường biển sẽ tăng khoảng 81% tính theo tấn và 119% tính theo tấn/cây số so với năm 1960. Để đẩy mạnh vận tải đường biển, phải nâng cao năng lực thông qua của các cảng, bến, cơ giới hóa một phần khâu bốc rót. Phải tăng cường thiết bị cho cảng Hải Phòng (xây dựng cảng apatít, củng cố cầu tàu) và cho cảng Bến Thủy, Hòn Gai, Cẩm Phả để nâng mức bốc rót.

Tăng cường phương tiện nạo vét các cửa biển để tàu loại vừa có thể ra vào được. Bước đầu xây dựng đội tàu đi biển gần.

Đường bộ : Khối lượng hàng hóa chuyên chở bằng đường bộ năm 1965 so với năm 1960 sẽ tăng khoảng gần 60% tính theo tấn và gần 63% tính theo tấn/cây số. Phải tiếp tục cải tạo và bảo dưỡng các đường bộ, cố gắng làm cho mặt đường được tốt hơn, mở rộng những chỗ cần thiết để bảo đảm an toàn, xây thêm cầu để bớt số phà, dựa vào việc thực hiện các biện pháp ấy mà nâng cao mức sử dụng xe. Mở thêm đường ôtô đến các huyện ở miền núi, các vùng kinh tế mới.

Phải nghiên cứu tổ chức hợp lý việc vận chuyển: tổ chức liên vận, giảm bớt ôtô trên các đường dài song song với đường sắt và đường thủy. Bố trí hợp lý mạng lưới sửa chữa, tăng sản xuất phụ tùng, bảo đảm sửa chữa kịp thời các xe cộ. Phải dựa vào lực lượng nhân dân, kết hợp với thủy lợi, với việc làm đường cho các nông trường, lâm trường quốc doanh, phát triển mạnh hơn nữa giao thông vận tải ở nông thôn và miền núi, chủ yếu là các đường từ làng, bản ra đồng ruộng và nương; chú trọng phục vụ các vùng đông người ở miền núi, các vùng khai hoang và các vùng có nhiều lâm thổ sản. Phát triển rộng rãi các phương tiện vận chuyển cải tiến (xe bánh lốp, xe ngựa, trâu, bò kéo, thuyền nan, thuyền gỗ…).

2. Bưu điện và truyền thanh: Giá trị sản lượng nghiệp vụ của ngành bưu điện năm 1965 sẽ tăng 76% so với năm 1960. Phải mở rộng và củng cố mạng lưới bưu điện và truyền thanh để phục vụ kịp thời hơn sự chỉ đạo của các cấp, phục vụ tốt yêu cầu phát triển sản xuất, yêu cầu củng cố quốc phòng và phát triển văn hóa. Coi trọng củng cố bưu điện xã; nâng cao chất lượng thông tin, bảo đảm chính xác, nhanh chóng, an toàn và kịp thời. Tổ chức tốt công tác phát hành báo chí, phục vụ tốt hơn nữa các cơ sở sản xuất công nghiệp, nông nghiệp.

4. Xây dựng cơ bản

1. Trong khu vực Nhà nước cũng như trong khu vực tập thể, phải cố gắng tăng vốn tích lũy dùng vào xây dựng cơ bản; và phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm nhất, đem lại hiệu quả kinh tế tốt nhất.

Trong việc phân phối ngân sách Nhà nước, phải rất coi trọng bảo đảm vốn đầu tư xây dựng cơ bản để xây dựng từng bước cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành. Hàng năm, cần dành khoảng 40% số thu trong nước cho xây dựng cơ bản về kinh tế và văn hóa.

Trong 5 năm, tổng mức đầu tư xây dựng về kinh tế và văn hóa là 3.883 triệu đồng, tăng gần gấp đôi so với số vốn đầu tư trong 5 năm trước đây, trong đó dành cho khu vực sản xuất khoảng 86%, khu vực không sản xuất khoảng 14%. Trong số đầu tư vào khu vực sản xuất, phần dành cho nông nghiệp khoảng 1% công nghiệp khoảng trên 48%, giao thông và bưu điện khoảng 12%.

Về mặt phân phối và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, phải tập trung cho những nhu cầu thiết yếu về sản xuất; tập trung cho các công trình trọng điểm, các công trình cần hoàn thành để đưa vào sản xuất; các công trình có thể xây dựng nhanh, sớm đưa vào sản xuất (chú ý việc mở rộng và cải tiến thiết bị các xí nghiệp hiện có). Ngoài ra phải xây dựng một số công trình gối đầu sang kế hoạch sau. Phải hết sức khắc phục tình trạng xây dựng kéo dài, xây dựng dở dang, gây ra ứ đọng và lãng phí vốn.

Cần tăng mạnh vốn đầu tư vào nông nghiệp (tăng trên 2,4 lần so với 5 năm trước) chủ yếu để xây dựng thủy lợi, trang bị máy bơm, máy kéo, tổ chức công tác chọn, nhân và cung cấp giống…, phục vụ các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.

Vốn đầu tư vào công nghiệp cần được tăng thêm (tăng khoảng trên 1,6 lần so với 5 năm trước), chủ yếu nhằm bảo đảm yêu cầu xây dựng về cơ khí, điện lực, than, luyện kim, phân bón, hóa chất, khai thác gỗ, đánh cá, làm muối, chế biến bột đường, thịt, hoa quả…, nhằm tăng thêm năng lực trang bị kỹ thuật, tăng thêm động lực, nhiên liệu, nguyên liệu cho nông nghiệp và công nghiệp, đồng thời giải quyết tốt hơn vấn đề ăn mặc và xuất khẩu. Trong số đầu tư cho công nghiệp, nhóm A chiếm gần 80%, nhóm B chiếm trên 20%.

Tăng vốn đầu tư cho ngành giao thông vận tải để khắc phục những chỗ mất cân đối lớn hiện nay giữa vận tải và sản xuất công, nông nghiệp như vận tải gỗ, than, bốc rót apatít, vận tải đá, cát, sỏi…

Trong 5 năm, chúng ta phải tập trung vốn đầu tư vào các ngành sản xuất, cho nên cần phải giảm bớt vốn đầu tư vào các ngành không sản xuất. Tuy nhiên, vẫn giữ mức đầu tư vừa phải vào việc xây dựng nhà ở, bệnh viện và các công trình lợi ích công cộng để cải thiện một phần điều kiện sinh hoạt của công nhân, viên chức và nhân dân.

2. Để sử dụng vốn đầu tư một cách có hiệu quả nhất, phải tăng cường quản lý xây dựng cơ bản.

Phải sớm có quy hoạch dài hạn về phát triển kinh tế để có cơ sở nghiên cứu và xác định chủ trương đối với các công trình xây dựng trong kế hoạch dài hạn sau. Cố gắng giữa năm trước đã lập xong kế hoạch xây dựng cơ bản của năm sau; trong những năm tới, phải đẩy mạnh việc khảo sát thiết kế các công trình lớn của kế hoạch dài hạn sau. Cải tiến việc lập kế hoạch, tuân theo đúng trình tự xây dựng cơ bản.

Phải cố gắng thiết kế các công trình công nghiệp có thể tự thiết kế được. Đối với những công trình do các nước anh em giúp xây dựng, chủ yếu là nhờ làm thiết kế công nghiệp và cung cấp thiết bị. Phải nghiên cứu các điều kiện tự nhiên ở nước ta để định hệ số an toàn thích hợp trong các thiết kế kiến trúc; phải giảm bớt trang trí quá mức.

Cần rút kinh nghiệm xây dựng các công trình công nghiệp để đề ra quy phạm tạm thời làm căn cứ cho việc thiết kế công nghiệp.

Phối hợp mật thiết hơn nữa khả năng trong nước về cung cấp vốn và vật liệu xây dựng với khả năng bên ngoài về cung cấp thiết kế và thiết bị để bảo đảm xây dựng tiết kiệm, nhanh chóng, và sớm đưa vào sản xuất.

Phải ra sức phấn đấu hạ giá thành xây dựng và nâng cao chất lượng xây dựng. Áp dụng thiết kế thích hợp, nhất là thiết kế mẫu cho các công trình dân dụng. Quản lý chặt chẽ việc sử dụng vật liệu và áp dụng các định mức tiến bộ hơn. Bố trí hợp lý trình tự xây dựng trên công trường. Dùng công cụ cải tiến một cách rộng rãi; sử dụng tốt hơn nữa số máy xây dựng hiện có nhất là máy làm đất trên các công trường làm thủy lợi và làm đường vận tải, thống nhất quản lý kế hoạch sử dụng máy và kế hoạch sửa chữa, gìn giữ máy chu đáo hơn, đưa mức sử dụng công suất máy xây dựng lên khoảng 50-60%.

Tăng cường công tác lập đơn giá, định mức và lập dự toán
để làm cơ sở thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế trong ngành xây dựng.

Kiện toàn bộ máy xây dựng cơ bản ở Trung ương và địa phương cho mạnh, gọn, chú trọng đi sâu vào công tác định mức, quản lý kỹ thuật, quản lý tài vụ, quản lý lao động. Kiện toàn các Ban chỉ huy công trường, thống nhất chỉ đạo việc xây lắp, tăng cường quản lý thi công.

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học - kỹ thuật xây dựng cơ bản, nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề do điều kiện tự nhiên của nước ta đặt ra như vấn đề nền móng, vấn đề gió, vấn đề chống ẩm...

5. Nội thương

Để phục vụ tốt công cuộc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy sản xuất công nghiệp và nông nghiệp phát triển, góp phần cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quan hệ sản xuất mới và hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, công tác nội thương có nhiệm vụ mở rộng giao lưu hàng hóa, tăng cường quan hệ kinh tế giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi, giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã. Phải thực hiện tốt nhiệm vụ thu mua theo kế hoạch nhằm tăng cường lực lượng của Nhà nước, bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp, vật phẩm tiêu dùng cho xã hội, vật tư cho xuất khẩu và tích lũy cho Nhà nước. Phải cải tiến hơn nữa công tác phân phối và cung cấp hàng hóa.

Tăng cường quản lý lưu thông hàng hóa, ra sức ổn định vật giá, kiên quyết chống tích trữ đầu cơ.

Phải củng cố và tăng cường lực lượng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những người buôn bán nhỏ. Đồng thời phải sắp xếp hợp lý mạng lưới lưu thông phân phối, mở rộng thị trường có tổ chức tăng cường lãnh đạo thị trường tự do.

1. Thu mua hàng nông sản và hàng công nghiệp.

Phải tăng cường thu mua nông sản nhằm bảo đảm cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, lương thực và thực phẩm cho các thành phố, khu công nghiệp, vật tư cho xuất khẩu. Trên cơ sở sản xuất nông nghiệp phát triển và tỷ suất hàng hóa nông sản tăng thêm, phải thực hiện tốt kế hoạch thu mua để bảo đảm thống nhất điều hòa và phân phối, đồng thời bảo đảm nhu cầu hợp lý của nông dân, kích thích phát triển sản xuất, tăng cường sự liên minh về kinh tế và chính trị giữa công nhân và nông dân.

Phải mở rộng và cải tiến việc thu mua hàng nông sản và hàng thủ công nghiệp; thông qua hình thức hợp đồng mà tăng cường mối liên hệ với hợp tác xã nông nghiệp và hợp tác xã thủ công nghiệp.

Về lương thực , từ năm 1963, chúng ta thực hiện chủ trương ổn định mức nghĩa vụ của các hợp tác xã nông nghiệp và nông dân cá thể theo tinh thần chiếu cố đúng mức đến khả năng sản xuất, nhu cầu của Nhà nước và đời sống nhân dân, làm cho nông dân yên tâm, phấn khởi sản xuất, tăng diện tích, tăng năng suất và sản lượng lương thực. Mức nghĩa vụ nộp thuế và bán thóc, ngô cho Nhà nước (không kể phần phí thủy lợi và thuê máy kéo) từ năm 1963 đến hết kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, tính chung sẽ giữ ổn định vào khoảng 17% sản lượng thu hoạch bình quân trong 3 năm 1960 -1962. Đồng thời, phải đặc biệt coi trọng vận động các hợp tác xã nông nghiệp và nông dân bán thêm thóc, ngô ngoài nghĩa vụ cho Nhà nước theo giá khuyến khích và bán các loại lương thực khác.

Về các nông sản khác , đối với những loại nguyên liệu chính của công nghiệp và vật tư xuất khẩu quan trọng như bông, đay, lạc, thuốc lá, thầu dầu... thì cần phải thu mua phần lớn. Đối với những loại nông sản thực phẩm như thịt, đỗ, vừng... thì cần phải phân phối hợp lý giữa khối lượng dành lại cho nông dân và khối lượng Nhà nước thu mua; Nhà nước cần phải nắm một phần thích đáng để cung cấp cho nhu cầu của thành thị, khu công nghiệp và để bảo đảm nhu cầu xuất khẩu.

Để thực hiện nhiệm vụ thu mua trên đây, phải tiếp tục giáo dục chính trị, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho nông dân, đồng thời phải hết sức coi trọng các biện pháp kinh tế, thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng giữa cơ quan thu mua với hợp tác xã nông nghiệp.

Phải kết hợp chặt chẽ việc cung cấp hàng hoá cho nông thôn và việc thu mua nông sản, chú trọng mở rộng cung cấp tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, bảo đảm cung cấp phần lương thực còn thiếu cho các vùng trồng tập trung cây công nghiệp và các vùng chung quanh các thành phố, các khu công nghiệp để khuyến khích các hợp tác xã và xã viên sản xuất và bán sản phẩm theo đúng yêu cầu của kế hoạch Nhà nước.

Về tổ chức, song song với việc củng cố và phát triển các cửa hàng hợp tác xã mua bán ở xã, phải nghiên cứu thống nhất các tổ chức thu mua, nâng cao trách nhiệm của địa phương trong việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch thu mua. Phải thực hiện đúng đắn các chính sách và giá thu mua đã quy định; đảm bảo phía cơ quan thu mua cũng như phía hợp tác xã phải thi hành đúng hợp đồng; nắm chắc nguồn hàng từ nơi sản xuất, đồng thời tăng cường quản lý thị trường.

2. Phân phối và cung cấp hàng hóa.

Phải ra sức cải tiến công tác phân phối và cung cấp hàng hóa, nhằm bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của các tầng lớp nhân dân, kích thích và phục vụ sản xuất phát triển mạnh mẽ, đồng thời phát huy hơn nữa tinh thần cần kiệm xây dựng nước nhà. Chú trọng cung cấp lương thực, thực phẩm cho các thành phố và khu công nghiệp, nguyên liệu cho công nghiệp, tư liệu sản xuất, vật liệu xây dựng và hàng tiêu dùng cho nông thôn và miền núi. Phải sắp xếp hợp lý giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, kiên quyết dành những loại hàng tốt cho xuất khẩu để đổi lấy nguyên liệu và thiết bị cần cho sản xuất và xây dựng.

Dựa trên sản xuất phát triển và yêu cầu về lưu thông, trong 5 năm, mức hàng hóa bán lẻ tăng bình quân hàng năm trên 6%. Khối lượng tư liệu sản xuất và vật liệu xây dựng do Nhà nước cung cấp cho nông thôn (chủ yếu là gỗ, xi măng, than, phân bón hoá học...) năm 1965 sẽ tăng gấp hai lần rưỡi so với năm 1960.

3. Sắp xếp mạng lưới thương nghiệp và quản lý thị trường.

Phải tăng cường lực lượng mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán về mọi mặt, phát huy vai trò quản lý và lãnh đạo của kinh tế quốc doanh đối với toàn bộ thị trường. Phải rất coi trọng việc nâng cao ý thức tư tưởng, trình độ chính sách, nghiệp vụ của cán bộ ngành thương nghiệp; thực hiện hạch toán kinh tế ở khâu thu mua, khâu bán buôn và các cửa hàng bán lẻ.

Điều chỉnh mạng lưới bán lẻ ở các thành phố, khu công nghiệp, đồng thời mở rộng cơ sở thương nghiệp xã hội chủ nghĩa ở các khu công nghiệp mới, ở nông thôn, nhất là ở miền núi, sắp xếp mạng lưới thương nghiệp hợp lý giữa thành thị và nông thôn.

Trong những năm tới, phải thực hiện việc đưa hợp tác xã mua bán về xã nhằm làm tốt việc cung cấp hàng công nghiệp cho xã viên, tiêu thụ kịp thời sản phẩm cho hợp tác xã, góp phần quản lý thị trường, bình ổn giá cả ở nông thôn.

Kết hợp chặt chẽ giữa thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã để tăng cường quản lý thị trường ở thành thị và nông thôn.

Phải tiếp tục củng cố thương nghiệp công tư hợp doanh, chú trọng làm tốt công tác cải tạo tư tưởng và giáo dục lao động, sắp xếp lại các cơ sở cho hợp lý. Chú trọng giúp đỡ, khuyến khích các tổ hợp tác phát triển sản xuất; kết hợp sản xuất với mua bán; tiếp tục chuyển phần lớn người buôn bán nhỏ sang sản xuất. Sắp xếp, đưa việc mua bán ở các chợ thành phố và thị trấn đi vào ngăn nắp, bớt trung gian, tạo thuận lợi cho nhân dân trong việc mua bán.

6. Ngoại thương

Công tác ngoại thương có tầm quan trọng rất lớn đối với việc thực hiện các nhiệm vụ sản xuất và xây dựng đề ra trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Phải tăng cường sự hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và mở rộng buôn bán với các nước khác. Khâu chính là phải ra sức đẩy mạnh xuất khẩu.

Trên cơ sở phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, phải sắp xếp hợp lý nhu cầu trong nước và nhu cầu xuất khẩu, hết sức khai thác mọi khả năng, tích cực tăng thêm khối lượng và tăng thêm mặt hàng xuất khẩu. Mặt khác, phải tập trung nhập thiết bị, máy móc, nguyên liệu cần cho việc thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và giải quyết một phần nhu cầu về hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống nhân dân.

1. Xuất khẩu.

Phải có kế hoạch cụ thể, tích cực lợi dụng khả năng tài nguyên, điều kiện nông nghiệp nhiệt đới, sức lao động…, tăng thêm và cải tiến cơ cấu mặt hàng, tạo cơ sở vững chắc để tăng mạnh xuất khẩu.

Trong thời gian kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, kim ngạch xuất khẩu tăng gấp hai lần so với 5 năm trước đây, riêng kim ngạch xuất khẩu năm 1965 tăng khoảng 74% so với năm 1960.

Các ngành sản xuất và phân phối phải thường xuyên chăm lo, nghiêm chỉnh chấp hành các chính sách và kế hoạch phục vụ xuất khẩu. Đồng thời phải làm cho toàn dân thông suốt ý nghĩa quan trọng của công tác ngoại thương, hăng hái đẩy mạnh sản xuất và tiết kiệm tiêu dùng, tích cực tăng nguồn hàng xuất khẩu.

2. Nhập khẩu.

Phương hướng chung là phải hết sức giảm nhập khẩu những mặt hàng không thuộc nhu cầu cấp bách, mặt khác ra sức phát huy mọi khả năng trong nước để giải quyết những nhu cầu mà ta có thể tự giải quyết được, kiên quyết tập trung sức bảo đảm những nhu cầu thiết yếu nhất cho sản xuất và cho đời sống nhân dân.

Phải quản lý chặt chẽ kế hoạch nhập khẩu và việc sử dụng ngoại hối, thực hiện nghiêm chỉnh phương hướng nói trên; chú trọng nhập đúng thời gian, đúng quy cách và bảo đảm chất lượng.

7. Tài chính và tín dụng

1. Thu chi tài chính.

Để bảo đảm yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế và văn hóa, vấn đề tích lũy vốn, tăng thu cho ngân sách nhà nước là một nhiệm vụ cực kỳ trọng yếu.

Dựa trên nhịp độ tăng của sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, số thu của ngân sách nhà nước (phần vốn trong nước) bình quân hàng năm sẽ tăng khoảng trên 6%.

Trước hết, cần phải tích cực tăng thu ngân sách, phải động viên mọi khả năng tiềm tàng và mọi nguồn thu trong các ngành kinh tế quốc doanh và trong hợp tác xã, qua đó, thực hiện phân phối lại thu nhập quốc dân một cách hợp lý.

Trong các xí nghiệp quốc doanh, phải không ngừng phấn đấu nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành và phí lưu thông, nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức tiêu thụ nhanh, chu chuyển vốn nhanh, bảo đảm kế hoạch thu nộp cho ngân sách.

Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung và ban hành những chính sách và chế độ thu áp dụng cho kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác xã và bộ phận kinh tế cá thể còn lại.

Trong việc phân phối chi ngân sách, phải hết sức đề cao ý thức cần kiệm xây dựng Tổ quốc, chú trọng tăng dần tích lũy đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; mặt khác, phải sắp xếp hợp lý các khoản chi về tiêu dùng, chú trọng cải thiện dần đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.

Vốn phân phối cho xây dựng cơ bản phải đáp ứng yêu cầu mở rộng tái sản xuất, trên cơ sở giải quyết một cách tích cực quan hệ cân đối giữa tài chính và vật tư. Vốn chi cho các sự nghiệp kiến thiết kinh tế và văn hóa phải cân đối tốt hơn nữa với khả năng chung của ngân sách. Giữ một tỷ lệ hợp lý giữa vốn cố định và vốn lưu động, hết sức tiết kiệm vốn lưu động. Tích cực giảm tỷ lệ chi về hành chính.

2. Tín dụng và tiền tệ.

Phải tiếp tục mở rộng việc cho vay dài hạn và đi đôi phải tăng thêm mức cung cấp vật tư cho hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã nghề cá, hợp tác xã nghề muối và một số nghề thủ công khác cần khuyến khích phát triển. Trong nông nghiệp, phải hết sức chú ý cho vay khai hoang, làm thủy lợi, mua sắm nông cụ cải tiến, phát triển chăn nuôi và nghề phụ. Đối với nghề cá, chú trọng cho vay mua sắm thuyền, lưới…

Phải kết hợp chặt chẽ công tác cho vay và công tác quản lý tiền tệ: mở rộng cho vay bằng chuyển khoản, tích cực huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân, và phải làm tốt công tác thu nợ.

Cần sử dụng hợp lý lực lượng của hợp tác xã tín dụng, làm cho hợp tác xã tín dụng thực sự trở thành cánh tay đắc lực của Ngân hàng Nhà nước và là một bộ phận khăng khít của hệ thống tín dụng xã hội chủ nghĩa ở nông thôn.

Phải ra sức cải tiến công tác kế hoạch và quản lý lưu thông tiền tệ, tổ chức điều hòa tiền tệ phù hợp với nhu cầu lưu thông hàng hóa. Tăng cường và cải tiến công tác ngân hàng, làm cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện đúng vai trò trung tâm trong các hoạt động tín dụng, tiền tệ và thanh toán.

Đẩy mạnh công tác quản lý tiền mặt và mở rộng việc gửi tiền tiết kiệm. Kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng quỹ tiền mặt ở các cơ quan; tăng cường và mở rộng công tác kiểm soát chi tiêu quỹ tiền lương ở các cơ sở sản xuất và kinh doanh.

Cải tiến và tích cực mở rộng việc cho vay ngắn hạn, tăng cường kiểm soát bằng đồng tiền, thúc đẩy mở rộng hạch toán kinh tế ở các cơ sở sản xuất và các cơ quan sự nghiệp.

8. Giá cả

Phương hướng chung về chính sách giá cả là dựa trên tình hình giá cả hiện nay, tiếp tục ổn định vật giá và có điều chỉnh, nhằm phục vụ việc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, kích thích sản xuất công nghiệp và nông nghiệp phát triển, bảo đảm tích lũy cần thiết cho công nghiệp hóa, điều hòa phân phối thu nhập giữa các tầng lớp, thúc đẩy và mở rộng việc thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế và hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết bình ổn vật giá thị trường. Thực hiện việc thống nhất quản lý giá cả và phân công chỉ đạo giá cả.

Đối với sản xuất nông nghiệp, nghiên cứu giảm giá một số loại tư liệu sản xuất để khuyến khích cải tiến kỹ thuật; tăng giá mua lương thực ngoài nghĩa vụ với tỷ lệ khuyến khích cao nhất là thêm 50% so với giá mua theo nghĩa vụ. Về giá các nông sản khác thì nói chung là căn bản giữ ổn định, nhưng đối với những nơi thực hiện bước đầu việc quy vùng sản xuất thì cần có chiếu cố một số loại cây để khuyến khích mở rộng sản xuất chuyên môn hoá. Ở những vùng khai hoang mới đi vào sản xuất, thì tùy theo điều kiện khó khăn trong sản xuất và tuỳ theo tính chất của sản phẩm mà có giá trợ cấp thêm.

Giữa các loại nông sản, lâm sản, thổ sản (gồm cả các thứ cây làm thuốc) mua để dùng trong nước và để xuất khẩu, cần phải định giá theo một tương quan hợp lý và khuyến khích có trọng điểm để hướng dẫn phát triển sản xuất theo đúng yêu cầu của kế hoạch Nhà nước.

Đối với giá bán lẻ hàng tiêu dùng, phải giữ căn bản ổn định trên cơ sở giá đã điều chỉnh năm 1962. Nghiên cứu hạ giá một số mặt hàng tiêu dùng làm bằng nguyên liệu trong nước, sản xuất đã được ổn định và bảo đảm được cho nhu cầu.

Ra sức phấn đấu bình ổn giá cả thị trường, bảo đảm mức thu nhập thực tế của nhân dân lao động và củng cố hơn nữa sức mua của đồng bạc.

Về hệ thống giá bán buôn tư liệu sản xuất, giá điện… phải căn cứ vào giá trị sử dụng ở nước ta để định giá, chú ý điều chỉnh một số giá đã ban hành tạm thời mà nay thấy là không hợp lý, nhằm mục đích khuyến khích phát triển sản xuất các tư liệu sản xuất và khuyến khích tăng cường trang bị kỹ thuật cho các cơ sở sản xuất. Nghiên cứu sửa đổi giá gỗ nhằm khuyến khích việc dùng các loại gỗ tạp. Chú ý sớm nghiên cứu lại giá cước vận tải.

Trong các ngành kinh tế quốc doanh, đi đôi với việc thực hiện chế độ thu quốc doanh và quy định chính sách lãi, tổ chức hợp lý khâu bán buôn và bán lẻ, phải quy định hệ thống giá bán buôn xí nghiệp và giá bán buôn công nghiệp, nhằm thúc đẩy hơn nữa việc hạch toán kinh tế, tăng năng suất lao động, hạ giá thành và giảm phí lưu thông.

Đối với thủ công nghiệp, tiếp tục phát huy tác dụng của chính sách giá cả nhằm hướng dẫn phát triển sản xuất theo yêu cầu của kế hoạch nhà nước, góp phần củng cố hợp tác xã thủ công nghiệp; xác định đúng đắn giá thành sản xuất để quy định hợp lý giá gia công, giá bán nguyên liệu và mua thành phẩm, bảo đảm tăng tích lũy cho hợp tác xã, tăng thu nhập của xã viên và bảo đảm tích lũy cho Nhà nước.

Cần sớm quy định cụ thể việc phân công nghiên cứu giá, chỉ đạo và quản lý giá, nhằm thực hiện tốt việc thống nhất quản lý giá, đồng thời có phân cấp đúng mức cho các ngành, các địa phương để giải quyết đúng và kịp thời giá những loại hàng thứ yếu.

9. Vấn đề lao động, nâng cao năng suất lao động - đào tạo cán bộ và công nhân

1. Phương hướng công tác lao động trong thời gian sắp đến là tổ chức, sắp xếp và sử dụng lực lượng lao động xã hội cho phù hợp với quy luật phân bố lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, là phân bố hợp lý lực lượng lao động giữa khu vực những người sản xuất và khu vực những người không sản xuất, giữa sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp, xây dựng cơ bản và các ngành khác, giữa đồng bằng và miền núi.

Phải tích cực điều chỉnh người từ đồng bằng lên trung du và miền núi để góp sức với đồng bào địa phương xây dựng những vùng kinh tế mới, phát triển kinh tế miền núi. Chú trọng giữ đúng mức lực lượng lao động trẻ cho nông nghiệp.

Quản lý chặt chẽ nhân khẩu không sản xuất nông nghiệp, cố gắng ổn định nhân khẩu thành phố, nhất là ở nội thành, trong một thời gian tương đối dài.

Cải tiến tổ chức và ổn định biên chế của các cơ quan và các xí nghiệp của Nhà nước. Tăng cường quản lý biên chế, chú trọng giảm bớt biên chế hành chính. Đối với những ngành và những cơ sở sản xuất cần tăng thêm lao động thì phải giải quyết thật sát với yêu cầu thực tế, phải xét duyệt và quản lý chặt chẽ. Tăng cường trang bị kỹ thuật cho những khâu dùng nhiều sức lao động; mở rộng công tác định mức lao động có căn cứ kỹ thuật, hết sức giảm bớt tỉ lệ người không trực tiếp sản xuất; phấn đấu tăng giá trị sản lượng chủ yếu bằng tăng năng suất lao động. Thi hành đúng chế độ bảo hiểm xã hội đối với những người già yếu, mất sức lao động; tăng cường công tác bảo hộ lao động; có kế hoạch sắp xếp, sử dụng thích hợp lực lượng lao động phụ nữ trong các ngành.

2. Năng suất lao động.

Phấn đấu tăng năng suất lao động là nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các ngành kinh tế, các cơ sở sản xuất, xây dựng, nhất là trong khu vực sản xuất quốc doanh. Phải ra sức cải tiến kỹ thuật, cải tiến công cụ lao động, cơ giới hóa và nửa cơ giới hóa các khâu sản xuất chủ yếu, đồng thời ra sức cải tiến quản lý các mặt, cải tiến tổ chức lao động, xây dựng các định mức kinh tế - kỹ thuật. Phải nâng cao trình độ lành nghề của cán bộ và công nhân, mở rộng phong trào thi đua nhằm đúng hướng hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật để tăng nhanh năng suất lao động. Kịp thời phát huy, khen thưởng các phát minh, sáng kiến của công nhân, cán bộ.

Trong công nghiệp, chú trọng tăng thêm thiết bị để cân đối dây chuyền sản xuất trong một số xí nghiệp; thay đổi thiết bị quá lạc hậu; thực hiện cơ giới hóa những bộ phận công tác nặng nhọc, tốn nhiều sức lao động và phấn đấu nâng cao tỷ lệ sử dụng công suất thiết bị. Đến năm 1965, năng suất lao động của một công nhân viên sản xuất công nghiệp quốc doanh Trung ương phải tăng khoảng 47% so với năm 1960, bình quân hàng năm tăng khoảng 8%.

Trong xây dựng cơ bản, phải phấn đấu nâng cao mức sử dụng công suất các loại máy thi công, mở rộng thi công cơ giới trong việc xây dựng các công trình thủy lợi đầu mối và các đường giao thông quan trọng, sử dụng rộng rãi các công cụ nửa cơ giới và công cụ cải tiến trong việc làm đất đá, vận chuyển ở các công trường. Phải đưa năng suất lao động của một công nhân xây lắp thuộc Trung ương quản lý năm 1965 tăng khoảng 31% so với năm 1960, bình quân hàng năm tăng khoảng 5,5%.

Trong ngành vận tải, phải cơ giới hóa từng bước khâu bốc dỡ; sửa chữa kịp thời các loại phương tiện; tổ chức và sử dụng hợp lý lực lượng vận tải. Năng suất lao động của một nhân viên vận tải thuộc Trung ương quản lý năm 1965 phải tăng khoảng 44% so với năm 1960, bình quân hàng năm tăng khoảng 7,5%.

3. Đào tạo cán bộ, công nhân.

Cần phải sử dụng tốt và ra sức bồi dưỡng số cán bộ và công nhân hiện có, đồng thời tích cực phát triển thêm đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề.

Cần phải sử dụng tốt và ra sức bồi dưỡng số cán bộ và công nhân kỹ thuật hiện có, đồng thời tích cực phát triển thêm đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề.

Phải có quy hoạch dài hạn về đào tạo cán bộ phù hợp với yêu cầu phát triển từng bước của các ngành kinh tế quốc dân trong quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, chú trọng các ngành cơ khí, điện lực, nhất là cán bộ thiết kế, chế tạo cơ khí, cán bộ thăm dò địa chất, hóa chất, luyện kim… Chú trọng đào tạo một số cán bộ khoa học - kỹ thuật có trình độ cao để làm công tác giảng dạy, nghiên cứu và quản lý kỹ thuật ở các ngành và các xí nghiệp quan trọng. Chú trọng bồi dưỡng về nghiệp vụ, kỹ thuật cho cán bộ phụ trách quản lý kinh tế ở các cấp, các ngành. Tăng cường quản lý, sắp xếp công tác và sử dụng lực lượng cán bộ khoa học - kỹ thuật hợp lý hơn nữa; có chính sách cụ thể khuyến khích những người có tài năng về khoa học - kỹ thuật.

Trong việc đào tạo cán bộ mới, phải tăng cường hơn nữa thành phần công nhân và nông dân; chú ý bảo đảm tỷ lệ thích đáng về các thành phần dân tộc thiểu số, phụ nữ... Phải đáp ứng yêu cầu của các ngành, các địa phương và các cơ sở sản xuất, gồm cả cán bộ có trình độ đại học, trung cấp và sơ cấp; phải tăng thêm cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học; phải chú trọng nhiều hơn nữa đào tạo cán bộ quản lý kinh tế. Đào tạo kịp thời cán bộ cho các hợp tác xã nông nghiệp; chú ý hơn nữa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các hợp tác xã thủ công nghiệp.

Trong các ngành công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, phấn đấu đến năm 1965 cứ 100 công nhân kỹ thuật ít nhất có một cán bộ kỹ thuật trình độ đại học và khoảng 5 cán bộ kỹ thuật trung cấp.

Trong nông nghiệp, sẽ tăng thêm cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học và trung cấp cho các nông trường, các tỉnh, huyện và đưa cán bộ trung cấp về một số xã.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, phải sắp xếp hợp lý các trường lớp, tăng thêm thiết bị dùng trong việc học tập, hết sức chú ý nâng cao trình độ cán bộ giảng dạy. Đi đôi với các trường học ban ngày, phải phát triển mạnh các lớp học ban đêm, học theo lối gửi thư. Cần tổng kết tình hình thực hiện các phương hướng và chủ trương đào tạo cán bộ trong những năm qua, rút kinh nghiệm để chấn chỉnh công tác, bảo đảm đem lại những kết quả tốt hơn nữa.

Về đào tạo công nhân kỹ thuật , phải chú trọng nâng cao chất lượng, mở thêm trường lớp bên cạnh cơ sở sản xuất; giải quyết tốt nhu cầu về giáo viên. Trong 5 năm, phải đào tạo thêm khoảng 194.000 công nhân kỹ thuật để đến năm 1965 có khoảng gần 30 vạn người. Đặc biệt chú ý đào tạo công nhân lành nghề cho các ngành cơ khí, khai thác mỏ, điện, hóa chất, luyện kim. Việc dạy bổ túc cho công nhân kỹ thuật hiện có phải được tổ chức chặt chẽ hơn để bảo đảm kết quả tốt. Phải thực hiện tốt việc bồi dưỡng kỹ thuật cho công nhân, giao nhiệm vụ sản xuất cho công nhân đúng với yêu cầu về trình độ nghề nghiệp, trên cơ sở đó mà nâng cao dần cấp bậc bình quân của công nhân kỹ thuật.

10. Nghiên cứu và phổ biến khoa học học - kỹ thuật

Công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học - kỹ thuật phải được tiến hành một cách có trọng điểm, nhằm phục vụ sát yêu cầu phát triển kinh tế và văn hóa trong kế hoạch 5 năm, nâng cao trình độ hiểu biết của đông đảo quần chúng về khoa học - kỹ thuật thúc đẩy phong trào thi đua cải tiến kỹ thuật trong các ngành sản xuất và xây dựng. Đồng thời, phải chú trọng phương hướng phát triển lâu dài, phục vụ việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Về khoa học tự nhiên, phải nghiên cứu các yếu tố khí hậu nhiệt đới để bảo quản tốt các thiết bị, máy móc và sản phẩm công nghiệp, nghiên cứu tận dụng các nguyên liệu trong nước; nghiên cứu giải quyết một số vấn đề kỹ thuật như dùng than gầy luyện cốc, lợi dụng các nguồn điện lực, v.v., nghiên cứu áp dụng kỹ thuật nước ngoài vào điều kiện nước ta; đặc biệt chú trọng tăng cường việc quản lý kỹ thuật. Xây dựng từng bước các định mức, quy phạm, quy trình kỹ thuật… Xúc tiến xây dựng và phát triển các ngành khoa học cơ bản.

Về nghiên cứu địa chất, phải đẩy mạnh tìm kiếm, đưa công tác tìm kiếm đi trước một bước, tiến hành công tác thăm dò một cách có trọng điểm, theo kịp yêu cầu khai thác. Nhiệm vụ trọng tâm về tìm kiếm và thăm dò là phục vụ việc luyện gang thép ở Thái Nguyên, bao gồm quặng sắt, than mỏ và các loại nguyên liệu phụ. Đồng thời; chú trọng tìm kiếm và thăm dò than gầy, apatít, các khoáng sản phục vụ cho công nghiệp nhẹ, nhất là cho các ngành sứ và giấy... Nghiên cứu địa chất miền Bắc một cách có hệ thống và lập bản đồ địa chất với tỷ lệ lớn hơn.

Công tác nghiên cứu khoa học y tế phải xuất phát từ thực tế Việt Nam kết hợp với kiến thức khoa học hiện đại, nhằm phục vụ các mặt phòng bệnh, chữa bệnh và sản xuất thuốc. Chú trọng thích đáng việc nghiên cứu những vấn đề có tính chất cơ bản, lâu dài.

Đối với nông nghiệp, phải chú trọng các mặt điều tra cơ bản, nhất là về thổ nhưỡng và sinh lý thực vật. Đi sâu nghiên cứu kỹ thuật canh tác từng loại cây trồng chính, kỹ thuật chăn nuôi từng loại gia súc chính, nghiên cứu nghề nuôi cá, trồng rừng. Đi sâu nghiên cứu vấn đề cải tạo đất bạc mầu, vấn đề tưới nước, bón phân, giống… Phải hướng dẫn cán bộ kỹ thuật đi sát quần chúng, đi sâu vào thực tiễn sản xuất để làm tốt công tác tổng kết và phổ biến kinh nghiệm, hướng dẫn các hợp tác xã về mặt kỹ thuật một cách rộng rãi và có hiệu quả tốt.

Về các ngành khoa học xã hội, chú ý nghiên cứu các vấn đề quan trọng đang đặt ra trong thực tiễn, nhất là về kinh tế. Chú trọng đúng mức những vấn đề lịch sử, địa lý, triết học, văn học, luật pháp, dân tộc, nhằm nâng cao hiểu biết và xây dựng thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin, góp phần bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức xã hội chủ nghĩa trong nhân dân.

Phải tăng cường việc phổ biến khoa học, kỹ thuật trong quần chúng nhân dân, trước hết là trong các xí nghiệp, hợp tác xã. Củng cố tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của Hội phổ biến khoa học và kỹ thuật các cấp.

11. Giáo dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe

Đồng thời với cuộc cách mạng về kinh tế, chúng ta phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật. Để làm tốt nhiệm vụ ấy, các ngành giáo dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe phải phát huy mọi khả năng, thiết thực phục vụ công tác giáo dục tư tưởng, nâng cao trình độ văn hóa và kỹ thuật, đẩy mạnh sản xuất và cải thiện đời sống của nhân dân.

1. Giáo dục.

Ngành giáo dục có nhiệm vụ bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có văn hóa và kỹ thuật, có đạo đức, có sức khỏe để xây dựng xã hội mới và để phục vụ đắc lực việc đào tạo cán bộ; có nhiệm vụ không ngừng nâng cao trình độ văn hóa và kỹ thuật cho nhân dân lao động, tạo điều kiện mở rộng cuộc vận động cải tiến kỹ thuật trong các ngành sản xuất và xây dựng.

Sự nghiệp giáo dục phải phát triển mạnh mẽ và vững chắc, phải gắn sát với mọi khả năng kinh tế và phải thiết thực phục vụ sản xuất, chú trọng nâng cao chất lượng giảng dậy và học tập; phục vụ tốt yêu cầu bổ túc văn hoá cho người lớn và phát triển giáo dục phổ thông cho thiếu niên, yêu cầu học tập của miền xuôi và miền núi.

Công tác bổ túc văn hóa có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm nâng cao thêm trình độ văn hoá của công nhân, nông dân, cán bộ, bộ đội, làm cơ sở để nâng cao trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý cho các ngành kinh tế. Vì vậy, bổ túc văn hóa phải gắn với việc học tập thêm về kỹ thuật, nghiệp vụ. Chú trọng phát triển mạnh hình thức học tập ngoài giờ làm việc. Các ngành, các cơ quan, đoàn thể có trách nhiệm tổ chức và đôn đốc công tác bổ túc văn hóa thuộc phạm vi mình phụ trách.

Đến năm 1965, phải tổ chức cho đông đảo xã viên hợp tác xã nông nghiệp học xong lớp 1 và lớp 2, và nâng trình độ hiểu biết của cán bộ lãnh đạo ở xã, hợp tác xã và những thanh niên tiên tiến có thành tích trong sản xuất lên hết cấp I và một số lên hết cấp II.

Về giáo dục phổ thông phải tiến tới thực hiện phổ cập cấp I cho thiếu niên, trước hết ở miền xuôi và vùng thấp của miền núi.

Mở thêm trường cấp II và cấp III, nhưng phải căn cứ vào lực lượng giảng dạy, vào khả năng đài thọ của Nhà nước, của nhân dân, chú trọng nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Phải nghiên cứu tổ chức cho học sinh đến tuổi lao động tham gia sản xuất ở hợp tác xã ngoài giờ học tập; phải củng cố và phát triển các trường vừa học văn hóa, kỹ thuật, vừa lao động sản xuất.

Phải xúc tiến cải cách giáo dục và đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua "hai tốt", làm cho nhà trường gắn liền hơn nữa với xã hội, học tập với lao động, lý luận với thực tiễn. Chú ý giáo dục toàn diện (trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục) cho thanh niên, thiếu nhi; đặc biệt coi trọng và tăng cường giáo dục chính trị và tư tưởng.

Đến năm học 1965 - 1966, các lớp phổ thông sẽ có 3 triệu 55 vạn học sinh, tăng gần 86% so với năm học 1960 - 1961; cấp I tăng 50%, cấp II tăng 247%, cấp III tăng 275%. Riêng các trường phổ thông học nghề cấp II đến năm 1965 sẽ có 150.000 học sinh.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục trong kế hoạch 5 năm, phải tăng cường công tác biên soạn và nâng cao chất lượng các sách giáo khoa; hết sức chú ý đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, đưa trình độ giáo viên hiện nay lên ngang với yêu cầu của mỗi lớp, mỗi cấp. Chú trọng giải quyết giáo viên cho các lớp bổ túc văn hóa. Chấp hành đúng các chính sách và chế độ đãi ngộ vật chất đối với giáo viên dân lập và giáo viên dạy bổ túc văn hóa.

Trong việc xây dựng trường sở, cần hướng dẫn quy cách thích hợp với điều kiện, khả năng và phương tiện của từng vùng. Ngoài phần chi của ngân sách Nhà nước, cần vận động nhân dân tham gia xây dựng trường học và sắm các dụng cụ giảng dạy.

2. Văn hóa và thông tin.

Phải phát triển hơn nữa và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thông tin, nhằm phục vụ đắc lực nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng con người mới, thiết thực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.

Các ngành văn hóa và thông tin phải góp phần tích cực vào hai cuộc vận động lớn đang tiến hành, làm tốt công tác tuyên truyền và giáo dục về các chủ trương, chính sách của Đảng và của Nhà nước trong quần chúng nhân dân. Phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuống cơ sở, lấy việc vận động thực hiện kế hoạch nhà nước, giáo dục tư tưởng và phổ biến khoa học - kỹ thuật làm nội dung chủ yếu.

Phải dựa vào nhân dân và phúc lợi của tập thể mà ra sức đẩy mạnh phong trào văn nghệ quần chúng, làm cho đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng phong phú, vui tươi.

Phải chú trọng giải quyết tốt vấn đề kịch bản cho điện ảnh, sân khấu, tiết mục cho văn công, bản thảo cho xuất bản với nội dung chính trị tốt và chất lượng nghệ thuật cao, nhằm phục vụ cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng con người mới.

Phấn đấu để nâng cao dần mức sinh hoạt văn hóa của quần chúng. Năm 1965, số sách xuất bản là 34 triệu bản, tăng 15% so với năm 1960; số báo xuất bản là 78 triệu tờ, tăng 15%. Chú trọng hơn nữa việc nâng cao chất lượng sách báo, tổ chức hợp lý việc xuất bản và tăng cường công tác phát hành, đưa sách báo tới tay người đọc, đặc biệt chú trọng đẩy mạnh và hướng dẫn tốt việc đọc sách báo. Ngành điện ảnh phải dựa vào khả năng trong nước là chủ yếu để tăng thêm khả năng phục vụ quần chúng, tăng thêm số phim xây dựng ở trong nước. Nâng cao chất lượng các loại phim thời sự, phim tài liệu, phim khoa học - kỹ thuật; chú trọng phim đèn chiếu.

Đẩy mạnh sản xuất máy thu thanh, phát triển mạng lưới truyền thanh lên trên hai lần rưỡi so với năm 1960, mở rộng hơn nữa việc nghe đài trong nhân dân.

Công tác thư viện, câu lạc bộ, bảo tồn bảo tàng phải được nâng cao về chất lượng, phát huy mạnh mẽ tác dụng giáo dục, tuyên truyền, chú trọng phục vụ việc học tập của cán bộ, công nhân và học sinh và cố gắng phục vụ quần chúng rộng rãi hơn.

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa, văn nghệ về chính trị, nghiệp vụ, nghệ thuật để nâng cao từng bước chất lượng công tác văn hóa, nghệ thuật và phát triển phong trào văn hóa quần chúng.

Đi đôi với các hoạt động trong nước, phải tăng cường hơn nữa việc trao đổi văn hóa với nước ngoài, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa anh em và các nước láng giềng.

3. Bảo vệ sức khỏe.

Vấn đề bồi dưỡng và nâng cao sức khoẻ của nhân dân, giảm dần tỉ lệ ốm yếu, bệnh tật là một nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa và trong công cuộc củng cố quốc phòng.

Về y tế , phải lấy việc phòng bệnh làm chính. Chú trọng kết hợp chặt chẽ đông y và tây y trong công tác phòng bệnh, chữa bệnh và sản xuất thuốc. Tích cực dựa vào dân làm công tác phòng các bệnh dịch, bệnh nghề nghiệp và các bệnh xã hội. Ra sức tuyên truyền, giáo dục và hướng dẫn nhân dân ăn, ở, lao động, giải trí theo nếp sống mới, hợp vệ sinh. Xây dựng trạm vệ sinh phòng dịch ở các khu, tỉnh, thành và một số huyện lớn. Xúc tiến mạnh công tác tiêu diệt bệnh sốt rét; tăng cường các phòng chống lao, mắt hột, da liễu ở các địa phương; phát triển công tác tiêm phòng và chống dịch. Tăng cường vệ sinh thực phẩm và vệ sinh trong việc ăn uống. Chú trọng hơn nữa việc bảo vệ sức khỏe và việc cải thiện điều kiện làm việc, ăn, ở, nghỉ ngơi của công nhân, nhất là ở hầm mỏ, ở vùng rừng núi và ở các cơ sở có chất độc. Tăng cường công tác y tế ở miền núi, chú ý các vùng kinh tế mới.

Tăng cường công tác bảo vệ sức khỏe của các bà mẹ và trẻ em; Phát triển và củng cố các vườn trẻ. Tăng cường công tác đăng ký thai sản, thăm thai, đỡ đẻ; mở các phòng phụ khoa ở bệnh viện tỉnh và ở những huyện lớn.

Trong công tác chữa bệnh, chú ý nâng cao chất lượng về mọi mặt của các cơ sở y tế hiện có, đồng thời phát triển thêm một số cơ sở mới. Phát triển công tác chữa bệnh ngoại trú.

Củng cố và xây dựng tổ chức y tế xã.

Năm 1965, sẽ tăng số giường bệnh lên 29.500 giường. Khoảng 90% số xã có trạm y tế - hộ sinh; nhiều xã có y sĩ phụ trách về bảo vệ sức khỏe.

Cần tận dụng mọi khả năng trong nước để tăng mức sản xuất thuốc và dụng cụ y tế năm 1965 lên khoảng gấp hai lần với năm 1960. Tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho các xí nghiệp dược phẩm, xây dựng nhà máy thuốc kháng sinh. Mở rộng mạng lưới phân phối đến khắp các huyện và khoảng 50% trạm y tế hộ sinh xã. Tích cực bảo vệ và phát triển cây thuốc hiện có và gây giống một số cây mới cho thích nghi với điều kiện khí hậu, đất đai của ta.

Trong công tác đào tạo cán bộ, phải chú ý hơn nữa nâng cao chất lượng. Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ nghiên cứu khoa học. Tăng thêm số y tá, y sĩ và bác sĩ theo một tỉ lệ hợp lý.

Công tác thể dục thể thao có tác dụng thiết thực nâng cao sức khỏe của nhân dân để phục vụ sản xuất, phục vụ củng cố quốc phòng. Phải tiếp tục củng cố và mở rộng phong trào thể dục thể thao, đi đôi với việc nâng cao từng bước, có trọng điểm.

Đẩy mạnh các hoạt động thể thao quốc phòng và thể thao hiện đại phù hợp với đặc điểm nước ta, đồng thời phát triển một cách có chọn lọc và nâng cao các môn thể thao dân tộc. Bắt đầu đưa việc dạy thể dục và một số môn thể thao cần thiết vào chương trình học tập ở các trường học phổ thông, chuyên nghiệp và đại học. Phát triển mạnh thể dục trong các ngành sản xuất bằng những động tác thích hợp với nghề nghiệp.

12. Đời sống nhân dân

Đi đôi với việc đẩy mạnh phát triển sản xuất, cần tiếp tục cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.

Nhu cầu về đời sống của nhân dân ta ngày càng tăng. Trong điều kiện sản xuất còn thấp, phải tập trung sức giải quyết một cách thiết thực và có trọng điểm những nhu cầu thiết yếu nhất.

Muốn tiến lên một đời sống ấm no, hạnh phúc lâu dài cho toàn dân, con đường duy nhất là phải thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, phải chăm lo xây dựng từng bước cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bảo đảm phát triển nền kinh tế quốc dân ngày càng cân đối, và với nhịp độ nhanh. Nhằm mục đích nói trên, đi đôi với việc sử dụng tốt sự giúp đỡ của các nước anh em, nhân dân ta phải dựa vào sức lao động của mình là chính, phải cố gắng tích lũy vốn cho việc xây dựng kinh tế. Vì thế, phải nâng cao ý thức cần kiệm xây dựng Tổ quốc, ra sức tiết kiệm trong tiêu dùng cũng như trong sản xuất.

Những năm tới, trong việc cải thiện đời sống, phải tuỳ điều kiện cụ thể, có chính sách chiếu cố đến trẻ em, người già yếu, người mất sức lao động; đồng thời phải quán triệt hơn nữa nguyên tắc phân phối theo lao động, dựa vào khả năng về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng mà tổ chức tốt việc phân phối, nhằm bồi dưỡng sức lao động một cách hợp lý, kích thích mọi người tích cực đẩy mạnh sản xuất.

Với ý thức trách nhiệm của những lớp người đi trước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chúng ta phải giải quyết đúng đắn quan hệ giữa nhiệm vụ xây dựng kinh tế và nhiệm vụ cải thiện đời sống; phải lo cho hiện tại, đồng thời phải lo cho tương lai. Cần phải làm cho toàn dân ta thông suốt tư tưởng, phấn khởi trước mọi cố gắng về cải thiện đời sống, nâng cao quyết tâm, phát huy tinh thần phấn khởi cách mạng, hăng hái thi đua đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm.

Theo tinh thần nói trên, hướng cải thiện đời sống vật chất của công nhân, viên chức chủ yếu là tăng thêm thu nhập thực tế bằng các biện pháp: tổ chức tốt việc cung cấp lương thực, thực phẩm, ổn định giá cả; tăng thêm mức cung cấp một số loại vật phẩm tiêu dùng đối với những người làm lao động nặng. Tiếp tục mở rộng việc trả lương theo sản phẩm; thực hiện nâng cấp, nâng bậc và điều chỉnh những thang lương, mức lương chưa hợp lý. Đồng thời, chú trọng giúp đỡ thêm các gia đình đông con, tăng thêm các mặt phúc lợi xã hội. Chú trọng đầu tư xây dựng thêm nhà ở, sửa chữa nhà cũ, bảo đảm chỗ ở cho công nhân viên chức, và cải thiện một phần đối với những nơi ở quá chật hẹp.

Đối với nông dân, chủ yếu là phải phấn đấu thực hiện tốt kế hoạch sản xuất nông nghiệp; trên cơ sở đó mức sống của phần lớn nông dân lao động năm 1965 sẽ được nâng lên ngang với mức sống trước đây của trung nông lớp trên. Nhà nước phải chú trọng tăng thêm hàng công nghiệp bán về nông thôn. Phải cung cấp thêm vật liệu xây dựng (như tre, nứa, gỗ, xi măng…) đồng thời tích cực hướng dẫn các hợp tác xã sản xuất gạch, ngói, vôi, v.v... để phục vụ tốt hơn yêu cầu của nông dân về xây dựng nhà ở. Cố gắng tăng thêm và sử dụng tốt quỹ công ích của hợp tác xã, đẩy mạnh các sự nghiệp phúc lợi như phát triển nhóm giữ trẻ, mở trường học và phòng đọc sách báo, xây dựng trạm y tế - hộ sinh, sửa sang đường sá, cầu cống, giếng nước… xây dựng từng bước đời sống mới ở nông thôn.

Đối với các tầng lớp nhân dân khác như thợ thủ công, người đánh cá, làm muối, người buôn bán nhỏ, đồng bào Việt kiều mới về nước…, cần chú ý giúp đỡ sắp xếp việc làm, phát triển sản xuất và nâng cao dần mức thu nhập.

Về đời sống văn hóa, các mặt hoạt động đều phát triển mạnh. Đến năm 1965, chúng ta sẽ thu hút hầu hết trẻ em vào các lớp vỡ lòng, việc phổ cập cấp I được thực hiện từng bước. Trình độ văn hóa, kỹ thuật của đông đảo nhân dân xã viên và công nhân sẽ được nâng cao thêm một bước rõ rệt.

13. Phát triển kinh tế và văn hóa ở miền núi

Phải ra sức phát triển kinh tế và văn hóa ở miền núi, tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển toàn diện và cân đối của nền kinh tế quốc dân.

1. Về nông nghiệp, phải phấn đấu khắc phục tình trạng độc canh, chuyển biến một bước tình hình sản xuất phân tán, tự túc, tự cấp, tăng sản phẩm hàng hoá, cung cấp một phần cho nhu cầu chung và cải thiện đời sống cho đồng bào miền núi.

Sản xuất lương thực ở miền núi (gồm năm thứ chính là lúa, ngô, sắn, dong riềng, khoai) và các loại cây có bột khác phải được đẩy mạnh. Cố gắng giải quyết đủ lương thực cho nhân dân địa phương, kể cả đồng bào miền xuôi chuyển lên, cung cấp một phần khá cho các khu công nghiệp và công trường lớn do Trung ương quản lý và bảo đảm cơ sở thức ăn để phát triển chăn nuôi.

Phải hết sức tích cực mở rộng diện tích cây công nghiệp, vừa đẩy mạnh phát triển cây ngắn ngày, vừa tích cực gây cơ sở trồng cây dài ngày;

Chú trọng các loại cây có sợi (như bông, gai, lanh...), cây ăn quả (như dứa, chuối, cam, quýt, mận, đào, lê), một số đặc sản (như cây làm thuốc, quế, sa nhân, cách kiến), cây làm thực phẩm và làm dầu ăn (như đỗ tương, lạc, vừng) và các cây có dầu khác (như trẩu, sở, hồi, màng tạng...).

Diện tích cây công nghiệp ở miền núi năm 1965 sẽ lên tới 53.000 hécta, tăng khoảng 76% so với năm 1960 và chiếm 25% diện tích cây công nghiệp toàn miền Bắc; trong đó một số loại tăng nhanh như bông, gai, lạc, đỗ tương… Nghiên cứu để sớm quy vùng một số nơi đã có trồng cây công nghiệp và phát triển một số vùng cây mới.

Về chăn nuôi, phải khôi phục và phát triển mạnh đàn gia súc để cung cấp sức kéo, phân bón, thịt, da, sữa, len, mật ong… Phát triển mạnh trâu, bò, ngựa, lấy việc chăn nuôi sinh sản làm trọng tâm. Đẩy mạnh chăn nuôi lợn; phát triển gà, vịt, ngan, ngỗng; tùy điều kiện mà phát triển nuôi dê, cừu, thỏ, hươu, nai… Đến năm 1965, ở miền núi (chưa tính miền Tây khu 4 cũ), đàn trâu sẽ có 755.000 con, tăng khoảng 12% so với năm 1960, bò 176.000 con, tăng khoảng 10%.

Nghề rừng cần được phát triển mạnh, kết hợp chặt chẽ lực lượng quốc doanh với lực lượng của hợp tác xã, kết hợp chặt chẽ việc bảo vệ, tu bổ, cải tạo và trồng rừng với việc khai thác và chế biến lâm sản, nhằm thỏa mãn nhu cầu địa phương, cung cấp cho toàn quốc và cho xuất khẩu.

Phải tích cực vận động đồng bào miền xuôi lên tham gia xây dựng kinh tế miền núi, mở rộng thêm diện tích ruộng đất, phát triển lương thực, cây công nghiệp, chăn nuôi, nghề rừng và thủ công nghiệp. Đi đôi với việc làm tốt công tác tư tưởng, tăng cường đoàn kết giữa đồng bào địa phương và đồng bào mới đến, các cấp chính quyền ở miền núi phải tích cực giúp đỡ tổ chức sản xuất, ổn định từng bước đời sống, làm cho đồng bào miền xuôi lên gắn bó với quê hương mới, yên tâm, phấn khởi đẩy mạnh sản xuất. Để bảo đảm phát huy hiệu quả kinh tế tốt và lâu dài, phải đặc biệt chú trọng thực hiện các biện pháp chống xói mòn, giữ mầu, giữ đất, bảo vệ rừng và tài nguyên về rừng. Chú trọng cải tiến kỹ thuật, tích cực giải quyết vấn đề thuỷ lợi, thực hiện thâm canh tăng năng suất. Xúc tiến xây dựng các cơ sở nghiên cứu khoa học - kỹ thuật nhằm phục vụ sát yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp ở miền núi.

2. Về công nghiệp và thủ công nghiệp, chú trọng phát triển các ngành tư liệu sản xuất phục vụ nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông sản, lâm sản. Cần mở thêm các cơ sở phân bón. Củng cố các xưởng cơ khí; mở rộng sản xuất vật liệu xây dựng; đặc biệt chú ý mở thêm cơ sở chế biến dược liệu và tinh dầu...

Năm 1965 so với năm 1960, giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp miền núi (chưa tính miền Tây khu 4 cũ) sẽ tăng bình quân hàng năm 20%, trong đó công nghiệp quốc doanh địa phương tăng 26%, thủ công nghiệp 12%.

3. Về giao thông vận tải và bưu điện , sẽ mở rộng và nối liền mạng lưới giao thông đến các huyện, các vùng công nghiệp, vùng kinh tế quan trọng, phục vụ phát triển kinh tế và yêu cầu về trị an, quốc phòng. Từ huyện đi các xã và các bản tập trung, cố gắng mở thêm đường cho trâu, bò thồ. Tích cực phát triển các loại phương tiện vận tải như thuyền, xe nửa cơ giới, ngựa, trâu thồ… tích cực khai thác các đường thủy, tận dụng các đoạn sông, suối để chuyên chở bằng thuyền bè.

4. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua, bán của đồng bào miền núi, thương nghiệp quốc doanh phải nghiên cứu và tổ chức cơ sở ở các thị xã, các huyện lỵ, đẩy mạnh mua hàng lâm sản và bán hàng công nghiệp. Phát triển hợp tác xã mua bán hoặc ủy thác mua bán trong các hợp tác xã nông nghiệp.

5. Việc phát triển các sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế, có ý nghĩa rất lớn thúc đẩy nhiệm vụ xây dựng kinh tế miền núi.

Về giáo dục , tiến tới căn bản xóa nạn mù chữ cho các đồng bào từ 12 tuổi đến 40 tuổi. Đồng thời tiếp tục phát triển giáo dục phổ thông, chú ý phát triển mạnh cấp I, cấp II, giáo dục chuyên nghiệp và bổ túc văn hóa. Sử dụng tốt các chữ dân tộc để nâng cao nền văn hoá các dân tộc; kết hợp dạy chữ phổ thông và chữ dân tộc trong việc thanh toán mù chữ, bổ túc văn hóa ở các vùng dân tộc thiểu số.

Hết sức chú ý đào tạo cán bộ địa phương, mở rộng đội ngũ trí thức và công nhân của các dân tộc thiểu số; đào tạo cán bộ các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, y tế, giáo dục, địa chất...; và làm các nghề rèn, mộc, xây dựng... Học sinh phổ thông đầu năm học 1965 - 1966 sẽ có khoảng 40 vạn người, tăng 120% so với năm 1960-1961; số giáo viên phổ thông tăng hơn hai lần rưỡi.

Về văn hóa , phải đi sâu vào quần chúng nhân dân, phổ biến các kiến thức khoa học, xây dựng nếp sống mới, bớt dần mê tín dị đoan và các tệ tục. Đẩy mạnh phong trào văn hóa quần chúng, phát triển việc đọc sách báo, sử dụng một cách có chọn lọc và có nâng cao các hình thức văn nghệ dân tộc, đồng thời mở rộng việc chiếu bóng và việc dùng đèn chiếu… Tăng thêm sách, báo, mở rộng các hệ thống truyền thanh, tăng thêm các đội chiếu bóng. Số sách phát hành sẽ từ 2 triệu bản năm 1960 lên gần 4 triệu bản năm 1965; số lượt người xem chiếu bóng từ 8 triệu lên hơn 13 triệu lượt.

Về y tế , mở thêm bệnh viện, bệnh xá ở miền núi, tăng thêm phương tiện phòng và trị bệnh, nhất là các bệnh kinh niên, thanh toán về căn bản bệnh sốt rét; đặc biệt chú trọng vệ sinh phòng bệnh. Đến năm 1965, các huyện miền núi sẽ có bệnh xá, trong đó có khoảng một nửa có trình độ ngang bệnh viện. Các xã vùng thấp, vùng giữa và một nửa số xã ở vùng cao sẽ có trạm y tế.

PHẦN THỨ BA

TIẾN LÊN HOÀN THÀNH THẮNG LỢI KẾ HOẠCH
NHÀ NƯỚC NĂM 1963, LÀM ĐÀ CHO VIỆC THỰC HIỆN
KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Trong phần này, tôi xin trình bày mấy vấn đề chính của kế hoạch Nhà nước năm 1963.

I. NHẬN ĐỊNH VẮN TẮT VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1962

Trong năm 1962, mặc dù bão lụt gây thiệt hai lớn ở một số địa phương, sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục phát triển và tăng 5,5% so với năm 1961. Một tiến bộ mới, quan trọng là chúng ta đã dần dần xác định được phương hướng sản xuất đúng hơn cho các tỉnh, các vùng. Ở nhiều nơi, nhân dân ta đã thực hiện tốt chủ trương mở rộng diện tích bằng tăng vụ và khai hoang. Năm 1962, diện tích khai hoang đã gieo trồng tăng thêm trên 76 nghìn hécta; diện tích tăng vụ mở rộng thêm được 132 nghìn hécta, nhiều hơn mức tăng trong năm 1961 trên một vạn hécta.

Sản lượng lương thực quy ra thóc năm 1962 đạt khoảng trên 5,7 triệu tấn; sản lượng các loại cây công nghiệp chủ yếu tăng khá.

Tình hình chăn nuôi trong năm 1962 có tiến bộ và bước đầu phát triển toàn diện hơn trước: đàn trâu tăng 2% so với năm 1961, đàn bò tăng 0,6%, đàn lợn tăng 13,4%; các loại gà, vịt... tăng 2,4%, diện tích nuôi cá tăng 6,5%.

Vốn nhà nước đầu tư để xây dựng thuỷ lợi tăng 27% so với năm 1961, các loại tư liệu sản xuất cung cấp cho hợp tác xã tăng 19%, trong đó phân bón hoá học tăng 45,4%. Nhà nước cũng đã dành một số tiền khá lớn cho nông dân vay, số dư nợ tăng 31,5% so với năm 1961.

Sản xuất công nghiệp vượt kế hoạch về giá trị sản lượng và tăng 23,2% so với năm 1961, riêng công nghiệp quốc doanh tăng 29,7%, thủ công nghiệp tăng 14,5%. So với năm 1961, nhiều ngành công nghiệp Trung ương tăng khá, như khai thác và luyện kim có chất sắt gấp gần năm lần rưỡi, sành sứ thuỷ tinh năm lần, sửa chữa và chế tạo cơ khí tăng 35,6%, hoá chất phân bón tăng 52,6%, điện lực tăng 29,6%, công nghiệp thực phẩm tăng 28,3%. Một số công trình xây dựng cơ bản đã hoàn thành và được đưa vào sản xuất, cung cấp một số mặt hàng mới như phân suppe lân, săm lốp xe hơi, thuốc trừ sâu, bóng đèn phích nước...

Trong số vốn Nhà nước đầu tư vào kinh tế và văn hoá năm 1962, phần đầu tư vào công nghiệp chiếm 44%, trong đó nhóm A chiếm 81,8% và tăng 5,5% so với năm 1961. Đầu tư vào nông nghiệp được đặc biệt chú trọng, tăng tới 39,4%. Chúng ta đã thi công 135 công trình trên hạn ngạch từ năm 1961 chuyển sang và xây dựng mới 27 công trình, đã hoàn thành và đưa vào sản xuất 50 công trình.

Các ngành giao thông vận tải tiếp tục phát triển: vận tải hàng hoá trong nước tăng 4% so với 1961; vận tải hành khách tăng 26%.

Cũng trong năm 1962, đã tăng mức mua hàng nông sản và hàng công nghiệp 19,6% so với năm 1961; tăng mức bán lẻ của thương nghiệp xã hội 4,3%, trong đó mức bán lẻ của thương nghiệp quốc doanh tăng trên 12,6%. Trong những tháng cuối năm, ngành thương nghiệp đã cố gắng mở rộng kinh doanh, cải tiến tổ chức phân phối, phục vụ tốt hơn các nhu cầu tiêu dùng chủ yếu của nhân dân. Về ngoại thương, xuất khẩu tăng 10% so với năm1961, trong đó xuất về nông sản, lâm sản tăng 17,8%.

Các ngành văn hoá xã hội đều đạt nhiều thành tích mới: so với năm 1961, số học sinh phổ thông tăng 12,18%, số học sinh các trường phổ thông lao động tăng gấp đôi, số báo và tạp chí phát hành tăng 12,4%. Số cơ sở chữa bệnh tăng 19,5%, số giường bệnh tăng 7,7%.

Năm 1962 cũng ghi thêm những tiến bộ mới trong công tác lãnh đạo kinh tế. Trải qua việc thực hiện kế hoạch, chúng ta nhận thức được sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những vấn đề lớn của công cuộc phát triển công nghiệp và nông nghiệp, phát triển kinh tế và văn hoá, đồng thời nhìn thấy sáng tỏ hơn những phương hướng và biện pháp cụ thể để giải quyết những vấn đề lớn ấy.

Trong quá trình thực hiện kế hoạch, Hội đồng Chính phủ đã làm đều đặn việc kiểm điểm tình hình, đề ra biện pháp và mục tiêu phấn đấu cho từng tháng, từng quý. Đối với những kiến nghị của Uỷ ban kế hoạch và ngân sách Quốc hội cũng như ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Hội đồng Chính phủ rất chú trọng nghiên cứu và áp dụng trong công tác lập và chỉ đạo thực hiện kế hoạch; có nhiều ý kiến đã được thể hiện trong các chính sách hoặc chế độ cụ thể do Hội đồng Chính phủ ban hành.

II. PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ CHUNG CỦA KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1963

Thưa các đồng chí đại biểu,

Bước sang năm 1963, năm thứ ba của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, chúng ta có nhiều thuận lợi mới. Phương hướng sản xuất của công nghiệp và nông nghiệp được xác định cụ thể. Các phong trào thi đua phát triển thêm rộng và sâu. Trải qua hai năm phấn đấu để phát triển sản xuất và củng cố tổ chức, các hợp tác xã nông nghiệp và thủ công nghiệp đang được ổn định về mặt tổ chức, dần dần có thêm kinh nghiệm về quản lý sản xuất, quản lý lao động, quản lý tài vụ và về cải tiến kỹ thuật; những điển hình tốt ngày càng thêm nhiều.

Trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1963, chúng ta phải ra sức phát huy những khả năng sẵn có và những khả năng mới, tích cực khắc phục các khó khăn đưa nền kinh tế tiếp tục phát triển với nhịp độ nhanh, mạnh và vững chắc.

Phải nắm vững nhiệm vụ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chú trọng tập trung sức tăng cường sơ sở vật chất và kỹ thuật cho nông nghiệp, đẩy mạnh củng cố hợp tác xã, để bảo đảm phát triển sản xuất nông nghiệp tiến lên từng bước vững chắc tạo cơ sở thuận lợi cho sự phát triển của công nghiệp.

Phải tăng cường chỉ đạo đối với công nghiệp, hướng công nghiệp phục vụ mạnh hơn nữa sự phát triển của nông nghiệp và của các ngành kinh tế khác, đáp ứng những yêu cầu cấp bách về tư liệu sản xuất và về hàng tiêu dùng.

Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phải cải tiến công tác lưu thông và phân phối hàng hoá, cố gắng giải quyết tốt hơn một số vấn đề bức thiết về đời sống của nhân dân.

Những nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1963 là:

1. Ra sức phát triển nông nghiệp, làm cho cơ cấu nông nghiệp tiến bộ thêm một bước; tích cực phấn đấu tăng sản xuất lương thực, đặc biệt chú trọng phát triển mạnh hoa màu; tạo cơ sở thức ăn để phát triển chăn nuôi; đồng thời phải tích cực phát triển cây công nghiệp, nhất là những cây có giá trị kinh tế cao.

2. Ra sức đẩy mạnh sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, tập trung lực lượng phát triển những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có tác dụng quan trọng đến sản xuất, đời sống nhân dân và đến xuất khẩu. Chú trọng đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng bằng nguyên liệu trong nước. Chú ý đúng mức các ngành công nghiệp gia công sản xuất hàng xuất khẩu.

3. Tiến hành xây dựng cơ bản với quy mô hợp lý, tập trung vốn giải đáp những yêu cầu của sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, và giải quyết thêm một bước vấn đề nhà ở. Phải đẩy mạnh thi công các công trình trọng điểm, nhất là những công trình sẽ được đưa vào sản xuất trong những năm 1963, 1964, 1965. Chú trọng cải tiến và tăng thêm thiết bị đối với các xí nghiệp hiện có, và tuỳ điều kiện mà xây dựng một số công trình nhỏ có thể sớm phát huy hiệu quả. Chú trọng giúp đỡ các địa phương xây dựng những công trình trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng.

4. Cố gắng nâng cao mức sử dụng các loại phương tiện vận tải, tăng thêm một số phương tiện, nhất là phương tiện đường thuỷ; điều chỉnh hợp lý các loại phương tiện vận tải trên các tuyến đường bộ, bảo đảm vận chuyển và phân phối nhanh chóng các loại vật tư, nhất là các loại vật tư quan trọng đối với sản xuất và đời sống.

5. Chấn chỉnh và cải tiến công tác lưu thông và phân phối hàng hoá, làm tốt việc thu mua nông sản, việc quản lý và cung cấp lương thực, thực phẩm (chú trọng thành phố và khu công nghiệp) và hàng công nghiệp (chú trọng nông thôn); phấn đấu giữ vững giá cả, nhất là đối với những loại hàng thiết yếu.

Tăng cường công tác ngoại thương, sắp xếp hợp lý việc tiêu dùng trong nước cố gắng tăng xuất khẩu để bảo đảm nhập những loại nguyên liệu, vật liệu, thiết bị và hàng tiêu dùng cần thiết.

6. Tích cực giảm nhẹ biên chế của bộ máy quản lý nhà nước và các đoàn thể; điều chỉnh sức lao động trong khu vực sản xuất, tăng cường kỷ luật lao động; quản lý chặt chẽ nhân khẩu không sản xuất nông nghiệp, nhất là nhân khẩu các thành phố. Ra sức nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.

Phải tập trung sức chỉ đạo cuộc vận động "cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc", và cuộc vận động "nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế - tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu". Phải tiến hành từng bước vững chắc, bảo đảm đem lại kết quả tốt, động viên quần chúng phát huy mọi khả năng, đẩy mạnh thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1963.

Căn cứ vào những nhiệm vụ trên đây, đề nghị Quốc hội thông qua những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1963 như sau:

1. Công nghiệp

- Giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp

2.377 triệu đồng

So với năm 1962 tăng khoảng

15,4%

- Điện phát ra

442.000.000 Kw/giờ

- Than sạch

3.250.000 tấn

- Apatít

900.000 tấn

- Quặng crôm

30.300 tấn

- Phân lân

195.000 tấn

- Máy cắt gọt kim loại

620 cái

- Máy bơm nước

1.070 cái

- Máy phát lực 20 – 40 mã lực

602 cái

- Xi măng

598.000 tấn

- Gỗ tròn (vận chuyển đến chỗ phân phối)

920.000 m 3

- Cá (đánh ở biển và sông)

142.000 tấn

- Muối

170.000 tấn

- Nước mắm

42.000.000 lít

- Đường và mật

34.600 tấn

- Chè

2.840 tấn

- Thuốc lá

98.000.000 bao

- Vải và lụa

101.000.000 mét

- Giấy

22.000 tấn

- Xe đạp

 

50.000 chiếc

2. Nông nghiệp

 

- Giá trị sản lượng nông nghiệp

2.480 triệu đồng

So với năm 1962 tăng

5,5%

- Lương thực (quy ra thóc)

6.100.000 tấn

- Bông hạt

6.200 tấn

- Đay bẹ

16.200 tấn

- Gai bẹ khô

1.100 tấn

- Cói khô

23.200 tấn

- Lạc vỏ

43.000 tấn

- Mía cây

739.000 tấn

- Thuốc lá (lá khô)

4.400 tấn

- Chè khô

2.800 tấn

- Cà phê nhân

1.200 tấn

- Diện tích trồng dâu tằm

2.500 héc-ta

- Diện tích khai hoang

106.000 héc-ta

- Diện tích trồng cây gây rừng

42.000 héc-ta

- Diện tích lúa được tưới nước suốt vụ cả năm (kể cả thuỷ lợi nhỏ)

2.036.000 héc-ta

- Trâu và bò

2.370.000 con

- Ngựa

47.600 con

- Lợn

4.360.000 con

- Dê

94.500 con

- Thịt hơi (trâu, bò, lợn)

189.000 tấn

- Cá nuôi

 

98.000 tấn

3. Vận tải

 

- Khối lượng hàng hoá vận tải trong nước

1.323 triệu tấn/cây số

So với năm 1962 tăng

 

12,5%

4. Xây dựng cơ bản

 

- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản về kinh tế và văn hoá

723 triệu đồng

Tỷ trọng đầu tư vào từng ngành

%

- Khu vực có tính chất sản xuất

86%

Công nghiệp

46%

Nông nghiệp

22,3%

Vận tải và bưu điện

14,5%

- Khu vực không có tính chất sản xuất

14%

Nhà ở

4,8%

Văn hoá giáo dục và bảo vệ sức khoẻ

 

4,7%

5. Nội thương

 

- Mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa

 

1.588 triệu đồng

So với năm 1962 tăng

Hàng bán lẻ chủ yếu:

 

9,7%

- Lương thực (quy ra gạo)

623.000 tấn

- Thịt xô (trâu, bò, lợn)

30.000 tấn

- Nước mắm

39.000.000 lít

- Đường và mật

18.300 tấn

- Vải và lụa

88.500.000 mét

- Chiếu cói

2.500.000 đôi

- Giấy viết

5.800 tấn

- Xe đạp

 

60.000 chiếc

6. Ngoại thương

 

- Giá trị hàng xuất khẩu so với năm 1962 tăng

19%

- Giá trị hàng nhập khẩu so với năm 1962 tăng

 

12%

7. Năng suất lao động và giá thành

 

- Năng suất lao động một công nhân viên sản xuất công nghiệp quốc doanh trung ương tăng

 

6%

- Năng suất lao động một công nhân xây lắp tăng

2%

- Năng suất lao động một nhân viên vận tải quốc doanh tăng

 

5%

- Giá thành các sản phẩm có thể so sánh được của công nghiệp quốc doanh trung ương giảm

 

1,9%

- Giá thành vận tải (thuộc Bộ Giao thông) giảm

4,2%

- Phí lưu thông nội thương giảm

 

6,2%

8. Đào tạo công nhân và cán bộ kỹ thuật

- Số công nhân có mặt đào tạo trong năm

42.300 người

- Số sinh viên đại học đầu năm học (1963 - 1964)

31.600 người

- Số học sinh trung cấp đầu năm học (1963 - 1964)

 

69.800 người

9. Văn hoá, giáo dục, y tế

 

- Số sách xuất bản

30.500.000 bản

- Số báo xuất bản

73.500.000 tờ, tập

- Số học sinh phổ thông đầu năm học

3.056.000 em

- Số bệnh viện và bệnh xá

388 cái

- Số giường bệnh

27.140 giường

III. NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU TRONG KẾ HOẠCH NĂM 1963 CỦA CÁC NGÀNH

1. Ra sức phát triển sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, mở mang xây dựng cơ bản, cải tạo và phát triển mạng lưới giao thông vận tải

Về công nghiệp, phải sử dụng tốt hơn nữa công suất của các xí nghiệp hiện có, chú trọng phát triển mạnh một số sản phẩm rất cần thiết cho nhu cầu trong nước và cho xuất khẩu, như than, apatít, gỗ, xi măng và một số mặt hàng tiêu dùng chủ yếu như vải, cá, muối, đồ dùng gia đình, đồng thời tích cực đẩy mạnh những mặt hàng gia công cho xuất khẩu.

Đi đôi với việc đẩy mạnh khai thác than ở các mỏ lớn, phải tích cực khai thác than nhiệt lượng thấp (ở Hòn Gai, Mạo Khê, Na Dương) và khai thác các mỏ than địa phương để tăng mức cung cấp than cho công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp. Phải quy định lại các tiêu chuẩn dùng than ở các cơ sở sản xuất, hết sức tiết kiệm than.

Phải phát huy năng lực sản xuất cơ khí, nhưng phải nhằm đúng nhu cầu thực tế của các ngành về số lượng, quy cách, phẩm chất; và phải sắp xếp cho phù hợp với khả năng cung cấp phụ tùng, vật liệu; kiên quyết giảm bớt hàng ứ đọng. Phải tích cực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thử và chuẩn bị sản xuất mặt hàng mới.

Để phục vụ nông nghiệp, phải tăng mức sản xuất máy bơm tưới ruộng, máy bơm hút tự động, các loại nông cụ thường, nông cụ cải tiến và nửa cơ giới, các máy móc nông nghiệp theo sau máy kéo, chú trọng sản xuất các loại máy chế biến nông sản (ép mía, làm bột, thái khoai, sắn).

Ngành cơ khí phải cung cấp toa xe hàng và toa xe khách, tàu kéo, canô, phụ tùng ôtô, các phương tiện vận tải thô sơ và cải tiến cho ngành vận tải, sản xuất thuyền gỗ và thuyền máy cho nghề cá; sản xuất các loại máy thi công theo yêu cầu của ngành xây dựng. Tăng thêm mức sản xuất lôcô loại 75 mã lực, máy phát điện chạy bằng hơi than; sản xuất máy nổ loại 20 mã lực, máy phát điện và động cơ điện cỡ nhỏ. Phải thoả mãn nhu cầu các ngành về máy cắt gọt.

Về gỗ, phải đẩy mạnh vận xuất và vận chuyển, giải quyết việc vận tải từ khu 4 cũ ra, đồng thời chuyển một số cơ sở cưa xẻ; đóng thuyền, làm đồ gỗ vào khu 4 cho gần nguyên liệu, giảm bớt khối lượng gỗ cần vận chuyển.

Phải đẩy mạnh việc tẩm gỗ để sử dụng tốt hơn các loại gỗ tạp; tận dụng các cơ sở tẩm gỗ có và tổ chức thêm một số cơ sở ở Hải Phòng, Hà Nội, Vinh, Thái Nguyên và nâng cao mức dùng các loại gỗ đó.

Đẩy mạnh khai thác các loại lâm sản khác: tre, nứa, mây, song, lá, củ nâu...

Để đẩy mạnh nghề cá, phải cố gắng cung cấp đủ gỗ đóng thuyền (thuyền gỗ và thuyền máy), cung cấp thêm tơ, sợi, làm lưới. Chú trọng củng cố các hợp tác xã để tăng nhanh sản lượng cá, góp phần tích cực giải quyết vấn đề thực phẩm. Chú trọng hơn nữa, việc chỉ đạo kỹ thuật đánh cá và bảo đảm an toàn lao động cho nghề cá.

Sản xuất muối cần được coi trọng. Tăng cường chỉ đạo sản xuất muối, nhất là ở các tỉnh Nam Định, Nghệ An, Thanh Hoá, Hà Tĩnh. Sửa chữa các ô nề, củng cố các đê cống, tăng cường củng cố hợp tác xã làm muối, quản lý tốt lao động trong hợp tác xã. Cố gắng làm thêm muối vụ thu - đông để tăng sản lượng muối. Khuyến khích mở rộng đồng muối để mở rộng sản xuất trong những năm sau.

Về nông nghiệp, phải phấn đấu phát triển mạnh về cả ba mặt lương thực, chăn nuôi, cây công nghiệp.

Năm 1963, phải cố gắng đạt khoảng 6.100.000 tấn lương thực (quy ra thóc). Diện tích trồng các loại hoa mầu ít nhất phải chiếm trên 21% trong toàn bộ diện tích gieo trồng lương thực, sản lượng hoa mầu trên 25% sản lượng lương thực.

Phải tích cực thực hiện việc sản xuất lương thực và rau ở các đơn vị quân đội, công an vũ trang, các cơ quan, trường học, các thành phố, thị trấn. Đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, nhất là nuôi lợn để tăng nhanh nguồn thực phẩm và phân bón. Các địa phương phải có kế hoạch phát triển mạnh các loại: gà, vịt, ngan, ngỗng, thỏ, dê... Năm 1963, đàn lợn phải đạt 4 triệu 36 vạn con.

Bước đầu phân vùng sản xuất; phát triển các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, chú trọng bông, chè, mía, thuốc lá, đay, gai, dâu tằm, cói... Phải tập trung chỉ đạo mở rộng diện tích, đồng thời cố gắng chăm bón, tăng năng suất.

Về các biện pháp kỹ thuật, để bảo đảm kế hoạch sản xuất nông nghiệp năm 1963, trước hết phải đẩy mạnh công tác thuỷ lợi, động viên các hợp tác xã tích cực làm thuỷ lợi nhỏ, sử dụng thật tốt những công trình thuỷ lợi và hệ thống nông giang đã có. So với năm 1962, diện tích tưới vụ chiêm tăng khoảng 20.000 hécta, vụ thu tăng 16.000 hécta, vụ mùa tăng 37.000 hécta.

Về phân, đẩy mạnh khai thác các loại phân chuồng, phân xanh, phù sa; tích cực hướng dẫn việc dùng suyp-pe lân; cố gắng tăng phân đạm. Cố gắng cung cấp than và phương tiện vận tải bảo đảm sản xuất 30 vạn tấn vôi để cải tạo các vùng đất bạc mầu, đất chua.

Về xây dựng cơ bản, phải tập trung vốn cho nông nghiệp, công nghiệp, vận tải, đồng thời chú ý thích đáng việc xây dựng nhà ở.

Vốn xây dựng công nghiệp chiếm 46% vốn đầu tư về kinh tế và văn hoá, trong đó nhóm A chiếm 82,3%, nhóm B chiếm 17,7%. Trong phần vốn do trung ương quản lý, chủ yếu tập trung cho việc xây dựng khu gang thép Thái Nguyên, nhà máy phân đạm, nhà máy điện Uông Bí, các trạm biến thế và đường dây dẫn điện từ Uông Bí đi Hải Phòng, Hà Nội, Cẩm Phả; xây dựng các mỏ than; khai thác và chế biến gỗ; hoàn thành một số xí nghiệp công nghiệp nhẹ như Nhà máy dệt 8-3, xưởng mỳ chính, Xưởng bột giấy Vạn Điểm v.v., và chuẩn bị mở rộng một số công trình công nghiệp nhẹ khác. Ở các địa phương, cần dành vốn để giải quyết các yêu cầu về khai thác đá, nung vôi, làm gạch, ngói, đóng thuyền đánh cá, thuyền vận tải và xây dựng một số cơ sở công nghiệp nhẹ.

Vốn đầu tư vào nông nghiệp chiếm 22,3%, chủ yếu nhằm tiếp tục xây dựng các công trình thuỷ lợi, tăng thêm máy bơm, máy kéo và phát triển mạng lưới khoa học kỹ thuật ở các tỉnh. Ngoài ra, Nhà nước cho các hợp tác xã nông nghiệp vay vốn để khai hoang, mua trâu cày, mua phân bón và vôi, xây chuồng trại, kho, sân phơi... Kể cả vốn cho vay thì vốn đầu tư vào nông nghiệp chiếm 25,3% tổng số vốn đầu tư xây dựng về kinh tế và văn hoá.

Để khắc phục những khó khăn về vận tải trong việc phục vụ sản xuất, xây dựng và lưu thông hàng hoá, phải tích cực nâng cao mức sử dụng các loại phương tiện hiện có và tăng thêm phương tiện, tăng cường cơ giới hoá việc bốc dỡ và cải tiến tổ chức vận tải. Tập trung lực lượng vận chuyển tốt các loại hàng chủ yếu như than, apatít, gỗ, xi măng, đá, cát sỏi, phân bón, vôi, lương thực, máy móc, xăng dầu... Các ngành phải phối hợp chặt chẽ với Bộ Giao thông để sắp xếp kế hoạch vận tải cho sát, hết sức tránh gây ra bị động; các ngành có phương tiện vận tải phải quản lý chặt chẽ việc sử dụng các phương tiện đó.

Khối lượng hàng hoá luân chuyển trong nước năm 1963 là 1.323 triệu tấn/cây số, tăng 12,5% so với năm 1962; khối lượng hành khách 1.658 triệu hành khách/cây số, tăng 7,8%.

Phải phát triển mạnh vận tải đường sông: chú trọng sửa chữa và tăng thêm phương tiện, dùng canô, tàu lai để dắt thuyền; nạo vét lòng sông, quản lý tốt các bến sông; tăng cường khâu bốc dỡ, cải tiến tổ chức bốc hàng và xếp hàng; hết sức chú ý củng cố các hợp tác xã vận tải.

Rất coi trọng phát triển mạng lưới giao thông vận tải ở nông thôn và miền núi. Điều chỉnh hợp lý các luồng vận tải, hết sức hạn chế vận chuyển ôtô trên các đường chạy song song với đường sắt và đường sông.

Tăng thêm xe vận tải, rơmoóc và xe chở khách; phát triển mạng lưới sửa chữa ôtô, cố gắng cung cấp săm lốp và phụ tùng.

Về đường biển, đặc biệt chú ý tăng năng lực của cảng Hải Phòng phục vụ kịp thời xuất nhập khẩu.

2. Tăng cường công tác thương nghiệp, cải tiến hơn nữa khâu lưu thông và phân phối; đẩy mạnh xuất khẩu

Về thu mua lương thực, từ vụ chiêm năm 1963 này, sẽ thực hiện mua thóc và ngô theo nghĩa vụ ổn định; ngoài ra phải tích cực vận động nông dân bán thêm thóc và ngô ngoài nghĩa vụ và bán các loại lương thực khác.

Về các loại cây công nghiệp như bông, cói, lạc, thầu dầu..., cố gắng mua theo một tỷ lệ cao hơn năm 1962. Tiếp tục mở rộng ký hợp đồng và cung cấp hàng công nghiệp cho nông thôn.

Mức bán lẻ của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa sẽ tăng 9,7% so với năm 1962, trong đó những loại hàng thiết yếu như: thuốc tăng 50%, chiếu cói tăng 14%, gỗ 38%, xi măng 67%, xe đạp 20%.

Công tác ngoại thương năm 1963 phải tiếp tục tổ chức và đẩy mạnh xuất khẩu một cách tích cực và vững chắc, đưa mức xuất khẩu tăng 19% so với năm 1962, trong đó sản phẩm công nghiệp tăng 18,4%, sản phẩm nông nghiệp tăng 63%.

Về nhập khẩu, phải hết sức tiết kiệm, tập trung sức giải quyết những yêu cầu chủ yếu nhất phục vụ sản xuất nông nghiệp sản xuất công nghiệp, giao thông vận tải. Đồng thời, bảo đảm nhập một số hàng tiêu dùng cần thiết cho đời sống của nhân dân. Kế hoạch nhập khẩu năm 1963 sẽ tăng 12% so với năm 1962.

Ngành ngoại thương phải tăng cường quản lý kinh doanh, phối hợp với các ngành sản xuất và các địa phương, cố gắng tăng thêm nguồn hàng xuất khẩu.

3. Sắp xếp lực lượng lao động xã hội, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật

Phải tích cực vận động đồng bào miền xuôi lên miền núi để cùng đồng bào địa phương tiếp tục mở rộng thêm diện tích ruộng đất, đẩy mạnh phát triển sản xuất.

Phải tích cực giảm bớt số người không sản xuất nông nghiệp, giảm nhẹ biên chế của các ngành, tăng cường lực lượng lao động cho sản xuất. Tích cực giảm bớt biên chế của các ngành xây dựng cơ bản, thương nghiệp, hành chính, của các đoàn thể và giảm bớt số người không trực tiếp sản xuất ở các xí nghiệp, công trường. Tích cực giảm nhẹ biên chế Nhà nước theo hướng giảm bớt ở trung ương, sắp xếp hợp lý cấp tỉnh, đơn giản biên chế huyện, tăng cường cán bộ cho xã, hợp tác xã.

Đối với các xí nghiệp mới đi vào sản xuất, cần lấy thêm lao động thì trước hết phải điều chỉnh ở các ngành khác đến, phải quản lý chặt chẽ việc lấy người mới.

Đối với các thành thị, nhất là các thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định), phải tích cực hạn chế việc đưa người từ nông thôn (kể cả dân ngoại thành) vào nội thành; đồng thời phải tích cực chuyển đi nơi khác những cơ quan, trường học không cần phải ở thành phố, chuyển bớt một số người ở thành phố đi nơi khác tham gia sản xuất hoặc làm các nghề phục vụ...

Về công tác đào tạo cán bộ và công nhân năm 1963 sẽ tuyển vào các trường 5.400 sinh viên đại học và 10.200 học sinh chuyên nghiệp trung cấp; ngoài ra, có 2 vạn người học các lớp tại chức theo chương trình đại học và trung cấp. Ngoài số lưu học sinh, sẽ gửi ra nước ngoài khoảng 100 cán bộ đi học theo chương trình nghiên cứu sinh. Trong năm 1963, sẽ có trên 5.000 cán bộ kỹ thuật về công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ sản, y tế ra phục vụ các xã và hợp tác xã; tính đến cuối năm, số cán bộ kỹ thuật trình độ đại học phục vụ trong các ngành kinh tế và văn hoá sẽ có khoảng 13.900 người, tăng 45% so với năm 1962; số cán bộ trung cấp sẽ có khoảng 59.700 người, tăng 61,5%.

Số công nhân kỹ thuật sẽ được đào tạo trong năm 1963 là 42.300 người, tăng 18% so với năm 1962. Sẽ lấy 84% là công nhân sản xuất có trình độ bậc I, bậc II và 16% là con em công nhân đang học lớp 7, lớp 10 để đào tạo thành những công nhân kỹ thuật.

4. Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân

Về đời sống vật chất, phải tập trung sức giải quyết có trọng điểm một số nhu cầu cấp bách của công nhân, viên chức, nhân dân thành thị và của nông dân.

Nâng mức cung cấp lương thực cho các bà mẹ ở cữ, cho sinh viên đại học và học sinh trung cấp chuyên nghiệp, cho các vùng trồng cây công nghiệp theo hợp đồng ký với Nhà nước và mức cung cấp đường cho những người làm lao động nặng. Tăng mức bán về nông thôn một số hàng như thuốc, vải, xe đạp, đồ gỗ và các loại vật liệu xây dựng nhà cửa (gỗ, tre, nứa, lá, xi măng).

Phải làm tốt việc cung cấp các loại thực phẩm như rau, cá, trứng, gà, vịt... cho các thành phố, khu công nghiệp, nhất là các nhà ăn tập thể; làm tốt hơn nữa việc quản lý thị trường, bình ổn giá cả để bảo đảm thu nhập thực tế của công nhân, viên chức và nhân dân thành thị.

Nghiên cứu định mức lương cho những nghề chưa có trong thang lương năm 1960. Tiếp tục thi hành việc nâng bậc và mở rộng việc trả lương theo sản phẩm.

Xây dựng thêm nhà ở; sử dụng tốt các quỹ phúc lợi xí nghiệp, mở rộng phúc lợi tập thể: nhà ăn, nhà giữ trẻ, lớp mẫu giáo...

Về y tế, tiếp tục củng cố và phát triển các trạm y tế - hộ sinh xã, bước đầu xây dựng các trạm phòng dịch ở tỉnh. Tiếp tục thực hiện kế hoạch tiêu diệt bệnh sốt rét và các bệnh phổ biến khác; phân phối hợp lý số giường bệnh hiện có. Bước đầu chấn chỉnh hệ thống điều trị từ tỉnh đến xã, mở rộng công tác điều trị ngoại trú. Chuẩn bị thống nhất quản lý các cơ sở y tế của các ngành để sử dụng tốt hơn khả năng hiện có. Xúc tiến việc tổng kết kinh nghiệm về Đông y.

Về giáo dục, phát triển mạnh các lớp mẫu giáo, vỡ lòng nhất là ở các cơ sở sản xuất. Bước đầu phổ cập cấp I cho thiếu niên; phát triển cấp II một cách vững chắc; nâng cao một bước chất lượng giảng dạy và học tập ở cấp III.

Tăng thêm sách giáo khoa, sách khoa học - kỹ thuật, sách cho thiếu nhi. Nâng cao chất lượng báo.

Về điện ảnh, chú trọng tăng phim tài liệu, phim phổ biến khoa học - kỹ thuật; củng cố cá đội chiếu bòng, tăng cường phục vụ nông thôn và miền núi.

PHẦN THỨ TƯ

TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ KINH TẾ - TÀI CHÍNH,
ĐẨY MẠNH THI ĐUA YÊU NƯỚC, PHÁT HUY LỰC LƯỢNG
SÁNG TẠO CỦA NHÂN DÂN, PHẤN ĐẤU HOÀN THÀNH THẮNG LỢI KẾ HOẠCH

I- TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ KINH TẾ - TÀI CHÍNH,
NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) được Quốc hội thông qua sẽ đem lại cho nhân dân ta một nguồn động viên rất lớn. Đó là phương hướng phấn đấu của toàn thể nhân dân ta ở miền Bắc đang hăng hái thi đua lao động trong các xí nghiệp, công trường, nông trường, hợp tác xã..., nhằm đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến thêm một bước mới. Đó cũng là niềm tin tưởng và hy vọng của đồng bào miền Nam đang trực tiếp đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai là bọn Ngô Đình Diệm, giải phóng miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.

Để bảo đảm hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm, các cấp, các ngành của Nhà nước, trước hết là Chính phủ, các Bộ, Uỷ ban hành chính các tỉnh, thành phải nâng cao hơn nữa năng lực chỉ đạo và tổ chức thực hiện, tăng cường hơn nữa công tác quản lý kinh tế - tài chính.

Trong việc quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, công tác kế hoạch hoá kinh tế quốc dân có một ví trí vô cùng quan trọng. Năm 1956, Quốc hội đã thông qua kế hoạch nhà nước đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; từ đó đến nay, quan hệ sản xuất và cơ cấu của nền kinh tế có những biến đổi quan trọng; công tác kế hoạch hoá kinh tế quốc dân tuy có tiến bộ, nhưng cần phải được cải tiến và nâng cao hơn nữa về chất lượng để phục vụ tốt hơn nữa nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá.

Dựa vào đường lối chung và những phương hướng lớn của Đảng, trong công tác kế hoạch hoá kinh tế quốc dân, chúng ta phải nghiên cứu phương hướng cụ thể của các ngành kinh tế và văn hoá, làm phương hướng, bước đi cụ thể, nhịp độ phát triển và những quan hệ cân đối của kế hoạch quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng, phù hợp với tình hình thực tế và thể hiện đúng các quy luật kinh tế khách quan. Phương hướng xây dựng và sản xuất đúng đắn là điều kiện trước tiên để sử dụng vốn, sức lao động và vật tư một cách hợp lý nhất, mang lại hiệu quả lớn nhất cho nền kinh tế quốc dân cũng như cho mỗi ngành, mỗi xí nghiệp, hợp tác xã. Để xác định các phương hướng cụ thể, phải xúc tiến các cuộc điều tra kinh tế, điều tra cơ bản, dựa vào đó mà lập các quy hoạch và kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế.

Đồng thời, phải xúc tiến việc bước đầu phân vùng nông nghiệp, vùng công nghiệp và vùng tổng hợp của miền Bắc, và bước đầu xác định các vùng trong mỗi địa phương.

Phải cải tiến việc lập kế hoạch các ngành, nhất là kế hoạch nông nghiệp, kế hoạch công nghiệp, kế hoạch xây dựng cơ bản, kế hoạch lao động. Cải tiến hệ thống chỉ tiêu của kế hoạch, phân biệt các chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu hướng dẫn; xem trọng đầy đủ các chỉ tiêu chất lượng. Cần quy định hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, định mức tiêu hao vật tư và lao động, làm cơ sở cho việc đặt kế hoạch được chính xác và thống nhất hơn. Xúc tiến việc lập các biểu cân đối tổng hợp nền kinh tế quốc dân và kế hoạch tài chính tổng hợp; nâng cao chất lượng các biểu cân đối lao động, vật tư, tiền tệ, tạo điều kiện sắp xếp tốt hơn các mặt cân đối của nền kinh tế.

Để phục vụ sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về kinh tế và cải tiến công tác kế hoạch hoá kinh tế quốc dân, cần tăng cường công tác thống kê, xúc tiến các cuộc điều tra thống kê, chỉnh lý các số liệu, và theo dõi thường xuyên việc thực hiện kế hoạch. Phải nâng cao hơn nữa chất lượng công tác, bảo đảm tính thống nhất và tính khách quan và xác thực của công tác thống kê.

Đi đôi với việc cải tiến công tác kế hoạch hoá, chúng ta phải chăm lo cải tiến tổ chức quản lý kinh tế, nâng cao năng lực chỉ đạo và tổ chức thực hiện kế hoạch, bảo đảm làm tốt công tác quản lý kinh tế, đó là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu hiện nay trong toàn bộ công tác quản lý Nhà nước.

Căn cứ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, năm 1962, Nhà nước đã ban hành những quy định về phân cấp quản lý kinh tế và văn hoá. Cần thực hiện tốt các quy định ấy, kịp thời rút kinh nghiệm tiến tới có những quy định cụ thể hơn. Phải khắc phục tình trạng tập trung một cách quan liêu, đồng thời khắc phục tình trạng phân tán, tư tưởng cục bộ, bản vị để làm cho bộ máy quản lý kinh tế được gọn, nhẹ, có hiệu suất cao; phải kiên quyết cải tiến tổ chức, tinh giản bộ máy, kiên quyết chống bệnh quan liêu, giấy tờ và hội họp quá nhiều.

Cần kiện toàn các cơ quan phụ trách chung về kinh tế. Nghiên cứu việc tổ chức một cơ quan lập kế hoạch dài hạn và một cơ quan khác chuyên lập kế hoạch hàng năm và giúp Chính phủ trong việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch.

Kiện toàn tổ chức quản lý thống nhất các vấn đề lao động và tiền lương; hợp lý hoá và tăng cường các bộ máy quản lý tài chính, quản lý ngoại hối và các hoạt động kinh tế đối ngoại; bộ máy quản lý vật tư; hệ thống thu mua và bán lẻ; bộ máy quản lý thủ công nghiệp, v.v.. Tăng cường bộ máy thanh tra và kiểm tra của Nhà nước.

Cần phát huy hơn nữa vai trò của các cấp và các ngành của chính quyền trong việc quản lý kinh tế, chú trọng đi sâu hơn nữa về việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện kế hoạch. Trước hết, phải bảo đảm sự chỉ đạo tập trung của Hội đồng Chính phủ, nhằm phát huy hiệu lực sắc bén, kịp thời. Trên cơ sở đó, tăng cường trách nhiệm của các Bộ, các tỉnh, thành, bảo đảm chấp hành tốt kế hoạch của mỗi ngành, mỗi địa phương. Trong việc chỉ đạo thực hiện, Chính phủ và các Bộ, Uỷ ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố cần giải quyết nhanh, gọn các vấn đề thuộc quyền hạn của mình và hết sức phát huy tích cực, chủ động của các địa phương và các cơ sở sản xuất.

Giữa các cơ quan quản lý kinh tế, phải tăng cường sự hợp tác xã hội chủ nghĩa, thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hợp đồng kinh tế, tăng cường kiểm tra đôn đốc, đề cao chế độ trách nhiệm và kỷ luật, chấp hành kế hoạch, cải tiến lề lối làm việc, tạo nên một tác phong khẩn trương, cụ thể, sát quần chúng, sát cơ sở sản xuất.

Trong toàn bộ hệ thống tổ chức kinh tế của ta thì các xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp, cửa hàng, v.v. là những đơn vị trực tiếp sản xuất và kinh doanh, là những khâu cơ bản của bộ máy kinh tế quốc dân. Phải tăng cường công tác kế hoạch ở cơ sở, cải tiến các mặt kế hoạch, sản xuất, lao động, tài vụ, kỹ thuật của xí nghiệp. Củng cố các mặt quản lý: quản lý sản xuất, quản lý vật tư, quản lý lao động, quản lý kỹ thuật, quản lý tài vụ, nhằm khai thác tốt khả năng tiềm tàng của xí nghiệp, bảo đảm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch.

Cần mở rộng và củng cố chế độ hạch toán kinh tế ở các xí nghiệp và xuống các phân xưởng và tổ đội sản xuất, xoá bỏ lối quản lý theo "chế độ cung cấp". Giám đốc các xí nghiệp phải làm tốt công tác phân tích hoạt động kinh tế và kết quả tài vụ của xí nghiệp. Phát hiện những khả năng tiềm tàng và định ra những biện pháp có hiệu lực để cải tiến công tác của xí nghiệp.

Cần tăng cường hơn nữa chức năng kiểm soát bằng đồng tiền của hệ thống tài chính và ngân hàng nhà nước đối với các ngành và các xí nghiệp; củng cố chế độ tài vụ xí nghiệp và kỷ luật nộp thuế và lãi cho ngân sách nhà nước; thông qua phân tích kinh tế và tài vụ mà thúc đẩy xí nghiệp chú ý đầy đủ đến hiệu quả kinh tế và doanh lợi của xí nghiệp.

Trên cơ sở tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng uỷ cơ sở, phải hết sức phát huy chức năng và đề cao quyền lực và trách nhiệm của Giám đốc xí nghiệp, đồng thời phát huy vai trò của Công đoàn trong việc hướng dẫn quần chúng công nhân viên chức tham gia thiết thực vào việc quản lý xí nghiệp.

Bắt đầu từ năm nay, chúng ta mở cuộc vận động "Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế - tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu" trong các cơ quan và xí nghiệp của Nhà nước. Trong thời gian ba năm, thông qua cuộc vận động này, chúng ta sẽ động viên toàn thể các ngành, các cấp, từ Trung ương đến địa phương, đến các cơ sở, thực hiện một sự chuyển biến căn bản trong công tác quản lý kinh tế - tài chính, xây dựng tốt tổ chức quản lý, đưa công tác quản lý nghiệp vụ vào nề nếp theo đúng đường lối và nguyên tắc quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật để thực hiện bước đầu cuộc cách mạng kỹ thuật trong các ngành kinh tế quốc doanh.

Cũng từ năm nay, chúng ta mở cuộc vận động "Cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc". Thực hiện tốt cuộc vận động này, chúng ta sẽ làm cho quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn đi vào củng cố và ổn định, đồng thời phát triển từng bước vững chắc lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, tạo điều kiện để nâng cao sản xuất lương thực, thực phẩm và các loại nguyên liệu nông sản, phát huy tính hơn hẳn của hợp tác xã, cải thiện từng bước đời sống của nông dân và phục vụ việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp.

Toàn thể cán bộ và nhân dân ta cần phải tích cực tham gia vào hai cuộc vận động ấy, tham gia vào việc quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, phát huy hơn nữa vai trò làm chủ, ra sức thi đua sản xuất và thực hành tiết kiệm, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến lên một bước vững chắc.

II- NÂNG CAO GIÁC NGỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA,
ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC

Thưa các đồng chí đại biểu,

Hồ Chủ tịch kính mến đã từng nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần có những con người xã hội chủ nghĩa". Muốn thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, một sự nghiệp vẻ vang chưa từng có trong lịch sử nước ta, muốn hoàn thành thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất, nhân dân ta cần nâng cao hơn nữa tinh thần yêu nước, trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa, và ý chí đấu tranh thống nhất nước nhà, phát huy hơn nữa truyền thống lao động cần cù, anh dũng khắc phục khó khăn. Phải tiến hành một cách có hệ thống và thường xuyên việc giáo dục trong nhân dân và cán bộ về đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và về phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Phải tiếp tục bồi dưỡng những tư tưởng và quan điểm cơ bản cần quán triệt trong quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng vững chắc quan điểm làm chủ tập thể, tư tưởng tự lực cánh sinh, ý thức cần kiệm xây dựng Tổ quốc, quan điểm lao động mới (lao động cũng cảm, lao động có tổ chức và kỷ luật, lao động có kỹ thuật), ý thức cảnh giác cách mạng và tinh thần khẩn trương trong mọi công tác. Nâng cao tinh thần đoàn kết nhất trí, tinh thần phấn khởi cách mạng và lòng tin tưởng ở thắng lợi của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Nâng cao tinh thần quốc tế vô sản, hợp tác chặt chẽ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trong công cuộc xây dựng kinh tế và văn hoá của nước nhà và tăng cường lực lượng của toàn phe xã hội chủ nghĩa.

Việc tuyên truyền giáo dục về kế hoạch 5 năm phải nhằm làm cho mọi người nhận rõ thắng lợi và khó khăn, thấu suốt phương hướng chung của kế hoạch, phương hướng tăng tích luỹ vốn cho việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, đồng thời cải thiện đời sống từng bước và có trọng điểm, phương hướng phát triển sản xuất công nghiệp và nông nghiệp do đó mà nâng cao ý chí phấn đấu cách mạng, tập trung lực lượng, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, quyết tâm hoàn thành thắng lợi kế hoạch Nhà nước.

Phải nâng cao hơn nữa trong cán bộ và trong nhân dân ý thức cần kiệm xây dựng Tổ quốc, và nâng cao hơn nữa tinh thần tự lực cánh sinh.

Công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta là một cuộc cách mạng rất vẻ vang, nhưng cũng là một quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ, vì chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu. Để thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải phát huy mọi khả năng sản xuất hiện có và phải cố gắng tích luỹ vốn. Chế độ tư bản chủ nghĩa đã dựa trên sự áp bức và bóc lột nhân dân lao động để thực hiện "tích luỹ nguyên thuỷ", xây dựng nền công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa. Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; muốn tạo nên số "tích luỹ nguyên thuỷ" ấy, chúng ta phải phấn đấu gian khổ. Tất nhiên con đường tích luỹ xã hội chủ nghĩa của chúng ta về căn bản khác hẳn với con đường tích luỹ tư bản chủ nghĩa. Một mặt, chúng ta được các nước anh em giúp đỡ về kinh tế và kỹ thuật, đó là một mối quan hệ quốc tế hoàn toàn mới, dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Mặt khác, chủ yếu là chúng ta dựa vào sức lao động sáng tạo của nhân dân ta. Đó là sự đóng góp của mỗi người cho xã hội sau khi đã hưởng thụ một phần của cải làm ra theo nguyên tắc phân phối theo lao động. Cần nhận rõ rằng sự giúp đỡ của các nước anh em là rất quý báu, là không thể thiếu được; nhưng chúng ta phải có sự nỗ lực chủ quan thì mới phát huy được sự giúp đỡ ấy và đem lại những kết quả tốt. Phải ra sức nâng cao trình độ quản lý kinh tế, trình độ kỹ thuật, phải sử dụng tốt sự giúp đỡ của các nước anh em và khai thác mọi khả năng của mình biến thành những lực lượng vật chất và kỹ thuật mới ngày càng tăng, do đó mà đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động, không ngừng tăng tích luỹ vốn và cải thiện đời sống.

Phải làm cho tinh thần tự lực cánh sinh, ý thức cần kiệm xây dựng Tổ quốc thấm sâu vào trong nhân dân lao động, động viên mọi người phát huy tinh thần phấn đấu anh dũng, phát huy thắng lợi, khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ một cách vẻ vang.

Cùng với việc đề cao giáo dục tư tưởng, các cơ quan Nhà nước phải kịp thời nghiên cứu bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới các chính sách cụ thể, bảo đảm việc thực hiện đường lối chủ trương, giải quyết những vấn đề mới nảy ra trong quá trình tổ chức thực hiện , Các chính sách cụ thể phải thể hiện yêu cầu của các quy luật kinh tế, đồng thời quán triệt đường lối của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ.

Trong các ngành kinh tế quốc doanh, phải nghiên cứu ban hành hoặc bổ sung các chính sách, chế độ, thể lệ, quy tắc về quản lý vật tư, tài vụ, lao động, kỹ thuật.

Đối với khu vực hợp tác xã, các chính sách phải quán triệt tinh thần tăng cường lực lượng cho kinh tế tập thể, hết sức giúp đỡ kinh tế tập thể củng cố quan hệ sản xuất mới, phát huy tính hơn hẳn của lối làm ăn tập thể, trước hết là nhằm giải quyết tốt quan hệ giữa Nhà nước với hợp tác xã và nông dân xã viên, kết hợp đúng đắn yêu cầu công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa với yêu cầu cải thiện đời sống nông dân.

Thưa các đồng chí đại biểu,

Mười lăm năm trước, ngày 19 tháng 6 năm 1948, trong khói lửa của cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc ta. Hồ Chủ tịch đã phát động phong trào thi đua yêu nước. Từ những mầm mống đầu tiên, phong trào thi đua đã từ từng người tiến dần lên từng tập thể, trở thành một phong trào rộng lớn, phát huy sức sáng tạo to lớn của quần chúng, là đòn xeo thúc đẩy toàn bộ hoạt động kinh tế và văn hóa của nước ta phát triển, và là trường học vĩ đại đào tạo con người mới.

Trong năm 1962, điểm nổi bật của phong trào thi đua là đông đảo công nhân, nông dân, lao động trí óc, đã phát huy mạnh mẽ tinh thần tự lực cánh sinh, tinh thần dám nghĩ dám làm, khắc phục nhiều khó khăn về nguyên liệu, vật liệu, về thiên tai và nhiều khó khăn khác trong khi phấn đấu thực hiện kế hoạch nhà nước. Phong trào thi đua đã kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị bằng những hình thức phong phú như "Ngày thứ bảy đẩy mạnh sản xuất, đấu tranh thống nhất nước nhà". Phong trào thi đua tập thể phát triển rộng hơn trước, có tác dụng thiết thực đẩy mạnh sản xuất và xây dựng con người mới.

Năm 1963, cần phải làm cho phong trào thi đua yêu nước phát triển mạnh mẽ, thường xuyên, liên tục hơn nữa trong các ngành, các địa phương, các đơn vị.

Nội dung thi đua của các ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải và thủ công nghiệp là hợp lý hóa sản xuất cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý; đồng thời đặc biệt chú ý bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng công trình.

Nội dung thi đua của nông nghiệp phải nhằm cải tiến quản lý hợp tác xã (quản lý sản xuất, quản lý lao động, quản lý tài vụ và thực hiện nguyên tắc quản lý dân chủ); cải tiến kỹ thuật và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của hợp tác xã.

Nội dung thi đua của ngành giáo dục là giảng dạy tốt, học tập tốt, tích cực thực hiện phương châm kết hợp học tập với lao động sản xuất, kết hợp học với hành.

Nội dung thi đua của ngành y tế là cải tiến kỹ thuật, cải tiến công tác, cải tiến tổ chức nhằm không ngừng nâng cao tinh thần phục vụ người bệnh và phục vụ tốt công tác phòng bệnh trong nhân dân.

Nội dung thi đua của các ngành khoa học - kỹ thuật là áp dụng kỹ thuật tiên tiến, cải tiến kỹ thuật, sáng chế phát minh, nghiên cứu các đề tài khoa học - kỹ thuật mới.

Nội dung thi đua trong các ngành văn hóa, nghệ thuật phải hướng vào việc phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển sản xuất, xây dựng con người mới. Phục vụ tốt việc nâng cao đời sống văn hóa, giải trí, vui chơi lành mạnh của nhân dân.

Nội dung thi đua trong ngành thể dục thể thao là nâng cao chất lượng tập luyện và trình độ kỹ thuật, nâng cao đạo đức thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa, nâng cao ý thức tập thể nhằm xây dựng những người lao động có thể lực tốt, có tinh thần dũng cảm, tuyển thủ các đội thể dục thể thao có kỹ thuật cao, đạo đức tốt.

Nội dung thi đua của các cơ quan sự nghiệp, hành chính là cải tiến công tác, cải tiến tổ chức, cải tiến lề lối làm việc, nhằm đơn giản bộ máy, tinh giản biên chế, bớt giấy tờ và hội họp không cần thiết, giải quyết đúng đắn và kịp thời các công việc.

Nội dung thi đua trong quân đội, công an nhân dân vũ trang, cảnh sát nhân dân và dân quân tự vệ là rèn luyện và cải tiến kỹ thuật, chấp hành điều lệ, điều lệnh, chế độ, tiêu chuẩn, rèn luyện tác phong, lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm, phòng gian, giữ bí mật.

Cần phải đưa phong trào thi đua yêu nước đi vào bề sâu, đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua tập thể; củng cố và phát triển rộng rãi các tổ tiên tiến, đội tiên tiến, mở rộng từng bước vững chắc phong trào thi đua phấn đấu trở thành "tổ" hoặc "đội lao động xã hội chủ nghĩa" nhất là trong các ngành quan trọng của nền kinh tế, các bộ phận chính trong dây chuyền sản xuất của xí nghiệp.

III- TIẾN LÊN HOÀN THÀNH THẮNG LỢI KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT

Thưa các đồng chí đại biểu,

Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đang mở ra cho nhân dân ta, Tổ quốc ta những triển vọng tốt đẹp. Tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, tin tưởng ở sức phấn đấu của mình, nhân dân ta đang tiến lên từng bước vững chắc, giành thêm những thắng lợi mới.

Đến năm 1965, chúng ta sẽ đưa công suất điện lên gấp trên hai lần năm 1960, cung cấp đủ cho nhu cầu cho công nghiệp và phục vụ khá hơn cho nông nghiệp; tăng cường lực lượng cơ khí, bảo đảm một phần quan trọng việc trang bị kỹ thuật cho các ngành nông nghiệp, xây dựng, vận tải, nghề cá, công nghiệp nhẹ và cung cấp một phần thiết bị cho công nghiệp nặng; đưa công suất các mỏ than lên gấp đôi năm 1960; xây dựng từng bước ngành công nghiệp nguyên liệu: gang thép, phân bón và hóa chất… Khả năng sản xuất hàng tiêu dùng của công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm sẽ được tăng thêm.

Chúng ta sẽ mở rộng thêm diện tích ruộng đất; phát triển thuỷ lợi bảo đảm trên 50% diện tích canh tác được tưới nước suốt vụ, cung cấp thêm cho nông nghiệp hàng chục vạn tấn phân lân và phân đạm, hàng nghìn máy kéo; nhiều công cụ cải tiến và nửa cơ giới, phương tiện vận tải và máy chế biến nông sản.

Cơ cấu của nền sản xuất sẽ có chuyển biến rõ rệt: tỷ trọng của công nghiệp trong giá trị sản lượng công nghiệp và nông nghiệp, tỷ trọng nhóm A trong giá trị sản lượng công nghiệp, tỷ trọng của chăn nuôi và cây công nghiệp trong giá trị sản lượng nông nghiệp… sẽ được nâng cao một bước. Bộ mặt kinh tế của các vùng trên miền Bắc sẽ có thay đổi. Miền núi bước đầu được khai thác, nhất là nông nghiệp và lâm nghiệp sẽ phát triển khá. Một số khu vực kinh tế mới sẽ hình thành; ngoài Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hòn Gai, sẽ có thêm những trung tâm công nghiệp mới như: Việt Trì, Thái Nguyên, Uông Bí, Bắc Giang…

Đến năm 1965, đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nhân kỹ thuật tăng lên khá: có khoảng 150 cán bộ có trình độ phó tiến sĩ; 28.700 cán bộ có trình độ đại học; 123.500 cán bộ kỹ thuật trung cấp và trên 30 vạn công nhân kỹ thuật phục vụ trong các ngành. Đó là vốn quý để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong những năm tới, chúng ta tiếp tục phấn đấu hoàn thành cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế quốc dân. Cuộc vận động "cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc" được tiến hành từng bước sẽ phát huy rõ rệt hơn nữa tính hơn hẳn của lối làm ăn tập thể.

Đi đôi với sự phát triển kinh tế, đời sống của nhân dân sẽ được cải thiện thêm một bước. Thu nhập của các tầng lớp nhân dân đều được nâng lên khá hơn. Mức sống của phần lớn nông dân sẽ được nâng lên ngang với mức sống trung nông lớp trên trong những năm trước đây; các mặt ăn, mặc, ở đều được cải thiện. Thu nhập của công nhân, viên chức được tăng thêm một phần, các mặt phúc lợi xã hội được mở rộng thêm. Về văn hoá, hầu hết trẻ em đến tuổi sẽ được thu hút vào các lớp vỡ lòng; việc phổ cập cấp I được thực hiện từng bước; trình độ văn hoá, kỹ thuật của nhân dân ta được nâng cao thêm. Về bảo vệ sức khoẻ, hầu hết các xã sẽ có trạm y tế hộ sinh, nhiều xã có y sĩ chăm lo việc bảo vệ sức khoẻ của nhân dân; mỗi huyện sẽ có bệnh viện hoặc bệnh xá do bác sĩ hoặc y sĩ phụ trách.

Hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, chúng ta lại sẽ tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi, thiết thực chuẩn bị cho bước phát triển mới, mạnh mẽ hơn trong kế hoạch dài hạn sau.

Tóm lại, nhân dân ta sẽ phấn đấu đạt những tiến bộ nói trên, đánh dấu một bước tiến mới của miền Bắc nước ta trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, con đường đưa đến một đời sống ấm no, hạnh phúc lâu dài cho toàn dân.

Thưa các đồng chí đại biểu,

Chúng ta đang sống trong một thời kỳ lịch sử vô cùng vẻ vang của dân tộc ta.

Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, nhân dân ta không ngừng phát huy truyền thống phấn đấu anh dũng để thực hiện những nhiệm vụ chiến lược cách mạng của nước ta trong giai đoạn mới. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và phong trào yêu nước của đồng bào miền Nam đang phát triển mạnh mẽ. Cùng gắn bó với nhau trong một mối tình ruột thịt, một ý chí đấu tranh kiên quyết và bền bỉ, nhân dân ta ở miền Bắc và miền Nam đang sát cánh đi lên vững chắc, đẩy mạnh phát triển sự nghiệp cách mạng trong cả nước.

Đồng bào miền Nam tin tưởng ở lực lượng của mình, đang hàng ngày hàng giờ trực tiếp chống đế quốc Mỹ và bọn bán nước Ngô Đình Diệm để tự giải phóng. Đồng thời, đồng bào miền Nam luôn luôn hướng về miền Bắc thân yêu, góp phần tích cực bảo vệ hoà bình ở miền Bắc, bảo vệ căn cứ của cách mạng trong cả nước.

Vì lợi ích của chúng ta và đồng bào miền Nam, vì lý tưởng của chủ nghĩa xã hội và thống nhất Tổ quốc, toàn thể nhân dân ta hãy ra sức phấn đấu đưa cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến thêm một bước mới.

Chúng ta có những thuận lợi căn bản là sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng cách mạng vĩ đại của quần chúng nhân dân và sự giúp đỡ quý báu của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế tự chủ từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm tốt.

Dựa vào những thuận lợi sẵn có và phát huy những thành tích đã giành được, nhất định chúng ta sẽ vượt qua được mọi khó khăn.

Hồ Chủ tịch đã nói: "toàn Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo. Chúng ta xây dựng. Chúng ta tiến lên. Quyết không có lực lượng nào ngăn được chúng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác". Dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Hồ Chủ tịch kính mến, nhân dân ta hãy nâng cao hơn nữa tinh thần phấn khởi cách mạng và chí khí chiến đấu, ra sức phát huy thắng lợi, khắc phục khó khăn, vững bước tiến lên! Hãy đẩy mạnh thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1963 và những năm tới, hoàn thành thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, củng cố miền Bắc vững mạnh, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.