Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Kính thưa các vị khách quý,
Quốc hội họp kỳ này trong bối cảnh toàn dân đang triển khai thực hiện nhiệm vụ tiếp tục công cuộc đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong mười năm đầu tiên của công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua nhiều thách thức gay gắt, đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng kéo dài sau những năm chiến tranh, tạo ra được những cơ sở và thuận lợi mới cho sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những nhận định của Đại hội VIII và kinh nghiệm tích lũy được từ công cuộc đổi mới cho phép chúng ta nhìn rõ thêm phương hướng và những nhiệm vụ cần phấn đấu thực hiện trong những năm còn lại của thế kỷ này và xa hơn nữa. Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ sẽ có báo cáo trình Quốc hội tình hình phát triển kinh tế, xã hội và tình hình ngân sách nhà nước. Các Bộ khác sẽ trình Quốc hội các báo cáo chuyên đề về từng lĩnh vực. Trong Báo cáo này, tôi xin tập trung vào một số vấn đề lớn thuộc ba nội dung sau đây:
I- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 1996;
II- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000 và nhiệm vụ năm 1997;
III- Những giải pháp lớn nhằm phát huy sức mạnh toàn dân thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
I- TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
NĂM 1996
1. Những cố gắng và tiến bộ trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1996:
Với quyết tâm mở đầu thắng lợi kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã có nhiều nỗ lực to lớn, vượt qua nhiều khó khăn, ra sức phấn đấu thực hiện những mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1996.
Năm nay, thiên tai xảy ra dồn dập và ở nhiều nơi, gây thiệt hại về người và của lớn hơn nhiều so với những năm gần đây. Hiện nay, chúng ta đang phải đương đầu với lũ lớn tại đồng bằng sông Cửu Long. Nhờ tiềm lực kinh tế tích tụ được từ những năm đổi mới, nhân dân ta có sức đối phó với những hậu quả của các trận bão lụt và vẫn có điều kiện hoàn thành được kế hoạch năm 1996. Những kinh nghiệm phòng, chống bão lụt và khắc phục hậu quả thiên tai của năm 1996 cần được đánh giá sâu sắc để phòng ngừa và hạn chế thiệt hại trong những năm sau.
Căn cứ vào tình hình 9 tháng đầu năm, có thể ước tính cả năm 1996 nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 9,5%; giá trị sản xuất nông nghiệp tăng khoảng 4,8 - 5%, trong đó sản xuất lương thực đạt trên 28 triệu tấn; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14%; kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 27 - 28%; chỉ số lạm phát cả năm có thể giữ được ở mức tăng 6-7%; bội chi ngân sách nằm trong phạm vi Quốc hội cho phép là khoảng 4% GDP; tích lũy trong nước ước đạt 19% GDP.
Trong năm nay, chúng ta đã đưa vào sử dụng một số công trình, đẩy nhanh thi công nhiều công trình quan trọng khác, khởi công xây dựng mới chín công trình lớn về năng lượng, giao thông và công nghiệp trong những điều kiện rất khó khăn, nhất là về nguồn vốn.
Năm 1996, có thêm 1.400 km đường giao thông cho xe cơ giới đi tới các trung tâm của 70 xã và những vùng hẻo lánh; mạng lưới điện và thủy lợi ở nhiều vùng được mở rộng. Những tiến bộ mới này chủ yếu dựa vào những nguồn lực tại chỗ của các địa phương và sự đóng góp to lớn của nhân dân. Nhờ vậy, sức phát triển năng động của một số vùng, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm, được tăng khá.
Tiếp theo nhiệm vụ quy hoạch ba vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, năm nay, chúng ta dành nhiều công sức xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển Tây Nguyên, các vùng miền núi phía Bắc và vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2000 và các năm 2005 - 2010. Với mục đích tìm lối ra cho sự phát triển kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội của các vùng nói trên, quy hoạch và kế hoạch tập trung vào các nội dung: đẩy nhanh công tác quy hoạch cụ thể phát triển các vùng kinh tế và các địa bàn dân cư; khai thác những thế mạnh về nông nghiệp, cây công nghiệp và lâm nghiệp; phát triển năng lực chế biến; thực hiện từng bước yêu cầu công nghiệp hóa nông nghiệp. Khâu đột phá là phát triển kết cấu hạ tầng, trước hết là giao thông. Đây chính là một bước quan trọng nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ phát triển nông thôn, miền núi tại những vùng quan trọng này.
Những chương trình quốc gia năm 1996 về giáo dục, khoa học, công nghệ, văn hóa, thông tin, y tế, kế hoạch hóa gia đình, phát triển nông thôn, v.v. được thực hiện tích cực. Nhân dân những nơi bị thiên tai được giúp đỡ kịp thời, đời sống sớm được ổn định. Hoạt động cho vay của ngân hàng và các quỹ tín dụng nhằm phát triển ngành nghề, phục vụ nông nghiệp, trồng rừng, v.v., được mở rộng và có hiệu quả hơn, qua đó đã tham gia tích cực vào nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế ở nông thôn. Nhìn chung, phần lớn dân cư giữ được mức sống ổn định. Trong năm, chúng ta cũng đã tạo thêm việc làm cho khoảng 1,5 triệu lao động.
Tỷ lệ học sinh đến trường và số lượng học sinh ở các cấp học cao hơn năm ngoái; chất lượng giáo dục ở các bậc được chú trọng hơn. Những tiến bộ trong việc khám, chữa bệnh và phòng dịch đã làm giảm bớt đáng kể một số bệnh, đặc biệt làm giảm đi nhiều số người mắc và chết do các bệnh sốt rét, lao,... đã dập tắt kịp thời nhiều ổ dịch bệnh, kể cả ở những nơi xảy ra thiên tai bão, lụt. Tuy nhiên, cần lưu ý một số bệnh đã loại trừ được trước đây, nay có xu hướng tái phát; số người nhiễm HIV có xu hướng tăng.
Đông đảo nhân dân đã hưởng ứng tích cực các nghị định về phòng, chống tệ nạn xã hội. Các nghị định về trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường thủy và đường sắt được thường xuyên đôn đốc thực hiện. Việc thực hiện các nghị định này là công việc phải được duy trì liên tục trong nhiều năm nữa.
Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, chúng ta đã phát triển các mối quan hệ song phương và đa phương, tích cực hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Đi đôi với những cố gắng tăng cường quan hệ song phương với các nước láng giềng và các đối tác hợp tác kinh tế, Việt Nam đã tham gia tích cực các hoạt động trong khuôn khổ ASEAN, đặc biệt là chương trình thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), cuộc gặp cấp cao Á - Âu và mở rộng hoạt động trên nhiều diễn đàn đa phương khác trong khuôn khổ Liên hợp quốc. Chúng ta tiếp tục chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và tiếp xúc với Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Cộng đồng thế giới đồng tình với quan điểm của nước ta về giải quyết các vấn đề tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình, hoan nghênh và đánh giá tích cực vai trò của Việt Nam trong việc đẩy mạnh hợp tác vì phát triển, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, giữ gìn hòa bình, bảo vệ môi trường...
Tình hình nói trên cho phép nhận định: Có thể hoàn thành được các mục tiêu kinh tế - xã hội do Quốc hội đề ra cho năm 1996, giữ được mức độ tăng trưởng liên tục của những năm gần đây và có thêm một số tiến bộ mới. An ninh, quốc phòng được bảo đảm, ổn định chính trị tiếp tục được củng cố vững chắc, tạo thêm thuận lợi cho sự phát triển năng động của đất nước trong những năm tới. Những tiến bộ đạt được của năm 1996 càng cho thấy rõ: chỉ có thể đáp ứng được những đòi hỏi ngày một cao hơn của đất nước bằng những nỗ lực kiên trì công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh của toàn dân, khai thác tối đa mọi tiềm năng trong nước, hội nhập sâu rộng hơn vào sự phát triển kinh tế của khu vực và trên thế giới.
Năm 1996, sự chỉ đạo và điều hành của Chính phủ luôn bám sát những nhiệm vụ trọng tâm, tập trung xử lý có hiệu quả những vấn đề cấp bách. Chính phủ đặc biệt quan tâm huy động mọi nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng; tiến hành quy hoạch các vùng trọng điểm và các khu công nghiệp; tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, hình thành và đưa các Tổng công ty vào huy động; tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, khuyến khích các thành phần kinh tế khác; gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội.
Bên cạnh việc sắp xếp lại các Bộ, ngành, Chính phủ tiếp tục thực hiện những biện pháp giảm bớt thủ tục hành chính ở các cấp. Một nét mới trong sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ là đã cố gắng giao sớm nhiệm vụ kế hoạch, tạo điều kiện cho các ngành, các cấp triển khai công việc, đạt chuyển biến tích cực trên nhiều mặt ngay từ đầu năm. Những cố gắng này đã giảm bớt trì trệ và lãng phí.
2. Những mặt còn yếu kém:
- Sản xuất công nghiệp năm 1996 tuy về cơ bản đạt được nhịp độ tăng trưởng đề ra trong kế hoạch, nhưng chất lượng và hiệu quả kinh tế chưa cao; khả năng cạnh tranh thấp, có một số mặt hàng không cạnh tranh được ngay trên thị trường trong nước, tỷ trọng sản phẩm thô còn cao. Sản xuất công nghiệp còn nặng về thay thế nhập khẩu và chưa hướng mạnh hơn về xuất khẩu. Mặt hàng công nghiệp mới hoặc có hàm lượng chế biến cao còn ít; tỷ trọng nguyên liệu, vật liệu trong nước trong cơ cấu giá thành của hàng công nghiệp xuất khẩu còn thấp.
Mặc dù được chấn chỉnh lại, song vẫn không ít doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, nhất là trong khu vực công nghiệp địa phương. Nhiều xí nghiệp thiếu điều kiện vật chất kỹ thuật và công nghệ để có thể nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc sớm chuyển sang những sản phẩm có nhiều khả năng cạnh tranh hơn. Có những xí nghiệp lẽ ra phải chú trọng đầu tư vào sản xuất - kinh doanh, lại tùy tiện trả lương và thưởng quá mức; sự quản lý của ngành Tài chính về mặt này còn nhiều sơ hở và lỏng lẻo. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển. Việc điều tiết nhập khẩu thiếu nhạy bén và kém hiệu lực, nên một số doanh nghiệp có lúc phải hạn chế sản xuất vì sản phẩm làm ra bị ứ đọng.
- Sản xuất nông nghiệp năm nay nhờ được mùa nên bù được thiệt hại do thiên tai và vẫn giữ được mức tăng trưởng khá. Tuy nhiên, giá nông phẩm, nhất là lương thực giảm trong khi giá sản phẩm đầu vào của sản xuất nông nghiệp tăng, thương nghiệp quốc doanh còn nhiều yếu kém trong cung ứng vật tư và dịch vụ cho sản xuất cũng như trong tổ chức tiêu thụ và xuất khẩu nông phẩm, làm giảm thu nhập của nông dân. Tại một số địa phương đã phát triển trồng mía vượt xa năng lực chế biến đường gây thua thiệt lớn cho nông dân.
Nhiều cơ quan, đơn vị kinh doanh chưa làm tốt chức năng giúp đỡ nông dân tiêu thụ sản phẩm, xử lý một số khó khăn về kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi. Nhiều địa phương chưa quan tâm đến yêu cầu phát triển các loại hình hợp tác xã mới và các hình thức liên kết, liên doanh khác để mở rộng ngành nghề và thị trường; thời gian nông nhàn còn tới 40% quỹ thời gian lao động; sức ép dân cư dồn về các thành thị tiếp tục tăng lên.
Nền tài chính quốc gia còn nhiều yếu kém, đáng chú ý là:
- Tỷ lệ thực hiện kế hoạch thu ngân sách 8 tháng đầu năm đạt thấp; tình trạng trốn thuế, lậu thuế, nợ đọng và chiếm dụng thuế còn phổ biến.
- Hoạt động tài chính, ngân hàng chưa làm tốt việc huy động các nguồn lực cho phát triển sản xuất kinh doanh. Trong khi tích cực kiềm chế lạm phát, không kịp thời phát hiện và xử lý những yếu tố gây ra giảm phát liên tục trong những tháng giữa năm, bất lợi cho sản xuất và xuất khẩu. Các hoạt động nhập khẩu bằng tín dụng thương mại của nước ngoài không được kiểm soát chặt chẽ, cùng với những thiếu sót trong chính sách tiền tệ và thuế đã kích thích nhập khẩu, kìm hãm xuất khẩu, làm tăng nhanh nhập siêu trong 8 tháng đầu năm.
- Nhiều hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp còn nằm ngoài sự kiểm soát của hệ thống kế toán, thống kê, ngân hàng.
- Tình trạng chi tiêu lãng phí, nhất là sử dụng công quỹ vào việc tổ chức các hội nghị, lễ đón nhận phần thưởng, ngày kỷ niệm riêng của từng ngành, cơ quan, v.v. và công tác lễ tân mang tính hình thức, phô trương, mặc dù đã bị lên án gay gắt từ năm 1995 nhưng vẫn không giảm bớt. Đặc biệt nghiêm trọng là tiếp tục xảy ra nhiều vụ tham nhũng lớn tiền bạc, tài sản nhà nước.
- Chất lượng giáo dục, y tế còn thấp xa so với yêu cầu phát triển con người ở một đất nước đang cần đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ở một số vùng, tỷ lệ trẻ em đến tuổi không đi học hoặc học dở dang còn cao; số người mù chữ còn đông; chất lượng dạy và học cũng như chất lượng thi cử còn nhiều mặt yếu, thậm chí thiếu trung thực. Điều kiện vật chất của các cơ sở y tế chậm được cải thiện; hệ thống bảo hiểm y tế chưa phát triển rộng, hiệu quả thấp, chưa làm tốt chức năng xã hội rất quan trọng của nó và không giảm được gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Chất lượng khám chữa bệnh ở nhiều nơi giảm sút cả về trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Nhiều người đi khám chữa bệnh còn bị sách nhiễu, bị phân biệt đối xử giữa người được thanh toán theo chế độ bảo hiểm y tế và người nộp viện phí: nhiều gia đình chính sách và người nghèo không được chú ý chăm sóc khi đến bệnh viện.
- Nạn cờ bạc, tệ mại dâm, tội phạm hình sự vẫn ở mức độ trầm trọng. Gần đây, ở một số nơi, nạn ma túy xâm nhập vào cả lứa tuổi thanh thiếu niên trong trường học. Trên mặt trận này, chúng ta còn thiếu nhiều hoạt động văn hóa xã hội lành mạnh, có giá trị đạo đức đáp ứng đòi hỏi của nhân dân trong đời sống tinh thần.
- Tính ổn định và hiệu lực của hệ thống luật pháp và các cơ chế chính sách chưa cao; thủ tục phiền hà và tệ quan liêu, nhũng nhiễu còn nghiêm trọng; số lượng đơn khiếu tố còn lớn và việc giải quyết còn chậm; bộ máy hành chính còn nặng nề và nhiều mặt yếu kém. Khuôn khổ và hiệu lực của pháp luật hiện hành chưa tạo ra được môi trường an toàn, thông suốt, thuận lợi cho mọi huy động sản xuất - kinh doanh, chưa đủ mạnh để đưa những hoạt động này đi vào trật tự, kỷ cương và làm cho không ít cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế gặp nhiều khó khăn và chưa an tâm làm ăn lâu dài.
Nhiều nhà đầu tư nước ngoài phàn nàn về tình trạng pháp luật của ta thiếu đồng bộ, không rõ ràng, nhất là thi hành không nghiêm, thiếu thống nhất, còn nhiều thủ tục phiền hà, nên làm ăn ở nước ta còn nhiều rủi ro. Mặt khác, có những trường hợp người kinh doanh nước ngoài dựa vào sự tiếp tay của một số cán bộ hư hỏng và tình trạng tiêu cực trong bộ máy quản lý của chúng ta để hành động trái pháp luật, gây thiệt hại cho ta.
Điều đáng báo động là tình trạng tài nguyên thiên nhiên tiếp tục bị xâm phạm và môi trường nhiều nơi bị phá hoại nghiêm trọng. Nạn phá rừng chưa được ngăn chặn triệt để; mặc dù mấy năm nay có cố gắng đẩy mạnh trồng rừng, đã có lệnh cấm xuất khẩu gỗ thô, nhưng tình trạng khai thác trái phép và xuất lậu gỗ chưa chấm dứt; diện tích rừng tự nhiên tiếp tục giảm.
Nhìn lại tình hình trong những tháng qua, Chính phủ thấy rằng những yếu kém nêu trên có nhiều mặt đáng lẽ có thể ngăn ngừa, hạn chế hoặc khắc phục được sớm, như tình trạng một số sản phẩm bị ứ đọng, giá lúa giảm, nhập siêu tăng nhanh, hiện tượng giảm phát liên tục trong mấy tháng giữa năm. Do phát hiện chậm, xử lý không kịp thời, thiếu kiên quyết nên tình trạng đó đã hạn chế kết quả thực hiện kế hoạch và gây tâm lý bất lợi cho việc huy động có hiệu quả các nguồn lực to lớn vào sản xuất kinh doanh.
Trước những vấn đề nổi lên trong 8 tháng đầu năm. Chính phủ đã quyết định những biện pháp mạnh mẽ cho 4 tháng còn lại trên các mặt: đẩy mạnh thu ngân sách (bao gồm cả truy thu các phần thuế thất thoát hoặc còn nợ đọng), dồn thêm vốn cho xây dựng cơ bản, giảm lãi suất một cách hợp lý, tăng phần vốn cho vay trung hạn và dài hạn để đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, điều tiết cung cầu, tăng cường kiểm soát nhập khẩu, ngăn chặn nhập hàng lậu nhằm giảm nhập siêu và giảm bớt hàng hóa ứ đọng, khắc phục những yếu tố bất lợi dẫn tới giảm phát; tiếp tục thu hút mạnh hơn đầu tư nước ngoài theo định hướng phát triển của Nhà nước.
Trong các mặt trên, có những yếu kém tồn tại từ nhiều năm trước nay mới bộc lộ rõ đòi hỏi Chính phủ phải thường xuyên phấn đấu khắc phục, tỉnh táo và nhạy bén trong sự chỉ đạo điều hành. Cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, ngày nay chúng ta nhìn nhận rõ hơn những yếu kém, các nguyên nhân, đồng thời cũng thấy rõ hơn khả năng và những biện pháp khắc phục.
II- NHỮNG VẤN ĐỀ LỚN
TRONG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
5 NĂM 1996 - 2000 VÀ NHIỆM VỤ NĂM 1997
Nhận định thời cơ và thách thức đối với tương lai phát triển của đất nước. Đại hội VIII coi đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm để thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Nghị quyết của Đại hội nêu rõ:
“Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu nước ta trở thành một nước công nghiệp...
Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới... Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa...”
Đại hội VIII nhấn mạnh động lực chủ yếu nhằm đạt những mục tiêu chiến lược nêu trên là phát huy sức mạnh của toàn dân để thực hiện mọi việc vì lợi ích của nhân dân. Đó cũng là kinh nghiệm lớn nhất, bao trùm nhất được tổng kết từ thực tiễn cách mạng nước ta trong mọi thời kỳ, bao gồm cả thực tiễn 10 năm đổi mới vừa qua. Ngay từ buổi đầu xây dựng chế độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ:
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân,
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân,
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân...”[1]
Chính phủ cố gắng thấu suốt tư tưởng chỉ đạo đó trong việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000 và kế hoạch năm 1997.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư thay mặt Chính phủ trình Quốc hội dự thảo kế hoạch để phê duyệt. Tôi xin nêu lên một số nội dung chính như sau:
Kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 có ba yêu cầu nổi bật sau đây:
Một là: Nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân cùng với tiến trình hội nhập quốc tế buộc chúng ta phải phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và ổn định theo kịp yêu cầu, đồng thời phải nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội. Đây là đòi hỏi tất yếu của giai đoạn phát triển mới mà chúng ta không thể thoái thác hay giảm bớt. Do đó, phải đẩy nhanh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết là thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa nông nghiệp, phát triển nông thôn, đổi mới cơ cấu nền công nghiệp. Những yêu cầu quan trọng này gắn liền với việc tăng thêm một bước đáng kể sự phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực khoa học - công nghệ quốc gia, hoàn thiện thể chế, phát triển con người nhằm chuẩn bị cho những bước phát triển cao hơn của đất nước khi bước vào thế kỷ XXI.
Hai là: Huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước là yếu tố quyết định để phát triển. Ngân sách nhà nước là một bộ phận quan trọng của nguồn lực trong nước, do nhân dân đóng góp. Từ chỗ dựa một phần quan trọng vào viện trợ bên ngoài, ngân sách nhà nước đã dần dần lấy tích lũy trong nước làm nguồn thu chủ yếu, đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên và dành một phần cho đầu tư phát triển. Đó là một thành tựu quan trọng của tiến trình đổi mới. Tuy nhiên, tỷ lệ thu ngân sách nhà nước so với GDP dù cao cũng không thể đáp ứng mọi nhu cầu phát triển đang tăng nhanh của đất nước; hơn nữa, tỷ lệ này cũng không thể tăng lên tùy tiện được, nhất là khi thu nhập quốc dân của nước ta đang còn rất thấp. Vì vậy, sự ỷ lại vào Nhà nước và sự bao cấp của Nhà nước còn được duy trì trong nhiều lĩnh vực vừa không đáp ứng được những đòi hỏi mới, vừa kìm hãm sự phát triển của đất nước. Phát huy sức mạnh của nhân dân và giải phóng mọi tiềm năng trong nước để phát triển kinh tế - xã hội nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân là một quan điểm cơ bản phải thấu suốt trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Giải phóng sức sản xuất phải đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp nhằm phát huy mọi khả năng của các thành phần kinh tế; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; mở rộng liên kết giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân; phát triển các hình thức kinh tế hợp tác; hình thành đồng bộ cơ chế quản lý mới với chế độ phân phối hợp lý, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng.
Ba là: Mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế đối ngoại, bao gồm cả ngoại thương, huy động ODA, gọi vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, mở thêm những lĩnh vực hợp tác mới... Chúng ta vừa phải mở rộng các mối quan hệ hợp tác, vừa phải đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Càng phát triển, chúng ta càng phải hội nhập sâu rộng hơn nữa vào sự phát triển kinh tế của khu vực và trên thế giới. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế là một nhân tố quyết định của tiến trình hội nhập, đòi hỏi quyết tâm và nỗ lực cao của cả Nhà nước và nhân dân.
Xuất phát từ những yêu cầu trình bày trên, Chính phủ đề nghị kế hoạch 5 năm này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 9-10%; các ngành kinh tế phải phát triển với hiệu quả cao hơn; trong đó, giá trị sản xuất bình quân hàng năm:
- Nông nghiệp tăng 4,5 - 5%, với sự phát triển toàn diện nông nghiệp và nông thôn;
- Công nghiệp tăng 14 - 15%, trong đó chú trọng công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng, hướng mạnh về xuất khẩu và xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng;
- Dịch vụ tăng 12-13%, chú trọng các lĩnh vực vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, du lịch, tài chính ngân hàng, bảo hiểm.
Cố gắng xây dựng kết cấu hạ tầng đáp ứng nhu cầu bức xúc về phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: đến năm 2000, tỷ trọng nông nghiệp chiếm khoảng 19-20% GDP, công nghiệp khoảng 34-35% GDP và dịch vụ 45-46% GDP.
Những yêu cầu nêu trên đòi hỏi nâng cao tiềm lực và làm lành mạnh nền tài chính quốc gia, không ngừng nâng cao khả năng tích lũy từ trong nước và phát huy cao hơn mọi khả năng đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế, hằng năm, huy động 20-21% GDP vào ngân sách quốc gia thông qua thuế và phí.
Chính phủ chủ trương kiên trì chính sách ổn định tiền tệ, coi đây là một yếu tố quyết định tính bền vững của sự phát triển kinh tế. Trước hết, thực hiện nghiêm ngặt chủ trương kiềm chế bội chi ngân sách hàng năm không quá 4,5% GDP và phần bội chi chỉ để tăng vốn cho xây dựng cơ bản; giữ mức lạm phát dưới 10%/năm và loại trừ nguy cơ tái lạm phát cao; lãi suất tín dụng và tỷ giá hối đoái phải phù hợp với cung cầu và sức mua thực tế của đồng tiền Việt Nam, góp phần ổn định tiền tệ và thúc đẩy phát triển.
Chính phủ tiếp tục cải tiến cơ chế quản lý, bổ sung chính sách và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, thu hút nhiều hơn vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến từ bên ngoài phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới công nghệ; phấn đấu vào năm 2000 đạt kim ngạch xuất khẩu 200 USD bình quân đầu người (hiện nay khoảng 70 USD), cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Đặc biệt trong 4 năm còn lại của kế hoạch này, chúng ta cần phấn đấu rất cao, bảo đảm đủ vốn đầu tư và tiến độ xây dựng 41 công trình quan trọng đã được quy hoạch về giao thông, năng lượng, thủy lợi, giáo dục đào tạo, y tế, thông tin văn hóa. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ báo cáo với Quốc hội chi tiết hơn về chủ trương quan trọng này.
Kế hoạch coi trọng nhiệm vụ phát triển con người, nâng cao năng lực khoa học - công nghệ quốc gia, giải quyết tốt một số vấn đề xã hội bức bách nhất, đặc biệt là các vấn đề: tạo thêm việc làm, giáo dục và y tế, xóa đói, giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường.
Quá trình phát triển kinh tế, xã hội và mở rộng hợp tác với bên ngoài phải luôn luôn gắn liền và phục vụ tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng vững mạnh, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của loài người.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Những mục tiêu đề ra cho kế hoạch 1997 vừa phải tiếp tục tạo đà để đạt được những mục tiêu phát triển vào cuối năm 2000, vừa phải giải quyết những công việc còn lại của năm 1996 và khắc phục những hậu quả nặng nề của thiên tai, đồng thời phải nâng cao hơn nữa hiệu quả và khả năng phát triển bền vững của nền kinh tế. Vì vậy, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 1997 phải bám sát ba yêu cầu cơ bản của kế hoạch 5 năm đã trình bày trên, để giữ đà phát triển cho những năm sau.
Xin được nêu lên một số mục tiêu chính trong kế hoạch năm 1997:
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 9-10% so với năm 1996, mức tăng trưởng của từng ngành kinh tế nhìn chung được bố trí cao hơn năm trước xấp xỉ 1%.
- Nhằm bảo đảm thực hiện những mục tiêu phát triển, chúng ta sẽ cố gắng huy động vốn đầu tư của toàn xã hội (bao gồm cả vốn từ bên ngoài) đạt tỷ trọng 28-29% GDP năm 1997, tăng khoảng 29-32% so với năm 1996. Tuy nhiên, xin lưu ý rằng tỷ trọng huy động vốn này cũng vẫn chưa đạt mức bình quân 30% GDP/năm ghi trong kế hoạch 5 năm.
- Huy động vào ngân sách nhà nước thông qua thuế và phí dự kiến khoảng 19-21% GDP, tăng khoảng 12,5% so với năm 1996; nhưng cũng thấp hơn mức huy động ngân sách bình quân là 20-21%/năm của 4 năm còn lại.
Những phần nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1997 sẽ được xây dựng thành những chương trình nhà nước theo 11 chương trình nêu trong Báo cáo Chính trị của Đại hội VIII.
Đặc biệt, ngay từ năm 1997 chúng ta cần phải:
- Huy động mọi nguồn vốn trong các thành phần kinh tế để phát triển sản xuất - kinh doanh nâng cao hơn tỷ lệ góp vốn trong các công trình liên doanh với nước ngoài;
- Thực hiện việc giải ngân nhanh hơn nhằm sử dụng hiệu quả hơn nguồn ODA tranh thủ được; tập trung vào xây dựng những công trình giao thông, điện, nước, thủy lợi và phát triển kinh tế những vùng sâu, vùng cao;
- Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia xây dựng những công trình kết cấu hạ tầng và các dự án phát triển giáo dục, y tế, văn hóa.
Chính phủ sẽ vận dụng những cơ chế chính sách cải thiện mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng trong xã hội theo hướng khuyến khích toàn xã hội thực hiện tiết kiệm, trước hết là tạo thuận lợi và dành những ưu đãi để thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào việc phát triển sản xuất kinh doanh.
Thông qua những chương trình tín dụng và phát triển ngành nghề, Chính phủ sẽ tiếp tục thực hiện các chương trình: xóa đói, giảm nghèo, tạo thêm công ăn việc làm, phúc lợi xã hội. Năm 1997, phấn đấu không còn gia đình thuộc diện chính sách bị thiếu đói, tiến tới không còn hộ thiếu đói, để đến năm 2000, mức sống của nước ta ngang với các nước đang phát triển loại trung bình, chất lượng đời sống văn hóa của nhân dân cũng được nâng lên rõ rệt.
Chính phủ sẽ đẩy mạnh đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, ban hành những biện pháp tạo ra sự hài hòa giữa phát triển và phúc lợi xã hội, giữa phát triển và bảo vệ môi trường. Đặc biệt là để phát triển tài nguyên rừng, sẽ đóng cửa các khu rừng cần bảo vệ; thực hiện tiết kiệm trong sử dụng gỗ, nếu có nhu cầu thì nhập khẩu gỗ; triệt để cấm xuất khẩu gỗ và đồ gỗ, trừ những sản phẩm thủ công, mỹ nghệ có giá trị gia tăng cao. Chủ trương này sẽ được thực hiện liên tục trong nhiều năm.
Trong khả năng của ngân sách, sẽ điều chỉnh một bước tiền lương, chủ yếu nhằm bù lại một phần thu nhập thực tế bị giảm sút do trượt giá, sửa đổi những bất hợp lý đã thấy rõ trong hệ thống lương, tích cực chuẩn bị cho bước cải cách tiền lương tiếp theo. Tiền lương, tiền thưởng của các doanh nghiệp nhà nước phải tương ứng với hiệu quả kinh doanh thực tế, được hạch toán minh bạch; chấn chỉnh lại tình trạng một số doanh nghiệp phân phối tùy tiện quỹ thưởng và lương quá mức.
Về chỉ đạo điều hành, Chính phủ chú trọng tập trung vào các việc sau đây:
- Cải tiến hệ thống tài chính tiền tệ, thực hiện tốt Luật ngân sách mới được ban hành, xúc tiến bước cải cách tiếp hệ thống thuế; phát triển hệ thống ngân hàng và các loại hình tín dụng khác theo hướng khuyến khích sự phát triển năng động và tăng thêm mức độ an toàn trong mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của nền kinh tế; từng bước xây dựng thị trường vốn; tăng cường khả năng quản lý của Nhà nước thông qua các công cụ tài chính tiền tệ;
- Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu lực của hệ thống luật pháp, cải thiện môi trường pháp lý cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội;
- Ban hành các chính sách, giải pháp phát huy sức mạnh của toàn dân thực hiện xã hội hóa những lĩnh vực cho phép tạo ra nguồn lực lớn cho phát triển.
Chính phủ sẽ từng bước ban hành những quy định mới về các mặt hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội thích hợp với từng tầng lớp nhân dân và coi trọng giải quyết kịp thời các vấn đề cụ thể trong công tác điều hành để làm tốt hơn nữa chức năng của mình trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết và hòa hợp dân tộc, phát huy sức mạnh của đồng bào cả nước, kể cả các cộng đồng người Việt ở nước ngoài, cùng nhau xây dựng đất nước.
III- NHỮNG GIẢI PHÁP LỚN
NHẰM PHÁT HUY SỨC MẠNH TOÀN DÂN
THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Tôi đã trình bày với Quốc hội những yêu cầu và nhiệm vụ lớn đặt ra cho kế hoạch 5 năm và cho kế hoạch năm 1997. Tiếp đây cho phép tôi nêu lên một số vấn đề lớn và kiến nghị, để xin ý kiến Quốc hội về những giải pháp bảo đảm thực hiện thắng lợi kế hoạch:
Một là: Ra sức phát huy mọi tiềm năng kinh tế của toàn xã hội.
Chúng ta cần phải có những nguồn lực rất lớn để phát triển kinh tế và đáp ứng yêu cầu ngày một cao về công bằng và tiến bộ xã hội. Chúng ta rất thiếu vốn để phát triển kết cấu hạ tầng, mở mang những ngành nghề mới, tạo thêm công ăn việc làm, đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm mới, mở thêm thị trường mới. Trong hầu hết các công trình liên doanh với nước ngoài, tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam cũng còn rất thấp. Trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn - chiếm hơn 70% lực lượng lao động cả nước - còn tới 40% thời gian lao động chưa được sử dụng. Số người hoàn toàn không có việc làm còn chiếm tỷ lệ cao trong lực lượng lao động toàn xã hội. Đất nước còn nhiều tài nguyên và đất đai chưa được khai thác tốt; nhân dân còn nhiều vốn nhàn rỗi, nhưng chưa mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, mà chủ yếu đưa vào mua bán đất đai, nhà cửa, cất trữ. Vấn đề nóng bỏng đặt ra là phải tìm mọi cách huy động những nguồn lực nhàn rỗi to lớn này phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Trên cơ sở đường lối của Đảng đề ra, căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội đã được duyệt, Chính phủ sẽ cố gắng nâng cao năng lực quản lý vĩ mô để có thể ban hành và thực hiện được những quyết định, chủ trương khuyến khích mạnh mẽ tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước sẽ được phát huy tích cực trong quá trình này.
Chính phủ sẽ đề ra những biện pháp, nhằm khuyến khích người sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế:
1- Đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh tạo ra nhiều công ăn việc làm, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế;
2- Tiếp cận với thị trường trong nước và bên ngoài, xuất nhập khẩu trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức, hiệp hội và các hình thức liên kết, hợp tác khác;
3- Trực tiếp thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, Chính phủ chú trọng:
1- Phát huy vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước thông qua việc tiếp tục đổi mới tổ chức và quản lý, đẩy mạnh cổ phần hóa nhằm nâng cao hiệu quả;
2- Hướng dẫn và giúp đỡ phát triển các loại hình kinh tế hợp tác xã theo Luật đã ban hành;
3- Tổ chức các loại hình hợp tác, liên kết liên doanh giữa các doanh nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế khác để tăng nhanh hiệu quả kinh tế và hình thành những đơn vị kinh tế mạnh đủ sức cạnh tranh.
Chính phủ sẽ thể chế hóa các hình thức phân phối, kể cả hình thức phân phối nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế chính đáng của mọi tổ chức, cá nhân đóng góp sức người, sức của vào việc phát triển sản xuất - kinh doanh. Tăng cường vai trò hỗ trợ và bảo hiểm an toàn của hệ thống tài chính - ngân hàng đối với mọi hoạt động kinh tế trong xã hội.
Chính phủ sẽ cố gắng đồng bộ hóa hệ thống thể chế kinh tế, tài chính và tiếp tục hoàn thiện các yếu tố của thị trường, nhằm tạo thuận lợi và ổn định cho các nhà sản xuất - kinh doanh yên tâm làm ăn lâu dài trong hành lang pháp luật rõ ràng, thông suốt; không ngừng nâng cao hiệu quả trong quan hệ hợp tác, cạnh tranh bình đẳng.
Chính phủ tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách nhằm thật sự khuyến khích mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, giảm tỷ lệ nhập siêu; bảo vệ hợp lý sản xuất trong nước đi đôi với nâng cao sức cạnh tranh của hàng nội địa cả trên thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Chính phủ sẽ đặc biệt chú trọng việc xây dựng và củng cố hệ thống thương nghiệp quốc doanh phù hợp với điều kiện của các vùng nông thôn khác nhau để làm tốt việc cung ứng vật tư và dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp, phục vụ tốt yêu cầu tiêu thụ và xuất khẩu nông sản, giúp cho nông dân không bị ép cấp, ép giá.
Hai là: Huy động nguồn lực trong dân đẩy nhanh phát triển kết cấu hạ tầng.
Nếu chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước, chúng ta sẽ không thể nào phát triển nhanh được kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội. Xin lưu ý rằng, ngân sách năm 1997 vẫn phải dành 70% cho chi phí thường xuyên, lại phải dành một phần để trả nợ đến hạn và phần lớn các tỉnh thu không đủ chi, vẫn phải dựa vào nguồn bù đắp của ngân sách trung ương. Muốn đưa vào sử dụng các nguồn vốn huy động được từ bên ngoài cho phát triển kết cấu hạ tầng, cũng phải huy động đủ các nguồn vốn đối ứng trong nước. Chúng ta phải rất chú trọng huy động sự tham gia của toàn dân; vấn đề đặt ra là huy động như thế nào cho công bằng và hiệu quả nhất.
Nhiều cuộc họp giữa Chính phủ và các tỉnh trong năm nay đã thống nhất kiến nghị huy động mọi nguồn vốn, bao gồm cả huy động vốn từ quyền sử dụng đất đai, nhằm đẩy nhanh việc xây dựng và phát triển các hệ thống giao thông, điện, thủy lợi, văn hóa, giáo dục, y tế theo tinh thần Nhà nước và nhân dân cùng làm; xây dựng ngay dù ở mức thấp những công trình mới đã được quy hoạch; sau này sẽ từng bước nâng cấp và mở rộng dần các công trình này theo sự phát triển kinh tế.
Thực hiện phân cấp từ Trung ương tới tỉnh, huyện, xã. Ví dụ về giao thông sẽ huy động mọi nguồn vốn để hoàn thiện mạng lưới giao thông xuyên suốt từ quốc lộ đến đường nông thôn theo sự phân công như sau: Trung ương (Bộ) lo xây dựng các quốc lộ, các đường liên tỉnh; tỉnh dùng ngân sách của địa phương có sự hỗ trợ một phần của Trung ương, kết hợp với vốn huy động trong dân, lo xây dựng các tuyến đường từ tỉnh tới huyện và liên huyện; đường từ huyện về xã, liên xã, trong xã thì huyện và xã huy động sức dân là chủ yếu.
Có các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế khai thác mọi nguồn vốn thực hiện những dự án xây dựng kết cấu hạ tầng theo hình thức xây dựng, vận hành và chuyển giao (BOT). Trách nhiệm quản lý nhà nước là phải làm cho những công trình này được thực hiện đúng quy hoạch, bảo đảm chất lượng và hiệu quả kinh tế; có những quy định rõ ràng và công khai về tài chính, về các chế độ thu phí và bồi hoàn.
Chính phủ kiến nghị Quốc hội ban hành những văn bản pháp luật nhằm huy động sự đóng góp nghĩa vụ công ích của công dân và mọi hình thức đóng góp tự nguyện khác, nghĩa vụ công ích có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức, ví dụ, đóng góp lao động trực tiếp hoặc lao động được tính bằng tiền.
Cần thể chế hóa chính sách khuyến khích những hình thức đóng góp tự nguyện khác cho phát triển kết cấu hạ tầng và những công trình công ích xã hội (ví dụ, các khoản tự nguyện đóng góp xây dựng những công trình công cộng hoặc làm những việc công ích khác như khuyến học, bảo vệ môi trường, v.v., sẽ được khấu trừ trước khi tính thuế lợi tức, thuế thu nhập...), vận động phong trào nhân dân tự nguyện xây dựng những chương trình công ích bằng công sức của mình (ví dụ, theo cách làm của một số địa phương thuộc các tỉnh Nam Hà và Thái Bình...), v.v..
Việc huy động công sức nhân dân phát triển kết cấu hạ tầng và hoạt động công ích là một chủ trương và phương thức lâu dài, cần được thực hiện có quy củ và thành nền nếp; bảo đảm công bằng, minh bạch.
Ba là: Nhà nước và nhân dân hợp lực phát triển giáo dục và y tế.
Phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong công cuộc phát triển của xã hội chúng ta. Nhưng năng lực tài chính từ nguồn ngân sách của Nhà nước ta rất hạn chế. Tuy tỷ trọng ngân sách của nước ta chi cho giáo dục và y tế không kém, có khi cao hơn một số nước có mức sống như nước ta, nhưng phần lớn kinh phí chỉ đủ trả lương ở mức thấp cho thầy giáo, thầy thuốc và nhân viên các trường học, bệnh viện. Chính sách tài trợ của Nhà nước như hiện nay là sự trợ giúp đồng đều mang tính bao cấp cho mọi người đi học, khám chữa bệnh, không phân biệt mức thu nhập.
Trong thực tế, nhân dân ta đã và đang đóng góp nhiều tiền của, công sức cho việc học tập, khám chữa bệnh, nhưng phần đông dưới dạng không chính thức, không công khai. Một sự thật là tuyệt đại đa số các gia đình có con em đi học, kể từ cấp mẫu giáo trở lên, đều phải đóng góp ở mức khá cao, dưới các hình thức khác nhau. Tình trạng bất kể trò giỏi, trò kém đều phải “học thêm” là rất trái với các phương pháp sư phạm khoa học, gây phiền hà, tốn kém cho phụ huynh học sinh, ảnh hưởng xấu đến quan hệ thầy - trò, gia đình - nhà trường. Người đi khám chữa bệnh cũng phải chi thêm nhiều khoản ngoài quy định để được chữa trị, chăm sóc tốt hơn. Tình trạng đó làm những gia đình nghèo rất chật vật lo cho con đi học, nhiều khi phải bỏ dở; khi gặp bệnh tật thì hết sức khó khăn.
Mấy năm gần đây, ở nhiều nơi, trước hết là các thành phố, thị xã, đã phát triển nhiều cơ sở dân lập dưới nhiều hình thức, góp phần đáp ứng nhu cầu học tập và khám chữa bệnh của nhân dân.
Tôi xin đề nghị Quốc hội cho ý kiến về vấn đề quan trọng này. Rất nên làm cho mọi người dân nhìn rõ những thực trạng nói trên, để tìm ra những giải pháp thiết thực, hợp lý, được chấp nhận rộng rãi trong nhân dân.
Chính phủ kiến nghị xây dựng một quan điểm chung làm cơ sở cho mọi chính sách và giải pháp là:
Sử dụng nguồn vốn ngân sách vào những khâu thiết yếu nhất, cho những mục tiêu và đối tượng cần trợ giúp; huy động công khai và có tổ chức, được quy định rõ ràng bằng luật pháp sự đóng góp của nhân dân vào giáo dục và y tế theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm; phát triển các hình thức bán công, dân lập; đồng thời bảo đảm cho người thuộc diện chính sách và người nghèo được đi học, khám chữa bệnh.
Nhà nước phải quản lý chặt chẽ và thực hiện thống nhất nội dung chất lượng, quy trình, quy phạm, v.v. của mọi hoạt động giáo dục, y tế đúng với luật pháp. Chương trình giảng dạy và chế độ thi cử do Nhà nước quy định.
Chính phủ đề nghị ban hành những quy chế cho phép cạnh tranh lành mạnh để nâng cao chất lượng giữa các trường học, giữa các cơ sở y tế. Không có sự phân biệt về bằng cấp của những trường công và bán công, trường quốc lập và dân lập.
Chúng ta phải phát triển và thiết lập trật tự trong giáo dục và y tế với chất lượng mới trên cơ sở:
- Gắn sự đóng góp của dân với quyền của dân được lựa chọn và hưởng những dịch vụ y tế và giáo dục có chất lượng xứng đáng;
- Gắn thu nhập được điều chỉnh lại nhờ sự đóng góp của dân theo thể chế này với trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ làm nhiệm vụ giáo dục, y tế; đãi ngộ xứng đáng thầy giáo, thầy thuốc theo năng lực và chất lượng dạy học, khám chữa bệnh;
- Thể chế hóa việc phân bổ một phần những nguồn lực huy động từ sự đóng góp của dân vào việc cải thiện, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật và việc trợ giúp những gia đình thuộc diện phải trợ giúp;
- Cải tiến và phát triển hệ thống bảo hiểm đúng với vai trò không thể thiếu được của nó trong việc nâng cao phúc lợi xã hội;
- Khôi phục và nâng cao vị trí của thầy giáo, thầy thuốc trong xã hội; nuôi dưỡng và phát huy nền nếp tôn sư trọng đạo, lương y như từ mẫu.
Thực hiện những giải pháp trên đây, chúng ta mới có điều kiện bảo đảm thu nhập thỏa đáng cho đội ngũ cán bộ giáo dục và y tế hiện đang chiếm hơn 3/4 tổng số biên chế hành chính sự nghiệp của cả nước. Đồng thời, chúng ta sẽ có thêm nguồn lực đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục và y tế nước ta sớm theo kịp đòi hỏi của đất nước và trình độ những nước đi trước.
Tôi xin nhấn mạnh rằng thực hiện thể chế mới về sự đóng góp của dân cho giáo dục và y tế hoàn toàn không có nghĩa là Nhà nước sẽ làm ngơ hay thừa nhận bất kỳ loại phụ thu tùy tiện và lạm bổ nào trái quy định. Ngược lại, Chính phủ coi những loại “tiêu cực phí” này là bất hợp pháp và sẽ xử lý nghiêm khắc. Đồng thời, tôi cũng xin đề nghị phải thực hiện triệt để tiết kiệm và sử dụng đúng mục đích những nguồn đóng góp của nhân dân cho giáo dục và y tế, phải xây dựng được những quy định pháp luật chặt chẽ trong việc sử dụng những nguồn lực này.
Bốn là: Đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội.
Vấn đề này là mối quan hệ thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta. Chúng ta đã làm nhiều việc, nhưng tình trạng tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội vẫn ở mức độ trầm trọng, gây nhiều hậu quả tai hại và trực tiếp cản trở, đe dọa sự phát triển của nước ta.
Để chống tham nhũng, chúng ta cần tiếp tục đấu tranh bền bỉ và triệt để hơn nữa, vận dụng mọi hình thức, kết hợp những biện pháp vận động chính trị sâu rộng trong toàn xã hội và những biện pháp trừng trị kiên quyết theo pháp luật, Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung các điều luật liên quan đến việc trừng trị các tội tham nhũng; ban hành các quy định mới nhằm tạo cơ chế phối hợp đồng bộ, kịp thời giữa các cơ quan có trách nhiệm thi hành pháp luật từ giai đoạn phát hiện tội phạm đến điều tra, truy tố, xét xử các tội tham nhũng, khắc phục cho được tình trạng xử lý chậm, không nghiêm nhiều vụ án tham nhũng lớn. Cần bổ sung các biện pháp chế tài mạnh hơn, có hiệu quả hơn, đặc biệt là biện pháp về kinh tế đối với các tội tham nhũng, trốn thuế, buôn lậu.
Chính phủ cũng đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định ban hành những văn bản pháp luật về nguyên tắc liên đới chịu trách nhiệm đối với những người đứng đầu cơ quan hoặc đơn vị để xảy ra các vụ vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Những biện pháp xử lý mới chỉ nhằm vào những hiện tượng đã và đang xảy ra. Chống tham nhũng còn đòi hỏi phải khắc phục những nguyên nhân xuất phát, trước hết là những sơ hở về thể chế, bất hợp lý về bộ máy, những phần tử thoái hóa, biến chất trong đội ngũ công chức và trình độ cán bộ chưa cập nhật so với yêu cầu mới.
Điều đó giải thích vì sao những văn bản pháp quy dù chặt chẽ, rõ ràng vẫn không ngăn chặn được tiêu cực, tham nhũng. Một ví dụ là vẫn còn nhiều tiêu cực trong việc lựa chọn đối tác thực hiện các dự án, hợp đồng kinh tế, mặc dù Nhà nước đã có nhiều quy định kể cả các quy định về gọi thầu, xét thầu. Một biện pháp quan trọng để khắc phục là công khai hóa tài chính doanh nghiệp, tăng cường chất lượng các công tác kế toán, kiểm toán; tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục hành chính, quy định rõ những điều cấm và giảm bớt việc xin phép - cho phép, công khai hóa quy trình xét duyệt của các cơ quan chức năng; đồng thời, nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, trước hết là ở những khâu giải quyết công việc của dân và của các doanh nghiệp.
Chính phủ đề nghị Quốc hội cho ý kiến về những biện pháp kiên quyết và khả thi để đạt được chuyển biến thật sự trong cuộc đấu tranh này.
Về phòng, chống các tệ nạn xã hội: Tuy những biện pháp đã thực hiện trong năm vừa qua có mang lại một số kết quả, nhưng nạn mại dâm, cờ bạc, ma túy, tội phạm hình sự chưa giảm đáng kể. Chính phủ đã căn cứ vào Bộ luật hình sự và Pháp lệnh xử phạt hành chính để đề ra những biện pháp đẩy mạnh công tác phòng, chống các tệ nạn xã hội. Những biện pháp này cần được tăng cường hơn nữa, đồng thời, chú trọng hơn công tác tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân tham gia phòng, chống tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh.
Tại một số địa phương đã có những hình thức huy động rất hiệu quả như tổ chức sự tham gia của tổ dân phố, cụm, xóm với nòng cốt là những người có uy tín và giàu tâm huyết, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chuyên trách phòng, chống tệ nạn xã hội... Những điển hình tốt cần được tổng kết và nhân rộng.
Vì sức khỏe của giống nòi và tương lai của đất nước, tôi đề nghị Quốc hội kêu gọi toàn dân dập tắt ngay nạn nghiện hút ma túy trong nhà trường; các tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh trong nhà trường phải thực sự là lực lượng nòng cốt, đi đầu, cùng nhà trường và gia đình bài trừ tệ nạn này.
Một mặt rất yếu cần khắc phục là chúng ta còn thiếu nhiều hoạt động văn hóa, xã hội lành mạnh đáp ứng nhu cầu về đời sống tinh thần của nhân dân; còn thiếu những tác phẩm văn hóa có tính nghệ thuật cao và sức cổ vũ lớn cho những giá trị đạo đức trong cuộc sống. Việc đấu tranh ngăn chặn văn hóa độc hại còn thụ động. Chúng ta không thể đơn thuần đổ lỗi cho cơ chế thị trường để bào chữa việc còn thiếu những nỗ lực cần thiết trên mặt trận này.
Ngoài việc tiếp tục thực hiện các chủ trương, chính sách về văn hóa, xã hội đã đề ra trong năm 1996, Chính phủ sẽ đặc biệt chú trọng việc thực hiện nhiệm vụ này ngay trong các trường học và ngoài xã hội; nâng cao chất lượng các chương trình văn hóa trên các phương tiện truyền thông, chú trọng nhiều hơn nữa đến những hoạt động phúc lợi xã hội giúp đỡ những người lỗi lầm tìm lại con đường trở về với cuộc sống lương thiện.
Năm là: Nâng cao năng lực quản lý của bộ máy nhà nước.
Càng đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh toàn dân và giải phóng mọi tiềm năng trong xã hội cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta càng phải chú trọng nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của bộ máy nhà nước, trước hết trên các phương diện:
- Nâng cao hiệu lực của hệ thống pháp luật;
- Phát huy vai trò của hệ thống tài chính tiền tệ;
- Hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường và cơ chế quản lý của Nhà nước.
Chính phủ sẽ đặc biệt chú trọng phát triển và tiếp tục hoàn thiện hệ thống tài chính tiền tệ, coi đây là một trong những khâu công tác quan trọng nhất trực tiếp góp phần vào sự phát triển năng động, nâng cao hiệu quả và tính phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế nước ta. Trước hết, kiện toàn hệ thống ngân sách nhà nước theo Luật ngân sách nhà nước; đổi mới các chính sách tài chính, đổi mới chính sách thuế theo hướng đơn giản, dễ thực hiện, chú trọng phát triển và nuôi dưỡng các nguồn thu, điều tiết thu nhập dân cư, bảo đảm thu ngân sách tốt hơn; nâng cao hiệu quả công tác kế toán, kiểm toán, thống kê, kiểm soát hoạt động tài vụ của các doanh nghiệp. Tiếp tục ban hành những chính sách duy trì ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát, củng cố vai trò của đồng Việt Nam, cải tiến hệ thống ngân hàng và từng bước xây dựng thị trường vốn nhằm huy động và sử dụng tốt hơn các nguồn lực.
Chính phủ tiếp tục cải cách hành chính để nâng cao hiệu lực thi hành luật pháp và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân. Trước hết, đặt trọng tâm vào việc hình thành hành lang pháp lý rõ ràng tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế và cho mọi người dân phát huy một cách sáng tạo khả năng của mình trong khuôn khổ hành lang đó.
Công cuộc cải cách hành chính trong những năm vừa qua đã có được một số kết quả. Những nhu cầu phát triển mới đòi hỏi những bước đi căn bản hơn, dứt khoát hơn trong lĩnh vực này. Chính phủ sẽ tiến hành tổng kết, đánh giá lại một cách nghiêm khắc những gì đã làm được và những gì chưa làm được. Những điều kiện khách quan mới như cơ chế thị trường, xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế, phương tiện kỹ thuật hiện đại, v.v., cần được vận dụng hài hòa cùng những yếu tố chủ quan như bộ máy, con người, quá trình cải cách. Điều quan trọng là phải phân tích kỹ lưỡng thực tế sinh động của cuộc sống hằng ngày để tìm ra bước đột phá, khâu trọng điểm, có giá trị thiết thực cho giai đoạn tiếp theo.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Nếu như chúng ta đã khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, thì cũng cần nhìn nhận công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, ai cũng có quyền và được Nhà nước hướng dẫn, khuyến khích đem hết nhiệt tình, trí tuệ và của cải góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa như vậy sẽ là cuộc vận động tiết kiệm lớn nhất trong xã hội nước ta. Nhân đây tôi cũng xin nhắc lại: nước ta nghèo, nhưng tiêu xài còn rất lãng phí; trong đó có những nguyên nhân đạo đức, phẩm chất, nhưng cũng có cả nguyên nhân còn thiếu những biện pháp bảo hộ và khuyến khích từng người dân tiết kiệm và sử dụng tiền tiết kiệm được vào sản xuất, kinh doanh, thiếu những chế định chặt chẽ để chống lãng phí của công mà thực chất là của dân.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn là một cuộc vận động chính trị sâu rộng, bao gồm yêu cầu giác ngộ sâu sắc chủ nghĩa yêu nước với nội dung mới, trước hết đó là ý thức lo cho vận mệnh tương lai của đất nước, tinh thần tự trọng dân tộc, ý chí chiến thắng cái nghèo, khắc phục tâm lý ỷ lại trông chờ vào ngân sách nhà nước, vào viện trợ nước ngoài.
Chúng ta cần làm mọi việc để phổ cập trong nhân dân ý thức tự trau dồi kiến thức, sự ham mê hiểu biết kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật; nâng cao tinh thần giữ gìn luật pháp và trật tự kỷ cương, bảo vệ môi trường, sự hiểu biết và ý thức tự giác tham gia sự nghiệp phát triển toàn diện đất nước. Không một quốc gia nào trên thế giới có thể tiến hành công nghiệp hóa trong tình trạng văn hóa, dân trí và tinh thần dân tộc thấp kém, kỷ cương Nhà nước và trật tự xã hội thiếu hiệu lực.
Đại hội VIII đề ra mục tiêu năm 2020 đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu dài hạn đó, chúng ta cần xác định rõ nhiệm vụ đặt ra cho kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 5 năm 1996 - 2000 và kế hoạch năm 1997, và phải thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này. Những giải pháp cho những vấn đề lớn Chính phủ trình Quốc hội được xây dựng với ý chí phát huy sức mạnh toàn dân đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng đất nước vì lợi ích của nhân dân.
Xin Quốc hội cho ý kiến và xin cảm ơn sự chú ý của Quốc hội.