VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 3 1995-1996

 

PHÁT HUY ĐÀ TIẾN BỘ MỚI, PHẤN ĐẤU
THỰC HIỆN THẮNG LỢI NHIỆM VỤ NĂM 1996
THEO NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI

(Báo cáo của Chính phủ do Phó Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải
trình bày tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa IX, ngày 02-3-1996)

Tôi xin thay mặt Chính phủ nhiệt liệt chào mừng các vị đại biểu về dự kỳ họp lần này của Quốc hội trong không khí toàn dân mừng xuân với niềm tin và hy vọng mới trước những tiến bộ mà mọi người đều cảm nhận được trong đời sống kinh tế - xã hội và an ninh chính trị, trật tự công cộng.

Ngay sau kỳ họp lần thứ 8 của Quốc hội (tháng 10 năm 1995), Chính phủ đã xúc tiến nhiều việc nhằm hoàn thành kế hoạch năm 1995 và tích cực chuẩn bị triển khai thực hiện nhiệm vụ năm 1996 theo Nghị quyết của Quốc hội.

Trong hai tháng cuối năm 1995, Chính phủ đã khẩn trương giải quyết các vướng mắc về tài chính, tiền tệ, giá cả, vốn đầu tư nhằm thúc đẩy sản xuất, xây dựng cơ bản, lưu thông hàng hóa, xuất nhập khẩu và hoạt động kinh tế đối ngoại hoàn thành tốt mục tiêu tăng trưởng kinh tế đề ra cho năm 1995. Việc triển khai thực hiện nhiệm vụ năm 1996 cũng được xúc tiến khẩn trương theo tinh thần tạo ra chuyển biến mới ngay từ đầu năm, khắc phục một bước rõ nét tình trạng sản xuất và xây dựng đủng đỉnh, thu ngân sách cầm chừng, giá cả biến động mạnh trong mấy tháng trước và sau Tết nguyên đán, thường diễn ra hàng năm trước đây gần như thành tập quán.

Trong kỳ họp cuối năm 1995, Chính phủ đã nghiêm túc kiểm điểm, phân tích những tiến bộ cũng như những khuyết điểm, những mặt còn yếu trong sự chỉ đạo, điều hành và đề ra biện pháp khắc phục trong chương trình công tác của Chính phủ năm 1996. Các quyết định về chủ trương, biện pháp điều hành kế hoạch và ngân sách, quản lý xuất nhập khẩu năm 1996 được ban hành trước khi bước vào năm mới. Kế hoạch và ngân sách phân bổ cho các địa phương, các ngành Trung ương và các công ty lớn được giao chính thức sau nhiều lần làm việc với từng đơn vị. Các biện pháp cân đối cung cầu, ổn định giá cả trong dịp Tết được thực hiện đồng bộ, việc triển khai cuộc vận động lành mạnh hoá môi trường văn hoá, đẩy lùi các tệ nạn xã hội được xúc tiến sớm, đi đôi với tiếp tục kiểm tra, thúc đẩy thi hành nghiêm chỉnh chủ trương cấm đốt pháo, duy trì trật tự, an toàn giao thông.

Trong những ngày đầu năm 1996, Chính phủ đã triệu tập Hội nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trong cả nước để thảo luận và thấu suốt các chủ trương, biện pháp thực hiện nhiệm vụ năm 1996, Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng đã họp với cán bộ lãnh đạo các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long để bàn về phương hướng, giải pháp phòng, chống lũ lụt theo quan điểm thích nghi, tận dụng những cái lợi và khắc phục những cái hại của điều kiện tự nhiên; họp với các tỉnh Tây Nguyên để xác định phương hướng phát triển, khai thác các lợi thế của địa bàn này theo quan điểm kinh tế mở; làm việc tại chỗ với lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội và một số tỉnh để xem xét quy hoạch dài hạn, kế hoạch phát triển từ nay đến năm 2000 và những vấn đề phải giải quyết trước mắt. Thủ tướng và các Phó Thủ tướng cũng trực tiếp cùng nhiều Bộ, ngành bàn việc triển khai nhiều công việc thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kiểm tra tiến độ thi công của một số công trình trọng điểm quốc gia nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ năm 1996; đã họp với các tổng công ty lớn của Nhà nước và đang chuẩn bị làm việc với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế để tiếp tục tìm các giải pháp phát huy cao hơn tính năng động, sáng tạo và các nguồn lực cho mục tiêu tăng trưởng và nâng cao hiệu quả kinh tế.

Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong mấy tháng qua tiếp tục được mở rộng và đạt được những kết quả quan trọng; nổi lên là: các cuộc đi thăm của các vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ tới một số nước láng giềng và nước thuộc nhiều khu vực như Trung Quốc, Lào, Nhật Bản, Philíppin, Cuba, Braxin; hoạt động của Chủ tịch nước tham dự hội nghị cấp cao các nước không liên kết và kỷ niệm 50 năm Liên hợp quốc; sự tham gia và đóng góp tích cực của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị cấp cao ASEAN và cuộc gặp gỡ Á - Âu; các cuộc đón tiếp nguyên thủ quốc gia hoặc người đứng đầu chính phủ của các nước Campuchia, Malaixia, Niu Dilân, Đức, Bỉ, Cuba, Tôgô và quan chức cao cấp của nhiều nước khác sang thăm và làm việc ở nước ta; các cuộc tiếp xúc và trao đổi ý kiến giữa lãnh đạo Đảng ta với các nhà lãnh đạo Đảng cầm quyền và Đảng theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa ở một số nước.

Những hoạt động đó đã góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế song phương và đa phương, trong đó đáng chú ý là việc nối lại hai tuyến đường sắt liên vận Việt - Trung, thúc đẩy bang giao với Trung Quốc, việc xử lý kịp thời và đúng mức những vấn đề mới nảy sinh liên quan đến biên giới Việt Nam - Campuchia, việc xúc tiến đàm phán về quan hệ kinh tế - thương mại với Mỹ sau bình thường hoá, bước tiến mới trong việc tham gia các hoạt động của ASEAN và trong tiến trình hình thành khu vực mậu dịch tự do AFTA, việc tranh thủ tài trợ quốc tế và chuẩn bị đăng cai hội nghị cấp cao những nước nói tiếng Pháp.

Bên cạnh những bước tiến triển thuận lợi, quan hệ quốc tế của nước ta còn phải tiếp tục kiên trì giải quyết hoà bình những tranh chấp về biên giới với nhiều diễn biến phức tạp, nhất là ở biển Đông; khắc phục những trở lực trong quan hệ với Mỹ; tỉnh táo ngăn chặn các hoạt động phá hoại, công kích của các thế lực thù địch hoặc không có thiện chí với nước ta.

Trong báo cáo này, thay mặt Thủ tướng và Thường trực Chính phủ, tôi xin trình bày bổ sung một số nét về tình hình kinh tế - xã hội năm 1995 và những vấn đề nổi lên trong việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 8 của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1996. Vì là báo cáo bổ sung nên không trình bày đầy đủ tình hình và nhiệm vụ như báo cáo của Chính phủ đã trình Quốc hội trong kỳ họp trước. Các vấn đề đề cập trong báo cáo này cũng chỉ được nêu một cách khái quát, còn nội dung cụ thể và số liệu chi tiết đã được giải trình trong báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính mà Chính phủ đã thông qua và gửi tới các đại biểu Quốc hội.

I- VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 1995

So với số liệu ước tính trong báo cáo trình Quốc hội đầu tháng 10 năm 1995 (dưới đây gọi tắt là báo cáo tháng 10), thì kết quả thực hiện kế hoạch cả năm 1995 không có gì thay đổi về những chỉ tiêu tổng hợp phản ánh nhịp độ tăng trưởng kinh tế năm 1995 so với năm 1994 (GDP tăng 9,5%; sản xuất công nghiệp tăng 14%, sản xuất nông nghiệp tăng 4,7%, dịch vụ tăng 12,6%). Sản lượng lương thực và các sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều bằng hoặc chỉ chênh lệch rất ít so với con số dự báo tháng 10 năm 1995.

Sự phát triển của các lĩnh vực khoa học, giáo dục và đào tạo, văn hoá thông tin, bảo vệ sức khoẻ, kế hoạch hoá gia đình và thực hiện các chính sách xã hội trong cả năm cũng phù hợp với sự đánh giá trong báo cáo tháng 10.

Diễn biến và kết quả thực hiện có phần khác với báo cáo tháng 10 thuộc về mấy lĩnh vực dưới đây:

Về kinh tế đối ngoại:

1. Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu đều đạt cao hơn mức dự báo.

Xuất khẩu đạt 5,3 tỷ USD, cao hơn 600 triệu USD so với số ước tính trong báo cáo tháng 10-1995, do hàng công nghiệp nhẹ và nông sản, thuỷ sản tăng hơn dự kiến cả về khối lượng xuất khẩu và giá thị trường thế giới đối với một số mặt hàng.

Nhập khẩu trước đây dự báo 6,5 tỷ USD, nay thực tế đạt 7,5 tỷ USD, tăng 1 tỷ USD, trong đó, 650 triệu tăng thêm về nhập máy, thiết bị phụ tùng và 350 triệu tăng thêm về nhập nguyên, nhiên, vật liệu. Mấy năm nay, nhập siêu có xu hướng tăng, không phải do nhập nhiều hàng tiêu dùng (tỷ trọng nhập hàng tiêu dùng năm 1995 là 12%, năm 1993, 1994 là 15 - 16%) mà chủ yếu là do nhập thiết bị vật tư, công nghệ từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) và nguồn vốn tài trợ chính thức cho phát triển (ODA) được đưa vào sử dụng nhiều hơn trước. Cán cân thương mại bội chi, nhưng với cơ cấu nhập khẩu chủ yếu phục vụ cho đầu tư phát triển, là phù hợp với giai đoạn đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều quan trọng là phương hướng và hiệu quả đầu tư phải tăng nhanh năng lực xuất khẩu để đi tới thu hẹp dần nhập siêu và trả được nợ. Năm 1995, tuy mức nhập siêu lớn, nhưng có nguồn trang trải nên cán cân thanh toán quốc tế vẫn dư 500 triệu USD, bổ sung cho quỹ điều hoà và dự trữ ngoại tệ.

2. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài theo số liệu tổng kết cả năm 1995 cao hơn số dự báo; so với năm 1994 tăng 85,4% về số vốn đăng ký, tăng 33,3% về số vốn thực hiện. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã thu hút gần 10 vạn lao động trực tiếp và tạo thêm việc làm cho nhiều lĩnh vực có liên quan; đã đóng góp 350 triệu USD vào kim ngạch xuất khẩu và 195 triệu USD vào nguồn thu ngân sách (chưa kể liên doanh dầu khí).

Việc tranh thủ đưa vào sử dụng nguồn tài trợ chính thức cho phát triển tăng hơn các năm trước. Tính đến cuối năm 1995, ta đã ký được các chương trình và dự án sử dụng 4,6 tỷ USD trong tổng số vốn 6,1 tỷ USD đã được các nhà tài trợ cam kết trong ba kỳ hội nghị hàng năm ở Pari và đã thực hiện được 1,7 tỷ USD.

Nhìn chung, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã bắt đầu có phần đóng góp nhất định vào sự phát triển; tuy nhiên, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện từ các nguồn này còn thấp, nên còn nhiều tiềm năng khai thác để phát huy tác dụng mạnh hơn đối với nền kinh tế trong thời gian tới.

Về ngân sách nhà nước:

Trong bốn tháng cuối năm 1995, Chính phủ đã tăng cường chỉ đạo, thu, chi ngân sách, đưa mức bình quân tháng tăng hơn 40% so với 8 tháng đầu năm. Tuy nhiên, tính chung mức thực hiện cả năm, thì cả thu và chi ngân sách đều đạt thấp hơn số dự tính trong báo cáo tháng 10 đã trình Quốc hội. Tổng số thu tăng 21,9% so với năm 1994, nhưng chỉ đạt 91,3% mức kế hoạch đã được Quốc hội thông qua (báo cáo tháng 10 ước tính đạt 96,4%). Tổng số chi chỉ đạt 95,4% kế hoạch (trước đây ước tính đạt 98,2%). Bội chi ngân sách năm 1995 bằng 4,3% GDP và tăng 25,3% so với mức được Quốc hội duyệt.

Thu ngân sách không đạt kế hoạch có phần do một số khoản dự toán thu chưa sát thực tế; trong tổng số hụt thu so với kế hoạch thì phần hụt thu về thuế nhập khẩu chiếm 75%, chủ yếu do việc hạn chế nhập hàng tiêu dùng, nhất là nhập ô tô con và xe máy thấp hơn dự kiến; phần hụt thu về cấp và chuyển quyền sử dụng đất chiếm 13% do còn vướng mắc trong chính sách cụ thể về đất đai. Mặt khác, tình trạng thất thu thuế còn lớn, kể cả đối với doanh nghiệp nhà nước và đối với các thành phần kinh tế khác.

Do thu ngân sách đạt thấp, nên chỉ bảo đảm được chi thường xuyên, còn chi đầu tư phát triển được thực hiện ở mức thấp. Đáng chú ý là vốn cấp phát cho đầu tư xây dựng cơ bản đạt 90,7% kế hoạch, trong đó phần thực cấp để thanh toán khối lượng xây dựng đã hoàn thành theo kế hoạch chỉ đạt 77,7%, còn nợ lại hơn 1.800 tỷ đồng. Việc cấp phát đầu tư đạt kế hoạch thấp, làm chậm tiến độ xây dựng, vừa gây thêm lãng phí, thất thoát do nhiều công trình bị dở dang, vừa tăng gánh nặng cho ngân sách năm 1996 và còn ảnh hưởng xấu tới sự phát triển lâu dài.

Từ kinh nghiệm chỉ đạo tăng thu và điều hoà chi ngân sách trong những tháng cuối năm, Chính phủ đã đề ra các chủ trương, biện pháp chỉ đạo, điều hành ngân sách năm 1996 theo kế hoạch thu, chi đã được Quốc hội thông qua. Tuy nhiên, tình trạng căng thẳng, bị động về ngân sách còn tiếp diễn, đòi hỏi phải có giải pháp mạnh mẽ và nỗ lực phấn đấu của tất cả các ngành, các cấp thì mới thực hiện được kế hoạch ngân sách năm 1996.

Về kiềm chế lạm phát:

Báo cáo tháng 10 của Chính phủ đã nêu chỉ số giá tiêu dùng tính đến tháng 9 năm 1995, tăng 12,2% so với cuối năm 1994; riêng 6 tháng đầu năm, đã tăng 11,4% cao nhất kể từ năm 1993. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan, có phần khuyết điểm trong sự chỉ đạo, điều hành; nổi lên là đã để xảy ra cơn sốt về giá xi măng và lương thực đáng lẽ có thể ngăn ngừa được. Chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và đề ra những biện pháp quyết liệt nhằm kiềm chế lạm phát trong những tháng cuối năm và ngăn chặn sự biến động giá cả thường diễn ra trong những tháng giáp Tết. Nhờ vậy, chỉ số giá tiêu dùng trong 6 tháng cuối năm được kìm giữ ở mức tăng 1,2%, riêng quý IV tăng dưới 0,5%; tính chung cả năm tăng mức 12,7%, thấp hơn năm 1994.

Từ diễn biến thực tế của chỉ số giá qua các quý và kinh nghiệm xử lý năm 1995, Chính phủ đã đề ra các biện pháp đồng bộ để kiềm chế lạm phát năm 1996 ngay từ những tháng đầu năm.

Nhìn chung, kết quả thực hiện kế hoạch năm 1995 tuy có một số chỉ tiêu tăng hoặc giảm hơn số liệu ước tính trong báo cáo tháng 10, song không làm thay đổi nhận định về những thành tựu quan trọng đã đạt được cũng như về các mặt yếu kém trong tình hình kinh tế, xã hội và trong sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Riêng thu ngân sách và cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản thì kết quả thực hiện thấp hơn dự báo trong báo cáo tháng 10 và còn để lại một số khó khăn phải tiếp tục giải quyết.

II- MẤY NÉT LỚN VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
QUA HAI THÁNG ĐẦU NĂM 1996

1. Sản xuất tiếp tục phát triển. Trong nông nghiệp, tuy một số vùng gặp thời tiết không thuận, song vụ Đông - Xuân trong cả nước bảo đảm được tiến độ gieo trồng và tăng hơn cùng kỳ năm trước cả về lúa, màu, rau, đậu, cây công nghiệp.

Sản xuất công nghiệp và xây dựng bước đầu khắc phục tình trạng đủng đỉnh đầu năm. Công nghiệp trong hai tháng qua tăng sản lượng 13,5% so với cùng kỳ năm trước; các sản phẩm quan trọng như điện, than, dầu thô, thép, xi măng và các mặt hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong dịp Tết đều tăng khá.

Trong một tháng rưỡi đầu năm, đã cấp giấy phép cho 26 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài với số vốn đăng ký 585 triệu USD, trong đó có một số dự án lớn về sản xuất động cơ nhỏ, cáp điện, xi măng, sợi.

2. Thị trường và giá cả ổn định hơn các năm trước. Hàng hoá phục vụ Tết năm nay khá phong phú, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các tầng lớp dân cư ở các vùng. Chính phủ đã chỉ đạo sớm việc chuẩn bị lực lượng hàng Tết, nới rộng chính sách lưu thông lương thực, thực phẩm cho các thành phố, thị xã, đồng thời phát huy vai trò của thương nghiệp quốc doanh đối với một số mặt hàng thiết yếu. Hoạt động dịch vụ, đặc biệt là việc vận chuyển hành khách và các sinh hoạt văn hoá vui tươi, lành mạnh được tổ chức chu đáo hơn. Sự chuẩn bị đó đi liền với những biện pháp kiềm chế lạm phát được thực hiện từ cuối năm trước và được tăng cường chỉ đạo trong những tháng đầu năm. Chỉ thị và lời kêu gọi của Chính phủ về tiết kiệm tiêu dùng trong dịp Tết được sự hưởng ứng tích cực hơn của các cơ quan, các doanh nghiệp và nhân dân. Các địa phương đều quan tâm đến các gia đình nghèo khó, bảo đảm cho Tết đến với mọi người, mọi nhà. Tác động tổng hợp của tất cả những yếu tố đó tạo nên một không khí Tết phấn khởi, để lại ấn tượng đẹp không chỉ ở việc mua sắm, đi lại được đáp ứng đầy đủ, thuận tiện với giá cả ổn định mà còn ở những nét mới trong sinh hoạt văn hoá, tinh thần lành mạnh, đậm đà bản sắc dân tộc và những tiến bộ về an ninh, trật tự công cộng.

Riêng về giá cả, tuy sức mua của dân cư tăng mạnh trong dịp Tết nhưng đã giữ được ổn định hơn các năm trước và còn đủ lực lượng hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu sau Tết. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 1-1996 tăng 0,9%, theo số liệu sơ bộ có nhích lên 2,5% trong tháng 2, nhưng tính chung mức tăng giá trong hai tháng đầu năm nay chưa bằng một nửa năm 1995 và là mức thấp nhất so với cùng kỳ kể từ 10 năm nay. Ý nghĩa quan trọng của thành tựu này là nó chứng minh khả năng thoát ra khỏi tình trạng cố hữu, lặp đi lặp lại hàng năm gần như quy luật về sự biến động mạnh giá cả đầu năm vào dịp Tết, đồng thời mở ra triển vọng kiềm chế lạm phát năm 1996 thấp hơn năm trước. Tuy nhiên, để biến khả năng và triển vọng đó thành hiện thực, cần phải nâng cao hơn nữa năng lực quản lý vĩ mô, đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc theo dõi và xử lý kịp thời những biến động trên thị trường, ngăn ngừa sự tái diễn các cơn sốt giá do nguyên nhân chủ quan.

3. Ngân sách nhà nước từ trước đến nay thường đạt mức thu rất thấp trong mấy tháng đầu năm. Sang năm nay, một hiện tượng mới là thu ngân sách trong tháng 1 và tháng 2 tăng 28,9% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn nhịp độ tăng thu ngân sách cả năm theo kế hoạch (dự toán thu ngân sách cả năm 1996 được Quốc hội thông qua tăng 22,7% so với thực thu năm trước). Chi ngân sách tháng 1 tăng 24,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chi đầu tư xây dựng cơ bản gấp 6,6 lần, bao gồm cả việc thanh toán một phần khối lượng xây dựng đã hoàn thành năm trước.

Chuyển biến tích cực này mới là bước đầu, còn phải cố gắng rất nhiều để đà tiến bộ đầu năm được phát huy mạnh hơn trong cả năm.

4. Việc thiết lập trật tự, an ninh công cộng tiếp tục được tăng cường và mở rộng. Đi đôi với việc duy trì kỷ cương trong việc thực hiện các quyết định của Chính phủ về lập lại trật tự, an toàn giao thông đường bộ và đô thị, về cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán và đốt pháo, về xử lý các vi phạm Pháp lệnh bảo vệ đê điều, chúng ta đã mở thêm cuộc vận động lập lại trật tự và lành mạnh hoá các hoạt động văn hoá, đẩy lùi các tệ nạn xã hội.

Các chủ trương này được nhân dân đồng tình, hưởng ứng sôi nổi và rộng rãi; các ngành, các cấp, các đoàn thể phối hợp hành động chặt chẽ dưới sự chỉ đạo, kiểm tra sát sao của Chính phủ. Việc cấm pháo được thi hành triệt để hơn, trật tự giao thông và lòng lề đường được khôi phục và duy trì, số người chết vì tai nạn trong mấy tháng đầu năm giảm một nửa so với năm trước, các hoạt động văn hoá độc hại, trái phép được kiểm tra và xử lý nghiêm.

Kết quả thu được tuy mới là bước đầu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là bước khởi đầu thắng được sức ỳ của thói quen xem thường trật tự, kỷ cương, đồng thời chứng minh nguyện vọng của nhân dân và khả năng hiệu lực của Nhà nước trong việc xây dựng một xã hội sống và làm việc theo pháp luật với môi trường văn hoá lành mạnh.

Tuy nhiên, những việc đã làm được còn rất nhỏ bé so với những việc phải làm. Từ những hoạt động mang tính chất chiến dịch tới chỗ tạo thành nếp sống hàng ngày, từ việc xử lý những hành động vi phạm pháp luật tới chỗ giải quyết vấn đề tận gốc, từ việc loại bỏ những hiện tượng không lành mạnh tới chỗ xây dựng và phát triển được đời sống văn hoá và tinh thần phong phú, quá trình đó không dễ dàng, mau chóng mà đòi hỏi nhiều cố gắng bền bỉ của từng gia đình và toàn xã hội, của cả Nhà nước và nhân dân. Lòng dân còn nhức nhối về nhiều sự ngang trái chưa được khắc phục, nhất là nạn tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, các tệ cờ bạc, ma tuý, mãi dâm, nạn côn đồ phá rối trật tự, trị an và tình trạng bộ máy nhà nước thiếu trong sạch, quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân.

Mấy nét nổi bật trong hai tháng qua và trong dịp Tết đánh dấu một bước chuyển biến mới trong sản xuất, lưu thông, giá cả, bước đầu khắc phục sự trì trệ và kém ổn định đã lặp đi lặp lại nhiều năm vào những tháng đầu năm. Chặng đường phía trước còn nhiều khó khăn song tiến bộ mới trong bước khởi đầu tạo thêm khí thế và kinh nghiệm cho việc thực hiện nhiệm vụ năm 1996.

III- MẤY VẤN ĐỀ LỚN TRONG SỰ CHỈ ĐẠO
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NĂM 1996

Đà tiến bộ đã dành được trong thời gian qua cần được duy trì và phát huy mạnh hơn nữa nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1996, năm có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc đổi mới và phát triển đất nước trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Việc tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội toàn quốc của Đảng sẽ thu hút một phần thời gian và tâm trí của các cơ quan lãnh đạo, song phải tránh không để các mặt hoạt động thực tiễn bị sao nhãng mà ngược lại càng được đẩy mạnh hơn nữa, phấn đấu đạt và vượt kế hoạch phân bổ cho 6 tháng đầu năm để thiết thực chào mừng và đóng góp cho thành công của Đại hội. Thực hiện được yêu cầu đó chính là phát huy ý nghĩa của Đại hội trong cuộc sống, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng thêm sự gắn bó, tin cậy của nhân dân đối với Đảng.

Động lực lớn để thực hiện nhiệm vụ năm 1996 là đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới một cách sâu rộng và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; trọng tâm hiện nay là tiến hành đồng bộ và gắn kết chặt chẽ cải cách kinh tế với cải cách hành chính, nhằm giải phóng triệt để lực lượng sản xuất, hình thành và phát triển các yếu tố bảo đảm cho cơ chế thị trường hoạt động năng động, lành mạnh, có trật tự với sự quản lý đúng chức năng và có hiệu lực của Nhà nước.

Theo tinh thần đó, Chính phủ đã đề ra chương trình công tác năm 1996 để chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Quốc hội. Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư được Chính phủ thông qua để trình Quốc hội, đã nêu rõ bức tranh về các cân đối lớn của nền kinh tế và các chủ trương, biện pháp cụ thể để thực hiện nhiệm vụ năm 1996. Tôi không trình bày lại toàn bộ mà chỉ xin nhấn mạnh một số vấn đề lớn cần được Quốc hội xem xét, cho ý kiến để tạo sự nhất trí cao trong chỉ đạo thực hiện:

Một, phấn đấu thực hiện kế hoạch thu, chi ngân sách đã được Quốc hội thông qua là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cơ quan chính quyền các ngành, các cấp:

 1. Về thu ngân sách, do mức thu thực tế năm 1995 thấp hơn dự báo đã trình Quốc hội khi xem xét và thông qua dự toán ngân sách năm 1996, nên tổng số thu theo kế hoạch đã duyệt cho năm nay tăng hơn năm trước không phải ở mức 16,2% như đã trình bày mà lên tới 22,7%.

Nhiều địa phương cho là kế hoạch thu quá cao song tình hình thực tế cho thấy còn nhiều khả năng có thể khai thác để thực hiện mức đã đề ra. Tổng cục Thuế kiểm tra 497 doanh nghiệp nhà nước, đã xác định số thuế năm 1995 còn nợ đọng tới 746 tỷ đồng và ẩn lậu 125 tỷ đồng; kiểm tra 278 doanh nghiệp tư nhân cũng nợ đọng tiền thuế 15 tỷ và ẩn lậu trốn thuế 13,1 tỷ; kiểm tra 65 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, số thuế nợ đọng là 107,9 tỷ, ẩn lậu 49,5 tỷ. Sổ bộ thuế còn bỏ sót nhiều hộ kinh doanh nhỏ và tình trạng khai man doanh thu còn phổ biến; riêng đợt kiểm tra các cơ sở dịch vụ văn hoá, còn tới trên 40% số đơn vị kinh doanh không có giấy phép và không nộp thuế. Tình trạng trốn, lậu thuế xuất, nhập khẩu vẫn tiếp diễn nghiêm trọng. Đó là chưa kể việc trốn thuế của nhiều hoạt động kinh doanh ngầm, thu lợi lớn như mua bán đất, nhà… Vì vậy, biện pháp quan trọng nhất để thực hiện kế hoạch thu là phải kiên quyết thu đúng luật, chống thất thu, tập trung vào những lĩnh vực còn nhiều khả năng tăng thu và giảm thất thoát, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng với các cấp chính quyền và các đoàn thể, các hiệp hội.

Bên cạnh đó, cần bổ sung một chính sách, biện pháp vừa nhằm kích thích sản xuất, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, vừa tạo thêm nguồn thu ngân sách:

- Đẩy mạnh tiến trình cải cách hệ thống thuế, sửa đổi những điều bất hợp lý đang cản trở sự phát triển và lành mạnh hoá các hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như việc thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Chính phủ sẽ chỉ đạo khẩn trương công việc này, giải quyết ngay những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ và tích cực chuẩn bị những vấn đề cần trình Ủy ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội thông qua. Trước mắt, sẽ điều chỉnh ngay một số thuế suất trong khung cho phép nhằm khuyến khích mạnh hơn sản xuất trong nước và bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh trong cơ chế thị trường (như tạo mặt bằng thuế suất đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước).

- Bổ sung sửa đổi chính sách sử dụng đất để ngăn chặn thị trường ngầm về đất đai diễn ra trong thực tế, thoát ly sự kiểm soát và đánh thuế của Nhà nước, bổ sung nguồn thu quan trọng cho ngân sách, đồng thời tạo điều kiện cần thiết cho việc xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh và cho việc thế chấp trong tín dụng đầu tư. Chủ trương bán nhà do Nhà nước quản lý cũng phải có nhiều hình thức thích hợp để những người đang ở thuê có thể mua được. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cùng Chính phủ tổ chức nghiên cứu khảo sát thực tế để sửa các văn bản pháp quy về vấn đề này.

- Điều chỉnh giá một số sản phẩm như điện, xăng dầu, xi măng hiện nay có phần chưa sát hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường, có phần không bảo đảm yêu cầu tái sản xuất và phát triển các ngành này, có phần chưa thích ứng với giá thị trường quốc tế. Chính phủ đã xây dựng phương án xử lý từng bước, không gây biến động lớn cho mặt bằng giá, đồng thời có phân biệt các đối tượng tiêu dùng để không ảnh hưởng xấu tới thu nhập của những người hưởng lương và trợ cấp ngân sách.

- Xem xét tăng thêm việc nhập khẩu hàng tiêu dùng trong giới hạn không quá 20% kim ngạch xuất khẩu (theo dự kiến kế hoạch năm 1996 mới bằng 16,7% kim ngạch xuất khẩu và chiếm 11,7% kim ngạch nhập khẩu), chủ yếu là hàng chưa sản xuất đủ trong nước, kể cả một số hàng cao cấp có thuế suất cao để đáp ứng nhu cầu của dân cư. Biện pháp này trước hết nhằm góp phần bù đắp sự thiếu hụt hàng hóa cân đối tiền - hàng để kiềm chế lạm phát, đồng thời gián tiếp điều tiết thu nhập qua thuế và tăng thu ngân sách. Mức tăng nhập hàng tiêu dùng nêu trên không làm thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế; ngược lại còn giúp cho việc quay vòng sử dụng ngoại tệ để góp phần ổn định hợp lý tỷ giá hối đoái trong điều kiện nguồn ngoại tệ đưa vào nước ta tiếp tục tăng.

Những chủ trương nêu trên cần được quyết định sớm thì mới có tác dụng giải quyết khó khăn về cân đối ngân sách năm 1996.

2. Về chi ngân sách, nổi lên vấn đề vốn dành cho đầu tư xây dựng cơ bản. Theo kế hoạch đã được Quốc hội thông qua, khoản chi này chỉ tương đương năm trước (chưa kể trượt giá), trong đó phần vốn trong nước để phân bổ cho các dự án chỉ bằng 60%. Trong kế hoạch sử dụng nguồn vốn này, phần chi trả cho khối lượng xây dựng đã hoàn thành theo kế hoạch năm 1995 nhưng chưa được thanh toán mới dành được 500 tỷ đồng, còn hơn 1.300 tỷ phải tìm nguồn trang trải bằng các biện pháp không làm tăng bội chi ngân sách.

Rút kinh nghiệm năm 1995, việc điều hành ngân sách năm 1996 phải ưu tiên bảo đảm kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản đã được phân bổ vốn; nếu thu ngân sách không đạt kế hoạch thì giảm tương ứng phần dành cho chi thường xuyên. Phải bảo đảm chặt chẽ các điều kiện cho phép công trình đầu tư được ghi vào kế hoạch và được cấp vốn, tăng cường quản lý chi tiêu và cải tiến việc thanh toán, kiên quyết ngăn chặn và xử lý tình trạng tuỳ tiện chi vượt dự toán, để lại gánh nặng cho năm sau. Trên cơ sở đó, ngân sách phải đáp ứng yêu cầu cấp vốn kịp thời theo tiến độ thi công của công trình đầu tư.

Vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước năm nay tạo được nguồn tăng gần gấp đôi năm trước (6.000 tỷ đồng so với 3.300 tỷ) sẽ dành cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất và một phần cho các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn.

Nhà nước cũng dành 200 tỷ đồng cho quỹ khuyến khích đầu tư, chủ yếu là trợ giúp trả một phần lãi suất cho các dự án đầu tư phải vay vốn tín dụng thương mại để phát triển sản xuất - kinh doanh trong các lĩnh vực và ở các địa bàn cần được khuyến khích.

Về lâu dài, trong nguồn vốn đầu tư tập trung của Nhà nước, phần dành cho hình thức tín dụng và trợ giúp việc trả lãi suất sẽ tăng dần tỷ trọng để huy động được nhiều vốn và nâng cao hiệu quả đầu tư.

3. Về điều hành ngân sách, do việc thực hiện kế hoạch thu còn nhiều khó khăn và chưa vững chắc nên phải lường thu để chi, nếu thu không đạt thì phải giảm chi tương ứng, không giải quyết các nhu cầu chi ngoài kế hoạch hoặc chưa có nguồn thu. Chính phủ sẽ theo sát tình hình để điều hành cụ thể từng quý. Đến giữa năm, sẽ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại kế hoạch và việc phân bổ thu, chi ngân sách cho sát hợp với tình hình thực tế và báo cáo với Quốc hội trong kỳ họp sau.

Trong tình hình ngân sách còn rất hạn hẹp, việc điều hành theo tinh thần trên khó đáp ứng được yêu cầu của các ngành và các địa phương, kể cả những yêu cầu rất chính đáng, rất cần thiết cho giai đoạn phát triển mới. Ngay cả vốn ngân sách phân bổ cho miền núi, dù được tăng nhiều hơn các địa phương khác, cũng còn xa mới đáp ứng được các yêu cầu cần thiết. Nhưng nếu không kiên quyết và chặt chẽ, ngân sách sẽ bội chi vượt mức Quốc hội cho phép, tình trạng căng thẳng và bị động về ngân sách sẽ kéo dài và trầm trọng thêm, làm tăng nguy cơ tái lạm phát cao, rất có hại cho sự ổn định và phát triển chung của nền kinh tế.

Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nhất trí với Chính phủ ổn định việc phân giao nhiệm vụ chi và tỷ lệ thu các sắc thuế giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương trong hai năm kể từ năm nay. Dự luật giải quyết vấn đề quản lý ngân sách trình Quốc hội xem xét trong kỳ họp lần này sẽ ổn định lâu dài hơn việc phân cấp về ngân sách, bảo đảm tính thống nhất về chính sách, chế độ thu, chi ngân sách đồng thời tăng thêm thẩm quyền để phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương.

Việc đổi mới một bước cơ chế này trong năm 1996 đòi hỏi các đơn vị ngân sách phải thấy hết các khó khăn không chỉ của đơn vị mình mà của cả nước để tăng thu, tiết kiệm chi và khai thác mọi tiềm năng có thể huy động cho đầu tư phát triển, không ỷ lại vào Trung ương.

Theo kết quả kiểm tra của Cơ quan kiểm toán nhà nước về thu chi ngân sách của một số địa phương thì nơi nào cũng có hiện tượng tuỳ tiện miễn giảm thuế, chủ yếu là cho các doanh nghiệp nhà nước, để quỹ ngoài sổ sách, chi sai mục đích, xây trụ sở cơ quan và mua sắm ô tô không ghi vào kế hoạch đầu tư; kiểm toán việc sử dụng vốn của Chương trình 327 chi cho 29 dự án ở ba tỉnh, đã phát hiện số tiền cần xử lý vì chi sai mục đích, sai chế độ chiếm 24,4%, trong đó số phải thu hồi cho ngân sách chiếm 19,8% so với tổng số vốn được kiểm toán. Vì vậy, một biện pháp quan trọng để giải quyết khó khăn về ngân sách là phải tăng cường kỷ luật về chế độ thu, chi tài chính công, đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm toán việc sử dụng công quỹ, khắc phục cho được tình trạng tiêu xài lãng phí, thất thoát đang còn rất nghiêm trọng.

Hai, tiếp tục đẩy lùi và kiềm chế lạm phát vẫn là một nhiệm vụ bức xúc trong năm 1996:

Thực tiễn quản lý vĩ mô của nước ta trong thời gian qua cũng như kinh nghiệm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và bền vững của nhiều nước trong khu vực cho phép khẳng định: trong khi đẩy mạnh đầu tư phát triển để đạt nhịp độ tăng trưởng cao, vẫn có khả năng kìm giữ chỉ số tăng giá. Tuy có khía cạnh xung khắc nhau, song về cơ bản việc kiềm chế lạm phát không mâu thuẫn với yêu cầu tăng trưởng, ngược lại là điều kiện rất quan trọng để hạn chế rủi ro, kích thích tiết kiệm và đầu tư, bảo đảm sự phát triển bền vững về kinh tế và xã hội.

Kết quả kiềm chế lạm phát trong hai tháng đầu năm tạo thuận lợi lớn cho việc đẩy lùi chỉ số giá xuống thấp hơn năm 1995. Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu đó không dễ dàng mà đòi hỏi phải theo dõi sát diễn biến và xử lý kịp thời các yếu tố có thể gây đột biến giá.

Trong chương trình đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, Chính phủ tập trung vào mấy giải pháp chính:

Một là, giải pháp về tài chính - tiền tệ:

- Quản lý chặt chẽ thu, chi ngân sách, giữ tỷ lệ bội chi không vượt mức cho phép bằng các chủ trương, biện pháp đã nêu ở phần trên.

- Nâng cao năng lực quản lý, kiểm soát và điều hoà lưu thông tiền tệ, tín dụng. Xác định hợp lý mức tăng tổng phương tiện thanh toán và mức tăng tín dụng với sự theo dõi, điều hành nhậy bén bằng các công cụ thích hợp với thị trường tiền tệ, vừa đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa kiềm chế lạm phát. Phát triển các hình thức huy động vốn trong nước, thu hút tiền gửi và thu hồi nợ để cho vay, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Tiếp tục cải tiến cơ chế quản lý ngoại tệ theo hướng nâng cao khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam và ổn định tỷ giá hối đoái ở mức hợp lý, sử dụng và quay vòng nguồn ngoại tệ để cân đối tiền - hàng, tạo điều kiện thực hiện cơ chế các doanh nghiệp trong nước chỉ có tài khoản bằng tiền Việt Nam.

Hai là, giải pháp khuyến khích phát triển sản xuất và điều hành hợp lý xuất, nhập khẩu, thúc đẩy lưu thông hàng hóa để bảo đảm cân đối tổng thể tiền - hàng và điều hoà cung - cầu những mặt hàng quan trọng có tác động lớn đến chỉ số chung về giá cả, như lương thực, thực phẩm và một số vật tư thiết yếu, không để xảy ra các cơn sốt giá không đáng có.

Sự điều hành của Chính phủ phải kết hợp chặt chẽ với sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, các cơ quan và của nhân dân, nhất là trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, thực hành tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng quá mức, dành vốn cho đầu tư phát triển, mua trái phiếu, cổ phiếu hoặc gửi quỹ tiết kiệm.

Đó là những yếu tố chủ quan quyết định khả năng tiếp tục đẩy lùi và kiềm chế lạm phát. Bên cạnh đó, còn có những tác động khách quan chưa thể lường trước, cần phải theo dõi và xử lý kịp thời khi xảy ra, như những biến động bất lợi về giá cả trên thị trường quốc tế hoặc thiên tai bất thường gây thiệt hại lớn cho sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Ba, khai thác tiềm năng và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển của toàn xã hội:

1. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước rất có hạn, tập trung hầu hết cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội với sự lựa chọn chặt chẽ các mục tiêu ưu tiên, phát huy hiệu quả nhanh, nhưng cũng chỉ mới đáp ứng được yêu cầu ở mức rất thấp.

Năm 1995, vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước đạt kế hoạch thấp và giảm hơn năm 1993, 1994. Song, tổng vốn đầu tư toàn xã hội theo giá hiện hành vẫn tăng 7% so với dự kiến kế hoạch và tăng 39,5% so với năm trước là nhờ các doanh nghiệp tự đầu tư gấp 2,5 lần, các hộ gia đình đầu tư tăng 11% và vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài được thực hiện tăng 51%. Năm 1996, như đã trình bày ở trên, vốn đầu tư của ngân sách nhà nước còn hạn hẹp hơn. Vì vậy, việc huy động vốn của các doanh nghiệp và nhân dân và vốn ngoài nước cho đầu tư phát triển là yêu cầu bức thiết, và ở đây còn nhiều tiềm năng lớn. Chính các nguồn vốn đầu tư này quyết định trực tiếp nhịp độ tăng trưởng, sự chuyển dịch cơ cấu và hiệu quả của nền kinh tế.

2. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, Đảng và Nhà nước đã có các chủ trương, chính sách sắp xếp lại, thành lập một số tổng công ty lớn và tương đối lớn, tiến hành cổ phần hoá, đổi mới tổ chức và quản lý, xoá bỏ dần cơ chế "chủ quản" bao biện và bao cấp của cơ quan hành chính, đồng thời trợ giúp đầu tư phát triển... Tuy đã thu được một số kết quả, nhưng việc triển khai thực hiện còn chậm, hiệu quả chung của khu vực kinh tế này vẫn thấp. Năm nay, phải xúc tiến mấy việc để mở đường cho việc thực hiện tốt các chủ trương, chính sách đã đề ra:

- Một là, phân định rõ những doanh nghiệp nhà nước có mục tiêu kinh doanh thu lợi nhuận, được áp dụng quy chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm như công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, tồn tại và phát triển theo cơ chế thị trường. Trên cơ sở đó, xác định cụ thể chức năng và nội dung quản lý của cơ quan nhà nước đối với các doanh nghiệp này, không duy trì chế độ chủ quản như trước. Các doanh nghiệp này phải tự tạo và tự tìm nguồn vốn đầu tư phát triển. Nhà nước không cấp vốn đầu tư ngân sách; trường hợp xét cần thiết có thể cho vay tín dụng nhà nước hoặc tài trợ để trả một phần lãi suất vay từ các nguồn khác, hoặc cho phép doanh nghiệp được ngân hàng quốc doanh bảo lãnh để vay vốn nước ngoài.

Các doanh nghiệp nhà nước phục vụ công ích, phải thực hiện mục tiêu xã hội, được Nhà nước quản lý theo cơ chế thích hợp và có thể được Nhà nước đầu tư vốn bằng nhiều hình thức, kể cả cấp phát vốn ngân sách trong trường hợp cần thiết.

Hai là, chấn chỉnh tài chính doanh nghiệp một cách minh bạch, chân thực và từng bước lành mạnh hoá thông qua việc đánh giá đúng giá trị tài sản, thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán mới, tăng cường công tác kiểm toán và giải quyết dứt điểm việc thanh toán nợ. Thiếu điều kiện này thì không thể đánh giá đúng thực trạng của doanh nghiệp để có phương hướng xử lý thích hợp.

Hai việc nêu trên không dễ dàng, nhưng phải xúc tiến khẩn trương để tạo cơ sở cho việc chấn chỉnh tổ chức và quản lý, tiến hành cổ phần hoá, đưa các tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước vào hoạt động lành mạnh, có hiệu quả, tăng nhanh khả năng tích tụ để đầu tư phát triển, thực sự góp phần thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.

3. Đầu tư của kinh tế hộ gia đình và doanh nghiệp tư nhân có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải địa phương, tạo nhiều việc làm và nâng cao thu nhập của dân cư.

Để phát huy một bước mạnh mẽ các nguồn lực đang còn nhiều tiềm năng của khu vực kinh tế này, cần thấu suốt và thực hiện nhất quán đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, xoá bỏ những trở lực trong chính sách, thủ tục và cả trong tâm lý xã hội. Trước mắt, cần xúc tiến mấy biện pháp chính:

- Thực hiện quy chế đăng ký kinh doanh dễ dàng, nhưng hoạt động kinh doanh phải tuân theo luật pháp, đóng thuế sòng phẳng, chịu sự kiểm soát và quản lý theo chức năng của cơ quan nhà nước. Giảm mạnh các điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp, xoá bỏ sự hạn chế không cần thiết về phạm vi ngành, nghề, xem lại việc phân biệt loại hình kinh doanh theo số vốn đăng ký không phù hợp với thực tế, thống nhất làm một việc cấp giấy phép và đăng ký kinh doanh; kiểm tra và bắt buộc mọi cơ sở sản xuất, kinh doanh đều phải đăng ký và hoạt động theo đúng pháp luật.

- Khắc phục ngay sự chậm trễ trong việc cụ thể hoá và triển khai thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Ban hành quy chế hình thành và sử dụng quỹ trợ giúp đầu tư phát triển. Giải quyết hợp lý quyền sử dụng đất. Bổ sung các chính sách và biện pháp giúp các doanh nghiệp và hộ gia đình khắc phục những mặt hạn chế về tiếp thị, về vốn, về nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới.

- Phát triển các hình thức kinh tế hợp tác giữa các hộ gia đình và cơ sở kinh doanh nhỏ theo Luật hợp tác xã sau khi được Quốc hội thông qua và ban hành. Khuyến khích các hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp lớn với các cơ sở vừa và nhỏ trên cơ sở điều hoà lợi ích, không chèn ép, thôn tính nhau.

4. Về đầu tư trực tiếp của nước ngoài, một mặt, phải tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, chuẩn bị trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư, cải tiến mạnh hơn nữa các thủ tục hành chính để thu hút thêm nguồn đầu tư mới dưới nhiều hình thức vào những lĩnh vực cần thiết; mặt khác, cần chú trọng khắc phục các trở ngại, tăng cường sự giúp đỡ và kiểm soát của Nhà nước, nhất là về đất đai và giải phóng mặt bằng, để triển khai thực hiện nhanh các dự án đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy phép. Cho đến nay, số vốn đăng ký của các dự án đã được cấp giấy phép còn khoảng 13 tỷ USD chưa được thực hiện. Nguồn vốn này cần được sử dụng và phát huy tác dụng đối với sự phát triển ngay trong 5 năm này.

Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn ODA và đưa nhanh vào sử dụng số vốn đã được các nhà tài trợ cam kết. Phần vốn vay chủ yếu dùng để cho vay lại nhằm thực hiện các dự án đầu tư được lựa chọn. Khâu quyết định là nâng cao chất lượng chuẩn bị các dự án, triển khai thực hiện đúng tiến độ các dự án đã được chấp nhận, tăng cường công tác quản lý, điều phối, bảo đảm sử dụng vốn có hiệu quả cao.

5. Phát triển thị trường vốn để thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư. Mở rộng việc phát hành và hình thành thị trường mua bán trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc; phát triển các quỹ bảo hiểm và các hình thức thu hút tiền gửi trung, dài hạn; rút kinh nghiệm thí điểm để xây dựng quy chế tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và xây dựng công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu; xúc tiến việc xây dựng khuôn khổ pháp lý và đào tạo nhân lực cho việc thành lập thị trường chứng khoán.

6. Qua bước đưa chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào cuộc sống, thực tiễn càng cho thấy rõ tầm quan trọng của công tác quy hoạch để hướng dẫn đầu tư phát triển có hiệu quả, tránh phải trả giá rất đắt cho việc xây dựng hỗn độn, không hợp lý, phá hoại môi trường, cảnh quan. Bước vào giai đoạn phát triển mới, công tác quy hoạch phải được coi là một nội dung quan trọng hàng đầu trong chức năng quản lý nhà nước ở tất cả các cấp. Công tác này đòi hỏi tính khoa học cao và tầm nhìn xa, trông rộng, không thể làm một lần là xong.

Cần xúc tiến khẩn trương và không ngừng nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển ngành và quy hoạch các địa bàn, các vùng trọng điểm, các đô thị, các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế xuất, khu công nghệ cao), quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc và quy hoạch khu dân cư ở nông thôn.

Quy hoạch các thành phố lớn phải hình thành các khu công nghiệp - dịch vụ vệ tinh, không bố trí các xí nghiệp công nghiệp mới trong nội thành, đưa các xí nghiệp gây ô nhiễm ra ngoại ô, hình thành các khu dân cư, các trung tâm văn hóa, các khu giải trí, vui chơi, bảo đảm diện tích cây xanh, giữ gìn môi trường, cảnh quan, di tích lịch sử, văn hóa; hạn chế việc bố trí nhiều nhà cao tầng ở khu vực trung tâm để tránh tăng quá mức mật độ dân cư, dẫn tới làm gay gắt thêm sự quá tải về cơ sở hạ tầng, sự căng thẳng về các điều kiện sinh hoạt, đi lại, v.v. và làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm môi trường. Quy hoạch khu dân cư ở nông thôn phải kết hợp chặt chẽ hai mặt: sống hài hoà với tự nhiên và từng bước nâng cấp cơ sở hạ tầng, cải thiện điều kiện sinh hoạt, giảm dần sự cách biệt về tiện nghi so với đô thị.

Chính phủ sẽ chỉ đạo các Bộ kiểm điểm, rút kinh nghiệm về công tác quy hoạch trong thời gian qua, để có biện pháp thúc đẩy và nâng cao chất lượng quy hoạch, đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho công tác này.

Bốn, đổi mới cơ chế, tạo bước phát triển mới về văn hoá, xã hội:

Kế hoạch năm 1996 đã xác định rõ tư tưởng chỉ đạo phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, coi việc phát triển văn hoá và giải quyết các vấn đề xã hội để phát triển con người là nhân tố cơ bản của sự phát triển bền vững. Tư tưởng chỉ đạo đó được thể hiện trong việc xác định phương hướng phát triển, bố trí kế hoạch đầu tư và phân bổ ngân sách nhà nước đi đôi với các biện pháp xã hội hoá, Nhà nước và nhân dân cùng làm trong các lĩnh vực này.

Tuy nhiên, các lĩnh vực văn hoá, xã hội có nhiều vấn đề bức xúc, các giải pháp đã đề ra, nhất là về kinh phí, chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống. Tình hình thực tế đòi hỏi phải có cơ chế sử dụng có hiệu quả hơn vốn ngân sách, thực hiện phương châm xã hội hoá sâu rộng và đa dạng hơn để tạo bước phát triển mới cho các lĩnh vực này.

Cơ chế kinh phí hiện hành đối với giáo dục và y tế vừa không đủ trả lương đúng mức cho thầy giáo, thầy thuốc, vừa mang tính trợ cấp bình quân cho mọi người đi học, đi khám, chữa bệnh trong khi sự phân tầng thu nhập trong xã hội đã diễn ra rõ nét. Trong thực tế, gia đình có con đi học phải nộp thêm nhiều khoản tiền ngoài học phí, phần lớn là cho việc học thêm một cách vô lối, trái nguyên tắc sư phạm; người đi khám, chữa bệnh phải chi một cách không chính thức, không công khai, nhiều hơn mức quy định của Nhà nước, thường là gấp nhiều lần. Tình trạng đó tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm vẩn đục quan hệ thầy trò, xói mòn đạo đức y tế và tăng thêm bất công vì người giàu vẫn được trợ cấp còn người nghèo không đủ tiền chi trả.

Tình hình thực tế vừa đòi hỏi, vừa mở ra khả năng đổi mới cơ chế bảo đảm kinh phí giáo dục, y tế theo hướng: thu phí đúng mức một cách chính thức, công khai; tập trung vốn tài trợ của Nhà nước cho các mục tiêu ưu tiên và các đối tượng cần thiết như xây dựng cơ sở hạ tầng về giáo dục, y tế, phổ cập tiểu học, công tác vệ sinh phòng bệnh, đầu tư cho miền núi, vùng đồng bào dân tộc, vùng nông thôn sâu, trợ giúp cho người nghèo, người thuộc gia đình chính sách được đi học, khám, chữa bệnh, cho việc bồi dưỡng nhân tài, v.v.. Như vậy, người khá giả lâu nay đóng góp không ít thì nay sự đóng góp ấy được minh bạch, đường hoàng, người nghèo được trợ giúp tốt hơn; thầy giáo, thầy thuốc được đãi ngộ xứng đáng bằng tiền lương, thầy càng giỏi càng có thu nhập cao. Thực tiễn của các trường, lớp dân lập, bán công, các cơ sở y tế thu đúng mức phí dịch vụ và có chế độ chữa bệnh không phân biệt đối xử với người nghèo cần được tổng kết để tìm ra các hình thức, biện pháp đổi mới cơ chế theo hướng nêu trên.

Tuy nhiên, đây là chủ trương lớn, tác động đến mọi gia đình và có nhiều vấn đề phức tạp cả về cơ chế, tổ chức và con người với những hệ quả cần giải quyết. Vì vậy, phải nghiên cứu kỹ, thực hiện từng bước; trong năm nay tiến hành ở những cơ sở giáo dục, y tế có điều kiện trong một số thành phố, thị xã và kịp thời rút kinh nghiệm để xây dựng và hoàn chỉnh cơ chế mới.

Các lĩnh vực khác về văn hoá, xã hội, tuy mang tính chất khác với giáo dục, y tế, song cũng cần suy nghĩ về cơ chế sử dụng hợp lý, có hiệu quả kinh phí được Nhà nước tài trợ và các hình thức xã hội hoá thích hợp với từng lĩnh vực.

Năm, xúc tiến có hiệu quả chương trình cải cách hành chính:

Năm 1995, đã làm được một số việc có kết quả bước đầu về cải cách thủ tục hành chính, ban hành một số thể chế mới, thiết lập trật tự, kỷ cương trong một số lĩnh vực, sắp xếp lại một bước tổ chức bộ máy hành chính, mở rộng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Tuy vậy, nhìn chung, công cuộc cải cách hành chính tiến triển chậm, chưa mang lại chuyển biến rõ nét, nhất là về những lĩnh vực có quan hệ trực tiếp với nhân dân và các doanh nghiệp. Thực tiễn càng cho thấy rõ cải cách hành chính là yêu cầu bức xúc của nhân dân và đang là một khâu có ý nghĩa quyết định đối với tiến trình đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội.

Năm nay, phải duy trì và phát huy các kết quả đã đạt được và triển khai thực hiện có kết quả một số công việc mới, gắn kết hơn nữa cải cách hành chính với cải cách kinh tế trong từng chính sách và biện pháp, tạo chuyển biến mạnh hơn trong việc khắc phục tình trạng tham nhũng, quan liêu, cửa quyền của bộ máy nhà nước và trong việc xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật.

Mấy vấn đề lớn cần tập trung giải quyết là:

- Thực hiện tốt chương trình xây dựng luật và pháp lệnh đã được Quốc hội thông qua. Cải tiến và tăng cường công tác lập quy; có quy chế thu thập ý kiến của các đối tượng thi hành trước khi ban hành văn bản pháp quy. Hoàn thành sớm việc rà soát hệ thống văn bản pháp quy đã ban hành và thiết lập trật tự, kỷ cương trong việc ban hành văn bản.

- Tiếp tục sửa đổi thủ tục hành chính; ngoài các lĩnh vực đã làm, cần tập trung tiến hành trong các lĩnh vực: nhà và đất ở đô thị, thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh; quy chế công chứng nhà nước; giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân; chế độ tài chính, ngân hàng; hoàn chỉnh và ban hành pháp lệnh về phí và lệ phí. Thực hiện quy chế công bố và hướng dẫn về thủ tục hành chính để dân biết, dân làm và giám sát việc thực hiện của cơ quan, công chức nhà nước.

- Chuẩn bị tốt điều kiện cho sự thành lập và hoạt động của Toà án hành chính vào giữa năm.

- Duy trì và nâng cao hiệu quả các cuộc vận động thiết lập trật tự, kỷ cương đã tiến hành trong một số lĩnh vực và chuẩn bị mở sang một số lĩnh vực khác.

- Tiếp tục làm rõ chức năng quản lý nhà nước trong từng ngành và lĩnh vực, xác định thẩm quyền, trách nhiệm và sự phối hợp giữa các ngành và các cấp để thực hiện chức năng ấy đặc biệt là trong những lĩnh vực còn nhiều vướng mắc. Trên cơ sở đó, nghiên cứu, xác định mô hình tổ chức của Bộ, Tổng cục ở Trung ương, của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố và các Sở; nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của chính quyền ở đô thị, các thành phố loại 2 và các thị xã, cấp quận và phường.

- Sắp xếp trụ sở làm việc của cơ quan hành chính, thuận tiện cho việc thực hiện cơ chế "một cửa" trong quan hệ với dân. Hiện đại hoá một bước các công sở, ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý hành chính, trang bị thêm và nâng cao hiệu quả sử dụng máy tính và các phương tiện kỹ thuật khác.

- Ban hành Pháp lệnh về công chức, quy chế công vụ đối với công chức hành chính. Thực hiện cơ chế thi tuyển và kiểm tra, sát hạch đối với công chức mới tuyển dụng và áp dụng từng bước trong việc sắp xếp chức vụ. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức theo chức danh, tiêu chuẩn.

*

*    *

Nhìn lại tình hình mấy tháng qua và công tác phải làm trong thời gian tới, chúng ta có căn cứ để khẳng định quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 1996. Trong lần báo cáo bổ sung về kinh tế, xã hội ở kỳ họp Quốc hội lần này, Chính phủ rất mong được các đại biểu góp ý kiến, nhất là về các chủ trương, biện pháp phát huy đà tiến bộ mới, giải quyết các khó khăn, nâng cao sự nhất trí và tinh thần cộng đồng trách nhiệm trong việc chỉ đạo, điều hành thực hiện Nghị quyết của Quốc hội.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội