VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP II 1960 - 1964

ĐIỀU LỆ QUY ĐỊNH CỤ THỂ VỀ TỔ CHỨC CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN
CÁC CẤP TRONG KHU TỰ TRỊ TÂY BẮC


Căn cứ vào Điều 95 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quy định quyền của Hội đồng nhân dân các khu vực tự trị có thể chiểu theo những đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hoá của các dân tộc ở địa phương mà đặt ra điều lệ tự trị và những điều lệ về những vấn đề riêng biệt để thi hành ở địa phương;

Căn cứ vào nghị quyết ngày 27-10-1962 của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá II họp kỳ thứ 5 phê chuẩn việc đổi tên Khu tự trị Thái - Mèo thành Khu tự trị Tây Bắc và thành lập cấp tỉnh trong khu;

Căn cứ vào luật ngày 14-7-1960 quy định về tổ chức Toà án nhân dân và pháp lệnh ngày 23-3-1964 quy định cụ thể về tổ chức của Toà án nhân dân tối cao và tổ chức của các Toà án nhân dân địa phương;

Để cho tổ chức của Toà án nhân dân các cấp trong Khu tự trị Tây Bắc phù hợp với đặc điểm của tình hình địa phương,

Hội đồng nhân dân Khu tự trị Tây Bắc quy định cụ thể về tổ chức của Toà án nhân dân các cấp trong Khu tự trị Tây Bắc như sau:

Điều 1. Các Toà án nhân dân trong Khu tự trị Tây Bắc gồm có:

- Toà án nhân dân khu,

- Các toà án nhân dân tỉnh,

- Các toà án nhân dân thị xã và huyện.

Điều 2. Toà án nhân dân khu có thẩm quyền:

a) Sơ thẩm những vụ án hình sự và dân sự thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp dưới, nhưng xét thấy quan trọng hoặc phức tạp, cần lấy lên để xử;

b) Phúc thẩm những bản án hoặc những quyết định sơ thẩm của các Toà án nhân dân tỉnh bị chống án hoặc bị kháng nghị;

c) Xử lại những vụ án do bản thân mình hoặc do Toà án nhân dân cấp dưới đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng Toà án nhân dân tối cao giao cho xử lại.

Toà án nhân dân khu có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp trong khu và tổ chức việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Toà án nhân dân khu mở lớp huấn luyện thẩm phán Toà án nhân dân thị xã, huyện và thư ký Toà án để góp phần đào tạo cán bộ địa phương theo chính sách dân tộc của Nhà nước.

Điều 3. Toà án nhân dân tỉnh có thẩm quyền:

a) Sơ thẩm những vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền của các Toà án nhân dân thị xã và huyện, và những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của các Toà án đó, nhưng xét thấy quan trọng hoặc phức tạp, cần lấy lên để xử;

b) Sơ thẩm những vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của các Toà án nhân dân thị xã và huyện, nhưng xét thấy quan trọng hoặc phức tạp, cần lấy lên để xử;

c) Phúc thẩm những bản án hoặc những quyết định sơ thẩm của các Toà án nhân dân thị xã và huyện bị chống án hoặc bị kháng nghị;

d) Xử lại những vụ án do bản thân mình hoặc do các Toà án nhân dân thị xã và huyện đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiện tượng pháp luật, nhưng Toà án nhân dân tối cao giao cho
xử lại.

Toà án nhân dân tỉnh có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp ở địa phương, huấn luyện cán bộ tư pháp cho thị trấn và xã, và tổ chức việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Điều 4. Toà án nhân dân thị xã và huyện có thẩm quyền:

a) Hoà giải những việc tranh chấp về dân sự;

b) Phân xử những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên toà;

c) Sơ thẩm những vụ án dân sự;

d) Sơ thẩm những vụ án hình sự có thể phạt từ hai năm tù trở xuống.

Toà án nhân dân thị xã và huyện có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp và hướng dẫn công tác hoà giải ở thị trấn và xã và tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Điều 5. Toà án nhân dân khu và các Toà án nhân dân tỉnh gồm có chánh án, một hoặc nhiều phó chánh án và các thẩm phán.

Tại toà án nhân dân khu và các Toà án nhân dân tỉnh đều lập ra Uỷ ban thẩm phán gồm có chánh án, phó chánh án và một số thẩm phán.

Toà án nhân dân thị xã và huyện gồm có chánh án và thẩm phán, nếu cần thiết thì có phó chánh án.

Điều 6. Khi sơ thẩm, Toà án nhân dân cấp trong khu gồm có một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân; trong trường hợp có những vụ án mà đương sự hoặc bị can thuộc nhiều thành phần dân tộc khác nhau, Toà án nhân dân có thể gồm có một phẩm phán và bốn hội thẩm nhân dân.

Khi phúc thẩm những bản án, những quyết định bị chống án hoặc bị kháng nghị và khi xử lại những vụ án đã có bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm thì Toà án nhân dân phải có ba thẩm phán; khi cần thiết thì có thể có thêm hai hoặc bốn hội thẩm nhân dân.

Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán. Toà án nhân dân quyết định theo đa số.

Điều 7. Chánh án, phó chánh án và thẩm phán Toà án nhân dân khu và Toà án nhân dân tỉnh do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn. Nhiệm kỳ của chánh án, phó chánh án và thẩm phán Toà án nhân dân khu và Toà án nhân dân tỉnh là bốn năm.

Uỷ viên Uỷ ban thẩm phán của các Toà án nhân dân nói trên do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn.

Điều 8. Chánh án, phó chánh án và thẩm phán Toà án nhân dân thị xã và huyện do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn. Nhiệm kỳ của chánh án, phó chánh án và các thẩm phán Toà án nhân dân thị xã và huyện là ba năm.

Điều 9. Các hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân các cấp trong khu do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn. Nhiệm kỳ của các hội thẩm nhân dân là hai năm.

Điều 10. Danh sách hội thẩm nhân dân của các Toà án nhân dân trong khu cần phản ánh thích đáng các thành phần dân tộc trong quản hạt của Toà án.

Điều 11. Toà án nhân dân các cấp trong khu phải bảo đảm cho công dân thuộc các thành phần dân tộc được dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án. Khi cần thiết, Toà án nhân dân phải chỉ định người phiên dịch để bảo đảm thực hiện quyền đó.

Điều 12. Khi xét xử, Toà án nhân dân các cấp trong khu phải chú ý thích đáng đến những đặc điểm về kinh tế và văn hoá của các dân tộc.

Điều 13. Ngoài việc xét xử tại trụ sở của toà án, Toà án nhân dân các cấp trong khu cần chú ý tổ chức xét xử lưu động để cho việc tố tụng của nhân dân được thuận tiện và việc xét xử của Toà án có tác dụng giáo dục sâu rộng trong nhân dân các dân tộc ở địa phương.

Điều 14. Toà án nhân dân các cấp trong Khu tự trị Tây Bắc phải chấp hành những nguyên tắc chung về tổ chức Toà án nhân dân đã được quy định trong Hiến pháp, luật ngày 14-7-1960 và pháp lệnh ngày 23-3-1961, và những quy định của bản điều lệ này.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.