VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 3 1995-1996

 

TỜ TRÌNH
CỦA CHÍNH PHỦ VỀ
LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI (SỬA ĐỔI)

(Do ông Đỗ Quốc Sam, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đọc tại kỳ họp thứ 10,Quốc hội khóa IX, ngày 24-10-1996)

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 về công tác xây dựng pháp luật, Chính phủ đã giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức nghiên cứu soạn thảo dự án Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi. Trong quá trình chuẩn bị, đã tiến hành tổng kết 8 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, tổ chức trao đổi, lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, một số đại diện bên Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng đã tham khảo chính sách, pháp luật đầu tư của một số nước trong khu vực. Các Bộ, ngành và các cơ quan đều nhất trí về sự cần thiết, mục tiêu yêu cầu và những nội dung dự kiến bổ sung, sửa đổi chủ yếu. Tại phiên họp tháng 7 năm 1996, Chính phủ đã thảo luận và thông qua dự án Luật để trình Quốc hội.

Ngày 28 tháng 7 năm 1996, Chính phủ đã báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội về dự án Luật. Chính phủ đã tiếp thu ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban pháp luật của Quốc hội và ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội tại các địa phương để hoàn chỉnh dự án Luật.

Chính phủ xin trình Quốc hội về dự án Luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) như sau:

A- SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT (SỬA ĐỔI)

I- Cho đến nay, qua thực tiễn 8 năm thi hành Luật đầu tư nước ngoài, có thể rút ra một số nhận xét khái quát sau đây về những ưu, nhược điểm và những vấn đề tồn tại hoặc mới nảy sinh liên quan đến Luật và việc thi hành Luật:

1. Tuy Luật cũng như nhiều văn bản dưới Luật được ban hành trong hoàn cảnh nước ta chưa có kinh nghiệm về hợp tác đầu tư trực tiếp với nước ngoài, nhưng về cơ bản đã dựng lên được một khuôn khổ pháp lý phù hợp với đường lối quan điểm của Đảng về kinh tế đối ngoại. Luật đã có những quy định bảo đảm cho nhà đầu tư nước ngoài an toàn về đầu tư và quyền tự chủ kinh doanh; đồng thời, bảo đảm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, tuân thủ pháp luật của Việt Nam và bình đẳng, cùng có lợi. Pháp luật hiện hành về đầu tư nước ngoài nói chung vừa phù hợp với tình hình nước ta, vừa thích ứng với thông lệ quốc tế nên đã có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài; đồng thời, đã phát huy được mặt tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài như là một nhân tố góp phần quan trọng tăng vốn đầu tư phát triển, đổi mới được một số công nghệ, tạo ra ngành, nghề và sản phẩm mới, góp phần nâng cao năng lực sản xuất, tăng trưởng kinh tế, mang lại cho ngân sách nhà nước một nguồn thu nhất định và dành cho Việt Nam một vị thế ngày càng có ý nghĩa trên thị trường thế giới.

2. Tuy nhiên, do ra đời trong hoàn cảnh như đã nói trên, Luật không tránh khỏi một số nhược điểm, cần được khắc phục trong hoàn cảnh mới, khi đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Những nhược điểm đó là:

- Một số quy định quá chung, tạo nên những cách hiểu khác nhau; có những chỗ chỉ viện dẫn là phải phù hợp với pháp luật Việt Nam, trong khi luật liên quan chưa được ban hành hoặc sau đó rất lâu mới được ban hành. Do vậy, nhiều khi phải dựa vào những văn bản dưới luật, giá trị pháp lý không cao, lại có thể tùy tiện thay đổi. Đây là một trong các nguyên nhân làm hạn chế tính trong sángtính ổn định của pháp luật về đầu tư nước ngoài, làm cho nhà đầu tư thiếu an tâm trong kinh doanh và đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến hiểu biết và vận dụng khác nhau giữa các cơ quan nhà nước tham gia thẩm định và quản lý dự án.

- Do được hình thành và hoàn thiện qua nhiều bước, ở những thời điểm và cấp độ khác nhau, lại chưa có đủ thời gian để rà soát và điều chỉnh, nên hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thiếu tính đồng bộ, có khi mâu thuẫn nhau. Ngoài ra, bản thân Luật đầu tư nước ngoài hiện hành qua hai lần bổ sung, sửa đổi một số điều vẫn còn được thể hiện trên ba văn bản Luật khác nhau (Luật tháng 12-1987, Luật tháng 6-1990 và Luật tháng 12-1992), đã đến lúc cần hợp nhất lại.

- Qua 8 năm, Luật đầu tư nước ngoài đi vào cuộc sống, tình hình kinh tế trong nước và trên thế giới đã có nhiều thay đổi đòi hỏi Luật phải được cập nhật hóa.

3. Trong việc thi hành pháp luật, trên cả hai phương diện vĩ mô và vi mô, ta đã có nhiều cố gắng để thích nghi với cơ chế mới. Tuy nhiên, việc phổ biến pháp luật trong các ngành, các cấp, nhất là cho các chủ thể đầu tư trong nước và nước ngoài chưa được sâu rộng; việc thi hành pháp luật không nghiêm, nhiều khi tùy tiện.

Vấn đề nổi cộm kéo dài lâu nay mà nhiều nhà đầu tư nước ngoài phàn nàn là thủ tục hành chính quá phức tạp, rườm rà, gây lãng phí thời gian trong việc hình thành và triển khai dự án. Những quy định mới về cải cách thủ tục đầu tư chưa được tuân thủ một cách phổ biến. Việc phân định quyền quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài chưa được rõ ràng, vừa gây trở ngại cho việc kinh doanh, vừa không kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi dự án, thậm chí bỏ trống trận địa ở một số khâu quan trọng như kiểm toán, đấu thầu, giám định, nghiệm thu..., gây thiệt hại đến lợi ích của đối tác Việt Nam và Nhà nước Việt Nam. Về vấn đề này cần luật hóa những quy định dưới luật đã được thực tế kiểm nghiệm để nâng cao hiệu lực pháp lý và bổ sung một số quy định cần thiết nhằm thực sự cải cách công tác quản lý, góp phần cải thiện môi trường đầu tư.

4. Việc xác định chủ trương, quy hoạch chưa đủ mức cụ thể và có phần chậm làm cho các nhà đầu tư mất nhiều thời gian tìm hiểu, các cơ quan quản lý nhà nước khó khăn trong việc xem xét dự án, dẫn đến việc xử lý chưa chuẩn xác đối với một số dự án từ giác độ mối quan hệ giữa hướng về xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, giữa thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và bảo hộ người sản xuất trong nước và thị trường trong nước.

5. Việc chọn lựa, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là về mặt pháp luật và nghiệp vụ không theo kịp tình hình phát triển của hoạt động đầu tư đã tạo ra sự hẫng hụt quá lớn. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng hạn chế việc phát huy lợi thế của ta, tạo nên sơ hở, gây thiệt thòi cho phía Việt Nam.

II- Bước vào giai đoạn mới, với mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhu cầu to lớn về vốn cho đầu tư phát triển, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài càng có ý nghĩa quan trọng. Hoạt động hợp tác đầu tư của ta với nước ngoài đứng trước những cơ hội và thách thức mới:

1. Những thành tựu quan trọng của 10 năm đổi mới, đặc biệt là sự tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm với nhịp độ cao; việc nâng lên một bước năng lực sản xuất xã hội, năng lực xuất khẩu, mức sống của nhân dân và sức mua của thị trường trong nước; những cố gắng rất lớn để hình thành và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đã tạo ra cho Việt Nam một hình ảnh mới trên thế giới như là một thị trường thương mại và đầu tư có sức hấp dẫn. Đây là cơ hội để ta tranh thủ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài với quy mô lớn hơn, chất lượng cao hơn, phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

2. Đồng thời, nước ta cũng đang đứng trước những thách thức mới. Đó là:

- Vốn nước ngoài được đưa vào dưới dạng đầu tư trực tiếp còn có nhiều khả năng gia tăng, nhưng lại đòi hỏi ta phải có biện pháp thích đáng để trong khi thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vẫn củng cố được quan hệ sản xuất, bảo đảm chủ quyền, an ninh và định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Trên thế giới, từ lâu khả năng cung ứng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn thấp hơn nhu cầu (trung bình cung 200 tỷ USD/ cầu 300 tỷ USD/năm), trong đó, chỉ 1/4 đi vào các nước đang phát triển, mà phần lớn là vào một số ít nước đang phát triển năng động nhất. Những năm gần đây, số nước gia nhập vào cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng đông, làm cho cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn trước. Trong cuộc cạnh tranh này, nhiều nước đã tiến hành những cải cách theo hướng thông thoáng hơn nhằm vượt lên trên những nước khác. Do những nhược điểm về kết cấu hạ tầng, về môi trường pháp lý và môi trường thương mại, độ rủi ro trong kinh doanh ở nước ta được đánh giá là lớn hơn so với nhiều nước láng giềng. Nếu ta không tính đến những biện pháp cải cách thích hợp để cải thiện môi trường đầu tư thì đương nhiên sẽ không giành được lợi thế trong cuộc cạnh tranh.

- Xu thế chung của sản xuất trên thế giới là ngày càng đi vào khu vực hóa, toàn cầu hóa cả trong buôn bán quốc tế và trong hợp tác đầu tư trực tiếp. Trong cuộc chơi này, ta đang ở thế yếu so với nhiều nước đi trước. Do vậy, trong quá trình mở ra cho đầu tư nước ngoài ta phải có bước đi sao cho thích hợp để vừa tăng cường hợp tác, vừa tránh được sự phụ thuộc một chiều; vừa tăng nhanh được hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa bảo hộ đúng mức sản xuất nội địa và thị trường trong nước.

Tóm lại: Thực tiễn thi hành Luật đầu tư nước ngoài trong thời gian qua cùng với bối cảnh tình hình trong và ngoài nước trong thời gian tới đang đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài để cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư nhằm phát huy cao hơn nữa vai trò tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài, phù hợp với mục tiêu của công cuộc phát triển trong giai đoạn mới, phù hợp với xu thế tăng cường hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời, bảo đảm chủ quyền, an ninh và bình đẳng, cùng có lợi.

B- MỤC TIÊU, YÊU CẦU SỬA LUẬT

I- MỤC TIÊU

Việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) lần này phải nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý và cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài với số lượng và chất lượng cao hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, đổi mới công nghệ, gia tăng năng lực sản xuất, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước tăng cường sự hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.

II- YÊU CẦU

1. Chuẩn xác hóa các biện pháp khuyến khích đầu tư theo hướng tiếp tục tăng cường khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, tập trung vào những mục tiêu trọng điểm và những lĩnh vực ưu tiên nhằm phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần giải quyết những mất cân đối trong cơ cấu về lĩnh vực, ngành, nghề, về vùng lãnh thổ, vùng kinh tế, về cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế.

2. Cụ thể hóa những quy định còn quá chung, bổ sung vào Luật những quy định đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn thi hành Luật, luật hóa những quy định quan trọng đã được kiểm nghiệm là đúng đắn nhưng chỉ mới được ban hành ở dạng văn bản dưới luật; bổ sung một số kinh nghiệm có chọn lọc của nước ngoài. Đồng thời, qua 8 năm thi hành Luật, có những vấn đề cần rút kinh nghiệm để tăng cường quản lý, khắc phục thiếu sót, sơ hở, bảo đảm lợi ích của Nhà nước.

3. Đồng bộ hóa Luật (sửa đổi) với hệ thống pháp luật chung của nước ta, tạo ra sự nhích dần giữa pháp luật của nước ta về đầu tư trong nước và về đầu tư nước ngoài, hướng tới một Luật đầu tư chung. Theo hướng đó và trên tinh thần bảo hộ một cách hợp lý sản xuất trong nước, cần tính đến những sửa đổi cần thiết và có thể trong các quy định áp dụng cho xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài về nghĩa vụ tài chính, về thủ tục... Đồng thời, trong chừng mực có thể, tạo ra sự nhích gần giữa pháp luật của nước ta với pháp luật của quốc tế, chỉ giữ lại những khác biệt mà điều kiện trong nước chưa cho phép loại bỏ.

4. Chuẩn xác và luật hóa một số quy định quan trọng về tổ chức quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo cơ sở pháp lý cao hơn và một sự chuyển biến cơ bản theo hướng đơn giản hóa thủ tục đầu tư, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Về kỹ thuật lập pháp: Luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) vẫn phải giữ tính chất của một Luật chuyên ngành. Ngoài Luật đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư phải tuân thủ và chịu sự chế tài của các pháp luật liên quan. Luật sửa đổi vẫn chỉ điều chỉnh các đối tượng của Luật hiện hành (các đối tượng khác như ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng do Pháp lệnh về ngân hàng điều chỉnh và do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép; chi nhánh công ty luật nước ngoài do Nghị định 42/CP điều chỉnh và do Bộ trưởng Bộ Tư pháp cấp giấy phép). Về bố cục, Luật sửa đổi cố gắng giữ cơ cấu chung của Luật hiện hành, tránh những xáo trộn không cần thiết.

C- NHỮNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CHỦ YẾU

Trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu trên, Chính phủ đã xem xét, phân loại những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung Luật như sau:

I- Những vấn đề về định hướng và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài.

II- Những vấn đề về hình thức đầu tư.

III- Những vấn đề về tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

IV- Những vấn đề về quản lý nhà nước.

I- NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐỊNH HƯỚNG VÀ CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

1. Những lĩnh vực khuyến khích đầu tư nước ngoài:

Chuẩn xác lại Lời nói đầu và Điều 3 của Luật hiện hành theo tinh thần không khuyến khích tràn lan, mà hướng đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào những mục tiêu trọng điểm, những lĩnh vực ưu tiên của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

Căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế từng thời kỳ, Chính phủ công bố danh mục các dự án khuyến khích, đặc biệt khuyến khích và các lĩnh vực không cấp phép đầu tư nước ngoài hoặc đầu tư nước ngoài có điều kiện nhằm định hướng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc lựa chọn dự án đầu tư, cũng như cho cơ quan quản lý trong việc xét duyệt dự án đầu tư.

Theo tinh thần đó, Điều 3 của Luật hiện hành được sửa đổi lại như sau:

... Nhà nước Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực và địa bàn sau đây:

1. Sản xuất hàng xuất khẩu;

2. Nuôi, trồng, chế biến nông, lâm, thủy sản;

3. Đầu tư vào miền núi, nông thôn và những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn;

4. Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái;

5. Sử dụng nhiều lao động;

6. Xây dựng cơ sở hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng.

Nhà nước Việt Nam không cấp phép đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực và địa bàn gây thiệt hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, thuần phong mỹ tục và môi trường sinh thái.

Căn cứ vào quy hoạch, định hướng phát triển trong từng thời kỳ, Chính phủ ban hành danh mục dự án khuyến khích, đặc biệt, khuyến khích đầu tư nước ngoài, danh mục các lĩnh vực đầu tư nước ngoài có điều kiện, danh mục lĩnh vực không cấp phép đầu tư nước ngoài”.

2. Chính sách ưu đãi đặc biệt:

Chính phủ dự kiến quy định những chính sách, biện pháp khuyến khích và ưu đãi những dự án hướng mạnh về xuất khẩu, chuyển giao công nghệ tiên tiến, sử dụng nhiều lao động..., đồng thời cơ cấu đầu tư nước ngoài được hình thành trong mấy năm qua chứng tỏ các biện pháp khuyến khích hiện hành chưa đủ sức thu hút đầu tư nước ngoài vào một số mục tiêu ưu tiên quan trọng như trồng rừng; giống cây và con; tạo vùng nguyên liệu; chế biến nông sản, lâm sản, hải sản; đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.

Do đó, đề nghị đưa vào Luật (sửa đổi) một số quy định ưu đãi đặc biệt đối với một số dự án thuộc diện đặc biệt khuyến khích đầu tư:

- Không thu tiền thuê đất hoặc chỉ thu tượng trưng.

- Miễn thuế lợi tức tối đa đến 8 năm.

 Trên tinh thần dự kiến áp dụng các chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các dự án cần đặc biệt khuyến khích đầu tư, đề nghị bổ sung các điều khoản tương ứng trong Luật hiện hành như sau:

a) Bổ sung vào Điều 27 Luật hiện hành (Điều 36 Luật sửa đổi) một khoản:

Đối với những dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, thời gian miễn thuế lợi tức tối đa đến 8 năm, thời gian giảm thuế lợi tức tối đa đến 4 năm.

 b) Bổ sung một khoản mới vào Điều 29 Luật hiện hành (Điều 43 Luật sửa đổi):

Đối với dự án xây dựng - kinh doanh - chuyển giao và các dự án tương tự; dự án đầu tư vào miền núi, nông thôn, những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, Chính phủ có thể miễn hoặc giảm tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển.

3. Vấn đề miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư, xe ô tô:

Theo pháp luật đầu tư hiện hành thì thiết bị, vật tư, phương tiện vận tải nhập vào Việt Nam để góp vốn hình thành xí nghiệp đều được miễn thuế nhập khẩu.

Luật (sửa đổi) chỉ áp dụng chế độ miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, máy móc, phụ tùng để góp vốn hình thành xí nghiệp hoặc để tạo tài sản cố định thực hiện Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đồng thời, để gia tăng tỷ trọng các cơ sở cơ khí trong nước tham gia chế tạo thiết bị, máy móc, phụ tùng thay thế, dự án Luật (sửa đổi) quy định vật tư nhập khẩu để chế tạo các loại thiết bị, máy móc, phụ tùng này cũng được miễn thuế nhập khẩu.

Vật tư, ô tô do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh nhập vào phải nộp thuế nhập khẩu theo quy định chung của pháp luật, trừ vật tư nhập vào để sản xuất hàng xuất khẩu.

Việc quy định lại như vậy là một bước nhích gần quan trọng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tránh sự phân biệt và ưu đãi thái quá đã áp dụng trong những năm đầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng là biện pháp ngăn chặn chủ đầu tư nước ngoài lạm dụng nhập vật tư, ô tô miễn thuế để bán lại trong nước thu chênh lệch.

Do vậy, Điều 35 của Luật hiện hành được sửa lại thành Điều 44 Luật sửa đổi như sau:

Thiết bị, máy móc, phụ tùng nhập khẩu vào Việt Nam để đầu tư xây dựng cơ bản hình thành doanh nghiệp, hoặc để tạo tài sản cố định thực hiện Hợp đồng hợp tác kinh doanh, hoặc mở rộng quy mô dự án đầu tư được miễn thuế nhập khẩu.

Vật tư nhập khẩu để chế tạo thiết bị, máy móc, phụ tùng nói trên được miễn thuế nhập khẩu.

Nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu.

4. Vấn đề tái đầu tư:

Theo quy định hiện hành (điểm 8 của Điều 2, Điều 32), khái niệm về tái đầu tư và chính sách hoàn thuế cho phần lợi nhuận tái đầu tư có những điểm chưa rõ, chưa cụ thể hoặc không còn thích hợp. Việc đương nhiên và đồng loạt hoàn lại toàn bộ thuế lợi tức cho lợi nhuận tái đầu tư, không phân biệt lĩnh vực đầu tư và loại dự án đầu tư trong nhiều trường hợp là không có lợi cho nước ta.

Do vậy, Dự án Luật (sửa đổi) xác định lại theo tinh thần sau:

- Tái đầu tư là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài dùng lợi nhuận thu được từ các hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam để tăng phần vốn của mình trong dự án đang hoạt động hoặc đầu tư mới tại Việt Nam.

- Việc hoàn thuế lợi tức cho phần lợi nhuận tái đầu tư chỉ áp dụng đối với các dự án thuộc diện được khuyến khích đầu tư. Tỷ lệ hoàn thuế tùy mức độ quan trọng về mục tiêu, địa bàn, hình thức và thời hạn tái đầu tư.

Do đó, đề nghị sửa Điều 32 Luật hiện hành (Điều 39 Luật sửa đổi) như sau:

Trường hợp tái đầu tư vào các dự án khuyến khích đầu tư sẽ được hoàn lại một phần hoặc toàn bộ số tiền thuế lợi tức đã nộp cho số lợi nhuận tái đầu tư, Chính phủ quy định tỷ lệ hoàn thuế tùy thuộc vào lĩnh vực, địa bàn, hình thức và thời hạn tái đầu tư.

5. Vấn đề cân đối ngoại tệ:

Bổ sung vào Điều 11 của Luật hiện hành quy định về việc Nhà nước hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho các công trình hạ tầng, sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu và các công trình đáng được đặc biệt khuyến khích khác. Nghị định 18/CP đã có quy định tương tự, nhưng cần mở rộng ra cho các hình thức đầu tư nói chung, không chỉ riêng cho xí nghiệp liên doanh, và nên đưa vào Luật (sửa đổi) như là một bảo đảm hỗ trợ của Nhà nước. Do đó, Điều 30 của Dự án Luật quy định như sau:

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên nước ngoài tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh xác định tỷ lệ xuất khẩu và tỷ lệ tiêu thụ sản phẩm tại thị trường Việt Nam trên nguyên tắc tự cân đối nhu cầu về tiền nước ngoài. Thu nhập về tiền nước ngoài bằng xuất khẩu và bằng các nguồn thu hợp pháp khác của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và của Bên nước ngoài tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh phải đáp ứng được nhu cầu về tiền nước ngoài để bảo đảm hoạt động của mình.

Chính phủ Việt Nam bảo đảm hỗ trợ cân đối ngoại tệ đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu và một số công trình quan trọng khác”.

6. Chuyển giao công nghệ:

Một mục tiêu quan trọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là hướng mạnh vào việc nhập công nghệ tiên tiến từ các nước có công nghệ nguồn, phù hợp với xu thế đổi mới công nghệ đang diễn ra rất nhanh trên thế giới. Chính phủ thấy cần khẳng định chính sách của Nhà nước Việt Nam khuyến khích và ưu đãi việc chuyển giao nhanh công nghệ, đặc biệt là công nghệ tiên tiến. Luật hiện hành quy định quá dàn trải, do đó, tuy có hạn chế du nhập công nghệ cũ, nhưng chưa thu hút được công nghệ cao. Do vậy, Dự án Luật quy định về chuyển giao công nghệ như sau:

Việc chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam của dự án đầu tư được thực hiện dưới dạng góp vốn bằng công nghệ hoặc mua công nghệ trên cơ sở hợp đồng, phù hợp với pháp luật về chuyển giao công nghệ.

Chính phủ Việt Nam khuyến khích và ưu đãi việc chuyển giao nhanh công nghệ, đặc biệt là công nghệ tiên tiến”.

7. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp:

Vấn đề này có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc thu hút đầu tư của các công ty đa quốc gia, các công ty lớn của Nhật Bản, Mỹ và các nước tư bản phát triển vào các dự án sử dụng kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao. Vì vậy, dự án Luật (sửa đổi) bổ sung một điều, khoản (Điều 21) như sau:

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam”.

8. Chính sách đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài:

Ngày 27 tháng 5 năm 1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 29/CP quy định chính sách khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Trên cơ sở đó, Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư và Ủy ban về người Việt Nam định cư ở nước ngoài trước đây đã ban hành Thông tư liên Bộ 479/TTTL để cụ thể hóa chính sách đó, cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài chọn áp dụng hoặc Luật đầu tư nước ngoài, hoặc Luật khuyến khích đầu tư trong nước và được giảm 20% thuế lợi tức so với dự án đầu tư nước ngoài cùng loại. Đề nghị “luật hóa” quy định trên bằng Điều 41 (mới) với nội dung sau:

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo quy định của Luật này được giảm 20% thuế lợi tức so với các dự án cùng loại, trừ trường hợp được hưởng mức thuế lợi tức 10%; được hưởng mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 5% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài”.

9. Về vấn đề thống nhất thuế suất thuế lợi tức đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước:

Trong khi chờ ban hành các văn bản cải cách thuế, áp dụng chung cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, để tránh xáo trộn không cần thiết, Chính phủ đề nghị Luật (sửa đổi) vẫn giữ lại các thuế suất thuế lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh đã được quy định tại Luật đầu tư nước ngoài hiện hành.

II- NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ HÌNH THỨC ĐẦU TƯ

1. Luật (sửa đổi) vẫn giữ các hình thức cơ bản:

- Liên doanh;

- 100 % vốn nước ngoài;

-Hợp đồng hợp tác kinh doanh.

Ngoài ra, áp dụng các phương thức tổ chức đầu tư như khu chế xuất, khu công nghiệp, hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao và các hợp đồng tương tự.

2. Vấn đề khu công nghiệp:

Đây là một hình thức tổ chức đầu tư để tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đầu tư của các doanh nghiệp trong nước trên những khu vực được quy hoạch có đầy đủ cơ sở hạ tầng để các nhà đầu tư có thể nhanh chóng triển khai dự án theo quy hoạch cụ thể đã được phê duyệt. Chính phủ đề nghị Quốc hội “luật hóa” vấn đề khu công nghiệp (Điều 18 Dự án Luật), cũng như đã “luật hóa” vấn đề khu chế xuất tại kỳ họp Quốc hội tháng 12 năm 1992 khi Quốc hội quyết định bổ sung phương thức đầu tư khu chế xuất vào Luật đầu tư nước ngoài.

Đồng thời, Chính phủ đề nghị bổ sung vào Luật khuyến khích đầu tư trong nước những nội dung khuyến khích và ưu đãi bằng chính sách và cơ chế thích hợp các doanh nghiệp trong nước đầu tư xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, khu chế xuất, cũng như đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất.

3. Về hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao và các hợp đồng tương tự khác:

Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài đã được Quốc hội quyết định bổ sung vào Luật đầu tư nước ngoài tại kỳ họp tháng 12 năm 1992.

Cho đến nay, một dự án cấp nước tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa đã được cấp Giấy phép và bắt đầu triển khai. Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận về nguyên tắc dự án cảng trung chuyển Vũng Tàu, chấp thuận chọn đối tác nước ngoài để ký hợp đồng đối với dự án nhà máy Nhiệt điện công suất 300 kW tại Quảng Ninh. Một số dự án phát điện bằng khí, cấp thoát nước, xử lý rác cũng đang được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm.

Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, để sớm có được các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ công cộng trong điều kiện thiếu vốn đầu tư, nhiều nước như Thái Lan, Philíppin, Trung Quốc, Inđônêxia, Ấn Độ, Pakixtan, kể cả Hồng Kông, ngoài phương thức Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, đang áp dụng các phương thức đầu tư tương tự như: xây dựng - chuyển giao - kinh doanh; xây dựng - chuyển giao....

Ở nước ta, đã xuất hiện những dự án đang được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đầu tư theo những phương thức tương tự như vậy (dự án cầu Thủ Thiêm, nhà ga hàng không...).

Thực hiện theo các hình thức hợp đồng này ta sẽ sớm có các công trình cơ sở hạ tầng theo đúng quy hoạch và ta sẽ được bàn giao làm chủ việc vận hành các công trình này ngay sau khi chủ đầu tư nước ngoài xây dựng xong. Để nhà đầu tư nước ngoài thu hồi được vốn và có một phần lợi nhuận thỏa đáng, phía ta sẽ cho phép họ được phát triển một dự án khác theo đúng quy hoạch và với những điều kiện hai bên thỏa thuận.

Do vậy, Điều 19 Dự án Luật sửa đổi có nội dung như sau:

Các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư xây dựng công trình hạ tầng trên cơ sở ký kết với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao và các hợp đồng tương tự: hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, hợp đồng xây dựng - chuyển giao. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài được quy định trong hợp đồng phù hợp với quy định của Luật này.

Căn cứ vào những nguyên tắc quy định trong Luật này, Chính phủ quy định cụ thể về đầu tư theo hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, hợp đồng xây dựng - chuyển giao.

4. Vấn đề bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu hợp tác đầu tư với nước ngoài:

Luật hiện hành chỉ cho phép các doanh nghiệp được hợp tác đầu tư với nước ngoài. Trong quá trình lấy ý kiến xây dựng dự án Luật, nhiều Bộ, ngành, cơ sở, nhiều nhà khoa học ủng hộ việc cho một số bệnh viện, trường học và viện nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và công nghệ được liên doanh với các đối tác nước ngoài để thu hút vốn, công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại để có điều kiện phát triển, đáp ứng yêu cầu của xã hội.

Trên thực tế, do yêu cầu cấp bách của việc tổ chức khám và chữa bệnh cho người nước ngoài, dạy học cho con em người nước ngoài, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận cho thí điểm thành lập một vài bệnh viện và trường học liên doanh tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Do vậy, đề nghị bổ sung vào Dự án Luật (sửa đổi) Điều 62 với nội dung như sau:

Căn cứ vào những quy định trong Luật này, Chính phủ quy định việc bệnh viện; trường dạy nghề; trường học và viện nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ, khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên hợp tác đầu tư với nước ngoài.

5. Về doanh nghiệp liên doanh mới:

Đoạn 2, Điều 6 Luật hiện hành quy định: “Xí nghiệp liên doanh được hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài để thành lập xí nghiệp liên doanh mới tại Việt Nam”.

Trên thực tế, do nhu cầu hoàn chỉnh hoặc mở rộng sản xuất của mình, đã có xí nghiệp liên doanh đang hoạt động xin được liên doanh tiếp với doanh nghiệp trong nước để thành lập doanh nghiệp liên doanh mới (trường hợp gần đây nhất là nhà máy xi măng Nghi Sơn xin được liên doanh với doanh nghiệp khai thác đất sét tại Nghệ An...). Tuy xét thấy là cần thiết, nhưng chưa có quy định nào của Luật hiện hành để điều chỉnh, vì vậy, đề nghị bổ sung Điều 6 của Luật hiện hành quy định cho phép doanh nghiệp liên doanh đang hoạt động được liên doanh tiếp cả với một hoặc nhiều doanh nghiệp Việt Nam để thành lập doanh nghiệp liên doanh với điều kiện:

- Vốn đầu tư của liên doanh mới không ảnh hưởng tới vốn đăng ký của liên doanh đã được cấp giấy phép.

- Trong liên doanh mới, phần vốn góp của tổ chức, cá nhân nước ngoài vẫn phải bảo đảm không thấp hơn 30% vốn pháp định như đã được quy định chung tại Điều 8 Luật hiện hành.

6. Chi nhánh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:

Trong thực tiễn hoạt động đầu tư, do nhu cầu kinh doanh, một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài hợp doanh xin được mở chi nhánh để tiến hành các hoạt động kinh doanh như: tổ chức sản xuất, phân phối và tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất. Loại hình chi nhánh này khác với loại hình chi nhánh do các công ty mẹ ở nước ngoài thành lập, không phải là pháp nhân Việt Nam và vì vậy, sẽ do Luật thương mại điều chỉnh.

Do đó, Dự án Luật (sửa đổi), bổ sung điều khoản (Điều 29) cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài hợp doanh được mở chi nhánh với các điều kiện: Chi nhánh phải hoạt động theo đúng mục tiêu quy định trong Giấy phép đầu tư, được Ủy ban nhân dân địa phương chấp thuận và được cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài chuẩn y.

III- TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

1. Vấn đề góp vốn:

1.1. Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất:

 Chính phủ đề nghị Quốc hội tiếp tục cho phép Bên Việt Nam được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất.

Điều 7 Luật hiện hành quy định: “Bên Việt Nam tham gia xí nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng: ...giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ Việt Nam”.

Hiện nay, Nhà nước ta đã ban hành Luật đất đai, tuy nhiên, các văn bản dưới Luật còn đang trong quá trình hoàn thiện. Để bảo đảm tính thống nhất giữa pháp luật về đầu tư nước ngoài với pháp luật về đất đai, Chính phủ đề nghị sửa lại Điều 7 của Luật hiện hành như sau:

... Bên Việt Nam tham gia doanh nghiệp liên doanh được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

Chính phủ đề nghị trong Luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) chỉ quy định chung như vậy, còn doanh nghiệp nào được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, loại đất nào được góp vốn, trình tự, thủ tục góp vốn, việc thu tiền cho ngân sách nhà nước đối với giá trị quyền sử dụng đất dùng để góp vốn liên doanh... thì để pháp luật về đất đai quy định.

Ngoài ra, Chính phủ dự kiến trong Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sẽ có những quy định để từng bước xóa bỏ cơ chế hễ doanh nghiệp nào có đất thì doanh nghiệp đó đương nhiên trở thành đối tác đầu tư với nước ngoài, bất kể tính chất của dự án liên doanh.

1.2. Cho Bên nước ngoài góp vốn bằng tiền Việt Nam:

Nhằm hỗ trợ cho việc tự cân đối ngoại tệ theo quy định tại Điều 11 Luật hiện hành và để khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tái đầu tư vào các mục tiêu được khuyến khích, dự thảo Luật quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài được góp vốn bằng tiền Việt Nam trong trường hợp có đủ các điều sau đây:

- Tiền Việt Nam dùng để góp vốn phải là tiền thu được từ các hoạt động đầu tư tại Việt Nam, gồm lợi nhuận và/hoặc tiền thu được từ chuyển nhượng, thanh lý công trình đầu tư, không bao gồm các khoản tiền Việt Nam thu được từ những hoạt động khác như thương mại, tín dụng, thừa kế...

- Đầu tư vào các dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư.

Do đó, bổ sung Điều 7 của Luật hiện hành với nội dung sau:

Bên nước ngoài tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng:... Tiền nước ngoài, tiền Việt Nam có nguồn gốc từ đầu tư tại Việt Nam...”.

2. Về nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị doanh nghiệp liên doanh:

Điều 13 Luật hiện hành quy định: “Những vấn đề quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của xí nghiệp liên doanh như phương hướng hoạt động, kế hoạch kinh doanh, cán bộ chủ chốt của xí nghiệp do Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc nhất trí”.

Về thực chất, đây là một quy định nhằm dành cho Bên Việt Nam quyền phủ quyết trên những vấn đề xét thấy có thể gây tổn thất đến lợi ích của mình mà không có khả năng dành đa số phiếu để bác bỏ do tỷ lệ góp vốn thường quá thấp so với bên nước ngoài. Nhưng quy định này không được nhiều nhà đầu tư nước ngoài đồng tình.

Dự kiến trong một thời gian tương đối dài trước mắt, tỷ lệ góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh nói chung vẫn chưa thay đổi được một cách có lợi cho Bên Việt Nam, nên về cơ bản vẫn cần phải duy trì quy định trên. Tuy nhiên, do quy định trong Luật quá chung, còn quy định chi tiết trong Nghị định 18/CP hướng dẫn thi hành Luật phần nào lại rộng, bao gồm cả một số vấn đề không nhất thiết phải theo nguyên tắc nhất trí như: quyết định phương hướng, kế hoạch sản xuất, vay vốn lưu động, cử và miễn nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị (thực chất, Chủ tịch Hội đồng quản trị không phải do các thành viên Hội đồng quản trị bầu ra, mà do các bên liên doanh cử luân phiên).

Chính phủ cho rằng, chỉ cần quy định những vấn đề phải áp dụng nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị như: bổ nhiệm, miễn nhiệm tổng giám đốc, phó tổng giám đốc thứ nhất, kế toán trưởng; quyết toán nghiệm thu công trình; quyết toán thu chi hàng năm; vay vốn đầu tư. Các vấn đề khác sẽ áp dụng nguyên tắc đa số 2/3.

Do đó, Điều 14 Dự án Luật quy định như sau:

Những vấn đề quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp liên doanh gồm: sửa đổi, bổ sung điều lệ doanh nghiệp; bổ nhiệm, miễn nhiệm tổng giám đốc, phó tổng giám đốc thứ nhất, kế toán trưởng; duyệt quyết toán thu chi tài chính hàng năm và quyết toán công trình; vay vốn đầu tư do Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc nhất trí giữa các thành viên Hội đồng quản trị có mặt tại cuộc họp đại diện cho các Bên.

Những quyết định khác của Hội đồng quản trị có giá trị khi được ít nhất hai phần ba số thành viên của Hội đồng quản trị đại diện của các Bên liên doanh có mặt chấp thuận”.

3. Thuế lợi tức trong trường hợp chuyển nhượng vốn:

Trong quá trình triển khai thực hiện dự án sau khi nhận được Giấy phép đầu tư hoặc trong quá trình kinh doanh, có những trường hợp nhà đầu tư nước ngoài xin phép chuyển nhượng vốn của mình.

Điều 30 Nghị định 18/CP quy định: “Trong trường hợp giá trị chuyển nhượng cao hơn giá trị ban đầu thì Bên chuyển nhượng phải nộp thuế theo pháp luật Việt Nam”. Thông tư số 215/UB-LXT ngày 08 tháng 02 năm 1995 của Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư và tiếp theo đó tại Thông tư số 96/TC-TCT ngày 30 tháng 12 năm 1995 của Bộ Tài chính đã quy định mức thuế đó bằng 25% phần chênh lệch do chuyển nhượng.

Các quy định trên đây là hợp lý và trên thực tế đã được thực hiện, nhưng không được quy định trong Luật đầu tư nước ngoài và trong các luật thuế. Do vậy, Luật (sửa đổi) cần “luật hóa” quy định trên với nội dung: Bên chuyển nhượng phải nộp thuế lợi tức trên phần chênh lệch với thuế suất là 25%. Để khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài chuyển nhượng cho Bên Việt Nam, Luật sửa đổi quy định không đánh thuế chuyển nhượng trong những trường hợp chuyển nhượng cho Bên Việt Nam.

Để kiểm soát được việc chuyển nhượng vốn, Luật sửa đổi vẫn giữ lại điều quy định: Các bên chỉ được chuyển nhượng vốn khi cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài chuẩn y.

Do đó, Điều 31 Dự án Luật có nội dung như sau:

Các Bên tham gia liên doanh có quyền chuyển nhượng vốn của mình trong doanh nghiệp liên doanh, nhưng phải ưu tiên cho Bên liên doanh kia. Trong trường hợp chuyển nhượng cho Bên thứ ba thì điều kiện chuyển nhượng không được thuận lợi hơn so với điều kiện đã đặt ra cho Bên liên doanh kia. Việc chuyển nhượng phải được các Bên liên doanh nhất trí.

...

Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có quyền chuyển nhượng vốn của mình, nhưng phải ưu tiên cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Việc chuyển nhượng vốn không được làm thay đổi mục tiêu ban đầu của dự án và chỉ có hiệu lực sau khi cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài chuẩn y hợp đồng chuyển nhượng vốn.

Trong trường hợp chuyển nhượng vốn có phát sinh chênh lệch cao hơn giá trị ban đầu thì Bên chuyển nhượng nộp thuế lợi tức trên phần chênh lệch với thuế suất là 25%, trừ trường hợp chuyển nhượng cho các doanh nghiệp Việt Nam.

4. Về chế độ kế toán và thống kê:

Chính phủ cho rằng, chỉ nên khuyến khích mà chưa nên bắt buộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh phải áp dụng thống nhất chế độ kế toán và thống kê Việt Nam, vì trong nhiều trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện chế độ kế toán phù hợp với chế độ kế toán của công ty mẹ; một số nước áp dụng năm tài chính không theo năm dương lịch.

Do vậy, về chế độ kế toán thống kê, Điều 34 Dự án Luật (sửa đổi) quy định như sau:

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh áp dụng chế độ kế toán theo quy định của pháp luật Việt Nam, hoặc theo những nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế được Bộ Tài chính chấp thuận,

Báo cáo tài chính hằng năm phải được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập được phép hoạt động tại Việt Nam.

Báo cáo tài chính hằng năm phải gửi cho cơ quan Tài chính và cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài”.

5. Về bảo hiểm:

Chính phủ cho rằng, tài sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải được bảo hiểm tại công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc tại các công ty bảo hiểm khác được phép hoạt động tại Việt Nam.

Do đó, Điều 49 Dự án Luật (sửa đổi) có nội dung như sau:

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Bên nước ngoài tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh, bảo hiểm tài sản và trách nhiệm dân sự tại các công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc tại các công ty bảo hiểm khác được phép hoạt động tại Việt Nam”.

IV- QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

1. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước:

Như đã báo cáo với Quốc hội, một yêu cầu của việc sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài lần này phải nhằm khắc phục những thiếu sót, sơ hở, chấm dứt tình trạng bất cập hiện nay, tạo cơ sở pháp lý để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.

Để thực hiện được yêu cầu này, cần phải giải quyết những vấn đề chủ yếu dưới đây:

- Xác định chiến lược, chương trình, quy hoạch, danh mục các dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ đó, xây dựng, công bố và tổ chức thực hiện quy hoạch và danh mục các dự án cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo ngành và lãnh thổ; xác định rõ những dự án các doanh nghiệp trong nước tự đầu tư, các dự án cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

- Xác định các lĩnh vực khuyến khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư nước ngoài. Cần có sự điều chỉnh tình trạng đầu tư nước ngoài chủ yếu theo bề rộng để chuyển sang đầu tư với hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn, tập trung vào những mục tiêu trọng điểm và ưu tiên phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

- Xác định hệ thống công cụ bảo đảm quản lý quá trình triển khai thực hiện dự án đầu tư, trong đó quan trọng nhất là các công cụ: kiểm toán, giám định, nghiệm thu, đấu thầu, kế toán, bảo hiểm...

- Giải quyết kịp thời, thỏa đáng các yêu cầu của nhà đầu tư trong và ngoài nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

- Nâng cao hiệu lực công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra. Để làm được việc này, cần có quy chế và quy trình thanh tra, kiểm tra để chủ đầu tư tuân thủ nghiêm túc Giấy phép đầu tư, Luật đầu tư nước ngoài, các pháp luật khác có liên quan (pháp luật lao động, pháp luật đất đai, pháp luật về thuế, pháp luật môi trường, Luật công đoàn...) và chịu sự chế tài của các pháp luật đó.

- Kịp thời đánh giá, phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư nước ngoài để có những chủ trương, giải pháp xử lý thích hợp.

Hiện nay, nổi lên vấn đề phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, Ủy ban nhân dân các địa phương trong công tác quản lý nhà nước hoạt động đầu tư nước ngoài. Dự án Luật (sửa đổi) quy định:

- Cơ quan nhà nước quản lý về đầu tư nước ngoài là Bộ Kế hoạch và Đầu tư có nhiệm vụ làm đầu mối, chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, soạn thảo chính sách, dự án pháp luật, lập quy hoạch, kế hoạch, danh mục dự án, phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư nước ngoài.

- Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước theo luật định đối với hoạt động đầu tư nước ngoài trên địa bàn lãnh thổ. Ngoài việc phối hợp với cơ quan nhà nước quản lý về đầu tư nước ngoài và các Bộ, ngành có liên quan trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch, thẩm định dự án; Ủy ban nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương có đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm tổ chức và thực hiện giám sát, thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật và các thủ tục hành chính, xử lý các vi phạm, quản lý các dự án đầu tư sau khi được cấp Giấy phép đầu tư, thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn lãnh thổ.

Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối thực hiện cơ chế một cửa tại địa phương, giúp việc Ủy ban nhân dân thực hiện các chức năng, nhiệm vụ nói trên.

Như vậy, về quản lý nhà nước, các địa phương có nhiều quyền hạn và trách nhiệm đối với hoạt động đầu tư nước ngoài trong tất cả các khâu, từ hình thành, thẩm định, cấp Giấy phép đầu tư và đặc biệt là quản lý hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài.

- Các Bộ, ngành thực hiện quản lý nhà nước theo chức năng và thẩm quyền do luật định trong việc phối hợp với cơ quan nhà nước quản lý về đầu tư nước ngoài và các địa phương giải quyết các vấn đề liên quan đến quy hoạch, kế hoạch kêu gọi đầu tư, triển khai, thực hiện dự án, kiểm tra, thanh tra chuyên ngành, được nhận đầy đủ thông tin về sự hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc lĩnh vực Bộ, ngành phụ trách.

Chính phủ đề nghị bổ sung và chuẩn xác những nội dung trên đây trong Dự án Luật sửa đổi (các điều 53, 54, 55, 56 của Dự án Luật).

2. Thủ tục đầu tư:

Dự án Luật trình Quốc hội sẽ tạo cơ sở pháp lý để có một bước chuyển biến mạnh mẽ các thủ tục trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài nhằm cải thiện môi trường đầu tư.

Theo tinh thần đó, Chính phủ đề nghị đưa vào Dự án Luật những quy định về thời hạn cấp Giấy phép đầu tư, cấp các loại Giấy phép, Giấy chứng nhận, các thủ tục khác theo tinh thần rút ngắn thời gian, đơn giản hóa hơn nữa thủ tục đầu tư (các điều 57, 58 dự án Luật).

Để nâng cao trách nhiệm của viên chức, cơ quan quản lý nhà nước, Chính phủ đề nghị đưa vào Dự án Luật quy định viên chức, cơ quan nhà nước sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật trong trường hợp vi phạm quy định của Luật này; nhà đầu tư nước ngoài được quyền khiếu nại, khởi kiện trong trường hợp giải quyết chậm các thủ tục, gây phiền hà cho các nhà đầu tư... (các điều 60 và 61 dự án Luật).

3. Về thẩm quyền cấp Giấy phép đầu tư:

Đề nghị vẫn giữ nguyên tắc tập trung quyền cấp Giấy phép đầu tư vào cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, vì lẽ, việc phân cấp cấp Giấy phép sẽ dễ dẫn đến tình trạng các đối tác nước ngoài lợi dụng sự cạnh tranh giữa các ngành, các địa phương phá vỡ quy hoạch ngành và lãnh thổ, gây phương hại cho lợi ích chung của Nhà nước, cũng như các doanh nghiệp, dễ dẫn đến sự vận dụng linh động trong việc thực hiện pháp luật và chính sách về đầu tư nước ngoài. Kinh nghiệm trước đây trong việc phân cấp cấp Giấy phép xuất, nhập khẩu cũng đã cho thấy điều đó.

Tuy nhiên, để đơn giản hóa thủ tục đầu tư và phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương, Chính phủ đề nghị mở ra cơ chế cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài có thể ủy quyền cho Ủy ban nhân dân một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất cấp Giấy phép đầu tư cho một số dự án đầu tư trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch đầu tư đã được phê duyệt. Do vậy, Chính phủ đề nghị bổ sung vào dự án Luật (Điều 54) quy định như sau:

Với chức năng cơ quan quản lý nhà nước đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể ủy quyền cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất cấp Giấy phép đầu tư theo quy định của Chính phủ.

4. Giám định, nghiệm thu, đấu thầu, báo cáo tài chính:

Việc giám định, nghiệm thu, đấu thầu, báo cáo tài chính chưa được quy định đầy đủ, cụ thể trong Luật hiện hành và các văn bản dưới luật. Do vậy, để nâng cao hiệu lực pháp lý, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, cần bổ sung vào Dự án Luật những quy định chung như sau:

- Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm bảo đảm sự trung thực và chính xác trong việc xác định giá trị máy móc, thiết bị đưa vào góp vốn; khi đưa thiết bị, máy móc vào đầu tư phải có chứng chỉ của tổ chức giám định. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan quản lý đầu tư có thể yêu cầu xác định lại giá trị các khoản góp vốn.

- Thiết bị máy móc góp vốn và công trình xây dựng có giá trị lớn phải được cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư xác nhận trên cơ sở nghiệm thu của tổ chức giám định.

- Báo cáo tài chính của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh phải được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập được phép hoạt động tại Việt Nam.

- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải thực hiện quy định về đấu thầu (đấu thầu mua sắm thiết bị, đấu thầu xây dựng, đấu thầu tư vấn...) theo quy định của Chính phủ.

Do đó, đề nghị bổ sung các điều khoản liên quan vào Dự án Luật như sau:

a) Về giám định thiết bị, vật tư dùng để góp vốn, đề nghị bổ sung vào Dự án Luật Điều 9 với nội dung:

Giá trị phần góp vốn của mỗi bên trong doanh nghiệp liên doanh được xác định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm góp vốn. Tiến độ góp vốn do các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng liên doanh.

Giá trị thiết bị, máy móc dùng để góp vốn phải được một tổ chức giám định độc lập cấp chứng chỉ giám định.

Các bên chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác đối với giá trị phần vốn góp của mình. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài có quyền chỉ định một tổ chức giám định để giám định lại giá trị các khoản vốn góp của các bên.

b) Về nghiệm thu, quyết toán công trình và đấu thầu, đề nghị bổ sung vào Dự án Luật Điều 27 với nội dung:

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh sau khi hoàn thành xây dựng cơ bản hình thành doanh nghiệp phải nghiệm thu, báo cáo quyết toán công trình, có sự xác nhận của tổ chức giám định.

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh phải tiến hành đấu thầu thực hiện dự án theo quy định của Chính phủ”.

5. Chấm dứt hoạt động, rút Giấy phép, giải thể, phá sản

Vấn đề này cũng chưa được quy định đầy đủ trong Luật và các văn bản dưới Luật hiện hành. Vì vậy, Luật sửa đổi cần quy định cụ thể hơn cho phù hợp với các luật khác, trong đó có Luật phá sản doanh nghiệp. Điều 51 Dự án Luật quy định như sau:

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh kết thúc hoạt động trong những trường hợp sau:

1- Hết thời hạn hoạt động ghi trong Giấy phép đầu tư.

2- Do những nguyên nhân quy định tại hợp đồng hoặc điều lệ doanh nghiệp hoặc do đề nghị của các Bên.

3- Theo quyết định của cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài do vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam.

Trong trường hợp do lỗi của một bên dẫn tới việc giải thể doanh nghiệp, kết thúc hợp đồng trước thời hạn thì bên có lỗi phải bồi thường cho bên kia mọi thiệt hại theo thỏa thuận quy định trong hợp đồng và các quy định của pháp luật”.

V- MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC

Ngoài các kiến nghị sửa đổi, bổ sung nêu trên đây, trong quá trình nghiên cứu xây dựng Dự án Luật còn một số vấn đề khác được đặt ra như:

- Thành lập công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài.

- Cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

- Chi nhánh công ty nước ngoài (cho công ty nước ngoài đặt chi nhánh để kinh doanh tại Việt Nam).

- Thuê mua...

Những vấn đề này đang được tổ chức nghiên cứu, xử lý trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật có liên quan (Luật công ty sửa đổi, Luật thương mại...) và không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài.

Riêng về hình thức gia công, trong trường hợp góp thiết bị, máy móc và cùng chịu rủi ro, cùng chia lợi nhuận thì có thể áp dụng hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài. Những trường hợp giao nguyên liệu, lấy sản phẩm, cho thuê thiết bị, máy móc để lấy lãi mà không chia sẻ rủi ro, sẽ do Luật thương mại điều chỉnh.

Tóm lại: Dự thảo Luật sửa đổi vẫn giữ 6 Chương; có 29 Điều được sửa đổi, bổ sung ở các mức độ khác nhau và bổ sung thêm 25 Điều mới. Với những nội dung sửa đổi nói trên, Dự thảo Luật đáp ứng được những mục tiêu cụ thể sau đây:

1. Khuyến khích, thông thoáng hơn ở các nội dung:

- Có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư.

- Bảo đảm hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho các công trình hạ tầng, sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu và các công trình được khuyến khích đặc biệt khác.

- Cho Bên nước ngoài góp vốn bằng tiền Việt Nam có nguồn gốc từ đầu tư tại Việt Nam.

- Cho phép doanh nghiệp liên doanh được hợp tác với tổ chức kinh tế Việt Nam để thành lập doanh nghiệp liên doanh mới.

- Cụ thể hóa, rút hẹp đề mục các vấn đề phải theo nguyên tắc nhất trí.

- Luật hóa vấn đề khu công nghiệp có yếu tố đầu tư nước ngoài.

- Cho phép áp dụng hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, hợp đồng xây dựng - chuyển giao.

- Định rõ việc Chính phủ ban hành danh mục dự án khuyến khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư; danh mục lĩnh vực đầu tư nước ngoài có điều kiện; danh mục lĩnh vực không cấp Giấy phép đầu tư nước ngoài, giúp cho nhà đầu tư nước ngoài thuận lợi hơn trong việc tìm hiểu cơ hội và định hướng đầu tư.

- Đơn giản hóa thủ tục đầu tư; rút ngắn thời gian thẩm định cấp Giấy phép.

- Định rõ mức thuế lợi tức khi chuyển nhượng vốn là 25% mức chênh lệch phát sinh; trừ trường hợp chuyển nhượng cho các bên Việt Nam.

- Đồng bộ hóa với hệ thống pháp luật trong nước, nhích lại gần hơn giữa pháp luật đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Cụ thể hóa, chuẩn xác hóa nhiều nội dung, khái niệm làm cho Luật rõ ràng, trong sáng hơn.

2. Hạn chế sơ hở, chặt chẽ hơn ở các nội dung:

- Bỏ quy định miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư, ô tô,...

- Việc hoàn thuế lợi tức cho phần lợi nhuận tái đầu tư chỉ áp dụng đối với các dự án thuộc diện được khuyến khích đầu tư. Tỷ lệ hoàn thuế tùy thuộc mức độ quan trọng về mục tiêu, địa bàn đầu tư, hình thức, thời hạn tái đầu tư...

- Bổ sung các quy định về giám định, nghiệm thu, đấu thầu, báo cáo tài chính, kiểm toán, bảo hiểm.

- Quy định việc xử lý theo pháp luật những hành vi vi phạm Luật đầu tư nước ngoài và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.

3. Tăng cường quản lý nhà nước với các nội dung:

Quy định rõ hơn thẩm quyền, chức năng và sự phân công giữa cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong các khâu: hình thành và thẩm định dự án, cấp Giấy phép đầu tư; triển khai thực hiện dự án; giám sát, kiểm tra, thanh tra việc chủ đầu tư tuân thủ các quy định của Giấy phép đầu tư, tuân thủ pháp luật, quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Trong mỗi khâu, xác định một cơ quan chủ trì làm đầu mối theo nguyên tắc một cửa; các cơ quan khác có trách nhiệm phối hợp.

- Quy định rõ hơn cơ chế, công cụ thực hiện chức năng quản lý nhà nước (chế độ kiểm toán, giám định, nghiệm thu, đấu thầu...).

- Bổ sung, cụ thể hóa các quy định về giải quyết tranh chấp, chấm dứt hoạt động, rút Giấy phép đầu tư, thanh lý, giải thể, xử lý vi phạm, khiếu nại.

Trên đây là những nội dung chủ yếu của dự án Luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi). Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định.

 

 

Lưu tại Phòng Lưu trữ
Văn phòng Quốc hội