THUYẾT TRÌNH
CỦA ỦY BAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
CỦA QUỐC HỘI KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP CỤ THỂ
VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI BỨC XÚC HIỆN NAY
(Do bà Nguyễn Thị Thân, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội
của Quốc hội đọc tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX, ngày 16-10-1996)
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trong năm qua, cùng với nhiều thành tựu về kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm giải quyết nhiều vấn đề xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, từng bước thực hiện đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội. Việc thực hiện Pháp lệnh người có công[1] và Pháp lệnh phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ không những làm tăng thêm lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước mà còn phát động cả một phong trào rộng lớn của xã hội trong việc chăm sóc những người có công với nước. Chương trình xóa đói, giảm nghèo với sự sáng tạo của các địa phương tiếp tục đem lại kết quả tốt. Kinh tế phát triển ở các khu vực đã đáp ứng phần nào nhu cầu việc làm cho người lao động, đặc biệt là thanh niên. Bộ luật lao động sau hơn một năm thực hiện đã phát huy tác dụng trong việc xử lý các quan hệ lao động. Hệ thống các bệnh viện đã từng bước được nâng cấp và đang ngày càng có chất lượng hơn. Việc khám chữa bệnh của nhân dân đã có nhiều thuận lợi. Chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình đã có kết quả tốt ở nhiều địa phương, mức sinh đã và đang giảm nhanh. Năm qua, bão và lũ lụt xảy ra ở nhiều địa phương nhưng với sự chỉ đạo và hỗ trợ của Nhà nước và sự cố gắng của nhân dân, các địa phương đã khắc phục một phần cơ bản hậu quả nghiêm trọng do bão lũ gây nên. Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội mặc dù vô cùng khó khăn, nhưng các cơ quan chức năng đã tích cực phát hiện và xử lý một số vụ tàng trữ, vận chuyển buôn bán chất ma túy, môi giới và chứa chấp mại dâm. Nhiều người nghiện, chị em lầm lỡ đã được giúp đỡ để trở về với cuộc sống bình thường. Những kết quả đó thể hiện sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, sự cố gắng của toàn dân trong sự nghiệp đổi mới.
Ủy ban chúng tôi hoàn toàn nhất trí với đánh giá về kết quả và một số tồn tại trong báo cáo kinh tế - xã hội của Chính phủ do Thủ tướng Võ Văn Kiệt trình bày. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong lĩnh vực xã hội còn nhiều việc bức xúc cần phải giải quyết trước mắt cũng như trong nhiều năm tới. Trong phạm vi một bản thuyết trình, chúng tôi chỉ xin kiến nghị những giải pháp cụ thể để giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc trong ba lĩnh vực sau đây:
PHẦN THỨ NHẤT
VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM, TIỀN LƯƠNG,
BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Về việc làm:
Nếu trình bày về giải quyết việc làm nói chung, sẽ bao hàm nhiều nội dung liên quan đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội, Ủy ban chúng tôi nhất trí với một số chiến lược về đào tạo và giải quyết việc làm cho thế hệ trẻ mà trong Thuyết trình của Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng đã đề cập. Tuy nhiên, sau khi làm việc với một số Bộ và giám sát ở 10 địa phương, chúng tôi chỉ xin trình bày hiện tượng bán thất nghiệp, một vấn đề đang bức xúc trong một số doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Sau khi sắp xếp, thành lập lại doanh nghiệp nhà nước theo Nghị định số 388/CP đến nay chúng ta còn hơn 6.000 doanh nghiệp nhà nước với hơn 1,8 triệu lao động (Trung ương quản lý hơn 2.000 doanh nghiệp và địa phương quản lý hơn 4.000 doanh nghiệp). Trong số doanh nghiệp địa phương quản lý thì hơn một nửa đang trong tình trạng làm ăn thua lỗ hoặc lãi không đáng kể. Tại Hải Phòng, chỉ trong 13 doanh nghiệp (đa số là doanh nghiệp Trung ương) đã có hơn 4.000 lao động, 3, 4 năm nay, hoàn toàn không có việc làm. Có 40% các doanh nghiệp ở Quảng Ninh cũng đang thiếu việc làm cho công nhân. Các tỉnh, thành phố khác như Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Quảng Ngãi, Bình Định, Quảng Nam - Đà Nẵng đều có tình trạng tương tự. Nhìn chung, các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn, đời sống người lao động ở các doanh nghiệp này rất cơ cực, chỉ có một số kiếm được việc làm thêm và hằng tháng toàn bộ người lao động này vẫn phải tự bỏ tiền đóng bảo hiểm xã hội để sau này hưởng chế độ hưu trí. Chi phí cho bộ máy quản lý ăn dần vào tài sản của doanh nghiệp. Để nhằm ổn định đời sống người lao động và tạo cơ chế để họ tự lo việc làm, chúng tôi đề nghị Chính phủ chỉ đạo các ngành sớm phân loại các doanh nghiệp:
(1) Nếu là doanh nghiệp công ích thì phải đầu tư chấn chỉnh ngay để phục vụ xã hội. Nhà nước cần có một khoản ngân sách thích đáng để giúp các doanh nghiệp loại này trong năm tới.
(2) Nếu không thuộc doanh nghiệp công ích, nhưng cũng chưa đến mức phá sản, Nhà nước cần có một số biện pháp hỗ trợ một phần, đồng thời nhanh chóng ban hành chế độ trợ cấp thất nghiệp (từ nguồn bảo hiểm xã hội) để giúp đỡ phần nào người lao động lúc chờ việc.
(3) Nếu là doanh nghiệp lâm vào tình trạng thua lỗ quá nặng nề, không thể cứu vớt nổi thì phải áp dụng Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp và thanh toán cho người lao động theo Nghị định số 192/CP hoặc áp dụng Điều 22 của Luật doanh nghiệp nhà nước cho phép giải thể một số xí nghiệp, những người lao động này được cấp sổ lao động, sổ bảo hiểm xã hội để họ yên tâm tìm nơi làm việc mới.
2. Việc thực hiện quy định về dạy và học nghề, hợp đồng lao động:
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa, vì vậy việc tổ chức và đào tạo một đội ngũ công nhân công nghiệp có trình độ đáp ứng với nhu cầu đó là hết sức cần thiết. Trong thời gian qua, Nhà nước và các tổ chức xã hội đã có nhiều chương trình hướng dẫn dạy nghề và tạo việc làm, tuy nhiên, do hạn chế về kinh phí cho nên việc đào tạo nghề chưa đáp ứng được yêu cầu cho các loại hình doanh nghiệp. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp kể cả Nhà nước và tư nhân tự tổ chức dạy nghề cho người lao động khi vào làm việc tại xí nghiệp của mình. Tuy nhiên, do các quy định về dạy nghề và ký kết hợp đồng lao động có chỗ thiếu chặt chẽ, do đó, nhiều doanh nghiệp (kể cả của Nhà nước và tư nhân) đã lợi dụng sơ hở đó chỉ cho ký kết hợp đồng theo thời vụ và kê khai thời gian học nghề quá dài trong khi thời gian học nghề thực tế chỉ một thời gian ngắn là đạt yêu cầu về trình độ kỹ thuật đơn giản và có thể làm ra sản phẩm, sau đó, chỉ trong một thời gian ngắn lại tuyển đợt công nhân khác thay thế (đa số các doanh nghiệp này, sau mỗi đợt, thường chỉ sử dụng lại 20% số người lao động cũ đã có hợp đồng), như vậy, các chủ doanh nghiệp sẽ lẩn tránh trách nhiệm đóng góp bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Về phía người lao động, phần đông là từ các vùng nông thôn đến, vì vậy họ rất mong muốn được làm việc, miễn là có việc làm và có một ít thu nhập đủ sống, vì vậy, không dám đấu tranh với người sử dụng lao động. Bên cạnh đó, họ ít hiểu biết về các quy định pháp luật lao động nên không biết bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Về phía cơ quan nhà nước, lực lượng Thanh tra lao động ở các địa phương quá mỏng, không thường xuyên kiểm tra giám sát phát hiện kịp thời tình hình cụ thể ở các doanh nghiệp đó. Ngoài ra, tổ chức công đoàn là người đại diện và bảo vệ quyền lợi cho người lao động, nhưng cũng chỉ mới có 30% doanh nghiệp (ngoài quốc doanh) có tổ chức công đoàn. Tính đến năm 1996, cả nước có khoảng 25.000 doanh nghiệp liên doanh và tư nhân, với gần một triệu người lao động đang làm việc ở các doanh nghiệp này. Vấn đề nổi cộm ở đây có thể kết luận là đa số các chủ doanh nghiệp đã vi phạm một số quy định của Bộ luật lao động như: Điều 17 (Chương việc làm), các điều 23, 24, 25 (Chương học nghề) và nhiều điều khoản khác của Chương hợp đồng lao động. Nhưng vấn đề còn nghiêm trọng hơn nữa là một số chủ doanh nghiệp tư nhân đã yêu cầu công nhân tăng thời gian làm việc, trả thù lao thấp, thậm chí một số nơi còn có hành vi xúc phạm nhân phẩm và đối xử thiếu văn hóa với người lao động, đặc biệt là lao động nữ. Tình trạng này làm cho việc làm của người lao động rất khó ổn định, thị trường lao động biến động và có lợi cho các doanh nghiệp tư nhân, gây khó khăn cho quản lý của Nhà nước.
Về vấn đề này, Ủy ban chúng tôi kiến nghị:
(1) Triển khai nhanh Nghị định số 90/CP quy định về học nghề để đáp ứng nhu cầu thực tiễn đang đặt ra. Tuy nhiên, Chính phủ cần chỉ đạo sự phối hợp giữa các ngành liên quan trong việc thực hiện dạy nghề và học nghề để tạo ra đội ngũ công nhân có chất lượng, đủ số lượng cho yêu cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
(2) Bổ sung, sửa đổi một số quy định mà khi ban hành Bộ luật lao động chúng ta chưa lường hết được đã để các doanh nghiệp lợi dụng như: Quy định về học nghề và thử việc, về ký kết hợp đồng lao động (khoản 3 của Điều 3 Nghị định số 198/CP).
(3) Ủy ban chúng tôi cũng đề nghị Chính phủ tăng cường lực lượng Thanh tra lao động để thực hiện Nghị định số 38/CP ngày 25-6-1996 về xử phạt hành chính vi phạm pháp luật lao động, trong đó phải đặc biệt lưu ý các điều 7, 8, 9, 10 và 11 Chương II (nói về vi phạm những quy định về quan hệ lao động) và xử phạt thật nặng người sử dụng lao động có hành vi vi phạm đến nhân phẩm của người lao động, đặc biệt là lao động nữ.
(4) Trong quá trình phát triển công nghiệp, nhiều người lao động trong các doanh nghiệp này đến từ khu vực nông thôn, vì vậy, cần có chương trình tuyên truyền giáo dục để trang bị cho họ một số kiến thức cơ bản về quy định quyền lợi và trách nhiệm của người lao động để họ biết tự đấu tranh, đồng thời, hiểu được nghĩa vụ lao động của mình.
(5) Trong các doanh nghiệp tư nhân và liên doanh, tổ chức công đoàn có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi và trách nhiệm của người lao động. Vì vậy, công đoàn các cấp cần có các giải pháp nhanh chóng thành lập các tổ chức công đoàn để giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
3. Tiền lương và thu nhập:
Qua 10 đoàn giám sát việc thi hành Bộ luật lao động ở các địa phương kết hợp với tình hình kinh tế - xã hội mà Chính phủ đã báo cáo, Ủy ban chúng tôi cho rằng, tiền lương và thu nhập của người lao động, hưu trí, mất sức và một số đối tượng trong diện người có công là tồn tại lớn có ảnh hưởng, chi phối mạnh mẽ đến hoạt động của mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Trước hết, tiền lương là một “yếu tố động” thì hơn 3 năm qua, chúng ta lại coi nó là “yếu tố tĩnh”, về cơ bản là không giải quyết gì cả. Trong khi chúng ta sử dụng mọi biện pháp tạo việc làm, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả công tác, tăng trưởng kinh tế đạt khá... nhưng tiền lương thực tế lại bị giảm 30% so với năm 1993. Ngoài vấn đề giảm sút giá trị tiền lương còn có những điểm hết sức đáng lưu ý là:
- Do giá trị tiền lương thực tế giảm sút làm ảnh hưởng đến mức sống của người lao động, nhiều cơ quan, doanh nghiệp, cá nhân phải tìm mọi cách bù lại tiền lương với mức độ và phương thức khác nhau: Cấp tiền ăn trưa, tự nâng lương tối thiểu, cán bộ lạm dụng giờ làm việc đi làm các việc khác để có thêm thu nhập. Tình trạng người lao động có vài ba khoản thu nhập, thậm chí có khoản cao hơn cả tiền lương đã và đang làm xói mòn nghiêm trọng ý nghĩa của tiền lương và gây ra phân hóa thu nhập, đời sống giữa những người lao động. Thang giá trị của lao động đang bị đảo lộn (không ít trường hợp lao động phức tạp thì thu nhập thấp, lao động giản đơn thì thu nhập lại cao).
- Do tiền lương và thu nhập bất hợp lý, thiếu công bằng cho nên “thị trường lao động” cũng bị đảo lộn, biến thiên quá đáng. Nhiều ý kiến cho rằng “chất xám bị rò rỉ, chảy vòng vo” bất lợi cho khu vực nhà nước...
Từ tình hình trên chúng tôi kiến nghị:
(1) Tiền lương là “yếu tố động” luôn luôn song hành với lao động và việc làm, vì vậy, hằng năm đều phải giải quyết (theo mức độ cần thiết và theo khả năng của nền kinh tế).
(2) Trước hết, Chính phủ cần điều chỉnh lương tối thiểu đúng với quy định tại Điều 56 của Bộ luật lao động. Đồng thời, nên tính lại khoản trợ cấp đối với cán bộ hưu trí, mất sức, người có công, nhất thiết phải khôi phục lại tiền lương thực tế do giá cả tăng, tiếp đó có các phương án và giải pháp cụ thể khắc phục những bất hợp lý về thu nhập trong các khu vực kinh tế - xã hội, thực hiện một bước cải cách tiền lương.
(3) Đối với người có công, đề nghị Quốc hội cho phép Chính phủ bổ sung ngân sách để giải quyết cho những người đã làm xong thủ tục từ lâu nhưng chưa được hưởng. Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội cần kiểm tra, hỗ trợ các địa phương rà soát lại một số thủ tục làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người được hưởng chính sách.
(4) Riêng khu vực sản xuất - kinh doanh cũng phải cho họ một cơ chế tự điều chỉnh mức lương tối thiểu phù hợp với cơ cấu giá thành sản phẩm và kết quả sản xuất - kinh doanh. Song, Nhà nước phải có biện pháp quản lý tránh tình trạng hiệu quả sản xuất - kinh doanh thì thấp nhưng tiền lương, thu nhập lại quá cao.
4. Về bảo hiểm xã hội:
Sau một năm triển khai thực hiện Nghị định số 12/CP, chúng ta đã xây dựng được quỹ bảo hiểm xã hội riêng, nhận thức về bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp và người lao động đã được nâng lên. Tuy nhiên, có hai tồn tại nổi cộm nhất là:
- Tồn tại lớn nhất là không trích nộp đủ, thất thu lớn bảo hiểm xã hội. Một số doanh nghiệp nhà nước do thiếu việc làm hoặc không có việc làm, không có thu nhập hoặc thu nhập dưới mức lương tối thiểu nên không đóng bảo hiểm xã hội. Một số không ít doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cố ý ký hợp đồng lao động ngắn hạn và nói là đã tính hết vào lương cho người lao động để họ tự bảo hiểm lấy, do đó, cũng không trích nộp bảo hiểm xã hội cho số lao động này. Các doanh nghiệp tư nhân thì hầu hết không đóng bảo hiểm xã hội. Chủ doanh nghiệp tự khai đã đưa vào đơn giá tiền lương nhưng không doanh nghiệp nào có sổ lương ghi rõ hai phần (lương và bảo hiểm xã hội). Chúng tôi chỉ tính thử ở hai tổng công ty, một nơi sử dụng 15.000 lao động, một nơi sử dụng 5.000 lao động thì một năm họ đã không đóng hàng chục tỷ đồng bảo hiểm xã hội. Nếu tính trong cả nước đối với khu vực ngoài quốc doanh với một triệu lao động thì bảo hiểm xã hội đã thất thu một khoản tiền đến 500 tỷ đồng, tính chung trong các thành phần kinh tế còn lớn hơn nhiều.
- Về việc sử dụng quỹ cho các chế độ, tuyệt đại bộ phận các doanh nghiệp, các cơ quan có đóng bảo hiểm xã hội đều có chung tiếng nói là thủ tục chưa thông thoát, tốn thời gian và do đó, chi không kịp thời. Về nguyên tắc quản lý thì không sai, nhưng về cơ chế điều hành thì còn phải xem xét để việc chi trả được kịp thời và đỡ phiền hà hơn cho người lao động.
Một số quy định trong Điều lệ bảo hiểm xã hội khi áp dụng vào thực tế đã nẩy sinh nhiều khía cạnh không hợp lý cũng cần được xem xét, tính toán sửa đổi cho hợp lý hơn.
Về vấn đề này, Ủy ban chúng tôi kiến nghị:
(1) Cần tăng cường hoạt động của Thanh tra lao động để xử lý các doanh nghiệp không chấp hành quy định về đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động.
(2) Sửa đổi một số quy định bảo hiểm xã hội chưa phù hợp như: Điều 26 của Điều lệ mở ra các trường hợp được nghỉ hưu sớm hơn đến 10 tuổi so với tuổi quy định chung và không phụ thuộc tuổi đời nếu có đủ ba điều kiện (15 năm làm công việc nặng nhọc, độc hại, đã đóng bảo hiểm xã hội 20 năm và bị suy giảm khả năng lao động 61%). Nhưng Điều 27 lại “khép lại” vì mỗi năm nghỉ trước tuổi quy định phải giảm đi 2% lương hưu. Như vậy, việc giảm 2% tiền lương cho mỗi năm là không thỏa đáng. Ủy ban chúng tôi đề nghị không nên giảm đối với người đã có 15 năm làm các nghề nặng nhọc độc hại và những người đã đóng bảo hiểm trên 30 năm. Đối với các trường hợp khác tỷ lệ khấu trừ phải dựa trên số năm đóng bảo hiểm xã hội và tuổi của người về hưu.
(3) Điều 29 quy định mức tiền lương làm nền cho việc tính lương hưu trên cơ sở bình quân tiền lương 5 năm cuối (trước lúc nghỉ hưu), nếu như vậy chỉ hợp lý với các trường hợp càng về sau lương càng cao, không hợp lý với các trường hợp ở cuối đời làm việc lương bị giảm như các trường hợp lái xe đại xa (25 đến 40 tấn), thợ hầm lò, công nhân chặt hạ, khai thác rừng... Họ có mức lương cao nhất ở các năm thứ 7 đến năm thứ 12, sau đó, sức yếu phải chuyển làm việc nhẹ hơn nên mức lương cũng thấp hơn. Vì vậy, đề nghị lấy mức lương cao nhất để làm cơ sở tính lương hưu cho người lao động.
PHẦN THỨ HAI
MỘT SỐ VẤN ĐỀ
VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁM CHỮA BỆNH
Trong năm qua, công tác khám chữa bệnh có nhiều bước tiến đáng kể, các bệnh viện ngày càng khang trang về cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật. Người bệnh được khám chữa bệnh khá thuận lợi ở hầu hết các cơ sở y tế. Tình trạng thu tiền viện phí tại các khoa trong một hai năm trước đây không còn nữa. Bảo hiểm y tế tuy là chính sách mới trong giai đoạn hoàn thiện nhưng cùng với viện phí cũng đã đóng góp trên 40% kinh phí cho công tác khám chữa bệnh. Những kết quả này là do có sự quan tâm của Nhà nước và sự cố gắng của cán bộ nhân viên ngành Y tế mặc dù đời sống còn khó khăn.
Tuy nhiên, công tác y tế vẫn còn nhiều thiếu sót về chất lượng phục vụ bệnh nhân, người nghèo vẫn còn gặp khó khăn trong khám chữa bệnh, một số vi phạm quản lý tài chính ở các cơ quan bảo hiểm y tế. Trên thực tế, đa số các thầy thuốc tâm huyết với nghề nghiệp và tận tình với bệnh nhân, song cũng có một số cán bộ y tế có tinh thần thái độ phục vụ bệnh nhân chưa tốt. Hiện tượng thiếu trách nhiệm, gây phiền hà sách nhiễu và “lệ phí ngầm” không phải là cá biệt đã làm cho dư luận xã hội không đồng tình. Một số ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường và “đồng tiền” đã xen vào mối quan hệ thầy thuốc với bệnh nhân trong lúc đó ngành Y tế với lao động phức tạp và có liên quan trực tiếp đến sức khỏe con người nhưng được xếp vào một trong những ngành có mức lương thấp. Mặt khác, các cơ quan quản lý và lãnh đạo bệnh viện chưa thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, kiểm tra về y đức..., đó là những nguyên nhân gây ra các hiện tượng tiêu cực trên.
Để khắc phục các nguyên nhân trên, chúng tôi kiến nghị:
(1) Ủy ban chúng tôi nhất trí với quan điểm của Chính phủ về việc củng cố bảo hiểm y tế, vấn đề viện phí và khám chữa bệnh cho người nghèo. Đây là ba vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau và rất nhạy cảm với xã hội. Về viện phí, nên nghiên cứu điều chỉnh giá thu một phần viện phí trên nguyên tắc phù hợp với chủ trương của Đảng về tính ưu việt của nền y tế xã hội chủ nghĩa và phải tính đến tỷ lệ ngân sách nhà nước phải hỗ trợ cho ngành Y tế. Giá viện phí phải phù hợp với trình độ chuyên môn, chất lượng phục vụ của các bệnh viện và căn cứ vào mức thu nhập trung bình của dân cư, đồng thời, có ngay các giải pháp cụ thể để tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo, vùng căn cứ cách mạng, vùng nghèo được khám chữa bệnh thuận lợi. Bên cạnh đó, nên có giải pháp để thu đủ với một số đối tượng muốn chữa bệnh theo yêu cầu thông qua việc đa dạng hóa các cơ sở y tế theo quy định của Pháp lệnh về hành nghề y, dược tư nhân.
(2) Nhà nước tạo điều kiện giúp ngành Y tế thực hiện chương trình nâng cao y đức và chất lượng phục vụ bệnh nhân, đồng thời, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Ngành Y tế sớm xây dựng chuẩn mực về y đức, tổ chức Hội đoàn nghề nghiệp y tế tạo điều kiện cho việc giáo dục, kiểm tra xem xét tinh thần thái độ phục vụ của cán bộ y tế.
(3) Lựa chọn những người có tâm huyết, có năng lực trong quản lý và có chuyên môn để lãnh đạo các bệnh viện. Một số chuyển biến tại Bệnh viện Hữu nghị Việt - Đức, Bệnh viện đa khoa II tỉnh Hải Hưng và một số nơi khác cho thấy vai trò quan trọng của cán bộ lãnh đạo và đã chứng minh “không phải lúc nào cũng cần có nhiều kinh phí thì mới làm tốt được”.
(4) Nhà nước sớm xem xét điều chỉnh lương, tăng một số phụ cấp chuyên môn, trước mắt bổ sung phụ cấp thêm 20% cho cán bộ y tế, đồng thời, nên xem xét lại chế độ trích thưởng từ nguồn viện phí cho cán bộ y tế. Như vậy, mới thể hiện sự quan tâm của Nhà nước và đỡ mang tiếng cho cán bộ y tế là sử dụng tiền viện phí.
(5) Ủy ban chúng tôi đề nghị các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh đầy đủ cả hai mặt tích cực và tiêu cực trong ngành Y tế, bởi vì, đa số cán bộ y tế tận tâm với nghề nghiệp và người bệnh cần được động viên khích lệ, chỉ một số ít cán bộ y tế làm mất thanh danh của ngành Y tế cần được phê phán nghiêm khắc.
Về vấn đề khám, chữa bệnh cho người nghèo:
Chủ trương miễn giảm một phần viện phí cho đối tượng chính sách và người nghèo đã có từ lâu. Trong những năm qua, tỷ lệ bệnh nhân nghèo và diện chính sách được miễn giảm viện phí chiếm 21% và tổng chi phí miễn giảm bằng 25% tổng số kinh phí Nhà nước cấp cho công tác khám chữa bệnh. Tuy nhiên, do kinh phí hạn chế cho nên các đối tượng này chỉ được miễn một số khoản nhất định và thủ tục xét miễn cũng phức tạp, vì vậy, nhiều người nghèo thực sự chưa có điều kiện để được khám chữa bệnh tại bệnh viện (số liệu năm 1994 cho thấy 72% người nghèo ốm đau tự chữa bệnh tại nhà).
Do những khó khăn trên, để tạo điều kiện cho một số đối tượng trong diện miễn phí được khám chữa bệnh thuận lợi, trong thời gian gần đây, Nhà nước có chủ trương mua bảo hiểm y tế cho đối tượng chính sách nhưng chưa có giải pháp cụ thể về khám chữa bệnh cho người nghèo. Vì vậy, tùy hoàn cảnh kinh tế, các địa phương đã có nhiều giải pháp thí điểm khác nhau. Qua giám sát tại nhiều địa phương và tham khảo ý kiến các ngành, Ủy ban chúng tôi đề nghị một số vấn đề như sau:
1- Về giải pháp: Nếu chúng ta có điều kiện kinh tế khá, Nhà nước mua bảo hiểm y tế cho người nghèo là tốt nhất. Nhưng nếu mua bảo hiểm y tế cho 20% dân số nghèo (khoảng 15 triệu người) cho dù với mức giá thấp nhất như hiện nay là 30.000 đồng/thẻ thì sẽ cần khoảng 450 tỷ/năm, ngân sách không thể đáp ứng được. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần khẳng định là Nhà nước có trách nhiệm chính trong việc bảo đảm khám chữa bệnh cho người nghèo (tất nhiên sự đóng góp của các chương trình nhân đạo cũng có vai trò rất quan trọng). Qua kinh nghiệm của một số địa phương, đề nghị trong kế hoạch ngân sách năm tới, Nhà nước nên dành riêng một khoản ngân sách cho công tác khám chữa bệnh người nghèo khoảng 150 tỷ đồng, đồng thời, giao cho ngành Y tế tự cân đối trong kinh phí hiện tại hằng năm của mình khoảng 100 tỷ (bởi vì, từ trước đến nay, ngành Y tế vẫn khám chữa bệnh miễn giảm cho người nghèo), trước mắt, tập trung giúp đối tượng quá nghèo (khoảng 5% dân số), người nghèo ở vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu, vùng xa, giao cho ngành Y tế chịu trách nhiệm quản lý. Về phương pháp tiến hành, chúng tôi đề nghị trong một vài năm tới nên làm theo phương pháp của thành phố Hà Nội và một số địa phương đã cấp thẻ bảo hiểm y tế đặc biệt (không có mệnh giá cụ thể) cho người nghèo. Sau đó, Sở Y tế có trách nhiệm thanh toán chi phí này với bảo hiểm y tế, làm như vậy sẽ rất tiết kiệm và không cần thiết phải có ngay một khoản ngân sách lớn để mua bảo hiểm y tế cho người nghèo, mặt khác, bệnh nhân nghèo sẽ được điều trị như bệnh nhân có bảo hiểm y tế khác, không bị mặc cảm khi nhận thẻ khám chữa bệnh miễn phí.
2- Để xác định người nghèo, các xã (phường) cùng với ngành Lao động - Thương binh và Xã hội thống nhất đề xuất danh sách hộ nghèo hằng năm dựa trên phân loại của chương trình xóa đói, giảm nghèo.
Về bảo hiểm y tế:
Trong thời gian qua, bên cạnh rất nhiều kết quả tốt của bảo hiểm y tế còn có một số vấn đề mà dư luận xã hội không đồng tình như một số báo cáo của các cơ quan Thanh tra đã nêu như: vi phạm các nguyên tắc tài chính, tham ô, bảo hiểm y tế chưa có tính hấp dẫn... Ủy ban chúng tôi thấy hiện tượng này là có thực. Tuy nhiên, đây là ngành non trẻ (mới bắt đầu tổ chức từ cuối năm 1992 và chính thức đi vào hoạt động năm 1993), vì vậy, chưa có nhiều kinh nghiệm. Trong khi đó, các nước phát triển phải mất hàng trăm năm mới có được hệ thống bảo hiểm y tế tương đối hoàn chỉnh như hiện nay. Với hơn 2.300 cán bộ (hầu hết là cán bộ y tế, chưa có cả nghiệp vụ về tài chính quản lý cũng như nghiệp vụ bảo hiểm), vừa làm vừa học để thực hiện một chính sách mới lần đầu tiên áp dụng ở nước ta, do đó, họ thiếu cả cơ sở lý luận lẫn kinh nghiệm thực tiễn trên tầm vĩ mô cũng như vi mô. Bên cạnh đó, các quy định pháp lý nhiều chỗ chưa rõ ràng. Trong lúc cán bộ quản lý bảo hiểm y tế chưa có kinh nghiệm thì các cơ quan chức năng đặc biệt là Hội đồng quản trị chưa quan tâm kiểm tra chấn chỉnh kịp thời, mặt khác, hệ thống tổ chức của bảo hiểm y tế chưa thống nhất. Bên cạnh đó, hiệu quả của bảo hiểm y tế lại phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng phục vụ của bệnh viện.
Chính vì xác định bảo hiểm y tế là lĩnh vực mới còn nhiều khó khăn cho nên năm 1991, khi Chính phủ trình dự thảo Pháp lệnh bảo hiểm y tế, Hội đồng Nhà nước khóa VIII đã kết luận đây là vấn đề còn rất mới, cần có sự thực hiện thí điểm rộng rãi trên phạm vi cả nước để rút kinh nghiệm thêm.
Về vấn đề này, Ủy ban chúng tôi kiến nghị:
(1) Xử lý nghiêm cá nhân vi phạm nguyên tắc tài chính, tham ô quỹ bảo hiểm y tế và lựa chọn cán bộ có tâm, có kinh nghiệm quản lý tài chính thay thế.
(2) Sửa đổi một số điểm của Điều lệ bảo hiểm y tế ban hành 1992 (chỉ phù hợp với thời kỳ bắt đầu gây dựng quỹ). Thực tế cho thấy, các dấu hiệu vi phạm mà ngành Thanh tra đã báo cáo như: Các Cơ quan bảo hiểm y tế gửi tiền tiết kiệm lấy lãi chi sai mục đích; chi thưởng, trích quỹ kết dư để mua sắm trang thiết bị y tế cho các bệnh viện..., một phần là do quy định tại Điều 1 và 21 của Điều lệ bảo hiểm y tế và các hướng dẫn khác thiếu cụ thể và chưa chặt chẽ, nên một số cơ quan bảo hiểm y tế đã lợi dụng các sơ hở đó. Ngoài ra, việc mua ô tô, xây trụ sở đều có sự đồng ý của Hội đồng quản trị bảo hiểm y tế ở các tỉnh. Trong Điều lệ bảo hiểm y tế sửa đổi cần quy định rõ việc sử dụng tiền lãi do gửi tiết kiệm của quỹ kết dư bảo hiểm y tế, tỷ lệ trích quỹ bảo hiểm y tế để mua sắm trang thiết bị y tế cho các bệnh viện, đồng thời, phải giảm chi phí hành chính (bởi vì, tỷ lệ 8,5% cho quản lý hành chính như quy định trong Điều lệ bảo hiểm y tế hiện nay không còn thích hợp. Hiện nay, quỹ đã lớn, phải giảm tỷ lệ này để tránh hiện tượng cũng là cán bộ hành chính sự nghiệp mà nhân viên bảo hiểm y tế có thu nhập cao hơn).
(3) Các Cơ quan bảo hiểm y tế thanh toán với các bệnh viện trên cơ sở viện phí mà giá viện phí lại dựa vào phác đồ điều trị trong lúc phác đồ này đã lạc hậu, bởi vì hiện nay, có nhiều kỹ thuật và thuốc mới được đưa vào phục vụ khám chữa bệnh. Chính vì vậy mà chi phí cho bệnh nhân bảo hiểm y tế tại bệnh viện chỉ đạt 45 - 50%, hiện tượng các bệnh viện có tiền của bảo hiểm y tế chuyển sang nhưng không thể chi tiêu hợp lý đã dẫn đến tỷ lệ kết dư của các quỹ bảo hiểm y tế quá cao trong khi bệnh nhân bảo hiểm y tế phàn nàn về chất lượng khám chữa bệnh. Vì vậy, phác đồ điều trị cần phải sớm sửa đổi cho thích hợp.
(4) Cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan thanh tra y tế trong việc giám sát việc chi tiêu quỹ bảo hiểm y tế.
(5) Cần có giải pháp tổng thể nâng cấp chất lượng của các cơ sở y tế.
(6) Tuyên truyền rộng rãi và mở rộng các hình thức bảo hiểm y tế tự nguyện trên cơ sở giá cả thấp để mở rộng diện tham gia bảo hiểm y tế.
PHẦN THỨ BA
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC XỬ LÝ CÁC TỆ NẠN XÃ HỘI
Thưa các vị đại biểu,
Nói đến các vấn đề xã hội, chúng ta không thể không nhắc đến các tệ nạn xã hội, điều mà Nhà nước ta đã và đang quan tâm đầu tư khá nhiều công sức và ngân sách để giải quyết. Việc thực hiện Nghị quyết số 05 và 06/CP đã đạt một số kết quả, nhưng xem ra vẫn còn là con đường đầy khó khăn để đi đến đích xây dựng xã hội lành mạnh. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu hai vấn đề mà công luận và cử tri lo lắng nhất, đó là nghiện hít ma túy hiện nay đang lan nhanh vào các trường học và vấn đề lạm dụng tình dục đối với trẻ em, đặc biệt là trẻ em gái.
Theo số liệu thống kê, hiện nay chúng ta đang có 154.347 người nghiện ma túy, trong đó 70% là thanh thiếu niên, đủ cả nghiện, hút, chích và hít. Tuy nhiên, nạn hít ma túy ở trẻ em đang tăng nhanh ở các trường phổ thông trong thời gian gần đây là hồi chuông báo động cho cả gia đình, nhà trường và xã hội. Ma túy - mại dâm - HIV/AIDS là yếu tố đồng hành đe dọa cả sự phát triển của xã hội, nó càng nguy hiểm khi đã thâm nhập vào thanh thiếu niên trong nhà trường. Một tài liệu khảo sát đã công bố: Ở Lạng Sơn, trong 284 đối tượng học sinh có nguy cơ cao có đến 106 em (chiếm 37%) nghiện hít. Trong điều tra chọn mẫu chung các trường phổ thông trong tỉnh có 7% số học sinh ở Lạng Sơn đã nghiện hít. Tại một số trường phổ thông ở Hà Nội, Bắc Giang cũng có hiện tượng nghiện hít, đặc biệt có em mới là học sinh lớp 4.
Một số điều đáng quan tâm hơn nữa là hiện tượng buôn bán và lạm dụng tình dục đối với trẻ em gái đang có chiều hướng gia tăng. Các đường dây buôn bán phụ nữ và trẻ em đã vươn đến các nước trong khu vực như Campuchia, Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc. Theo báo cáo của UNICEF, hiện nay ở Campuchia, có khoảng 27.000 gái mại dâm là người Việt Nam (kể cả từ trong nước sang và Việt kiều), trong đó, 30% là trẻ em gái dưới 18 tuổi. Ở trong nước, tỷ lệ gái mại dâm là trẻ em ước tính khoảng 7%. Hội nghị quốc tế về chống sự lạm dụng tình dục đối với trẻ em đã cảnh báo về sự gia tăng nạn mại dâm trẻ em ở các nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh trong đó có Việt Nam. Số liệu trong 6 tháng đầu năm 1996 cho thấy, 40,5% nạn nhân của các vụ hiếp dâm là các cháu gái từ 4 đến 15 tuổi. Nguyên nhân chính là ảnh hưởng của văn hóa phẩm đồi trụy và sự suy đồi đạo đức bất chấp luân thường đạo lý.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Hiện tượng buôn bán và lạm dụng tình dục trẻ em đang làm xói mòn giá trị đạo đức xã hội và gây đau khổ cho nhiều gia đình, tỷ lệ hít ma túy ở trẻ em trong trường học đang tăng, trước tình hình đó, Ủy ban chúng tôi đề nghị:
1- Chính phủ tăng cường chỉ đạo thực hiện các biện pháp đồng bộ, kiên quyết để thực hiện Nghị định số 05 và 06/CP. Phân định rõ trách nhiệm của các ngành trong công tác phòng và chống các tệ nạn trên. Tuy nhiên, Nhà nước nên nghiên cứu chuyển hướng đầu tư tập trung cho các chương trình phòng ngừa, tạo điều kiện để tuổi trẻ tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí, thể thao lành mạnh và đồng thời quan tâm hơn nữa đến việc đầu tư cho các chương trình tuyên truyền giáo dục về các biện pháp phòng, chống ma túy, đặc biệt, trong nhà trường. Kết hợp giữa gia đình, nhà trường và các ngành liên quan để tuyên truyền giáo dục về nguy hại của ma túy, vì khi đã nghiện sẽ rất khó trở về cuộc sống bình thường, kinh nghiệm quốc tế và trong nước cho thấy tỷ lệ cai nghiện thành công rất thấp (chỉ 5-10% và tối đa là 15%).
2- Ý kiến chung của nhân dân cho rằng, giải pháp quan trọng nhất là triệt phá các đường dây buôn bán, cung cấp ma túy, các ổ chứa mại dâm và đường dây buôn bán phụ nữ và trẻ em gái, vấn đề này phải làm thật nghiêm. Vì vậy, Chính phủ sớm trình Quốc hội bổ sung sửa đổi Bộ luật hình sự, trong đó có sửa nâng khung hình phạt (kể cả mức án tử hình) làm cơ sở cho việc xử phạt nghiêm khắc các hành vi liên quan đến ma túy và mại dâm (đặc biệt, có khung hình phạt nặng với những người có hành vi lạm dụng tình dục đối với trẻ em và buôn bán phụ nữ). Sớm xử công khai và áp dụng khung hình phạt tối đa đối với một số vụ nghiêm trọng để cảnh tỉnh những đối tượng đang lén lút hành nghề.
3- Đầu tư cho các trung tâm để tạo điều kiện cho các đối tượng xã hội trở về cuộc sống bình thường thông qua các chương trình giáo dục, phục hồi sức khỏe, tạo việc làm và hòa nhập với cộng đồng.
Trên đây là một số giải pháp cụ thể của Ủy ban chúng tôi về một số vấn đề xã hội bức xúc, xin trình Quốc hội xem xét khi thảo luận và quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội.
Xin cảm ơn Quốc hội.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội