VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 3 1995-1996

 

THUYẾT TRÌNH
CỦA ỦY BAN KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
CỦA QUỐC HỘI
VỀ VẤN ĐỀ “TÍCH CỰC ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ
ĐỂ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRỞ THÀNH LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
QUAN TRỌNG PHỤC VỤ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA”

(Do ông Vũ Đình Cự, Chủ nhiệm Ủy ban khoa học,
công nghệ và môi trường của Quốc hội đọc tại
kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX, ngày 16-10-1996)

Kính thưa Đoàn Chủ tịch,

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội tán thành về cơ bản những đánh giá chủ yếu trong các báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1996, phương hướng nhiệm vụ năm 1997. Tại kỳ họp này, Ủy ban chúng tôi thấy cần trình bày thêm với Quốc hội về vấn đề “Tích cực đổi mới cơ chế quản lý để khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất quan trọng phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

Kính thưa Quốc hội,

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định mục tiêu trong những năm tới là “đưa công cuộc đổi mới lên tầm cao mới, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm vụ trung tâm là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” và chỉ ra con đường “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng khoa học và công nghệ”. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, việc lần đầu tiên Nhà nước vừa công bố tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho 33 cụm công trình và công trình về khoa học - công nghệ là một sự quan tâm động viên, cổ vũ lớn lao đối với đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ nước ta.

Trong thời đại ngày nay, lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, thực chất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là quá trình vận dụng thành tựu khoa học và công nghệ, chuyển hệ thống kinh tế - xã hội của đất nước từ trạng thái năng suất thấp, sử dụng lao động thủ công là chính, sang hệ thống công nghiệp có năng suất cao, hiệu quả cao, dựa trên những công nghệ tiên tiến.

Để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu, Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội nhận thấy cần phân tích, đánh giá những thành tựu, nhận rõ những tồn tại và nguyên nhân của công tác khoa học, công nghệ và môi trường trong nhiệm kỳ vừa qua; trên cơ sở đó, Ủy ban kiến nghị một số vấn đề về đổi mới cơ chế quản lý để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực, là quốc sách hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời gian tới.

PHẦN I

KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA CÔNG TÁC
KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
TRONG GIAI ĐOẠN 1992 - 1996

Từ thực tiễn hoạt động giám sát và lập pháp trong thời kỳ 1992 - 1996, Ủy ban chúng tôi nhận thấy, công tác khoa học và công nghệ nước ta đã có một bước phát triển mới, đã gắn bó hơn với các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đã có nhiều đóng góp tích cực vào sự phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ bảo đảm an ninh, quốc phòng và tạo cơ sở bước đầu cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, như Báo cáo Chính trị tại Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: “Hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường”.

Sự đóng góp của công tác khoa học và công nghệ được thể hiện trong các lĩnh vực như sau:

  1. Khoa học xã hội và nhân văn:

Những năm qua, các ngành khoa học xã hội và nhân văn đã tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản, cấp bách về kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, an ninh, quốc phòng..., cung cấp các luận cứ khoa học có giá trị phục vụ kịp thời cho việc xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, các chính sách và giải pháp cho những vấn đề kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài để thúc đẩy sự nghiệp đổi mới. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã có nhận định hết sức quan trọng là: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”. Để đi đến kết luận đó có sự nỗ lực lớn lao của toàn Đảng, toàn dân, trong đó có các chương trình khoa học xã hội và nhân văn có mã số KX.

2. Khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ:

Trong những năm qua, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ đã và đang từng bước phát triển, góp phần đáng kể tạo ra tiềm năng về an toàn lương thực quốc gia, bảo đảm hàng hóa tiêu dùng, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo ra một lực lượng sản xuất mới với công nghệ đổi mới, hiện đại hóa một bước, tạo tiền đề để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ đã chú trọng và đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng, chủ động nắm bắt những lĩnh vực công nghệ tiên tiến như công nghệ thông tin viễn thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ mới trong chế tạo máy và xây dựng công trình..., tạo tiềm lực để xây dựng nền khoa học và công nghiệp hiện đại.

Trong sản xuất nông nghiệp: trong việc ứng dụng kết quả của di truyền học và công nghệ sinh học đã nghiên cứu, tạo ra các bộ giống cây trồng vật nuôi mới có năng suất cao, thích hợp với các vùng sinh thái; ở một số địa phương đã bắt đầu tiếp thu và áp dụng công nghệ lúa lai cao sản. Nhiều địa phương đã áp dụng thành công công nghệ sản xuất lúa ở vùng ngấm mặn và chua phèn, biện pháp phòng trừ dịch bệnh tổng hợp (IFM), sử dụng thuốc trừ sâu vi sinh, phân bón vi sinh giảm lượng thuốc trừ sâu và phân vô cơ, tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Sản lượng lương thực quy thóc cả nước đã đạt trên 28 triệu tấn/năm; năng suất lúa đã đạt mức cao ở trong vùng trên 4 tấn/ha vụ.

Trong sản xuất công nghiệp: Nhiều doanh nghiệp nhờ tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ và cải tiến quản lý nên đã phát triển ổn định. Trong những năm qua, việc áp dụng các công nghệ cao như công nghệ thông tin viễn thông, công nghệ điện tử tin học trong nhiều lĩnh vực sản xuất, đời sống, văn hóa, khoa học, quản lý, quốc phòng, an ninh đã và đang tạo điều kiện cho Việt Nam từng bước hòa nhập vào xu hướng hiện đại hóa của thế giới.

Trong lĩnh vực an ninh quốc phòng: Các ngành khoa học và công nghệ đã nghiên cứu luận cứ khoa học để xây dựng chiến lược quốc phòng và an ninh trong tình hình mới, về nghệ thuật quân sự Việt Nam. Khoa học và công nghệ đã đóng góp tích cực vào việc bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang thiết bị quân sự, góp phần xây dựng lực lượng vũ trang từng bước chính quy, hiện đại.

3. Công tác bảo vệ môi trường:

Trong những năm qua, các ngành khoa học và công nghệ đã đẩy mạnh nghiên cứu về bảo vệ môi trường, nhằm phân tích các vấn đề cơ bản nhất về tài nguyên môi trường, phòng chống ô nhiễm môi trường, phát triển kinh tế bền vững, các vấn đề lý luận và thực tiễn để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Các kết quả nghiên cứu đã cung cấp cho công tác hoạch định chính sách, lập pháp (xây dựng các bộ luật, luật và pháp lệnh), quản lý, kinh doanh cũng như cho cộng đồng xã hội các kiến thức quan trọng trong việc hoạch định các chiến lược và chương trình quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội, về quản lý và bảo vệ môi trường (chất lượng môi trường, phương pháp đánh giá tác động môi trường, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường); nhằm giải quyết những mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh với phát triển bền vững, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái, phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường và sự cố môi trường.

Nguyên nhân chủ yếu của các thành tựu trên đây là đường lối đổi mới của Đảng dẫn đến sự đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức trong hoạt động khoa học và công nghệ:

Kế hoạch khoa học và công nghệ đã bước đầu trở thành một bộ phận của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trong các năm tiến hành công cuộc đổi mới, đặc biệt giai đoạn 1992-1996, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã thúc đẩy sự đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học, công nghệ. Công tác quản lý khoa học và công nghệ đã từng bước kết hợp chặt chẽ giữa mục tiêu của hoạt động nghiên cứu với mục tiêu phát triển kinh tế, phát triển xã hội, bảo vệ môi trường, sự phát triển bền vững đất nước. Điều đó được thể hiện ở nội dung các chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước.

Đã từng bước quy hoạch, tổ chức, sắp xếp lại và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho các cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ; đổi mới chính sách đầu tư, cơ chế huy động, phân bổ, sử dụng và quản lý các nguồn vốn cho công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ, đồng thời tăng cường quan tâm, xây dựng và phát triển lực lượng nghiên cứu khoa học tự nhiên và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, kết hợp chặt chẽ các ngành khoa học để nâng cao hiệu quả phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước. Các nguồn lực cho khoa học công nghệ tuy còn quá thấp nhưng hiệu quả sử dụng đã có bước tiến bộ.

Sự đổi mới cơ chế quản lý đã bước đầu được thể chế hóa trong pháp luật về công tác khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. Trong giai đoạn 1992 - 1996, công tác xây dựng pháp luật về khoa học và công nghệ đã có bước phát triển (đã có 2 đạo luật và 7 pháp lệnh có liên quan đến khoa học, công nghệ và môi trường được thông qua), chất lượng văn bản và hiệu lực pháp lý ngày càng được nâng cao, từng bước đồng bộ và hoàn thiện với hệ thống văn bản pháp luật chung của Nhà nước.

PHẦN II

NHỮNG YẾU KÉM VÀ CÁC VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI

Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, công tác khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường trong những năm qua cũng còn bộc lộ nhiều thiếu sót, nhược điểm như sau:

1. Khoa học, công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và chưa khai thác hết tiềm lực để phục vụ đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế:

Nhiều chương trình, đề tài còn chồng chéo, trùng lặp dẫn đến lãng phí. Trang thiết bị nghiên cứu khoa học nhìn chung cũ nát, lạc hậu, không đồng bộ, chưa tập trung cho những cơ sở (trung tâm, viện...) thực sự cần thiết. Chưa khai thác triệt để và phát huy hết khả năng, tiềm lực của con người và máy móc, thiết bị, cũng như sự hợp tác trong nghiên cứu khoa học giữa các viện, trường đại học, trung tâm nghiên cứu và giữa các Bộ, ngành, địa phương.

Việc triển khai công tác khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường ở các địa phương nhìn chung còn rất chậm và yếu kém (ví dụ, chưa có một cơ sở nghiên cứu các vấn đề liên quan đến bờ biển và đại dương suốt dải bờ biển phía Tây của đất nước). Nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu có lúc, có nơi phải tới tháng 6, hằng năm, mới nhận được kinh phí và cùng với việc kiểm tra, giám sát chậm hoặc lơi lỏng, dẫn đến hiệu quả rất thấp trong công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ. Mặt khác, tại nhiều địa phương, cơ sở vật chất kỹ thuật còn quá lạc hậu, lực lượng cán bộ khoa học - kỹ thuật rất thiếu và không đồng đều, do đó, khó có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và việc bảo vệ môi trường, đặc biệt là ở các vùng miền núi, vùng sâu và vùng xa. Nhiều cửa khẩu quốc gia không có phương tiện kiểm dịch động, thực vật.

Nguồn nhân lực cho khoa học, công nghệ đang bộc lộ nhiều nhược điểm bất cập trước yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đội ngũ cán bộ khoa học của nước ta còn yếu kém về công nghệ và quản lý kinh tế hiện đại. Đội ngũ cán bộ khoa học đang bị lão hóa nhanh; cơ cấu nghề nghiệp và phân bố chưa hợp lý, thiếu đồng bộ.

Việc triển khai chiến lược về con người, xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật; phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài; tạo điều kiện thuận lợi để tận dụng và phát huy sự đóng góp của các nhà khoa học trong nước và trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện chưa tốt. Hiện tượng chảy chất xám, lãng phí chất xám còn diễn ra dưới các hình thức và quy mô rất đáng lo ngại có nguy cơ làm suy yếu tiềm lực khoa học, công nghệ trong nước. Có nơi, có lúc có sự sa sút nghiêm trọng về ý chí phấn đấu vươn lên về khoa học, công nghệ.

2. Còn thiếu sự kết hợp giữa kinh tế và khoa học, công nghệ, giữa nghiên cứu và sản xuất, giữa nghiên cứu và đào tạo, giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội:

Nội dung nghiên cứu của nhiều đề tài (hoặc dự án) còn mang nặng tính lý thuyết, chưa đủ các căn cứ khoa học cần thiết, xa rời thực tế, nhu cầu thị trường, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học còn mang tính chất “manh mún”, không có tầm chiến lược lâu dài và không đồng bộ. Do đó, việc triển khai các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất còn rất chậm, hiệu quả kinh tế chưa cao hoặc chưa thực sự khả thi trong bối cảnh cạnh tranh của thị trường.

Bên cạnh đó, chưa có các biện pháp tích cực nhằm phối, kết hợp chặt chẽ giữa các trung tâm, viện nghiên cứu khoa học với các trường đại học, trung tâm đào tạo để gắn chặt hơn những việc nghiên cứu khoa học với đào tạo; giữa các ngành khoa học tự nhiên với các ngành khoa học xã hội để một mặt vừa nghiên cứu tiếp thu được các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến của nhân loại, mặt khác, vẫn giữ gìn được truyền thống văn hóa và bản sắc của dân tộc Việt Nam.

3. Chưa tạo được thị trường công nghệ, các doanh nghiệp còn thụ động trong việc đổi mới công nghệ, chất lượng hàng hóa kém sức cạnh tranh:

Thực tế các năm vừa qua đã cho thấy, hiệu quả của việc đầu tư đổi mới công nghệ còn rất thấp, còn tồn tại khá nhiều thiết bị và công nghệ cũ. Nhà nước chưa có biện pháp hữu hiệu nhằm kiểm soát việc nhập khẩu thiết bị, công nghệ (theo đánh giá của SGS - cơ quan thẩm định quốc tế của Thụy Sĩ thì phần lớn thiết bị của các liên doanh nhập vào nước ta đều tính giá cao hơn thực tế 15%). Mặt khác, các doanh nghiệp chưa có các chuyên gia giỏi về quản lý kinh tế, khoa học - kỹ thuật để đánh giá trình độ công nghệ nhập, nên còn nhập phải các thiết bị, công nghệ lạc hậu, không đồng bộ, kém hiệu quả và ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.

Khoa học, công nghệ thường bị động, khi thực tiễn có yêu cầu các nhà khoa học mới bắt tay vào nghiên cứu với tốc độ rất chậm. Các doanh nghiệp chưa tích cực đặt hàng cho tổ chức, cá nhân nghiên cứu khoa học, công nghệ hoặc đầu tư rất ít cho công tác nghiên cứu khoa học, còn thụ động trong việc đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm hàng hóa, còn trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Việc quản lý, cấp giấy phép độc quyền nhãn hiệu hàng hóa và sở hữu công nghiệp; việc kiểm tra giám sát của một số địa phương chưa chặt chẽ nên chưa ngăn chặn được hiện tượng làm hàng giả, hàng kém phẩm chất hoặc để hàng cũ, chất lượng thấp của nước ngoài lưu hành trên thị trường. Vì vậy, hàng hóa sản xuất ra còn kém sức cạnh tranh và chưa tạo lập được một thị trường công nghệ ổn định và vững mạnh.

4. Luật pháp có liên quan với khoa học, công nghệ và môi trường chưa được triển khai tích cực và thực hiện không nghiêm:

Hệ thống văn bản pháp luật về khoa học, công nghệ và môi trường còn nhiều mặt hạn chế, chưa đồng bộ và chưa thực sự khuyến khích sức sáng tạo của những người làm công tác khoa học và nâng cao năng lực của các tổ chức khoa học, công nghệ trong việc mở rộng liên doanh, liên kết giữa khoa học - đào tạo - sản xuất, chưa tạo được một thị trường công nghệ rộng mở thúc đẩy mạnh mẽ sáng tạo khoa học và có nhiều điểm không còn thích ứng với cơ chế kinh tế và tổ chức hành chính hiện nay.

Mặt khác, công tác tổ chức tuyên truyền, phổ biến, vận động, giáo dục nhân dân hiểu và chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường nói riêng chưa được rộng rãi, thường xuyên, tích cực. Điều đó dẫn tới tình trạng thực hiện pháp luật không nghiêm, có nhiều trường hợp vi phạm nghiêm trọng không những về phía nhân dân mà còn ở cả một số cơ quan nhà nước.

5. Môi trường tự nhiên và sinh thái tiếp tục xuống cấp:

Tình trạng ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường ở một số cơ sở sản xuất, kinh doanh, khu công nghiệp, khu dân cư đô thị hiện nay khá trầm trọng, các số liệu về chỉ tiêu môi trường đã vượt quá giới hạn cho phép nhiều lần.

Hiện tượng chặt phá, hủy hoại rừng, khai thác bừa bãi tài nguyên khoáng sản, đánh bắt thủy hải sản bằng mìn và các phương tiện “diệt chủng”..., vẫn diễn ra, thậm chí có nơi rất nghiêm trọng.

PHẦN III

CÁC NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU
CỦA CÁC YẾU KÉM VÀ THIẾU SÓT

Ủy ban chúng tôi cho rằng, công tác khoa học, công nghệ và môi trường còn những tồn tại như nói ở phần trên là do các nguyên nhân chủ yếu sau:

1. Nhận thức của các cấp về vai trò của khoa học và công nghệ thiếu, cơ chế quản lý và tổ chức còn nhiều bất cập:

Tuy Nhà nước đã có một số chủ trương, nhưng trong nhận thức chưa thực sự coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu nên các chính sách, biện pháp để khuyến khích, phát huy các tiềm lực khoa học, công nghệ của đất nước, lại chưa được cụ thể hóa hoặc chưa đồng bộ. Đó là các chính sách về gắn nghiên cứu khoa học, công nghệ với nhu cầu sản xuất và thị trường; về đa dạng hóa nguồn lực; về xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ; về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.

Trong tổ chức còn thiếu sự đồng bộ hóa hoạt động khoa học và công nghệ giữa các Bộ, ngành và địa phương. Thực tế cho thấy, các hoạt động khoa học và công nghệ ở các Bộ, ngành và địa phương vẫn còn tách rời nhau, chưa có sự hợp tác chặt chẽ, thiếu sự trao đổi thông tin, kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu, triển khai nên chưa có hiệu quả cao. Thứ hai là chưa hình thành được mạng lưới có tổ chức khoa học, công nghệ thống nhất từ Trung ương đến các cơ sở (huyện, xã) của các địa phương, việc triển khai công tác khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường chưa xuống đến cơ sở, do đó rất yếu kém ở cơ sở.

Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi chúng ta cần nhanh chóng xây dựng và ban hành Luật về khoa học và công nghệ. Đây là đạo luật căn bản để điều chỉnh những quan hệ xã hội chủ yếu trong hoạt động khoa học và công nghệ, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm những điều kiện cơ bản cho sự phát triển khoa học và công nghệ của đất nước.

Mặt khác, tuy Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành nhiều luật và pháp lệnh có liên quan đến lĩnh vực khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường, song việc ban hành các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành còn chậm nên các văn bản luật và pháp lệnh chưa đi vào cuộc sống.

2. Đầu tư cho khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường là quá thấp:

Nước ta là một trong vài nước trên thế giới đầu tư thấp nhất cho khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường (dưới 1% ngân sách). Trước đây, khi còn có các nước xã hội chủ nghĩa, hằng năm nếu kể cả phần được viện trợ thì kinh phí cho khoa học, công nghệ bao giờ cũng có tỷ lệ cao trong ngân sách. Đầu tư không đến ngưỡng thì bao giờ đầu tư đó cũng kém hiệu quả. Thành thử việc giảm đầu tư cho khoa học, công nghệ đã làm cho quốc sách hàng đầu trở thành mất hiệu lực (ví dụ ngân sách chi cho khoa học, công nghệ những năm gần đây có xu thế giảm tỷ lệ, còn 0,9% năm 1996 và nếu như dự toán trình Quốc hội kỳ này thì chỉ còn 0,8% cho năm 1997).

PHẦN IV

CÁC KIẾN NGHỊ

Chúng ta đang ở vào những năm cuối của thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, những năm đầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với nhiều thuận lợi và thách thức cho mục tiêu phấn đấu tới năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có nền nông nghiệp sinh thái phát triển, nền kinh tế năng động đủ sức cạnh tranh, hội nhập và sánh vai các nước trong khu vực, bắt kịp trình độ phát triển trong một số ngành và lĩnh vực của các nước tiên tiến trên thế giới với nền quốc phòng và an ninh vững mạnh bảo đảm cho sự phát triển kinh tế - xã hội ổn định của đất nước. Ủy ban chúng tôi cho rằng để cho khoa học, công nghệ thực sự trở thành sức sản xuất số một, nền tảng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công việc trước mắt và cấp bách hiện nay là giải quyết triệt để các tồn tại và các nguyên nhân về quản lý, tổ chức và đầu tư trong hoạt động khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường như đã nói ở các phần trên. Cụ thể là:

1. Đổi mới cơ chế quản lý:

Tăng cường quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu thiết bị công nghệ. Điều chỉnh một cách linh hoạt và kịp thời mức thuế xuất, nhập khẩu để khuyến khích nâng cao trình độ công nghệ sản xuất trong nước. Nhà nước cho vay vốn với lãi suất thấp đối với các doanh nghiệp muốn đổi mới thiết bị công nghệ. Nhà nước có cơ chế khuyến khích và bắt buộc các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ, sản phẩm; các đề tài triển khai công nghệ phải do sản xuất đặt hàng. Cho phép cơ quan nghiên cứu triển khai được sản xuất, kinh doanh những sản phẩm mới do kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ của mình tạo ra. Miễn thuế lợi tức đối với dịch vụ khoa học, công nghệ, lợi nhuận thu thêm hoặc tiết kiệm do đổi mới công nghệ đưa lại của năm tiếp theo do phần đầu tư mới này mang lại.

2. Tăng mạnh ngân sách và đa dạng hóa nguồn đầu tư:

Đổi mới chính sách đầu tư, phân bổ, sử dụng và quản lý tài chính cho hoạt động khoa học, công nghệ. Bao gồm:

Thứ nhất là tăng nhanh ngân sách và tạo cơ chế đa dạng hóa các nguồn vốn cho hoạt động khoa học, công nghệ. Nhà nước cần tăng dần tỷ trọng chi cho khoa học, công nghệ trong ngân sách nhà nước để đến năm 2000, phải đạt mức đầu tư là 2% như Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị (khóa VI) đã nêu. Ngoài ra, cần tạo cơ chế huy động vốn đầu tư cho khoa học, công nghệ từ các nguồn như: vốn từ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; vốn từ các chương trình, dự án kinh tế - xã hội, công trình xây dựng cơ bản của Nhà nước; vốn từ hợp tác quốc tế; vốn nhàn rỗi trong nhân dân và vốn từ kết quả chuyển giao công nghệ...

Thứ hai là cải tiến và tăng cường biện pháp phân bổ và sử dụng tài chính trong khoa học, công nghệ. Để bảo đảm cho khoa học, công nghệ được phát triển cân đối, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ phát triển kinh tế trong từng giai đoạn khác nhau cần xác định tỷ lệ đầu tư hợp lý giữa nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai thực nghiệm. Tăng cường tỷ lệ đầu tư cho công tác khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường ở địa phương. Nguồn ngân sách nhà nước dành cho hoạt động khoa học, công nghệ phải được quản lý chặt chẽ, đảm bảo hiệu quả sử dụng.

3. Đổi mới chính sách phát triển và sử dụng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ:

Tăng cường việc điều hành vĩ mô của Nhà nước đối với việc bố trí cán bộ, sắp xếp và sử dụng nhân tài; có chính sách ưu đãi người giỏi, người có tài; từng bước đào tạo lại, đào tạo mới và trẻ hóa nhân lực khoa học, công nghệ; tạo điều kiện thuận lợi để thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật ưu tú trong cộng đồng người Việt Nam sinh sống và định cơ ở nước ngoài về nước phục vụ.

4. Mở rộng hợp tác quốc tế:

Tận dụng mọi khả năng và đa dạng phương thức hợp tác quốc tế, hội nhập với nền khoa học, công nghệ thế giới nhằm nâng cao năng lực khoa học, công nghệ của đất nước để tiếp thu, đồng hóa và cải tiến các công nghệ nhập nội. Ưu tiên hợp tác với các nước có trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến nhất. Nhanh chóng đào tạo một thế hệ mới các nhà khoa học, công nghệ và các nhà quản lý công nghệ có trình độ và năng lực ở mức quốc tế.

5. Về tổ chức:

Căn cứ vào những yêu cầu khách quan của các Bộ, ngành, địa phương, vận dụng tổng hợp những biện pháp về hành chính, kinh tế, pháp luật để tiến hành điều chỉnh, tổ chức lại hệ thống các cơ quan khoa học, công nghệ theo nguyên tắc có quy hoạch dài hạn và quán triệt tinh thần chỉ đạo của Quyết định 324/CT là gắn nghiên cứu khoa học với đào tạo và sản xuất; tập trung đầu tư xây dựng các tổ chức khoa học, công nghệ thực hiện các hướng ưu tiên của Nhà nước, các vấn đề lợi ích toàn quốc gia, phục vụ công cộng; các doanh nghiệp; đoàn thể xã hội, tư nhân tự tổ chức thực hiện những nhiệm vụ khoa học, công nghệ của mình.

Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và cán bộ có năng lực, trình độ cho Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường ở cấp tỉnh và có tổ chức đảm bảo công tác khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường ở các cấp quận, huyện, xã, phường tức là ở tận cấp cơ sở.

6. Tăng cường công tác lập pháp và thực hiện nghiêm pháp luật về bảo vệ môi trường:

Khẩn trương hoàn thành Dự thảo Luật khoa học và công nghệ trình Quốc hội khóa X xem xét và thông qua vào đầu nhiệm kỳ.

Chính phủ và các cơ quan thuộc Chính phủ có kế hoạch rà soát và tiếp tục ban hành bổ sung các văn bản dưới luật của các luật và pháp lệnh đã ban hành trong các năm vừa qua; đồng thời, thực hiện quy định đối với các dự thảo luật và pháp lệnh khi trình Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua phải kèm theo dự thảo các văn bản dưới luật.

Đó là những biện pháp tích cực nhằm đổi mới quản lý, làm cho hoạt động khoa học, công nghệ được tăng nguồn lực, có hiệu quả cao, nhằm đưa khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất quan trọng, bảo vệ và cải thiện môi trường phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để phát triển bền vững bước sang thế kỷ XXI.

Kính thưa Quốc hội,

Trên đây, Ủy ban chúng tôi đã trình bày những vấn đề quan trọng về việc “tích cực đổi mới cơ chế quản lý để khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất quan trọng phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” kính mong Quốc hội xem xét và quyết định.

Kính chúc các đại biểu mạnh khỏe.

Kính chúc kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa IX thành công tốt đẹp.

Xin cảm ơn Quốc hội.

 

  

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội