TỜ TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ
VỀ DỰ ÁN LUẬT HỢP TÁC XÃ
(Do ông Đỗ Quốc Sam, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đọc tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa IX, ngày 02-3-1996)
Kính thưa các đại biểu Quốc hội,
Hợp tác xã đã từng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây ở nước ta. Vào thời kỳ cao điểm (1986-1988), đã có khoảng 100.000 đơn vị kinh tế hợp tác xã ở tất cả các ngành kinh tế với quy mô, trình độ khác nhau, trong đó hợp tác xã phát triển mạnh trong các ngành nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mua bán, tín dụng. Hợp tác xã đã góp phần quan trọng trong phát triển sản xuất, thực hiện chính sách phân phối thời chiến, đóng góp sức người, sức của cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thành công.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, do mô hình cũ không còn phù hợp nên hợp tác xã đã giảm sút mạnh về số lượng trong tất cả các ngành (nay chỉ còn khoảng 25.000 đơn vị). Hình thức và tính chất hợp tác cũng thay đổi. Hợp tác xã chỉ làm một vài khâu, hoặc chuyển sang làm dịch vụ, hoặc tồn tại trên danh nghĩa, một số khác chuyển đổi hình thức pháp lý. Vấn đề chuyển đổi của hợp tác xã còn gặp một số khó khăn và chưa rõ hướng xử lý, nhất là về đất đai, nhà xưởng, tài sản tích luỹ trong nhiều năm. Nhiều hợp tác xã cũ vẫn muốn đăng ký là hợp tác xã nhưng lúng túng vì chưa có luật về hợp tác xã. Bên cạnh việc giảm sút và gặp khó khăn của các hợp tác xã kiểu cũ, hiện nay cũng đang xuất hiện nhiều hình thức kinh tế hợp tác đa dạng với các tên gọi khác nhau như tổ hợp tác, xí nghiệp tập thể, hợp tác xã cổ phần, quỹ tín dụng nhân dân...
Cũng từ khi thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật như Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật phá sản doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp nhà nước, v.v., tạo cơ sở pháp lý cho các loại hình doanh nghiệp hoạt động. Nhờ vậy, khu vực kinh tế tư nhân đã có sự phát triển năng động, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được thành lập, khu vực doanh nghiệp nhà nước đã bước đầu được đổi mới, nền kinh tế đã có sự tăng trưởng khá trong mấy năm gần đây, các doanh nghiệp dần dần được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, đối với khu vực kinh tế tập thể được Hiến pháp năm 1992 khẳng định là một thành phần kinh tế quan trọng, cho đến nay vẫn chưa có Luật cho hợp tác xã hoạt động. Bên cạnh các lý do chủ quan và khách quan dẫn đến việc suy giảm hợp tác xã trong thời gian vừa qua, việc chậm ban hành Luật hợp tác xã cũng là một trong những trở ngại đối với việc đổi mới hợp tác xã và mở rộng các hình thức hợp tác đa dạng, được thực tế khẳng định hiện nay. Vì vậy, việc ban hành Luật hợp tác xã là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự ra đời và khẳng định tư cách pháp lý của những mô hình kinh tế hợp tác có đủ điều kiện để trở thành các hợp tác xã, đồng thời tạo điều kiện để Nhà nước quản lý hợp tác xã theo pháp luật.
Dự án Luật hợp tác xã được triển khai xây dựng từ năm 1991, theo dự kiến ban đầu bao gồm hai Dự án Luật riêng là: Dự án Luật hợp tác xã nông nghiệp và Dự án Luật hợp tác xã công nghiệp, xây dựng, vận tải, thương mại và dịch vụ. Từ đầu năm 1992, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chủ trì phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng Dự án Luật hợp tác xã chung cho các loại hình hợp tác xã thuộc các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
Dự án Luật hợp tác xã được xây dựng trên cơ sở quán triệt tư tưởng phát triển kinh tế tập thể ghi trong Hiến pháp năm 1992, trong đường lối đổi mới và các nghị quyết của Đảng và của Nhà nước, căn cứ vào nghiên cứu tổng kết thực trạng phong trào hợp tác xã trong nhiều năm qua: tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về nông nghiệp và bước đầu sơ kết việc thực hiện Nghị quyết 16 Bộ Chính trị về hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, vận tải và việc tổng kết đánh giá về hợp tác xã của các Bộ, ngành theo chỉ thị của Ban Bí thư mới đây, đã góp phần tạo cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng Dự án Luật hợp tác xã.
Trong quá trình xây dựng Dự án Luật, Ban chỉ đạo xây dựng Luật hợp tác xã đã tổ chức nghiên cứu kỹ để tiếp thu các tư tưởng ghi trong Điều lệ hợp tác xã do Bác Hồ phê duyệt, khảo sát tình hình hợp tác xã ở nhiều địa phương trong cả nước như Nam Hà, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Nam - Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Sông Bé, Cần Thơ…, và nghiên cứu kinh nghiệm chuyển đổi của 62 hợp tác xã tiêu biểu cho các ngành đã báo cáo Bộ Chính trị trong tháng 01 vừa qua, nhằm tham khảo những đặc điểm chung nhất và những điểm đặc thù trong các ngành để thực hiện trong dự luật. Dự thảo Luật đã nhiều lần lấy ý kiến chuyên gia của các Bộ, ban, ngành ở Trung ương và chuyên gia của một số địa phương và cơ sở, trên cơ sở đó ban soạn thảo đã tu chỉnh lại nhiều lần Dự án Luật này. Đồng thời, để tham khảo thêm kinh nghiệm quốc tế, ban soạn thảo đã tổ chức nghiên cứu các văn kiện của Liên minh hợp tác xã quốc tế, các luật và điều lệ hợp tác xã ở một số nước và cử đoàn đi khảo sát kinh nghiệm hợp tác xã và xây dựng Luật hợp tác xã ở Cộng hoà Liên bang Đức, Ba Lan, Cộng hoà Séc và một số nước khu vực châu Á.
Nhìn chung, các ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ và ý kiến của các địa phương, cơ sở đều nhất trí về sự cần thiết phải xây dựng và ban hành Luật hợp tác xã và đồng tình với quan điểm xây dựng Luật hợp tác xã chung áp dụng cho mọi loại hình hợp tác xã trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và mong muốn Quốc hội sớm ban hành Luật hợp tác xã.
Tại kỳ họp lần thứ 8 của Quốc hội (tháng10-1995), Ban soạn thảo đã gửi Dự thảo lần thứ 14 để xin ý kiến các đại biểu Quốc hội. Ban soạn thảo đã nhận được ý kiến góp ý của 34 Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội và Hội đồng Liên minh hợp tác xã kết hợp với Đoàn đại biểu Quốc hội thảo luận góp ý kiến về Dự thảo Luật này. Các ý kiến góp ý về cơ bản nhất trí với quan điểm, kết cấu và nội dung của Dự thảo Luật, một số ý kiến góp ý cụ thể để bổ sung cho các điều của Dự thảo. Ban soạn thảo đã tiếp thu các ý kiến góp ý, bổ sung về kết cấu, nội dung Dự thảo Luật, và chỉnh lý lại thành Dự thảo mới trình Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Bộ Chính trị.
Sau đây là quan điểm tư tưởng chỉ đạo xây dựng Luật này, nội dung chính của Dự thảo Luật, và một số vấn đề đang còn có ý kiến thảo luận trình Quốc hội xem xét quyết định.
I - VỀ TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT HỢP TÁC XÃ
Dự án Luật hợp tác xã được xây dựng dựa trên những căn cứ và định hướng theo những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo sau đây:
1. Quan điểm đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa). Theo đó, các chủ thể kinh doanh vừa cạnh tranh, vừa có thể hợp tác với nhau dưới các hình thức đa dạng, trong đó có hình thức hợp tác xã. Mô hình hợp tác xã phải phù hợp với đặc điểm cụ thể của nước ta trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang phát triển kinh tế thị trường, đồng thời, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về phát triển hợp tác xã trong điều kiện kinh tế thị trường.
2. Định hướng phát triển kinh tế hợp tác, đổi mới hợp tác xã phải quán triệt đường lối chiến lược của Đảng là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa), trong đó coi trọng phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã để cùng với kinh tế quốc doanh dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời, xuất phát từ tổng kết thực tiễn trong giai đoạn vừa qua thì việc phát triển kinh tế hợp tác và đổi mới hợp tác xã trong thời gian tới cần thực hiện theo các định hướng sau:
a) Phân biệt những loại hình kinh tế hợp tác giản đơn để có định hướng xử lý đúng:
- Đối với những hình thức kinh tế hợp tác đa dạng và giản đơn như các tổ hợp tác, tổ đoàn kết sản xuất, các hội nghề nghiệp…, cần được khuyến khích phát triển và hướng dẫn để trở thành các hợp tác xã.
- Đối với những tổ hợp tác có đủ điều kiện để trở thành pháp nhân và hoạt động theo nguyên tắc hợp tác xã thì được đăng ký hoạt động theo hình thức hợp tác xã.
- Đối với những tổ hợp tác có đủ điều kiện để trở thành pháp nhân nhưng không bảo đảm nguyên tắc và tính chất hợp tác xã thì khuyến khích và tạo đủ điều kiện để tổ hợp tác trở thành hợp tác xã và đăng ký theo hình thức hợp tác xã; nếu tổ hợp tác có đủ điều kiện trở thành pháp nhân nhưng không đủ điều kiện trở thành hợp tác xã (hoạt động như doanh nghiệp, công ty tư nhân) thì chuyển đổi, đăng ký theo loại hình doanh nghiệp tương ứng.
- Đối với các tổ hợp tác không đủ điều kiện trở thành pháp nhân thì hoạt động theo Bộ luật dân sự.
b) Đối với các hợp tác xã đã thành lập, đăng ký trước đây cần đổi mới, chuyển hướng hoạt động nhưng phải bảo đảm nguyên tắc hợp tác xã. Tuỳ từng ngành, có thể tổ chức thành một trong ba loại sau đây:
- Hợp tác xã chuyên làm dịch vụ cho xã viên (chủ yếu trong nông nghiệp).
- Hợp tác xã sản xuất kết hợp dịch vụ.
- Hợp tác xã sản xuất (chủ yếu trong tiểu thủ công nghiệp).
c) Những hợp tác xã yếu kém không còn tác dụng, xã viên không ủng hộ, không có khả năng chuyển đổi thì cho giải thể, trong đó cần có hướng dẫn xử lý dứt điểm các vấn đề về nợ, đất đai, quyền lợi xã viên.
d) Đối với các hợp tác xã đã chuyển đổi từ mô hình cũ sang hợp tác xã cổ phần, xí nghiệp tập thể, được xem xét để xử lý theo hướng:
Những hợp tác xã cổ phần và xí nghiệp tập thể bảo đảm nguyên tắc hợp tác xã thì cho đăng ký hoạt động theo hình thức hợp tác xã.
Những hợp tác xã cổ phần và xí nghiệp tập thể không bảo đảm đúng nguyên tắc hợp tác xã và xét về bản chất là loại hình doanh nghiệp khác thì cho chuyển đổi hình thức pháp lý.
3. Đổi mới vai trò và tính chất hợp tác trong hợp tác xã phù hợp với quyền tự do kinh doanh của cá nhân, hộ kinh tế gia đình và các thành phần kinh tế khác đã được pháp luật khẳng định. Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế của những người lao động có nhu cầu tự nguyện hợp tác để giúp nhau phát triển kinh tế dưới nhiều hình thức đa dạng. Vai trò hợp tác xã được chuyển từ tổ chức quản lý tập trung toàn diện các hoạt động sản xuất - kinh doanh sang tổ chức các hoạt động đa dạng; hỗ trợ làm dịch vụ chung cho xã viên hoặc vừa sản xuất tập trung vừa tổ chức hỗ trợ về dịch vụ cho xã viên hay tổ chức sản xuất tập trung nếu xã viên nhất trí và thấy có hiệu quả.
4. Bảo đảm vai trò là nền tảng của sở hữu tập thể và tính định hướng xã hội chủ nghĩa của hợp tác xã.
Phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã giúp khắc phục được khuyết tật của kinh tế thị trường như sản xuất cá thể, nhỏ lẻ, cạnh tranh và chèn ép của các doanh nghiệp lớn, giúp thực hiện xóa đói giảm nghèo, phát huy sức mạnh của từng xã viên và sức mạnh tập thể để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế, nhưng khác với các tổ chức kinh tế khác (như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…) ở mục tiêu, tính chất và chức năng xã hội của hợp tác xã. Tuy nhiên, hợp tác xã không trực tiếp thực hiện các chức năng xã hội mà thông qua việc thực hiện các nguyên tắc hợp tác xã, phát triển kinh tế của hợp tác xã để hỗ trợ có hiệu quả đối với hoạt động kinh tế của xã viên và cải thiện địa vị kinh tế và xã hội của họ, giáo dục tinh thần hợp tác, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi. Hợp tác xã không dựa vào trợ cấp của Nhà nước hoặc nguồn lực của mình để làm thay chức năng xã hội của các tổ chức xã hội khác.
5. Về sở hữu trong hợp tác xã: Sở hữu trong hợp tác xã đa dạng và linh hoạt, phù hợp với yêu cầu và đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhằm tạo mọi điều kiện cho hợp tác xã hoạt động. Sở hữu vốn cổ phần thuộc xã viên; nguồn vốn tích luỹ tái đầu tư, các quỹ không chia thuộc sở hữu tập thể;
6. Về quy mô và phạm vi hoạt động của hợp tác xã: không giới hạn về quy mô, phạm vi hoạt động đối với hợp tác xã. Không giới hạn về số lượng xã viên, nhưng có quy định về số lượng xã viên tối thiểu tuỳ từng ngành. Mỗi hợp tác xã có thể hoạt động ở nhiều lĩnh vực, ngành khác nhau, không giới hạn địa giới hành chính, các hợp tác xã có thể liên kết thành liên hiệp hợp tác xã. Mỗi xã viên có thể tham gia nhiều hợp tác xã (hợp tác xã không cùng ngành nghề) nếu điều lệ hợp tác xã không hạn chế.
7. Về tổ chức và hoạt động hợp tác xã: Tổ chức và hoạt động của hợp tác xã phải thể hiện được các nguyên tắc hợp tác xã. Hợp tác xã bảo đảm tính tự nguyện của xã viên khi gia nhập và ra hợp tác xã. Các vấn đề quan trọng liên quan đến toàn bộ hợp tác xã và xã viên phải do xã viên quyết định thông qua Đại hội xã viên và các tổ chức do xã viên bầu ra. Hợp tác xã bảo đảm quyền bình đẳng của xã viên. Mỗi xã viên phải có vốn góp tối thiểu nhưng có giới hạn mức vốn tối đa của một xã viên. Mỗi xã viên chỉ có một phiếu bầu, không phụ thuộc số vốn góp của mỗi xã viên. Chú trọng và khuyến khích các hoạt động dịch vụ chung của hợp tác xã để phát triển sản xuất, kinh doanh của từng xã viên.
8. Một số giải pháp lớn để bảo đảm định hướng phát triển kinh tế hợp tác và đổi mới hợp tác xã.
Bên cạnh việc ban hành Luật hợp tác xã cùng với điều lệ mẫu nhằm tạo cơ sở pháp lý để các hợp tác xã đăng ký hoạt động và phát triển, do các đặc điểm đặc thù của kinh tế hợp tác đòi hỏi phải kết hợp thực hiện các giải pháp khác nhau, trong đó quan trọng là:
- Ban hành các chính sách cần thiết đối với hợp tác xã, trong đó có hai nhóm chính sách cơ bản là: nhóm chính sách tạo điều kiện bình đẳng với các doanh nghiệp khác (như xuất nhập khẩu, vay vốn…) và nhóm chính sách khuyến khích ưu đãi đối với hợp tác xã vì tính chất đặc thù, định hướng xã hội của hợp tác xã (như xử lý công nợ, chính sách đất đai, hỗ trợ đào tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng…).
- Giải quyết các vấn đề liên quan đến chuyển đổi, giải thể hợp tác xã còn tồn đọng để tháo gỡ khó khăn cho hợp tác xã.
- Bảo đảm sự quản lý của Nhà nước đối với hợp tác xã theo pháp luật, quy định rõ chức năng quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân và xác định rõ vai trò của hội đồng liên minh hợp tác xã các cấp.
9. Về xây dựng và áp dụng Luật hợp tác xã trong các ngành: mặc dù có những điểm đặc thù riêng của từng ngành, nhưng về nguyên tắc hoạt động, cách tổ chức, quản lý, vai trò, tính chất thì các hợp tác xã của các ngành về cơ bản đều giống nhau, có thể quy định chung trong một Luật về hợp tác xã. Vì vậy, Luật hợp tác xã chỉ quy định khung pháp lý chung nhất, áp dụng cho mọi loại hình hợp tác xã. Những quy định cụ thể đối với hợp tác xã ở các ngành do các văn bản dưới luật hướng dẫn.
II - VỀ KẾT CẤU VÀ NỘI DUNG CHÍNH
CỦA DỰ ÁN LUẬT HỢP TÁC XÃ
Dự án Luật gồm 10 chương với 54 điều.
Chương I: “Những quy định chung” có 9 điều, quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật, khái niệm, nguyên tắc, quyền, nghĩa vụ của hợp tác xã; những quy định chung về tên, biểu tượng của hợp tác xã, hoạt động của tổ chức Đảng, đoàn thể trong hợp tác xã và giải thích một số từ ngữ được quy định trong Luật này.
Chương II: “Thành lập và đăng ký kinh doanh" có 9 điều, quy định về trình tự và thủ tục thành lập hợp tác xã, các điều kiện cần thiết để thành lập hợp tác xã, số lượng xã viên tối thiểu, nội dung hội nghị thành lập, hồ sơ đăng ký kinh doanh, nội dung điều lệ hợp tác xã, thể thức cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đặt văn phòng đại diện và chi nhánh của hợp tác xã.
Chương III: “Xã viên” có 4 điều, quy định về quyền, nghĩa vụ của xã viên, tiêu chuẩn xã viên, điều kiện gia nhập hợp tác xã và chấm dứt tư cách xã viên.
Chương IV: “Tổ chức và quản lý hợp tác xã” gồm 10 điều, quy định về các tổ chức và chức danh quản lý trong hợp tác xã như Đại hội xã viên, nội dung Đại hội xã viên, thể thức biểu quyết, Ban quản trị (hoặc Hội đồng quản trị đối với hợp tác xã có quy mô lớn), tiêu chuẩn thành viên Ban quản trị; quyền hạn, nhiệm vụ và thể thức hoạt động của Ban quản trị, Ban kiểm soát.
Chương V: “Vốn, quỹ, tài sản, phân phối lãi, xử lý lỗ” gồm 8 điều, quy định về các hoạt động tài chính của hợp tác xã, quan hệ về tài chính, vốn, tài sản giữa hợp tác xã và xã viên.
Chương VI: “Hợp nhất, chia nhỏ, giải thể, phá sản hợp tác xã" gồm 4 điều, quy định về trình tự, thủ tục và cách thức giải quyết các vấn đề liên quan trong các trường hợp hợp nhất hợp tác xã, chia tách hợp tác xã thành nhiều hợp tác xã, chấm dứt hoạt động của hợp tác xã khi giải thể hoặc phá sản hợp tác xã.
Chương VII: “Liên hiệp hợp tác xã, tổ chức đại diện của các hợp tác xã" gồm 2 điều, quy định các nguyên tắc chung về tổ chức Liên hiệp hợp tác xã và tổ chức đại diện của hợp tác xã.
Chương VIII: “Quản lý nhà nước đối với hợp tác xã” gồm 3 điều quy định chính sách của Nhà nước đối với hợp tác xã, trách nhiệm của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã theo quy định của Luật này và quy định pháp luật khác có liên quan.
Chương IX: “Khen thưởng và xử lý vi phạm” gồm 3 điều, quy định về khen thưởng; những hành vi vi phạm Luật và các biện pháp xử lý”.
Chương X: “Điều khoản thi hành” gồm 2 điều, quy định thời hạn Luật có hiệu lực và chuyển đổi các hợp tác xã hiện hành sang đăng ký hoạt động theo Luật hợp tác xã và trách nhiệm hướng dẫn thi hành Luật của Chính phủ
III- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN CÓ Ý KIẾN THẢO LUẬN
Về cơ bản Dự án Luật này đã tiếp thu tối đa ý kiến của các đại biểu Quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội, của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Ủy ban kinh tế ngân sách của Quốc hội, của các Bộ, ngành, một số địa phương, cơ sở và ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị và các cấp lãnh đạo. Tuy nhiên, một số nội dung sau đây còn có ý kiến thảo luận.
1. Về loại hình tổ chức nào được coi là hợp tác xã và do Luật hợp tác xã điều chỉnh:
Có ý kiến còn phân vân về loại hình tổ chức kinh tế hợp tác nào được coi là hợp tác xã và thuộc diện điều chỉnh của Luật hợp tác xã, về việc phân định đặc trưng của hợp tác xã với các hình thức hợp tác đa dạng trong một vài khâu như tổ đường nước, tổ thuỷ nông, tổ bảo vệ thực vật, tổ khuyến nông…
Ý kiến của Ban soạn thảo nhất trí rằng, cần phân biệt giữa các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng đang xuất hiện hiện nay với loại hình tổ chức kinh tế được coi là hợp tác xã. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc để phân biệt các hình thức hợp tác đơn giản với hợp tác xã, hoặc phân biệt các tổ chức hợp tác hoạt động theo nguyên tắc của công ty cổ phần (thực chất là công ty cổ phần) với hợp tác xã. Chỉ nên coi những tổ chức kinh tế hợp tác là hợp tác xã khi những tổ chức này đủ điều kiện để trở thành pháp nhân: có tổ chức chặt chẽ, có bộ máy quản lý ổn định, có góp vốn, góp sức, có đủ số lượng xã viên tối thiểu, bảo đảm hoạt động theo những nguyên tắc của hợp tác xã (là tự nguyện; quản lý dân chủ; tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; có giới hạn vốn góp và chia lãi theo vốn góp; giáo dục tinh thần hợp tác). Luật hợp tác xã chỉ điều chỉnh đối với những hợp tác xã có đủ các điều kiện trên đã được đăng ký trước pháp luật. Còn các hình thức hợp tác giản đơn sẽ được Nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ và khuyến khích phát triển để dần trở thành hợp tác xã. Quy định này là phù hợp với tinh thần Điều 120 của Bộ luật dân sự.
Luật này chỉ quy định khung pháp lý chung nhất cho các loại hình Hợp tác xã. Đối với những điểm đặc thù của các ngành sẽ được quy định trong Điều lệ mẫu của hợp tác xã thuộc các ngành do Chính phủ ban hành.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị ghi rõ Luật hợp tác xã điều chỉnh đối với một số tổ chức kinh tế hợp tác cụ thể hiện nay như: hợp tác xã cổ phần, xí nghiệp tập thể, v.v..
Ý kiến của Ban soạn thảo cho rằng ghi như trong dự luật là phù hợp (Điều 3: Luật này áp dụng đối với hợp tác xã trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân; và Điều 8 đã quy định: hợp tác xã được tự do lựa chọn tên gọi, nhưng con dấu, bảng hiệu, giấy tờ giao dịch của hợp tác xã phải có ký hiệu “HTX”. Quy định như vậy sẽ mở rộng và phù hợp với thực tế hiện nay hơn là quy định tên cụ thể của từng tổ chức kinh tế hợp tác.
2. Về điều kiện trở thành xã viên:
- Có ý kiến đề nghị, đối với một số ngành nghề thì Điều lệ hợp tác xã có thể quy định kết nạp xã viên từ 15 tuổi trở lên mà không nhất thiết phải là công dân đủ 18 tuổi.
- Ý kiến của Ban soạn thảo cho rằng, đối với những người chưa đủ 18 tuổi, nếu hợp tác xã có nhu cầu thì có thể tham gia lao động theo hợp đồng với hợp tác xã. Như vậy, vừa giải quyết được việc làm cho những người này, vừa phù hợp với tinh thần của Bộ luật lao động. Xã viên hợp tác xã chỉ nên là công dân đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và đáp ứng các điều kiện khác theo Điều 19 của Dự luật này.
3. Về vốn góp (cổ phần) và quyền biểu quyết của xã viên:
- Đa số ý kiến thống nhất với quy định trong dự thảo, đồng ý với quan điểm cho rằng xã viên có thể góp vốn cao hơn mức tối thiểu bắt buộc đối với mỗi xã viên. Tuy nhiên, cần có quy định về mức vốn cổ phần tối đa của một xã viên (có ý kiến đề nghị mức này không vượt quá 1/5 hay 1/3 tổng số vốn góp cổ phần của toàn thể xã viên).
- Một số ý kiến khác cho rằng không giới hạn vốn góp cổ phần của xã viên khi hợp tác xã còn thiếu vốn. Có ý kiến đề nghị không nên quy định xã viên chỉ có một phiếu biểu quyết.
Ý kiến của Ban soạn thảo cho rằng do tính chất khác biệt cơ bản giữa hợp tác xã và công ty cổ phần ở chỗ hợp tác xã là tổ chức đối nhân còn công ty cổ phần là tổ chức đối vốn, cho nên cần quy định giới hạn tối đa về vốn cổ phần của một xã viên và mỗi xã viên chỉ có một phiếu biểu quyết.
Khi vào hợp tác xã, xã viên phải đóng góp vốn (cổ phần) cho hợp tác xã, ít nhất bằng mức tối thiểu bắt buộc đối với mỗi xã viên (mức tối thiểu do hợp tác xã quy định). Xã viên có quyền góp vốn (cổ phần) cao hơn mức tối thiểu, nhưng để bảo đảm tính chất của hợp tác xã (tính chất bình đẳng và khác biệt với công ty cổ phần được biểu thị qua vốn cổ phần có giới hạn), cần có quy định mức vốn (cổ phần) tối đa đối với một xã viên. (Sau khi cân nhắc các ý kiến góp ý, dự thảo này quy định mức vốn góp của một xã viên tối đa không vượt quá 30% tổng vốn góp cổ phần của toàn bộ xã viên hợp tác xã). Đối với những xã viên nghèo, việc góp vốn khi gia nhập hợp tác xã có thể góp một lần ngay từ đầu hoặc góp dần làm nhiều lần sẽ do Đại hội xã viên và Điều lệ hợp tác xã quy định.
Có ý kiến băn khoăn về việc giới hạn vốn góp (cổ phần) tối đa của một xã viên sẽ hạn chế việc thu hút vốn của xã viên khi hợp tác xã còn thiếu vốn. Theo quy định của dự thảo Luật này thì việc quy định vốn góp (cổ phần) tối đa hoàn toàn không hạn chế việc xã viên cho hợp tác xã vay vốn với số lượng, điều kiện và lãi suất thỏa thuận giữa hợp tác xã và xã viên. Nếu hợp tác xã thiếu vốn thì có thể huy động vốn của xã viên để kinh doanh. Nhưng vốn này không được coi là vốn cổ phần của xã viên, mà là vốn của hợp tác xã vay của xã viên. Như vậy, việc quy định khống chế vốn góp (cổ phần) tối đa và việc không hạn chế vốn vay của xã viên theo thỏa thuận giữa xã viên và hợp tác xã vừa bảo đảm huy động được vốn của xã viên để kinh doanh, nhưng đồng thời, vừa bảo đảm được nguyên tắc hợp tác xã, tránh được sự chi phối của một số ít xã viên đối với hợp tác xã bằng vốn góp cổ phần theo kiểu công ty cổ phần.
Đối với việc quy định xã viên chỉ có một phiếu biểu quyết là phù hợp với tinh thần và nguyên tắc quản lý dân chủ của hợp tác xã.
4. Về vấn đề sở hữu và phân phối trong hợp tác xã:
- Có ý kiến cho rằng trong hợp tác xã chỉ có sở hữu tập thể và Hiến pháp năm 1992 đã quy định xã viên phải góp vốn, góp sức để xây dựng hợp tác xã. Việc phân phối trong hợp tác xã vừa thực hiện theo lao động, vừa thực hiện theo cổ phần.
- Ý kiến khác cho rằng hợp tác xã có sở hữu khác nhau, bao gồm sở hữu cá nhân xã viên và sở hữu tập thể. Điều này là phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế nhiều thành phần, vừa có sở hữu tư nhân, vừa có sở hữu tập thể. Việc phân phối trong hợp tác xã chủ yếu thực hiện theo cổ phần của xã viên.
Ban soạn thảo nhất trí với quan điểm: tài sản được hình thành từ vốn góp của xã viên, các quỹ của hợp tác xã, vốn vay, các nguồn trợ cấp không hoàn lại và từ các nguồn khác thuộc tài sản chung của hợp tác xã; hợp tác xã có thể sử dụng vốn, tài sản là sở hữu của hợp tác xã để kinh doanh chung; đồng thời xã viên có thể tự mình dùng vốn, tài sản thuộc sở hữu riêng để kinh doanh; xã viên được rút vốn ban đầu khi ra hợp tác xã hoặc chuyển nhượng vốn cho người khác. Đối với phương tiện sản xuất thuộc sở hữu riêng của xã viên nếu hợp tác xã muốn sử dụng thì phải thuê; quỹ của hợp tác xã thuộc sở hữu chung. Như vậy, sẽ phù hợp với quyền tự do kinh doanh của xã viên và tính chất hợp tác đa dạng, không nhất thiết phải tập thể hóa toàn bộ tư liệu sản xuất.
Về phân phối trong hợp tác xã, Ban soạn thảo cho rằng vốn góp của xã viên có giới hạn nên việc phân phối trong hợp tác xã sẽ thực hiện theo nguyên tắc:
- Phân phối theo vốn góp (có giới hạn). Mức cụ thể do Đại hội xã viên quy định nhưng không vượt giới hạn do Điều lệ mẫu quy định tùy thuộc vào từng ngành.
- Phân phối theo lao động (theo hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận giữa hợp tác xã và xã viên nếu xã viên trực tiếp lao động).
- Phân phối theo mức độ sử dụng dịch vụ do hợp tác xã cung cấp cho xã viên (dịch vụ ở đây được hiểu là việc cung ứng các hàng hóa và các hoạt động khác của hợp tác xã cho xã viên dưới dạng vật chất và phi vật chất). Quy định phân phối theo mức độ sử dụng dịch vụ nhằm khuyến khích xã viên gắn bó với hợp tác xã, sử dụng hàng hóa dịch vụ của hợp tác xã mà chính mình là xã viên.
- Trích nộp vào quỹ chung của hợp tác xã để tích lũy, dự phòng rủi ro, ngoài ra tùy theo yêu cầu mà đại hội xã viên quyết định trích lập các quỹ khác như quỹ đào tạo, quỹ phúc lợi khen thưởng.
5. Về xử lý tài sản và vốn thuộc sở hữu chung khi giải thể hợp tác xã hoặc khi xã viên ra hợp tác xã:
- Có ý kiến đề nghị nên quy định cụ thể hoặc nêu nguyên tắc để giải quyết quyền lợi xã viên khi ra hợp tác xã hoặc khi giải thể hợp tác xã đối với vốn, tài sản tích lũy của hợp tác xã.
- Trong Dự luật đã quy định xã viên được rút vốn ban đầu khi ra hợp tác xã hoặc chuyển nhượng vốn cho người khác. Đối với việc xử lý tài sản và vốn quỹ chung của hợp tác xã khi giải thể hợp tác xã, ý kiến của Ban soạn thảo cho rằng về nguyên tắc không nên dùng vốn tài trợ, tài sản phục vụ chung cho cộng đồng dân cư như một số công trình phúc lợi công cộng và kết cấu hạ tầng để chia cho xã viên mà phải chuyển giao cho chính quyền địa phương để quản lý và sử dụng cho cộng đồng. Các tài sản, vốn quỹ khác còn lại sau khi thanh toán hết các khoản nợ của hợp tác xã và để làm các thủ tục giải thể thì được chia cho xã viên theo quy định của điều lệ hợp tác xã.
Các vấn đề này sẽ do Chính phủ ban hành nghị định riêng hướng dẫn cụ thể về chuyển đổi và giải thể hợp tác xã.
6. Về việc đăng ký lại đối với các hợp tác xã:
- Có ý kiến đề nghị không nên bắt buộc các hợp tác xã đang hoạt động hiện nay đã đăng ký theo Quyết định số 763 TTg (ngày 19-12-1994) của Thủ tướng Chính phủ phải đăng ký lại theo trình tự và thủ tục của Luật hợp tác xã khi Luật hợp tác xã có hiệu lực thi hành, mà quy định này chỉ áp dụng đối với các hợp tác xã mới thành lập sau khi có Luật.
- Ý kiến của Ban soạn thảo cho rằng một trong các mục tiêu quan trọng của Luật này là định ra những nguyên tắc cơ bản để phân biệt hợp tác xã với các tổ chức hợp tác xã trá hình (thực chất là tư nhân hoặc công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn) và các tổ chức hợp tác giản đơn chưa đủ điều kiện để đăng ký là hợp tác xã. Vì vậy, việc cho đăng ký lại các hợp tác xã là cần thiết để rà soát lại theo các nguyên tắc trên, bảo đảm đúng tính chất và vai trò của hợp tác xã.
Tuy nhiên, để tránh gây phiền phức cho các hợp tác xã, Chính phủ cần có hướng dẫn cụ thể và đơn giản hóa một số thủ tục khi đăng ký lại, nhất là đối với các hợp tác xã đã đăng ký theo Quyết định số 763-TTg ngày 19-12-1994 của Thủ tướng Chính phủ.
Kính trình Quốc hội xem xét quyết định.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội