(Do bà Trần Thị Tâm Đan, Chủ nhiệm Ủy ban văn hóa,
giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội
đọc tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX, ngày 16-10-1996)
Thưa Quốc hội,
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã đề ra những mục tiêu và giải pháp cơ bản cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó đặc biệt nhấn mạnh quan điểm: “lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã làm được nhiều việc để thực hiện chiến lược con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Một số văn bản pháp luật quan trọng có liên quan đến con người và các chính sách xã hội đã được ban hành đang đi vào cuộc sống. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực của đất nước có những bước phát triển đáng kể.
Tuy nhiên, để đạt tới mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, thì điều quan trọng nhất, là ngay từ bây giờ, Nhà nước cần có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực với một cơ cấu hợp lý về số lượng và chất lượng đủ sức đáp ứng yêu cầu cho những mục tiêu đã đặt ra. Chiến lược ấy bao gồm một sự định hướng, một hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế thích hợp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX, Ủy ban chúng tôi chỉ xin trình bày một số vấn đề về tình hình và kiến nghị một số giải pháp để giải quyết tốt hơn việc phát huy, phát triển nguồn nhân lực trẻ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
I- VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG TRẺ
NƯỚC TA HIỆN NAY
Nguồn nhân lực là tổng thể sức dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con người trong việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Nói nguồn nhân lực trẻ, tức là nói đến sức phát triển, chất lượng của bộ phận dân cư trong độ tuổi thanh thiếu niên và lực lượng lao động trẻ.
Hiện nay, nước ta có trên 40 triệu lao động, 50,1% lực lượng này là lao động trẻ (khoảng 20 triệu người); Lực lượng dự trữ cho nguồn lao động trẻ khá lớn, nếu như ở nhiều nước phát triển, số dân thuộc nhóm 14 tuổi trở xuống chỉ chiếm từ 16 -19%, thì ở nước ta, tỷ lệ này là 37% (khoảng 28 triệu người). Lực lượng này cứ mỗi năm bổ sung từ 1,5 - 1,7 triệu người vào đội ngũ lao động. Như vậy, đến năm 2000, sẽ có thêm khoảng hơn 6 triệu lao động và đưa lực lượng lao động trẻ nước ta lên tới 26 triệu. Đây là một lực lượng xã hội to lớn và là vốn quý của đất nước để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bộ phận ưu tú của lực lượng trẻ nước ta có tiềm năng trí tuệ khá cao, có tầm nhìn rộng, năng động, sáng tạo, và khá nhạy bén trong cuộc sống, có khát vọng vươn lên không chịu đói nghèo, lạc hậu, dám nghĩ, dám làm, đặc biệt là trong việc tiếp thu khoa học, công nghệ hiện đại và ngành, nghề mới, đã đóng góp tích cực cho sự thành công của nhiều công trình lớn có yêu cầu kỹ thuật cao do ta tự thiết kế và thi công, như trong các ngành Quốc phòng, Bưu chính viễn thông, Điện lực, Xây dựng, Giao thông vận tải, Nông nghiệp...
Tuy vậy, xem xét, phân tích về tình hình lao động trẻ khi đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho thấy còn nhiều vấn đề bất cập phải quan tâm giải quyết như phân bổ lao động, cơ cấu, trình độ nghề nghiệp...
Về phân bổ lao động, cho đến nay, ở nước ta, vẫn đang trong tình trạng theo cơ cấu của một nước nông nghiệp: 14% lao động công nghiệp, xây dựng, 15% lao động dịch vụ, 71% là lao động nông nghiệp. Hiện có tới 75% lao động là thanh niên đang tập trung ở các vùng nông thôn. Điều này cho thấy sức lao động trẻ còn tiềm ẩn ở nông thôn khá lớn, mặc dù năng suất lúa và cây trồng trong nhiều năm qua tăng khá, nhưng giá trị và thu nhập của lao động nông nghiệp tính theo đầu người nhìn chung còn thấp. Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế ở nông thôn đang có sự thay đổi, cho nên lực lượng lao động trẻ ở nông thôn cũng có sự chuyển dịch khá rõ. Sự chuyển dịch này diễn ra theo ba hướng. Hướng thứ nhất, chuyển từ lao động thuần nông sang kết hợp với ngành nghề phụ, phục hồi nghề truyền thống, phát triển tiểu thủ công nghiệp chế biến, dịch vụ sản xuất. Hướng thứ hai, chuyển từ trồng lúa sang trồng cây ăn quả, trồng hoa, trồng cây cảnh có giá trị hàng hóa cao hơn. Hướng thứ ba là sự di chuyển về các thành phố lớn, khu công nghiệp để làm thuê các việc đơn giản, phần lớn số này thoát ly nông thôn theo thời vụ, lúc nhàn nông, làm việc cực nhọc, không ổn định, gặp không ít khó khăn trong sinh hoạt đời sống và làm nảy sinh những vấn đề phức tạp trong quản lý xã hội.
Trình độ văn hóa của lực lượng lao động trẻ nông thôn phổ biến là trình độ tiểu học và phổ thông cơ sở, trình độ nghề nghiệp thấp, trong 88% lao động nước ta chưa qua đào tạo thì chủ yếu là ở nông thôn.
Đối với lực lượng công nhân kỹ thuật trẻ, theo Trung tâm thông tin nghiên cứu lý luận của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, trên 1,7 triệu công nhân kỹ thuật, chỉ có 70 vạn được đào tạo qua trường, lớp chiếm 40%. Số công nhân bậc cao hiện nay chỉ có khoảng 4.000 người chiếm 2,8%, phần lớn lại đều ở độ tuổi trên 50. Nhưng cũng cần nói thêm rằng, chúng ta không thiếu những công nhân trẻ đạt được trình độ này, song cơ chế xét chọn, nâng bậc thợ..., chưa cho phép họ nhận danh hiệu phù hợp.
Lực lượng lao động có trình độ đại học và sau đại học khoảng 700.000 người, trong đó, hơn 10.000 người có trình độ sau và trên đại học, nhưng số lao động trẻ trong số này quá ít. Qua điều tra ở 17 trường đại học thì số cán bộ giảng dạy dưới 35 tuổi chỉ có 8%. Số có trình độ phó tiến sĩ, tiến sĩ chủ yếu tập trung ở các trường đại học và viện nghiên cứu. Điều đáng lưu ý là, phần lớn những trí thức có trình độ trên đại học đang là những chuyên gia đầu ngành đã ở độ tuổi 55 - 60. Trong khi đó, sinh viên giỏi tốt nghiệp ra trường đa số không muốn ở lại trường, vì vậy, sẽ gặp không ít khó khăn trong việc chuẩn bị đội ngũ trí thức kế cận. Khó khăn này không chỉ đối với đội ngũ trí thức trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn mà cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên. Chúng ta cũng đang thiếu những nhà khoa học đầu đàn trong lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản trị kinh doanh, kể cả trong lĩnh vực công nghệ. Việc xây dựng đội ngũ có trình độ cao, bảo đảm được cơ cấu các ngành nghề hợp lý cũng là vấn đề cần nghiên cứu và có những giải pháp hữu hiệu. Bởi vì, ngay từ việc lựa chọn ngành nghề của thanh niên hiện nay, khi thi vào các trường đại học đang có hiện tượng tập trung vào các ngành tin học, ngoại ngữ, kinh tế, luật và đương nhiên số học sinh giỏi sẽ được thu hút vào các ngành này. Nhiều ngành quan trọng hầu như không có học sinh giỏi thi vào như các ngành khoa học xã hội, khoa học nhân văn, nông, lâm nghiệp, sư phạm. Cứ đà này sẽ dẫn đến tình trạng khó có thầy giáo giỏi, những nhà nông, lâm nghiệp tầm cỡ, những nhà khoa học xã hội, khoa học nhân văn xuất sắc. Đây là những khó khăn cho đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sự phân bố lực lượng lao động trẻ có trình độ đại học cũng chưa hợp lý, đang diễn ra hiện tượng thừa thiếu giả tạo. Qua điều tra ở 55 trường đại học, cao đẳng có khoảng 14 nghìn sinh viên ra trường chưa có việc làm, trong khi nhiều vùng, miền, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa lại thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật. Nguyên nhân chủ yếu là, một mặt, do sinh viên ra trường muốn ở lại công tác tại các thành phố, khu công nghiệp kinh tế phát triển có thu nhập cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn; mặt khác, chúng ta cũng chưa có chính sách thu hút để điều chỉnh sự phân bố này. Trong khi đó, một số công ty nước ngoài, văn phòng đại diện, công ty liên doanh chỉ cần trả lương cao, tuy lao động khá vất vả nhưng đã thu hút được không ít sinh viên ra trường, kể cả những sinh viên tốt nghiệp loại giỏi vào làm việc.
Một bộ phận lao động trẻ là con em các dân tộc ít người, sống ở các vùng khó khăn, trình độ văn hóa còn thấp, số đông còn mù chữ, kiến thức khoa học kỹ thuật ít, làm ăn lam lũ, đời sống khó khăn, hầu hết đều không được học nghề, một số còn sống du canh, du cư, làm nương rẫy theo tập quán canh tác lâu đời. Rất ít người tham gia vào lao động trong lĩnh vực công nghiệp. Phần lớn chưa có hiểu biết về sản xuất hàng hóa mà chủ yếu sản xuất theo kiểu tự cung tự cấp. Đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hòi phải có đầu tư đặc biệt, chính sách đặc biệt mới giải quyết được việc xây dựng nguồn nhân lực trẻ cho vùng dân tộc.
Về thể chất - sức khỏe của thanh thiếu niên Việt Nam hiện nay cũng là vấn đề đáng chú ý. Kết quả điều tra của chương trình chính sách thế hệ trẻ cho thấy, trong những năm gần đây, sức khỏe của thanh niên Việt Nam có tăng lên nhưng chậm hơn so với các nước trong khu vực.
II- MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
VỀ CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
Để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngoài yếu tố vốn và công nghệ mới, yếu tố nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trẻ là vô cùng quan trọng. Chúng ta hiện nay phải đồng thời giải quyết cả hai nhiệm vụ, làm sao để phát huy nguồn nhân lực hiện có và phát huy, phát triển nguồn nhân lực trẻ kế cận mà trước hết, phải tập trung vào hai khu vực lớn, khu vực nông nghiệp và nông thôn, khu vực công nghiệp, song song với việc phát triển đồng thời các ngành nghề dịch vụ cả trong hai khu vực này.
Phát huy, phát triển lực lượng lao động trẻ trước hết phải tập trung chăm lo cho sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo con người Việt Nam có bản lĩnh, đậm đà bản sắc dân tộc, có năng lực chuyên môn, tay nghề, vươn lên nắm công nghệ mới. Muốn vậy, trước hết phải bảo đảm chất lượng phổ cập giáo dục, tạo ra một mặt bằng dân trí tối thiểu của cả nước góp phần nâng cao chất lượng con người trong sản xuất và trong đời sống, đồng thời, tiến hành đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực có đạo đức và tay nghề thực hiện các mục tiêu, các chương trình phát triển đất nước. Phải làm sao kết hợp được giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, vốn văn hóa chung với tay nghề. Phải có tay nghề chúng ta mới có điều kiện nhập công nghệ và sáng tạo ra công nghệ mới làm nên sản phẩm chất lượng cao. Giáo dục phải tập trung làm cho được, trong mỗi người lao động trẻ phải đạt được yêu cầu về đạo đức cũng như trình độ nghề nghiệp.
Về quy mô phát triển giáo dục trong những năm gần đây đều tăng, theo số liệu năm học 1995 - 1996, đã thu hút gần 2,4 triệu cháu vào học trường mầm non, hơn 10 triệu cháu vào trường tiểu học, có trên 4,3 triệu học sinh trung học cơ sở và hơn một triệu học sinh phổ thông trung học, tổng cộng có gần 18 triệu học sinh từ mầm non tới phổ thông. Ngành Dạy nghề và Trung học chuyên nghiệp hiện nay phát triển chậm, năm 1995 - 1996, chỉ có 80.000 học sinh học nghề, 140.000 học sinh trung học chuyên nghiệp. Cả hai ngành học này mới có 220.000 học sinh trong khi chúng ta có tới hơn một triệu học sinh phổ thông trung học, hơn 400.000 sinh viên đại học và cao đẳng. Qua số liệu trên đây cho thấy, cơ cấu đào tạo hiện nay khá mất cân đối giữa số sinh viên đại học với số cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. Số sinh viên đại học gấp 5 lần số học sinh học nghề và gấp gần 2,8 lần số học sinh trung học chuyên nghiệp. Mặt khác, nếu nghiên cứu tháp lao động của nước ta hiện nay thì 88% lao động không lành nghề, 5,5% lao động lành nghề, 3,5% chuyên viên kỹ thuật, 2,7% kỹ sư, 0,3% nhà khoa học và chuyên gia, trong khi đó, tháp lao động của các nước công nghiệp thường là 35% lao động không lành nghề, 35% lao động lành nghề, 24,5% chuyên viên kỹ thuật, 5% kỹ sư và 0,5% nhà khoa học và chuyên gia. Từ đây có thể rút ra hai vấn đề trong phát triển quy mô giáo dục: Phải phát triển quy mô ở tất cả các ngành học vì số lao động chưa qua đào tạo còn quá lớn, đồng thời, phải bằng mọi biện pháp phát triển nhanh hơn ngành Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề, tiến tới một cơ cấu hợp lý giữa lực lượng lao động có trình độ đại học với chuyên viên kỹ thuật và công nhân lành nghề, để từng bước phù hợp với yêu cầu lao động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phấn đấu đưa số học sinh trung học chuyên nghiệp và trung học dạy nghề lên ngang với số lượng học sinh phổ thông trung học. Để khuyến khích học sinh phổ thông cơ sở vào trường trung học chuyên nghiệp, trung học dạy nghề cần nghiên cứu về nội dung chương trình, chính sách tuyển sinh để tạo thuận lợi cho những học sinh này học lên đại học khi có nhu cầu và có điều kiện.
Ngành Giáo dục, Đào tạo cần nhanh chóng quy hoạch mạng lưới các trường trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề, sớm nghiên cứu xây dựng hệ thống chương trình về đào tạo nghề, tổ chức viết sách giáo khoa, giáo trình, tăng cường công tác quản lý nhà nước, hướng dẫn, tổ chức việc bồi dưỡng giáo viên, phổ biến những phương pháp dạy nghề hiện đại, tạo điều kiện cho sự phát triển của hệ thống này. Cũng cần lưu ý, chỉ nên phát triển quy mô trên cơ sở bảo đảm chất lượng.
Việc tăng ngân sách cho giáo dục, đào tạo theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội là cần thiết, đồng thời việc huy động các lực lượng xã hội tham gia đào tạo lực lượng lao động cũng như sự đóng góp của người học cũng rất quan trọng. Cần có chính sách tạo mặt bằng đất đai, cho vay không lãi hoặc lãi suất thấp, kể cả việc Nhà nước có thể hỗ trợ một phần kinh phí ban đầu để khuyến khích các lực lượng xã hội tích cực tham gia mở các trường nghề. Mặt khác, cũng cần có giải pháp giao cho các doanh nghiệp lớn có điều kiện, bên cạnh việc đào tạo công nhân theo hình thức kèm cặp tại xí nghiệp, và mở các trường dạy nghề đào tạo lực lượng lao động cho mình cũng như cho xã hội. Chi phí đào tạo được tính vào giá thành sản phẩm và qua thu học phí của người học.
Trong tổ chức chỉ đạo cũng cần có sự phối hợp giữa các chương trình kinh tế với chương trình giải quyết việc làm ngay từ đầu để tránh được sự lãng phí trong sử dụng lao động đã được đào tạo, cũng như sự bất cập trong cung ứng lao động cho những dự án kinh tế trọng điểm.
Nguồn lao động trẻ hiện nay tập trung chủ yếu ở nông thôn, vì vậy, mọi giải pháp phải hướng về nông thôn, bên cạnh việc đẩy mạnh công tác hướng nghiệp của nhà trường phổ thông phục vụ cho nông thôn, thì trong việc quy hoạch xây dựng phát triển công nghiệp trên cơ sở bảo đảm hiệu quả kinh tế, Nhà nước nên ưu tiên bố trí các cơ sở sản xuất trước hết là những ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, ngư nghiệp, và một số ngành công nghiệp có khả năng thu hút nhiều lao động ở địa bàn nông thôn. Làm như vậy sẽ khai thác được nguồn nguyên liệu cũng như sử dụng lao động tại chỗ và cũng tạo ra khả năng thu hút được lực lượng lao động đã qua đào tạo đại học cũng như trung học chuyên nghiệp, đào tạo nghề trở về phục vụ nông thôn. Bên cạnh việc củng cố và phát triển các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, ở địa phương, nên mở những trung tâm hướng nghiệp dạy nghề cho học sinh nông thôn làm luôn cả chức năng phổ biến kiến thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới cho lực lượng lao động trẻ. Ngày nay, khoa học, công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Do vậy, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa không thể không tìm mọi cách đưa khoa học - kỹ thuật đến với người lao động, nhất là đội ngũ lao động trẻ ở nông thôn.
Để giải quyết lực lượng lao động có trình độ Đại học và chuyên viên kỹ thuật, công nhân lành nghề cho miền núi, cho dân tộc ít người, cần giải quyết tốt hơn việc đào tạo người tại chỗ theo phương thức cử tuyển như chúng ta đang thực hiện. Ở đây, đang cần điều chỉnh chế độ học bổng cho học sinh và bảo đảm những điều kiện cho họ trong quá trình học tập, cũng như xác định rõ ngành nghề đào tạo mà địa phương cần, đồng thời, cần quy định học sinh ra trường có trách nhiệm về phục vụ địa phương theo một thời hạn nhất định.
Hiện nay ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, hệ thống trường phổ thông tương đối phát triển so với trước đây, phần lớn con em dân tộc học ở hệ thống này. Bên cạnh đó, trong những năm qua, chúng ta đã phát triển được một mạng lưới trường dân tộc nội trú nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của con em các dân tộc ở vùng khó khăn. Vấn đề đặt ra là, cần phát triển các cơ sở nghề ở miền núi, để cho học sinh không học lên đại học thì vào học ở các trường chuyên nghiệp, trường dạy nghề, hoặc các trung tâm dạy nghề đào tạo giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ kỹ thuật và các nghề cần thiết. Cần có kế hoạch đưa số học sinh ở các trường dân tộc nội trú sang đào tạo nghề sau khi kết thúc việc học văn hóa. Nên nghiên cứu đưa việc dạy nghề vào trong các trường dân tộc nội trú.
Việc thanh niên tốt nghiệp các trường đại học, trung học chuyên nghiệp không chịu đi làm việc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa nguyên nhân chủ yếu vẫn là chưa có chính sách đủ mạnh và hợp lý. Chúng tôi đề nghị, bên cạnh việc đào tạo theo hình thức cử tuyển, thì việc có chính sách thỏa đáng để huy động được lực lượng trí thức trẻ, chuyên viên kỹ thuật, công nhân lành nghề từ miền xuôi lên công tác ở miền núi, vùng sâu, vùng xa trong một thời hạn nhất định là một việc hết sức cần thiết, chỉ như vậy mới mong có đủ lực lượng lao động có chất lượng cho sự nghiệp xây dựng phát triển miền núi, vùng sâu, vùng xa trong giai đoạn nước ta bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ trí thức trẻ trở thành những nhà khoa học đầu đàn, những chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực đang là một vấn đề cấp bách trong việc xây dựng đội ngũ trí thức giỏi. Nhưng chúng ta đang gặp một thực trạng nhiều sinh viên giỏi tốt nghiệp không ở lại làm cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu mà nguyên nhân chủ yếu vẫn do thu nhập không bảo đảm đời sống. Đề nghị dành một tỷ lệ ngân sách thỏa đáng đầu tư cho khoa học và công nghệ, cho các trường đại học, viện nghiên cứu để các cơ sở này có thể mở rộng quy mô nghiên cứu khoa học của mình, tạo ra khả năng thu hút các cán bộ khoa học trẻ, kể cả sinh viên mới tốt nghiệp ở lại trường làm công tác nghiên cứu khoa học, phục vụ công tác giảng dạy, cũng như sản xuất, từ đó tạo ra nguồn thu nhập đáng kể bảo đảm đời sống để họ yên tâm rèn luyện, nâng cao trình độ của mình.
Cùng với việc đào tạo trong nước, cần tăng cường việc giao lưu khoa học - kỹ thuật, đưa người đi đào tạo ở các nước có trình độ khoa học - công nghệ phát triển, nhất là đối với những ngành mũi nhọn. Bằng mọi biện pháp, dưới nhiều hình thức, chúng ta cần nhanh chóng xây dựng một đội ngũ các nhà khoa học đầu đàn, những chuyên gia giỏi đồng bộ trong các ngành thuộc các lĩnh vực, có đủ khả năng đảm nhận được nhiệm vụ tư vấn, cũng như thực thi các công trình trọng điểm quốc gia và tiến tới có thể vươn ra tham gia các công trình ở nước ngoài.
Để củng cố và phát triển hệ thống đào tạo nguồn nhân lực sát với yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các ngành hữu quan, trên cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời, xây dựng dự báo nhu cầu lao động về số lượng, chất lượng, cũng như cơ cấu để làm cơ sở định hướng cho việc phát triển các cơ sở đào tạo nghề cho nhu cầu cả nước cũng như từng vùng, từng miền, từng địa phương.
Song song với việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trẻ, vấn đề giải quyết việc làm cần được đẩy mạnh, bởi vì, giải quyết việc làm chẳng những có tác dụng định hướng cho thanh niên chọn nghề phù hợp với yêu cầu xã hội mà còn là động lực cho thanh niên rèn luyện, học tập nâng cao trình độ văn hóa, trình độ nghề nghiệp để bước vào lao động xã hội. Bên cạnh việc có chính sách khuyến khích các cơ sở sản xuất, các lực lượng xã hội đầu tư phát triển sản xuất để giải quyết việc làm cần quan tâm có nhiều hình thức tổ chức cho thanh niên tham gia có hiệu quả các chương trình kinh tế, như chương trình làm giao thông miền núi, trồng rừng lấn biển, phủ xanh đất trống đồi trọc và mở rộng các khu kinh tế thanh niên. Tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên vay vốn để phát triển sản xuất mở rộng ngành, nghề, phát huy khả năng tự tạo, tự tìm việc làm và phát triển việc làm trong khuôn khổ pháp luật.
Về nâng cao thể lực của thanh thiếu niên cũng đang là một vấn đề phải quan tâm, mặc dù, đây là một vấn đề đòi hỏi phải có thời gian để giải quyết trên cơ sở nâng cao dần mức sống của nhân dân về vật chất cũng như tinh thần. Trước mắt, cần tập trung giải quyết cho được các mục tiêu của chương trình chăm sóc, bảo vệ trẻ em đến năm 2000, nhất là mục tiêu giảm đáng kể tỷ lệ suy dinh dưỡng; đầu tư nâng cao chất lượng của chương trình giáo dục thể chất và y tế học đường; đẩy mạnh phong trào rèn luyện thân thể trong thanh thiếu niên, tạo điều kiện cho Đoàn Thanh niên duy trì phong trào “Khỏe vì ngày mai lập nghiệp”, “Khỏe để bảo vệ Tổ quốc”.
Một vấn đề nữa cần được nhấn mạnh là, cần có định hướng và bảo đảm những điều kiện để lớp trẻ tự tạo dựng được một đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh phong phú mà trước hết là xây dựng một quan điểm đúng, một lối sống đúng để hình thành một nhân cách văn hóa. Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực trẻ, là một mặt trong sự phát triển toàn diện của con người.
Nhân cách văn hóa chính là sự phản ánh trình độ phát triển, đồng thời thể hiện bản sắc truyền thống của dân tộc. Trong giai đoạn quá độ hiện nay, quan điểm sống và nhân cách văn hóa của thế hệ thanh niên đang trong quá trình xác định. Những mặt tích cực đã thể hiện rõ nhưng chưa bền vững, những mặt tiêu cực vẫn đang bộc lộ. Để giúp cho thế hệ trẻ ngày nay xây dựng được một lối sống lành mạnh, một nhân cách văn hóa phù hợp với tiến bộ của nhân loại, vừa mang được bản sắc tốt đẹp của dân tộc, chúng tôi xin đề nghị:
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội cần hết sức quan tâm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong nhà trường, ở gia đình cũng như ngoài xã hội. Hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực của lối sống thực dụng, vị kỷ, những ấn phẩm văn hóa có nội dung xấu, không phù hợp với truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Hiện nay, chúng ta đang chỉ đạo và phát động một phong trào rộng khắp trong toàn dân xây dựng gia đình văn hóa, làng xã và cụm dân cư văn hóa. Việc chỉ đạo xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa do Bộ Văn hóa - Thông tin triển khai. Việc chỉ đạo cụm dân cư văn hóa do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiến hành. Đây là những việc làm nhằm tạo dựng một môi trường văn hóa lành mạnh, phát huy và phát triển đời sống văn hóa cơ sở. Do đó, cần một sự chỉ đạo tập trung đồng bộ và thống nhất tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện tốt các mục tiêu đặt ra.
Cùng đồng thời với việc tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh, cần định hướng để tuổi trẻ xây dựng lý tưởng, hoài bão cao đẹp, vươn lên lập thân lập nghiệp, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhà trường và toàn xã hội cần chú trọng đến công tác giáo dục truyền thống, giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, và pháp luật cho thanh thiếu niên một cách hệ thống thiết thực, hướng tới cái chân - thiện - mỹ.
Thưa Quốc hội,
Việc phát huy, phát triển nguồn nhân lực trẻ, đòi hỏi những giải pháp đồng bộ về phát triển kinh tế và phát triển xã hội, trong đó yếu tố quyết định nhất vẫn là chất lượng của nguồn nhân lực trên các mặt phẩm chất đạo đức, trình độ nghề nghiệp, thể lực, cũng như ý chí vươn lên của thanh niên.
Sự nghiệp này đòi hỏi một sự chỉ đạo sát sao, trên cơ sở một định hướng chiến lược lâu dài cùng với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, Ủy ban chúng tôi tin tưởng rằng thế hệ trẻ của chúng ta sẽ vươn lên mạnh mẽ làm tròn được sứ mệnh của mình trong thời kỳ mới của đất nước - thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trên đây là một số vấn đề chủ yếu nhất về phát triển, phát huy nguồn nhân lực trẻ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng xin trình bày trước Quốc hội.