THUYẾT TRÌNH
CỦA ỦY BAN KINH TẾ VÀ NGÂN SÁCH CỦA QUỐC HỘI VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1996; VỀ KẾ HOẠCH 5 NĂM 1996-2000;
PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1997
(Do ông Lý Tài Luận, Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế và ngân sách
của Quốc hội đọc tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX, ngày 16-10-1996)
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Để chuẩn bị cho kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa IX, sau khi làm việc với các Bộ, ngành, địa phương và cơ sở, trong các ngày từ 25 đến 29 tháng 9 năm 1996 tại thành phố Vũng Tàu (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội đã tổ chức cuộc họp toàn thể Ủy ban, có đại diện Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, đại diện Ban Kinh tế Trung ương, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước dự để nghe đại diện Chính phủ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) trình bày báo cáo về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 1996; về kế hoạch 5 năm 1996 - 2000; phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 1997.
Trên cơ sở các báo cáo, ý kiến của các đại biểu dự họp và qua giám sát thực tế tại một số Bộ, ngành, địa phương; Ủy ban kinh tế và ngân sách xin trình Quốc hội một số ý kiến như sau:
PHẦN THỨ NHẤT
VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI
I- ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1996
1. Bước vào thực hiện kế hoạch năm 1996, nền kinh tế nước ta có thuận lợi cơ bản là kế thừa những thành tựu đã đạt được qua 10 năm đổi mới, nhất là những năm 1991 - 1995. Nhờ có sự chỉ đạo tích cực, sát sao của Chính phủ, của các cấp, các ngành trong không khí thi đua chào mừng Đại hội Đảng lần thứ VIII và đưa Nghị quyết của Đại hội vào cuộc sống; tình hình kinh tế - xã hội nhìn chung tiếp tục chuyển biến theo hướng tích cực và đạt được những thành tựu mới:
- Dự kiến hầu hết các mục tiêu và chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều có khả năng đạt và vượt theo Nghị quyết của Quốc hội đề ra cho năm 1996, cụ thể là: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước tăng 9,5%; giá trị tổng sản lượng công nghiệp ước tăng 14%; giá trị tổng sản lượng nông nghiệp ước tăng 4,8 - 5%, trong đó, sản lượng lương thực quy thóc ước đạt 28,5 triệu tấn, tăng khoảng một triệu tấn so với năm 1995; kim ngạch xuất khẩu ước đạt 7,0 tỷ USD, tăng 32% và kim ngạch nhập khẩu ước đạt 10 tỷ USD, tăng 21% so với năm 1995.
- Trong nông nghiệp, vụ Đông - Xuân được mùa lớn trong cả nước, tuy ở miền Bắc bị liên tiếp bốn đợt thiên tai lớn trong vòng một tháng đã gây thiệt hại nặng nề về người và của, trong đó vụ mùa bị mất khoảng 30 - 40 vạn tấn, nhưng vụ Đông - Xuân cả nước đã đạt trên 14 triệu tấn (thóc 12,2 triệu tấn) và vụ Hè Thu ở phía Nam đạt khá nên sản lượng lương thực cả năm 1996 dự tính vẫn có khả năng đạt chỉ tiêu kế hoạch và tăng so với năm 1995.
Cơ cấu kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp vẫn tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, lợi thế so sánh của từng vùng, từng tỉnh, từng cơ sở đã được chú ý khai thác và sử dụng có hiệu quả trong cơ chế thị trường. Bên cạnh sự gia tăng khá về cây lúa, các cây trồng khác cũng tăng nhanh, nhất là cây ăn quả, cao su, cà phê... Các lĩnh vực chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản tiếp tục tăng trưởng với tốc độ đáng kể. Công tác trồng và bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc có nhiều cố gắng. Nhiều mô hình sản xuất nông - lâm kết hợp phát triển có hiệu quả.
- Sản xuất công nghiệp, mặc dù tốc độ gia tăng có xu hướng chậm lại ở một số lĩnh vực như dầu thô, giấy, xi măng, bia... nhưng nhìn chung tốc độ tăng trưởng có khả năng đạt xấp xỉ mức kế hoạch đề ra (14-14,5%).
- Hoạt động thương mại dịch vụ, kinh tế đối ngoại và xuất nhập khẩu tiếp tục có chuyển biến tích cực, thị trường trong và ngoài nước ngày càng được củng cố và mở rộng. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt xấp xỉ cùng kỳ năm trước, trong đó tỷ trọng các dự án đầu tư vào sản xuất công nghiệp tăng đáng kể.
- Công tác tài chính, tiền tệ, giá cả và kiểm soát lạm phát có tiến bộ, hàng hóa tương đối đa dạng và phong phú. Chính phủ và các cấp, các ngành sớm triển khai nhiều biện pháp chống lạm phát, giá cả từ đầu năm đến nay tương đối ổn định và một số hàng hóa có chiều hướng giảm thấp. Tính chung 9 tháng đầu năm giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chỉ tăng 2,5% so với tháng 12-1995. Đây là mức tăng giá thấp nhất từ trước đến nay và cũng là điều đáng quan tâm trong việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát.
- Đầu tư xây dựng cơ bản đã có những cố gắng nhất định. Nhờ tăng cường thực hiện chặt chẽ các thủ tục đầu tư và xúc tiến công tác chuẩn bị đầu tư nên nhìn chung đã nâng cao một bước hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước.
- Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, xã hội..., có những tiến bộ nhất định; quốc phòng - an ninh được giữ vững.
Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội năm 1996 tiếp tục có những chuyển biến tích cực, kinh tế vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá nhưng chất lượng, hiệu quả còn thấp, chưa bền vững. Sau thành công của Đại hội Đảng lần thứ VIII, niềm tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo càng được củng cố. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân giữ được ổn định, tuy có một bộ phận nhân dân, trước hết là đồng bào vùng dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa và những người lương thấp, nhất là khu vực hành chính - sự nghiệp, các đối tượng chính sách vẫn còn nhiều khó khăn và chưa được cải thiện đáng kể.
2. Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ quan trọng đạt được, Ủy ban chúng tôi thấy nổi lên một số vấn đề đáng quan tâm:
a) Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nổi cộm lên vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hóa và giải quyết đầu ra cho sản xuất nông nghiệp. Năm nay, vụ Đông - Xuân được mùa trong cả nước và vụ Hè - Thu đạt khá nên sản lượng lương thực hàng hóa khá lớn, nhưng tình hình tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu chậm, lúa hàng hóa còn tồn đọng nhiều trong dân, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, các nông sản hàng hóa khác như cà phê, cao su, mía, chè, lạc..., cũng tăng nhiều so với năm 1995 và cũng có tình trạng tồn đọng khó tiêu thụ và giá cả giảm thấp.
Ủy ban chúng tôi cho rằng, nguyên nhân chính là do chưa gắn được quy hoạch phát triển ngành kinh tế - kỹ thuật cụ thể với từng vùng lãnh thổ và địa phương; chưa gắn được vùng sản xuất nguyên liệu với xây dựng các cơ sở công nghiệp chế biến, nông sản thực phẩm; chỉ đạo sản xuất nhưng chưa quan tâm đúng mức đến tổ chức chế biến, thị trường và màng lưới thương nghiệp tiêu thụ nông sản phẩm ở những vùng chưa có cơ sở công nghiệp chế biến. Từ đó, dẫn đến tình trạng sản phẩm nông dân sản xuất ra còn bị trôi nổi, có nhiều nơi bị ép cấp, ép giá.
Đối với nước ta, cây lúa vẫn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn cũng như trong việc thực hiện chương trình bảo đảm an toàn lương thực quốc gia. Tuy nhiên hiện nay, vẫn tồn tại một mâu thuẫn là mặc dù sản lượng lúa ngày càng tăng lên, nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng đời sống của nông dân vẫn chưa được cải thiện, một phần do giá lúa xuống quá thấp, thậm chí có nơi không đủ trang trải các chi phí sản xuất. Do đó, cần có chính sách đồng bộ đối với cây lúa và người trồng lúa cùng với các biện pháp bảo đảm nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu; đồng thời cần chấn chỉnh hệ thống kinh doanh lương thực và xuất khẩu gạo, tạo điều kiện cho các tỉnh có khối lượng lúa hàng hóa lớn được trực tiếp xuất khẩu gạo tương ứng với khả năng sản xuất của địa phương. Đặc biệt, cần có chính sách trợ giá hợp lý để khuyến khích trực tiếp người sản xuất lúa gạo.
Việc phát triển cây công nghiệp (mía đường...), cây ăn quả và vật nuôi thích hợp với từng vùng để tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp, tăng nhu thập cho nông dân là một yêu cầu cấp thiết khách quan. Tuy nhiên, để tránh tình trạng ứ đọng sản phẩm (như ở một số địa phương dân đã từng đốt mía, chặt dừa...) Nhà nước cũng cần giúp đỡ và hướng dẫn các địa phương chủ động tìm hiểu, nghiên cứu nhu cầu thị trường để quyết định cơ cấu, quy mô cây trồng, vật nuôi hợp lý.
Một điều đáng quan tâm là thiên tai, bão lụt vừa qua gây thiệt hại nặng ở nhiều địa phương trong cả nước. Ủy ban chúng tôi hoan nghênh Chính phủ, các cấp, các ngành, các đoàn thể và nhân dân các địa phương trong cả nước đã có những biện pháp cứu trợ khẩn cấp nhằm giúp nhân dân các vùng này sớm khắc phục hậu quả, nhanh chóng ổn định đời sống, bảo đảm điều kiện khôi phục và phát triển sản xuất. Đề nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo kiểm tra đánh giá đúng mức, đầy đủ tình hình thiệt hại để có những biện pháp tích cực giải quyết trong những tháng cuối năm 1996 và chủ động bố trí trong kế hoạch năm 1997.
b) Tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp tuy ước tính cả năm vẫn đạt xấp xỉ mức kế hoạch nhưng có xu hướng chậm lại (9 tháng đầu năm 1996 chỉ tăng 13,5% mà 9 tháng đầu năm 1995 tăng 14,3 %). Một số ngành có tỷ trọng lớn, lại có tốc độ tăng thấp so với cùng kỳ năm trước như dầu thô, giấy, xi măng, bia..., cộng với tình hình ứ đọng và khó tiêu thụ một số sản phẩm công nghiệp quan trọng như xi măng, sắt thép, giấy, đường ăn, v.v. là điều không bình thường. Nguyên nhân chủ yếu trước hết là do yếu kém trong điều hành và xử lý vĩ mô từ việc dự báo nhu cầu, điều hòa lưu thông và cân đối xuất nhập khẩu. Mặt khác, Nhà nước vẫn chưa ban hành được cơ chế tạo vốn, cơ chế vay và hoàn trả tín dụng cho thực sự phù hợp với cơ chế mới, do đó các doanh nghiệp thiếu vốn để đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, tạo thêm năng lực sản xuất mới đủ sức cạnh tranh với thị trường trong và ngoài nước, nhất là về chất lượng và giá thành sản phẩm. Điều tiếp tục đáng lo ngại là, tuy vốn ít nhưng đầu tư vẫn còn dàn trải, không tập trung, làm tăng thêm những công trình chậm đưa vào sử dụng. Việc xây dựng tràn lan nhiều xí nghiệp xi măng lò đứng và các xí nghiệp đường mía với quy mô nhỏ trong cả nước cùng với việc nhập một số thiết bị, công nghệ cũ hoặc lạc hậu, dẫn đến tình trạng nhiều sản phẩm sản xuất ra không cạnh tranh được cả ở thị trường trong và ngoài nước.
Một vấn đề lớn đáng quan tâm là sự sắp xếp và tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước và việc cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp. Tuy Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo nhưng công việc tiến triển quá chậm; việc sáp nhập, hợp nhất, giải thể, cổ phần hóa tuy đã có chủ trương nhưng cũng chưa làm rõ những nguyên nhân và có giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi loại hình doanh nghiệp. Mặt khác, tuy Luật doanh nghiệp nhà nước đã ban hành và có hiệu lực từ lâu nhưng việc ban hành các văn bản dưới luật như các nghị định của Chính phủ, thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành quá chậm. Do đó, các Bộ, ngành, địa phương và cơ sở gặp không ít khó khăn và lúng túng.
c) Hoạt động xuất, nhập khẩu đã có những chuyển biến tích cực nhưng cũng đã phát sinh một số trường hợp bất cập trong điều hành, đặc biệt là xuất khẩu gạo và nhập khẩu vật tư, nguyên liệu như xi măng, sắt thép, đường ăn, giấy..., nguyên nhân chủ yếu là do việc nắm bắt, dự báo thị trường - giá cả trong và ngoài nước chưa kịp thời; mặt khác, việc dự báo nhu cầu và tính toán khả năng sản xuất trong nước cũng như yêu cầu nhập khẩu chưa sát, thiếu vững chắc nên đã dẫn đến tình trạng hạn chế xuất khẩu gạo trong khi lúa gạo bị ứ đọng trên thị trường trong nước; nhập ồ ạt vật tư xi măng, sắt thép, giấy, v.v. trong những tháng đầu năm, từ đó, gây khó khăn cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp và trong chừng mực nhất định đã kìm hãm nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm đạt 4.474 triệu USD, tăng 21% (chỉ tiêu tốc độ tăng theo Nghị quyết Quốc hội: 27-28%) trong lúc đó, kim ngạch nhập khẩu đạt 8.012 triệu USD, tăng trên 47% so với cùng kỳ năm trước và số nhập siêu đã trên 3,5 tỷ USD, gần bằng 79% kim ngạch xuất khẩu. Tuy trong cơ cấu hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, trong đó phần đáng kể là của các dự án có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nhưng điều đáng quan tâm là việc nhập các mặt hàng tiêu dùng mà trong nước đã sản xuất được làm ảnh hưởng đến cán cân thanh toán. Vì vậy, cần có chủ trương và giải pháp xử lý đồng bộ, chặt chẽ nhằm bảo đảm cân đối tích cực giữa nhập khẩu với sản xuất và khả năng tiêu thụ trong nước, giữa nhập khẩu với sản phẩm xuất khẩu ngay trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
d) Hợp tác đầu tư với nước ngoài tiếp tục được đẩy mạnh. Tuy nhiên, công tác chuẩn bị triển khai dự án làm chậm, tiến độ thực hiện vốn đầu tư đã đăng ký tuy có tăng khá hơn trước nhưng vẫn còn thấp. Lĩnh vực phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông sản trong cơ cấu đầu tư nước ngoài tuy bước đầu có chuyển biến nhưng còn rất hạn chế; các vùng mà kết cấu hạ tầng yếu kém vẫn gặp khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Vấn đề đặt ra là cần có quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật cụ thể gắn với vùng lãnh thổ và địa phương để tạo điều kiện phát huy những tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương để thu hút vốn đầu tư. Mặt khác, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, cải tiến thủ tục hành chính, tiếp tục khắc phục một cách cơ bản tệ quan liêu, gây phiền hà để tạo môi trường hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Đến nay, nhiều dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào hoạt động, từng bước phát huy hiệu quả. Bên cạnh đó, gần đây đã xuất hiện ngày càng nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật trong các công ty, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các chi nhánh, văn phòng đại diện nước ngoài tại Việt Nam như ẩn lậu, trốn thuế, nhập lậu, ngược đãi đối với lao động Việt Nam, sử dụng lao động nước ngoài không thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam... Do đó, cùng với việc tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cần tăng cường sự phối hợp kiểm tra, kiểm soát thường xuyên tình hình hoạt động của các tổ chức trên, xử lý nghiêm minh những vụ việc vi phạm pháp luật. Đồng thời, từng bước điều chỉnh hành lang pháp lý để tạo sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước.
đ) Tình hình biến động giá cả trong 9 tháng đầu năm 1996 có biểu hiện không bình thường: chỉ số giá cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng nói chung có xu hướng giảm dần, nhất là từ tháng 5-1996, tháng sau so với tháng trước giảm liên tục (tháng 5 giảm 0,5%, tháng 6 giảm 0,5%, tháng 7 giảm 0,7%, tháng 8 giảm 0,4%) nên tính đến hết tháng 9-1996, chỉ số tăng giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chỉ còn 2,5% so với tháng 12-1995, trong đó, giảm mạnh nhất là giá lương thực và vật liệu xây dựng (xi măng, sắt thép...).
Về mức độ kiềm chế lạm phát có một số ý kiến cho rằng, chỉ số giá cả xuống thấp như vậy đã gây tác động tiêu cực đến nhịp độ tăng trưởng kinh tế, làm ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống nông dân; vì vậy, đề nghị nới lỏng mức kiềm chế lạm phát để đến hết năm 1996 lên khoảng 6-7% bằng các giải pháp thích hợp. Về vấn đề này, nhiều thành viên trong Ủy ban chúng tôi thấy rằng:
Ngay từ những tháng cuối năm 1995 và đầu năm 1996, Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo điều hành kiên quyết, chặt chẽ, sát sao, có các giải pháp tích cực nhằm kiềm chế lạm phát theo Nghị quyết của Quốc hội và thực tế đã mang lại hiệu quả rõ rệt, đặc biệt là không để xảy ra các cơn sốt giá như trong những tháng đầu năm 1995. Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc điều hành sản xuất, lưu thông hàng hóa trong nước, xuất nhập khẩu, nắm bắt thị trường trong và ngoài nước..., thiếu chặt chẽ, không kịp thời; sức mua trong dân giảm; thêm vào đó công tác chống buôn lậu chưa đem lại kết quả thật sự, đã gây nên tình trạng cung vượt quá cầu làm ứ đọng sản phẩm hàng hóa (lương thực, mía đường, xi măng, sắt thép, giấy...), từ đó, dẫn đến giảm giá. Nguyên nhân khác nữa cũng góp phần làm cho chỉ số giá cả ở mức thấp là việc điều hành về lĩnh vực tài chính tiền tệ chưa tốt, thu ngân sách liên tục khó khăn nên chưa đáp ứng vốn cấp phát đầy đủ, kịp thời cho đầu tư phát triển, cân đối tiền - hàng chưa vững chắc, tình trạng thừa vốn ở các ngân hàng thương mại quốc doanh trong khi các doanh nghiệp thiếu vốn nghiêm trọng...
Sự biến động giá cả ở mức thấp như vừa qua, một mặt tạo được điều kiện ổn định cuộc sống cho những người có thu nhập thấp; mặt khác, giá liên tục giảm, nhất là giá nông sản sẽ làm giảm thu nhập, gây khó khăn trực tiếp tới đời sống của nông nghiệp, làm ảnh hưởng đến việc khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa. Chỉ số giá cả giảm mạnh cũng gây khó khăn trên một số lĩnh vực sản xuất và ở mức độ nhất định tác động đến tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Vì vậy, Ủy ban chúng tôi cho rằng, việc tiếp tục giữ ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát ở mức độ hợp lý là cần thiết nhằm tiếp tục tạo môi trường cho phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, cần có các biện pháp điều hành vĩ mô có hiệu quả hơn nhằm trước hết nâng dần giá nông sản, đặc biệt là giá lương thực, nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long; còn đối với một số mặt hàng quan trọng khác cần phải tính toán chặt chẽ, cân nhắc thận trọng và có bước đi thích hợp trong việc điều chỉnh giá, bảo đảm mức độ lạm phát thích hợp, vừa bảo đảm ổn định đời sống xã hội, vừa tạo điều kiện đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế.
e) Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước bố trí còn hạn chế, nhất là vốn trong nước thấp hơn nhiều so với các năm trước. Tuy kế hoạch được giao đến các Bộ, ngành, địa phương có sớm hơn mọi năm, nhưng việc chuẩn bị các dự án đầu tư làm chậm và thiếu chủ động nên việc triển khai phần giao kế hoạch vốn đầu tư cho các dự án cụ thể, nhất là các công trình thuộc nhóm B, C gặp khó khăn và quá chậm; tiến độ thực hiện kế hoạch đầu tư đạt thấp: Theo báo cáo ước thực hiện khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách nhà nước trong 8 tháng đầu năm khoảng 5.029 tỷ đồng, bằng 55,3% kế hoạch giao. Khối lượng thực hiện đã thấp nhưng vốn ngân sách thanh toán cũng chỉ được 4.200 tỷ đồng, bằng 46% kế hoạch cả năm, trong đó, vốn ngoài nước theo các dự án về chậm. Mặc dù, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo thanh toán dứt điểm nợ khối lượng đã hoàn thành năm 1995 (khoảng 1.800 tỷ đồng); nhưng tiến độ thanh toán khối lượng năm 1996 đạt thấp trước hết là do thu ngân sách, nhất là ngân sách địa phương những tháng đầu năm gặp khó khăn, mặt khác, do không đủ điều kiện để cấp phát vốn thanh toán, thậm chí, có trường hợp khi được ghi kế hoạch vốn mới chạy lo các thủ tục theo quy định.
Một vấn đề nổi lên là vốn ngân sách dành cho đầu tư xây dựng cơ bản còn hạn hẹp nhưng việc bố trí danh mục công trình đầu tư nhất là chương trình thuộc nhóm B, C vẫn còn tình trạng dàn trải, thiếu tập trung dứt điểm, thi công kéo dài gây lãng phí, thất thoát, kém hiệu quả.
Đối với một số chương trình đã thi công có khối lượng vượt kế hoạch 1995 mà chưa vượt tổng dự toán được duyệt nhưng không ghi chuyển tiếp kế hoạch năm 1996, đề nghị Chính phủ, các ngành, các cấp cũng cần quan tâm và có giải pháp tìm nguồn xử lý dứt điểm để sớm đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả.
Về tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản năm 1996, tổng hợp yêu cầu của các Bộ, ngành, địa phương tới trên 18.000 tỷ đông. Tình trạng thông báo kế hoạch vốn tín dụng đầu tư quá chậm vẫn chưa được khắc phục. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho đến nay đã thông báo cho các đối tượng được vay 4.400 tỷ đồng và dự kiến khả năng sẽ huy động vốn bổ sung thêm để cố gắng đạt mức dự tính kế hoạch năm 1996 khoảng 6.000 tỷ đồng; tuy so với kế hoạch năm 1995 tăng khá nhưng chỉ đáp ứng khoảng 1/3 nhu cầu chung.
Ủy ban chúng tôi nhất trí cho rằng, trong điều kiện nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước còn quá hạn hẹp thì chủ trương đầu tư bằng nhiều nguồn vốn khác nhau là đúng đắn và cần thiết, Nhà nước chỉ cho vay hỗ trợ trong một số trường hợp nhất định cùng với việc ban hành cơ chế vay và hoàn trả tín dụng của doanh nghiệp; đồng thời, khuyến khích các ngân hàng thương mại huy động vốn bằng các hình thức thích hợp để đẩy mạnh tín dụng trung và dài hạn đi đôi với giảm lãi suất cho vay trên cơ sở đã bỏ thuế doanh thu và giảm các chi phí quản lý, dịch vụ và lợi tức hoạt động tín dụng ngân hàng. Việc bố trí và phân bổ vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước phải cân nhắc kỹ, cần tập trung cho các công trình cấp thiết, bảo đảm có hiệu quả thật sự, lưu ý đến các vùng khó khăn, kinh tế kém phát triển; trước hết, cần ưu tiên cho các công trình chuyển tiếp đã cho vay mà các điều kiện đảm bảo vững chắc, xác định rõ hiệu quả để sớm hoàn thành dứt điểm đưa chương trình vào sử dụng, tránh kéo dài, gây lãng phí, thất thoát.
g) Từ đầu năm đến nay, ngân hàng đã hạ trần lãi suất cho vay 4 lần, đến tháng 10 năm 1996 xuống còn 1,25%/tháng đối với vốn cho vay ngắn hạn và 1,35%/tháng đối với vốn cho vay trung và dài hạn. Với mức độ lạm phát hiện nay thì lãi suất đó vẫn còn cao, các doanh nghiệp cũng khó có thể sản xuất - kinh doanh có lãi và có tình trạng phát sinh mâu thuẫn là ở một số ngân hàng thương mại quốc doanh thừa vốn ngắn hạn trong khi nhu cầu về vốn tín dụng trung, dài hạn của nền kinh tế lại thiếu nghiêm trọng.
Tình hình các ngân hàng nhận bảo lãnh và quản lý việc vay trả chậm, nhất là hàng tiêu dùng còn có sơ hở, công tác kiểm tra, kiểm soát tín dụng thiếu chặt chẽ cùng với việc hạch toán kế toán và báo cáo tài chính công khai ở các ngân hàng thương mại chưa tốt nên đã gây ra thất thoát vốn lớn, tỷ lệ dư nợ quá hạn vẫn còn ở mức cao đáng lo ngại.
Ủy ban chúng tôi cho rằng, để góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn của nền kinh tế, cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tín dụng ngân hàng, tăng nhanh vốn tín dụng trung và dài hạn; tiếp tục thực hiện việc giảm lãi suất cho vay trên cơ sở phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn huy động, cần có biện pháp tích cực, đồng bộ để giải phóng nguồn vốn dôi thừa hiện nay ở các ngân hàng thương mại quốc doanh đi đôi với việc điều hành hợp lý hạn mức tín dụng, mở rộng thị trường vốn, trước hết là các hình thức tín phiếu, trái phiếu ngân hàng, kho bạc nhà nước... Đồng thời, cần tính toán kỹ lại cơ cấu các nguồn vốn huy động và cho vay, nhất là các nguồn vốn với lãi suất cao đã đến hạn thanh toán. Mặt khác, cần có các biện pháp tích cực giảm chi phí hoạt động tín dụng ngân hàng để tiếp tục giảm lãi suất cho vay. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ đối với các ngân hàng thương mại, có biện pháp xử lý nghiêm và ngăn chặn bằng được các hiện tượng tiêu cực làm thất thoát tiền bạc của Nhà nước trong ngành Ngân hàng.
h) Cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật tuy đã được cải thiện một bước nhưng chưa đáp ứng so với yêu cầu mới. Hiệu lực quản lý nhà nước vẫn chưa nghiêm, kỷ cương phép nước chưa thực sự được tôn trọng. Việc cải cách hành chính, kiện toàn tổ chức chính quyền các cấp vẫn chưa có tiến triển đáng kể. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng tuy đã được phát động, nhưng chưa thực sự đem lại kết quả, chủ yếu do các biện pháp triển khai thực hiện chưa đồng bộ, xử lý thiếu kiên quyết. Mặt trận chống buôn lậu tuy đã đạt một số kết quả bước đầu, nhưng tình trạng buôn lậu vẫn còn phổ biến và có xu hướng ngày càng gia tăng, tinh vi và nghiêm trọng hơn.
II- VỀ KẾ HOẠCH 5 NĂM 1996-2000
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1997
1. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã thông qua “Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000”, trong đó vừa đề ra những phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu tổng hợp, những giải pháp lớn, vừa chỉ ra những nhiệm vụ, chỉ tiêu, biện pháp cụ thể. Giai đoạn từ nay đến năm 2000, là bước rất quan trọng của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ trong thời kỳ này là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ mọi thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau.
Để thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu và phương hướng chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000, Ủy ban chúng tôi cơ bản tán thành với phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chỉ tiêu chủ yếu và những giải pháp trong báo cáo của Chính phủ và xin nhấn mạnh thêm một số vấn đề:
- Xúc tiến khẩn trương việc xây dựng quy hoạch phát triển ngành kinh tế - kỹ thuật cụ thể gắn với quy hoạch phát triển các vùng kinh tế, các khu vực kinh tế trọng điểm, các địa phương trong cả nước, làm cơ sở để xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển dài hạn, trung hạn, dự báo và đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế, các chính sách và giải pháp lớn về phân bổ nguồn lực để phát triển.
- Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là khâu có tính chất quyết định bảo đảm yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, phải tiếp tục nghiên cứu để sớm bổ sung hoàn thiện các cơ chế chính sách nhằm bảo đảm lợi ích lâu dài của các nhà đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư vào sản xuất - kinh doanh. Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức huy động vốn đầu tư và có cơ chế, chính sách thích hợp để quản lý và sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả, trước hết là nguồn vốn thuộc kinh tế nhà nước. Tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa, đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư với những bước đi thích hợp, cụ thể với từng vùng, từng địa phương, từng lĩnh vực nhằm động viên các nguồn lực của toàn xã hội, toàn dân chăm lo xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển sự nghiệp văn hóa - xã hội.
- Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng cơ chế chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, trước hết là đối với các doanh nghiệp nhà nước, các loại hình kinh tế hợp tác doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật đối với các thành phần kinh tế. Có cơ chế và chính sách thích hợp để định hướng và điều chỉnh hiệu quả quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Tiếp tục xây dựng chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, trước hết là cải cách hệ thống chính sách thuế và triển khai thực hiện có hiệu quả Luật ngân sách nhà nước cùng với việc ban hành các chính sách huy động vốn, chính sách tài chính doanh nghiệp, chính sách đầu tư, chính sách tiền tệ và tín dụng nhằm nâng cao vai trò, hiệu quả sử dụng công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước.
- Tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế, sửa đổi, bổ sung các luật thuế, cải tiến việc ban hành văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành, bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán và tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật.
- Đẩy mạnh cải cách cơ bản thủ tục hành chính. Thực hiện việc sắp xếp và kiện toàn bộ máy hành chính ở Trung ương và địa phương. Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, thiết lập lại trật tự, kỷ cương. Ban hành quy chế công chức và chế độ công vụ, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng và trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Trên cơ sở kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, đề nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo triển khai với những giải pháp và bước đi cụ thể trên phạm vi cả nước cũng như trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương bảo đảm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra.
2. Năm 1997, là năm đầu triển khai sâu rộng Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và là năm thứ hai của kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, hướng tới đạt và vượt mức các mục tiêu, chỉ tiêu theo những chương trình và lĩnh vực phát triển mà Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã đề ra. Năm 1997, là năm có nhiều thuận lợi và thời cơ mới nhưng cũng còn nhiều thách thức và khó khăn gay gắt. Vì vậy, nhiệm vụ của năm 1997 là phải tiếp tục duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định, có chất lượng và hiệu quả hơn đi đôi với việc giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, trong đó, tập trung thích đáng cho nhu cầu giáo dục - đào tạo, phát triển kinh tế - xã hội miền núi và các vùng còn khó khăn, bảo đảm an ninh - quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, tăng thêm tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
3. Về các chỉ tiêu của năm 1997, sau khi xem xét, thảo luận, Ủy ban chúng tôi nhất trí với dự kiến về tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 1997 tăng 9-10%; giá trị sản lượng nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,6-4,9%, trong đó, sản lượng lương thực quy thóc 29 triệu tấn; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14-14,5%; giá trị các ngành dịch vụ tăng 12-12,5%; kim ngạch xuất khẩu tăng 27%.
Để đạt được tốc độ tăng trưởng nông, lâm, ngư nghiệp ở mức 4,6-4,9%, bên cạnh việc tiếp tục đổi mới cơ chế và chính sách đòn bẩy trong nông nghiệp, chú trọng đầu tư cải tạo và nâng cấp kết cấu hạ tầng, đầu tư chiều sâu, thực hiện chuyển giao công nghệ, đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào phục vụ sản xuất nông nghiệp, chú trọng phát triển công nghiệp chế biến gắn với phát triển vùng nguyên liệu; cần có một giải pháp đồng bộ hỗ trợ cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; có chính sách ổn định mặt bằng giá lương thực và vật tư nông nghiệp (trước hết là phân bón, thuốc trừ sâu...), đẩy mạnh công tác khuyến nông, hướng dẫn giúp đỡ nông dân sử dụng các loại cây trồng, vật nuôi có chất lượng cao, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
Về sản xuất công nghiệp, để đạt được tốc độ tăng trưởng 14-14,5%, trước hết, cần tập trung phát triển ổn định và vững chắc các ngành công nghiệp mũi nhọn đang gặp khó khăn hiện nay như điện, than, khai thác dầu khí, luyện cán thép, xi măng, dệt may..., trên cơ sở đánh giá đúng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; cần có kế hoạch cân đối giữa khả năng sản xuất trong nước và yêu cầu nhập khẩu theo hướng bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước và từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trong nước trên thị trường nội địa và quốc tế. Ngoài ra, cần tiếp tục đầu tư chiều sâu có chọn lọc để nhanh chóng đổi mới thiết bị - công nghệ, nhất là đối với các ngành định hướng xuất khẩu, tạo điều kiện từng bước vươn lên cạnh tranh với hàng ngoại nhập và tăng kim ngạch xuất khẩu.
Tiếp tục giữ ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát một cách hợp lý theo hướng chỉ số tăng giá cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng năm 1997 ở mức dưới 10%. Muốn vậy, cần dự kiến những yếu tố có khả năng tác động làm tăng mặt bằng giá như việc điều chỉnh giá một số mặt hàng như điện, xăng dầu..., tăng giá nông phẩm (trước hết là lúa gạo) để từ đó có chính sách điều chỉnh hợp lý cơ cấu mặt bằng giá cả. Kiểm soát mặt bằng giá đối với các mặt hàng có yếu tố độc quyền, kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các trường hợp đầu cơ nâng giá thu lợi bất chính. Tiếp tục có các biện pháp kiểm soát và điều tiết tổng phương tiện thanh toán. Việc sử dụng tiền cung ứng tăng thêm cho mua ngoại tệ bổ sung Quỹ điều hòa cũng cần cân nhắc thận trọng, đồng thời, khuyến khích các ngân hàng thương mại đẩy mạnh hoạt động về lĩnh vực ngoại tệ để bảo đảm đáp ứng cho hoạt động xuất, nhập khẩu. Phải quản lý và kiểm soát chặt chẽ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, xử lý kịp thời và nghiêm khắc những hành vi tiêu cực trong tín dụng; đồng thời, có những giải pháp điều hành linh hoạt, mềm dẻo và kịp thời hạn mức tín dụng đối với từng ngân hàng thương mại.
4. Về các chủ trương và giải pháp lớn, Ủy ban chúng tôi xin nhấn mạnh một số điểm sau đây:
a) Tiếp tục tập trung chỉ đạo và có biện pháp đồng bộ để thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó chú trọng đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức lại và đổi mới quản lý hợp tác xã, khuyến khích và hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình.
Trên cơ sở Luật doanh nghiệp nhà nước, sớm ban hành đồng bộ các văn bản dưới Luật, tiếp tục hoàn thành việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, phân loại rõ các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích. Cần sớm có chủ trương và biện pháp xử lý dứt điểm việc thanh toán công nợ giai đoạn II để tạo điều kiện làm lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp; đồng thời, kiên quyết xử lý dứt điểm đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thua lỗ kéo dài bằng cách cho giải thể, sáp nhập, chuyển hình thức sở hữu thích hợp hoặc tuyên bố phá sản... Sớm có giải pháp cụ thể để triển khai việc cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước, đồng thời, mở rộng các hình thức liên doanh với trong và ngoài nước. Trên cơ sở xác định rõ vai trò, chức năng, yêu cầu và đặc điểm hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước mà quy định cụ thể về tỷ lệ nắm giữ vốn và quyền kiểm soát của kinh tế nhà nước trong các công ty cổ phần và công ty liên doanh.
Sớm hoàn thành việc rút kinh nghiệm về mô hình tổ chức và hoạt động của các tổng công ty nhà nước theo Nghị định 91/CP và các tổng công ty được thành lập theo Nghị định 90/CP của Chính phủ. Cần làm rõ vai trò của hội đồng quản trị trong các tổng công ty, xác định rõ mối quan hệ giữa hội đồng quản trị và tổng giám đốc, giám đốc; giữa tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên, giữa hội đồng quản trị và các cơ quan quản lý nhà nước. Cần sớm làm rõ cơ chế quản lý, phân phối và sử dụng vốn trong tổng công ty. Trên cơ sở rút kinh nghiệm, đánh giá đúng mức hiệu quả hoạt động, Chính phủ nghiên cứu việc tổ chức lại các tổng công ty; thành lập mới các tổng công ty thực sự có nhu cầu vì lợi ích của Nhà nước, vì lợi ích của tổng công ty và mỗi xí nghiệp thành viên và có khả năng đem lại hiệu quả thiết thực, giải thể các tổng công ty chỉ mang tính hình thức và không có hiệu quả.
Cần sớm triển khai và sơ kết bước đầu việc tổ chức lại, đổi mới phương thức hoạt động của các loại hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ, tín dụng theo các quy định của Luật hợp tác xã.
b) Đổi mới hơn nữa chính sách tín dụng - tiền tệ. Điều chỉnh lãi suất huy động và lãi suất cho vay hợp lý, thực hiện giảm lãi suất cho vay; tăng cường vốn tín dụng trung và dài hạn. Đồng thời, cần chấn chỉnh và phát triển mạng lưới Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng phục vụ người nghèo ... Mặt khác, cần cải tiến các quy định về thế chấp, về bảo lãnh cho phù hợp để vừa bảo đảm đáp ứng cung cấp tín dụng đến các nơi có nhu cầu vay vốn để kinh doanh bảo đảm có hiệu quả, có khả năng trả được nợ; vừa tránh được rủi ro trong hoạt động cho vay. Cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn trên cơ sở mở rộng các hình thức phát hành các loại tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu có sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước đi đôi với việc hình thành và phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán ở nước ta.
c) Tiếp tục mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, đổi mới cơ chế quản lý xuất, nhập khẩu, tăng cường hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu trên cơ sở tăng cường hạch toán kinh doanh, chủ động tìm đối tác tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu, bảo đảm hoạt động có hiệu quả. Cần hạn chế nhập siêu, nhất là hàng tiêu dùng, hạn chế tối đa việc nhập những mặt hàng mà trong nước đã sản xuất đủ bảo đảm đáp ứng nhu cầu trong nước.
Tích cực triển khai các biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời cần chấn chỉnh công tác quản lý, tăng cường sự phối hợp kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ đối với các công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm bảo đảm hoạt động có hiệu quả thật sự và tuân thủ nghiêm túc pháp luật Việt Nam.
d) Tiếp tục sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội cùng với việc tiếp tục cải cách hành chính, kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, giữ vững kỷ cương phép nước. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế, bảo đảm đồng bộ, nhất quán để tạo môi trường pháp lý ổn định và thuận lợi cho sản xuất - kinh doanh. Phát động rộng rãi trong toàn xã hội cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu; thanh lọc và xử lý nghiêm minh những phần tử thoái hóa biến chất, trước hết là trong bộ máy nhà nước và trong các doanh nghiệp nhà nước.
PHẦN THỨ HAI
VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I- VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1996
Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa IX đã thông qua dự toán ngân sách nhà nước năm 1996 với:
Tổng số thu: 62.000 tỷ đồng.
Tổng số chi: 70.400 tỷ đồng.
Mức thiếu hụt ngân sách nhà nước: 8.400 tỷ đồng.
Ngay sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội đã cùng với Chính phủ (trực tiếp là Bộ Tài chính) triển khai phân bổ dự toán ngân sách nhà nước năm 1996. Sau khi phương án phân bổ ngân sách đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, nhất trí thông qua; Chính phủ đã giao chính thức nhiệm vụ thu chi ngân sách cho các Bộ, ngành Trung ương và các địa phương ngay từ cuối tháng 12 năm 1995.
Trong quá trình thực hiện ngân sách nhà nước, Ủy ban chúng tôi cũng đã cử các đoàn công tác đi giám sát tại một số Bộ, ngành, địa phương về việc phân bổ và tình hình thực hiện ngân sách nhà nước. Định kỳ hàng quý, 6 tháng, Thường trực Ủy ban đều tổ chức họp để nghe Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thuế..., báo cáo về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước, đồng thời lưu ý Chính phủ về những vấn đề cần quan tâm trong điều hành thực hiện ngân sách.
Đến nay trên cơ sở thực hiện 9 tháng, Chính phủ dự kiến khả năng ngân sách nhà nước cả năm 1996 như sau:
- Tổng số thu ước đạt 59.810 tỷ đồng, bằng 96,5% dự toán cả năm Quốc hội thông qua (giảm 2.190 tỷ đồng), tăng 12,1% so với thực hiện năm 1995; trong đó, thu thuế và phí nội địa ước đạt 40.530 tỷ đồng, vượt 0,1% kế hoạch năm và tăng 11,5% so với thực hiện năm 1995.
- Tổng số chi ước thực hiện 68.210 tỷ đồng, đạt 96,9% dự toán cả năm (giảm 2.190 tỷ đồng) tăng 8,8% so với thực hiện năm 1995; trong đó, chi đầu tư phát triển ước đạt 15.188 tỷ đồng, bằng 97,4% dự toán Quốc hội thông qua.
- Mức thiếu hụt ngân sách nhà nước: 8.400 tỷ đồng, bằng mức Quốc hội cho phép, chiếm khoảng 3% GDP.
Qua thảo luận, Ủy ban chúng tôi thấy còn nhiều vấn đề nổi lên trong quá trình lập dự toán và điều hành ngân sách nhà nước năm 1996, cần rút kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện những tháng cuối năm và kế hoạch năm 1997.
1. Việc lập dự toán ngân sách nhà nước thiếu cơ sở vững chắc, ước thực hiện năm trước không sát thực tế vẫn là vấn đề còn tồn tại từ nhiều năm nay, đã gây căng thẳng cho ngân sách nhà nước, dẫn đến những khó khăn, lúng túng trong điều hành ngân sách ở các ngành, các cấp; thể hiện rõ nhất là thuế xuất, nhập khẩu, khi xây dựng kế hoạch ở lĩnh vực này đã tiềm ẩn yếu tố hụt thu do chưa nắm chắc được tình hình xuất, nhập khẩu, dự toán thu còn mang tính chất ước tính theo kinh nghiệm, chưa có sự kết hợp chặt chẽ, kịp thời trong việc đánh giá chung giữa các ngành hữu quan, không dự tính được đầy đủ việc thay đổi về cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, về giá tính thuế, về giãn nợ thuế..., đã làm hụt thu đáng kể trong quá trình thực hiện.
Bên cạnh đó, một số khoản chi mới phát sinh hoặc chưa dự kiến hết trong dự toán đầu năm trong khi thu bị hụt, khoản dự phòng trong ngân sách nhà nước quá mỏng nên trong điều hành luôn lúng túng, bị động. Mặt khác, cơ chế quản lý ngân sách chưa được đổi mới để khuyến khích phát huy tính chủ động của các ngành, địa phương và cơ sở tích cực chăm lo tạo nguồn thu, tăng thu và tiết kiệm chi cho ngân sách nhà nước.
2. Về thu ngân sách nhà nước: Dự kiến cả năm hụt 2.190 tỷ đồng so với dự toán Quốc hội thông qua. Cho đến 30 tháng 9 năm 1996, số thu ngân sách nhà nước mới đạt 63,3% kế hoạch và hầu hết các nguồn thu lớn của ngân sách nhà nước từ hoạt động kinh tế đều đạt thấp so với kế hoạch cả năm: thu từ khu vực kinh tế quốc doanh mới đạt 61,1% cả năm ước hụt 940 tỷ đồng. Thu thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh chỉ đạt 57,9% và cả năm ước hụt 350 tỷ đồng. Thu thuế xuất, nhập khẩu cũng chỉ mới đạt 58,7% và theo tính toán của Tổng cục Hải quan thì cả năm phấn đấu cũng chỉ được 16.000 tỷ đồng, hụt 2.000 tỷ đồng so với kế hoạch cả năm - Đây sẽ là nguồn thu hụt lớn nhất, gây căng thẳng trực tiếp cho ngân sách trung ương. Thu về giao quyền sử dụng đất vẫn đạt thấp, 9 tháng đầu năm, mới thu được 443 tỷ đồng, bằng 26,1% kế hoạch năm và theo ước tính của Bộ Tài chính thì cả năm chỉ đạt khoảng 1.235 tỷ đồng, hụt 465 tỷ đồng; thu về xổ số kiến thiết cũng chỉ đạt 58,6% so với kế hoạch và ước cả năm hụt 200 tỷ đồng... Các khoản thu này sẽ ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện kế hoạch đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của các địa phương.
Tình hình trên cho thấy, nhiệm vụ thu còn lại 3 tháng cuối năm rất nặng, số dự tính thu 3 tháng cuối năm còn phải đạt 20.573 tỷ đồng, bằng 52,43% số đã thu 9 tháng đầu năm, trong đó, thu từ kinh tế quốc doanh bằng 54,5%, thu thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh bằng 60,63%; thu thuế xuất, nhập khẩu bằng 51,41% và tính bình quân mỗi tháng cuối năm còn phải thu khoảng 6.857 tỷ đồng, gấp hơn 1,57 lần số đã thu bình quân hàng tháng của 9 tháng qua. Đây là một khó khăn và thử thách lớn, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo điều hành kiên quyết của Chính phủ và các địa phương, phải tăng cường mạnh mẽ các biện pháp quản lý sát sao, thường xuyên tập trung lực lượng kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, chống buôn lậu, chống thất thu quyết liệt hơn, tập trung đi sâu vào quản lý các ngành hàng, từng loại hàng, thu dứt điểm các khoản thuế phát sinh và các khoản còn nợ đọng, kể cả áp dụng biện pháp cưỡng chế thu thì mới đạt được số thu như ước tính.
3. Về chi ngân sách nhà nước: Do thu đạt thấp và bị hụt lớn, nên chi ngân sách nhà nước cũng bị hạn chế. Tổng số chi ngân sách nhà nước 9 tháng đầu năm mới đạt 60,9% dự toán cả năm và ước thực hiện cả năm 68.210 tỷ đồng, giảm 2.190 tỷ đồng so với dự toán chi năm 1996 đã được Quốc hội thông qua. Một số khoản chi như: chi đầu tư xây dựng cơ bản ước thực hiện cả năm đạt 96,9% kế hoạch; chi trợ giá các mặt hàng chính sách, các chương trình mục tiêu quốc gia tuy 9 tháng đầu năm đạt còn thấp nhưng ước cả năm vẫn bảo đảm cấp đủ 100% dự toán cho các mục tiêu này. Trong khi đó, một số khoản chi như chi quản lý hành chính nhà nước 9 tháng đã đạt 69,4% và ước cả năm vượt gần 10% dự toán đầu năm (tăng 455 tỷ đồng); chi khác ngân sách cũng đã đạt 68,8% và ước cả năm cũng vượt 27,5% (tăng 88 tỷ đồng). Một vấn đề nổi lên là, trong lúc ngân sách nhà nước khó khăn, bố trí chỉ thực hiện các nhiệm vụ còn hạn chế thì tình trạng để thất thoát, chi tiêu lãng phí, chưa thực sự cấp bách (mua sắm phương tiện ô tô đắt tiền, mua sắm trang thiết bị, chi hội họp, lễ kỷ niệm, hội thảo, tiếp khách quá mức cần thiết...) vẫn còn xảy ra khá phổ biến trong khi chi đầu tư phát triển vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, vốn ngân sách còn hạn hẹp nhưng tình trạng sắp xếp, bố trí danh mục công trình vẫn còn dàn trải, chưa tập trung dứt điểm, thi công kéo dài, công trình chuyển tiếp ngày càng tăng, gây thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả.
Số ước chi cả năm 1996 cũng dựa trên số ước thu nhưng một số nguồn thu bị hụt nhiều nên trong điều hành của Chính phủ theo hướng chủ động cắt giảm bớt một số khoản chi chưa thật cấp thiết; vẫn bảo đảm tiền lương và có tính chất lương, bổ sung chi đột xuất khắc phục hậu quả thiên tai và một số khoản chi cấp thiết phát sinh mà đầu năm chưa dự toán đủ. Chúng tôi thấy còn có khả năng từ nay đến cuối năm cố gắng tìm các biện pháp tiếp tục tăng thu thêm trong các lĩnh vực xuất, nhập khẩu, kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh, các khoản thu về đất..., để không nợ vốn cấp phát đầu tư xây dựng cơ bản, bổ sung chi quốc phòng và tạo nguồn hình thành dần quỹ dự trữ tài chính. Mặt khác cũng thấy rằng, nếu không có những giải pháp hữu hiệu, kiên quyết để đạt được số ước thu như dự kiến, nhất là các khoản thu về thuế xuất, nhập khẩu, thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh, thu giao quyền sử dụng đất..., thì sẽ không bảo đảm các nhiệm vụ đề ra, nợ thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản đã hoàn thành sẽ tăng lên, ảnh hưởng lớn đến các năm sau.
- Về thiếu hụt ngân sách nhà nước: dự kiến cả năm bằng mức Quốc hội cho phép 8.400 tỷ đồng (chiếm 3% GDP). Đây là mức thiếu hụt ngân sách nhà nước dựa trên cơ sở ước thu, ước chi như trên, trong đó vẫn còn những yếu tố chưa thật vững chắc vì còn tùy thuộc vào kết quả phấn đấu thực hiện từ nay đến cuối năm. Vì vậy, nếu không có những biện pháp xử lý kiên quyết, kể cả thu và chi ngân sách thì sẽ tiếp tục để lại hậu quả nặng nề cho năm sau và ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, nhất là trong lĩnh vực đầu tư phát triển.
II- VỀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1997
Theo báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội phương án dự toán ngân sách nhà nước năm 1997 với:
Tổng số thu ngân sách nhà nước: 67.120 tỷ đồng
Tổng số chi ngân sách nhà nước: 78.820 tỷ đồng
Số thiếu hụt ngân sách nhà nước: 11.700 tỷ đồng, chiếm khoảng 3,5% GDP.
Ủy ban chúng tôi có một số ý kiến trình Quốc hội xem xét về dự toán ngân sách nhà nước năm 1997 như sau:
1. Năm 1997, là năm đầu tiên triển khai Luật ngân sách nhà nước, tạo điều kiện để quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng ngân sách nhà nước lành mạnh, giúp các địa phương khai thác có hiệu quả các nguồn thu và chủ động bố trí kế hoạch chi ngân sách. Ủy ban kinh tế và ngân sách nhất trí những nhận định về thuận lợi, khó khăn và những nhiệm vụ đặt ra cho năm 1997 và cũng tán thành với những quan điểm, nguyên tắc chủ yếu trong bố trí ngân sách nhà nước năm 1997 như báo cáo của Chính phủ.
2. Trên cơ sở rút kinh nghiệm của năm 1996 và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội năm 1997, Ủy ban chúng tôi xin lưu ý một số điểm sau:
a) Cần đi sâu phân tích rút kinh nghiệm việc lập dự toán cũng như việc điều hành ngân sách nhà nước các năm trước, đặc biệt là năm 1996. Việc cân đối ngân sách nhà nước năm 1997 phải trên cơ sở rà soát kỹ các nguồn thu, kể cả các nguồn vay để bù đắp thiếu hụt ngân sách. Chính phủ cần quan tâm chỉ đạo các ngành, các cấp trong việc phối hợp thực hiện các biện pháp đồng bộ, kiên quyết, có kết quả hơn trong công tác chống buôn lậu, chống thất thu, đặc biệt trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu, khu vực kinh tế công thương nghiệp ngoài quốc doanh. Cần rà soát kỹ lại kim ngạch và cơ cấu xuất, nhập khẩu đối với từng nhóm mặt hàng; tổ chức tốt hơn nữa mạng lưới thông tin trong hoạt động xuất, nhập khẩu để đáp ứng kịp thời việc điều chỉnh giá tính thuế và thuế suất, tạo điều kiện tăng thu và bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, góp phần bảo đảm đáp ứng cung - cầu vật tư hàng hóa cho sản xuất và tiêu dùng cần thiết trong nước. Như vậy, chúng ta sẽ khắc phục được những thiếu sót, phát huy những mặt tích cực để có được dự toán ngân sách nhà nước phù hợp với thực tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm 1997 và những năm tiếp theo.
b) Theo phương án dự toán thu ngân sách nhà nước năm 1997: dự kiến 67.120 tỷ đồng, tăng 12,2% so với ước thực hiện năm 1996. Nhìn vào tốc độ tăng thu qua từng năm thì năm sau giảm dần so với năm trước (1994/1993: 30%, 1995/1994: 28%; 1996/1995: 12,1%; 1997/1996: 12,2%). Nhiều ý kiến trong Ủy ban chúng tôi cho rằng, khi nền kinh tế đã đi dần vào ổn định và tiếp tục phát triển thì tốc độ tăng thu ngân sách không thể có đột biến. Tuy nhiên, năm 1997, theo kế hoạch dự kiến với tốc độ tăng trưởng kinh tế 9-10%, mức độ kiềm chế lạm phát dưới 10%; hơn nữa, thực trạng hiện nay vẫn còn thất thu, nhất là trong lĩnh vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh, xuất - nhập khẩu, phí và lệ phí, các khoản thu về đất..., thì còn có khả năng tăng thu hơn nếu có các biện pháp quyết liệt chống buôn lậu, chống thất thu, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội. Theo chúng tôi, với tốc độ tăng thu theo dự toán ngân sách năm 1997 so với ước thực hiện năm 1996, khoảng 12% là có tính khả thi hợp lý, tập trung vào các lĩnh vực kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xuất, nhập khẩu... Tình trạng thu để ngoài ngân sách còn xảy ra ở một số ngành, địa phương, đề nghị Chính phủ chỉ đạo tiến hành kiểm soát chặt chẽ hơn nữa, có biện pháp xử lý kịp thời nhằm bảo đảm phản ánh hết các khoản thu vào ngân sách nhà nước, tạo nguồn bổ sung vốn đầu tư và đáp ứng nhu cầu phát triển các sự nghiệp kinh tế - xã hội mà khả năng ngân sách bố trí còn hạn hẹp.
Điều quan trọng là phải lập lại kỷ cương trong nền kinh tế, nhất là việc chấp hành nghiêm chỉnh chế độ hạch toán kế toán, chứng từ, hóa đơn; cần xử phạt nghiêm minh trong việc không thực hiện Pháp lệnh kế toán và thống kê để trốn lậu thuế.
c) Theo phương án dự toán chi ngân sách nhà nước năm 1997: dự kiến 78.820 tỷ đồng, bằng 115,6% số ước thực hiện năm 1996. Trong đó, chi đầu tư phát triển 17.730 tỷ đồng, bằng 116,7% số ước thực hiện năm 1996 và chiếm 22,5% tổng số chi ngân sách nhà nước; chi trả nợ 12.180 tỷ đồng, bằng 101,5% và chiếm 15,45%; chi thường xuyên 44.130 tỷ đồng, bằng 110,3% và chiếm 55,98% (nếu tính cả 2.500 tỷ đồng dự kiến dành giải quyết một bước về tiền lương và 1.900 tỷ đồng quỹ dự phòng thì chiếm 61,5%).
Qua số liệu các năm cho thấy, tốc độ tăng chi đầu tư phát triển ngày càng giảm, trong khi đó chi thường xuyên có xu hướng ngày càng lớn. Ủy ban chúng tôi cho rằng, trong quá trình tổ chức thực hiện, Chính phủ cần tìm biện pháp tăng thu thêm để bảo đảm có nguồn bổ sung thêm cho đầu tư xây dựng cơ bản trong năm 1997, tạo điều kiện từng bước tập trung giải quyết dứt điểm những công trình chuyển tiếp sớm đưa vào sử dụng và có các công trình cần thiết gối đầu cho những năm sau; đồng thời, cũng có phần dành bổ sung thêm cho quốc phòng - an ninh và tăng thêm cho quỹ dự phòng còn quá mỏng.
Trong tình hình ngân sách nhà nước khó khăn như hiện nay, Ủy ban chúng tôi cho rằng, ngân sách nhà nước năm 1997 chỉ nên tập trung đầu tư cho các công trình quan trọng, những dự án khả thi cao. Trước hết, vẫn phải ưu tiên đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng như các công trình giao thông, thủy lợi, v.v., đi đôi với việc quan tâm hơn công tác khuyến nông - lâm - ngư nghiệp gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. Mặt khác, chú trọng bố trí thỏa đáng chi cho khai thác đất trống, đồi núi trọc, giải quyết việc làm..., đồng thời, vẫn phải bảo đảm mức cần thiết cho quốc phòng - an ninh. Đối với những lĩnh vực sự nghiệp gắn với xã hội, cần có cơ chế chính sách phù hợp cũng như tìm phương thức với bước đi thích hợp với từng vùng, từng địa phương, từng lĩnh vực để từng bước huy động nguồn tài chính của toàn xã hội (xã hội hóa) cùng với ngân sách nhà nước bảo đảm đáp ứng những nhu cầu phát triển ngày càng đòi hỏi tăng lên.
Tiền lương hiện nay đang là vấn đề bức xúc, gay gắt nhất, đặc biệt là các đối tượng có mức lương thấp trong khu vực hành chính - sự nghiệp và những người về hưu. Lương thực tế ước tính đến nay chỉ bằng khoảng 70% so với năm 1993 là thời điểm thực hiện chế độ lương mới. Trước mắt, để đảm bảo ổn định xã hội, giảm bớt khó khăn về đời sống, nhất là những người lương thấp; đề nghị Chính phủ đưa ra phương án cụ thể phù hợp với khả năng của ngân sách để trình Quốc hội xem xét quyết định.
3. Ủy ban chúng tôi tán thành với những biện pháp thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 1997 như đã thể hiện trong báo cáo của Chính phủ và xin nhấn mạnh một số điểm:
a) Tập trung khai thác tốt hơn các nguồn thu và triển khai mạnh mẽ công tác chống buôn lậu, chống thất thu thuế, kể cả hàng nhập lậu đã đi vào thị trường nội địa; đồng thời, phải quản lý chặt chẽ nguồn thu, mọi khoản thu đều phải phản ánh đầy đủ vào ngân sách nhà nước.
Cùng với việc khẩn trương ban hành các văn bản pháp quy cụ thể hóa Luật doanh nghiệp nhà nước để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động phát triển sản xuất - kinh doanh, chống thất thoát vốn và tài sản, tự tạo vốn đầu tư phát triển, cần chấn chỉnh công tác quản lý tài chính trong các loại hình doanh nghiệp, đẩy mạnh việc áp dụng chế độ kế toán mới, tăng cường hạch toán, chú trọng hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ đối với các doanh nghiệp, kể cả các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài cũng như khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, bảo đảm thu đúng, thu đủ thuế theo luật định. Mặt khác, cần quan tâm hơn các biện pháp kiểm tra, kiểm soát tất cả các đối tượng có thu nhập cao phải nộp thuế thu nhập trong các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan, kể cả cơ quan ngoại giao, tổ chức đại diện nước ngoài tại Việt Nam vì tình trạng hiện nay còn để thất thu quá lớn.
b) Sớm bổ sung các cơ chế và có biện pháp hữu hiệu trong việc quản lý chi tiêu ngân sách nhà nước, bảo đảm chi đúng mục đích, chế độ, có hiệu quả và thực hiện nghiêm ngặt tiết kiệm trong chi tiêu, kể cả trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản cũng như trong chi thường xuyên. Phải tính toán thận trọng, chặt chẽ nguồn bảo đảm trước khi ban hành các chế độ, chính sách mới có liên quan đến tăng chi ngân sách nhà nước. Đồng thời, thực hiện kiểm tra, kiểm soát các khoản chi ngân sách nhà nước nghiêm ngặt, không cấp chi các khoản ngoài kế hoạch, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp lạm dụng chi sai mục đích, chế độ hoặc làm thất thoát tài sản nhà nước.
c) Năm 1997, là năm đầu thực hiện Luật ngân sách nhà nước. Để bảo đảm cho Luật ngân sách nhà nước đi vào cuộc sống sớm phát huy hiệu quả, đề nghị Chính phủ sớm ban hành các văn bản pháp quy, cụ thể hóa cơ chế phân cấp quản lý ngân sách giữa Trung ương và địa phương theo hướng vừa bảo đảm tính tập trung thống nhất của Trung ương, vừa phát huy được tính chủ động, tích cực của từng địa phương trong việc tạo nguồn thu, chống thất thu và tăng thu, tiết kiệm chi để bảo đảm cân đối ngân sách và sử dụng ngân sách có hiệu quả.
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trên đây là một số ý kiến chính của Ủy ban kinh tế và ngân sách về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1996, về kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 và phương hướng nhiệm vụ năm 1997; về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 1996 và dự toán ngân sách nhà nước năm 1997; kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội