VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 3 1995-1996

 

BÁO CÁO THẨM TRA
CỦA ỦY BAN PHÁP LUẬT CỦA QUỐC HỘI
VỀ DỰ ÁN LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM (SỬA ĐỔI)

(Do ông Hà Mạnh Trí, Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội
đọc tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX, ngày 24-10-1996)

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Thực hiện Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội, Chính phủ đã khẩn trương chỉ đạo xây dựng Dự án Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi) từ cuối năm 1995. Ngày 29-7-1996, Dự án Luật đã được trình Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến. Sau đó, ngày 22 tháng 8 năm 1996, theo sự chỉ đạo của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Dự án Luật đã được gửi lấy ý kiến các vị đại biểu Quốc hội.

Trong quá trình soạn thảo, chuẩn bị thẩm tra Dự án Luật, Ủy ban pháp luật của Quốc hội đã có một số lần trao đổi với cơ quan soạn thảo là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, phối hợp tổ chức các đoàn đi khảo sát thực tế về tình hình thực hiện Luật tại một số khu công nghiệp, khu chế xuất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và làm việc với các cơ quan hữu quan tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Sông Bé, Bà Rịa - Vũng Tàu.

Ngày 21 tháng 9 năm 1996, Ủy ban pháp luật đã họp phiên toàn thể để thẩm tra Dự án Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi). Tham dự phiên họp của Ủy ban pháp luật có đại diện Ủy ban kinh tế và ngân sách, Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội, Bộ Quốc phòng, Ban Kinh tế Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Dự án Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi) trình Quốc hội tại kỳ họp này đã được chỉnh lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ý kiến thẩm tra của Ủy ban pháp luật, ý kiến của các Đoàn đại biểu Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội gửi về Văn phòng Quốc hội cũng như ý kiến của các địa phương và cơ sở mà Ủy ban pháp luật và Bộ Kế hoạch và Đầu tư trực tiếp đến trao đổi ý kiến. Dưới đây, chúng tôi xin báo cáo ý kiến của Ủy ban pháp luật về Dự án Luật này.

1. Về sự cần thiết sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam:

Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987 và đã được sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm 1990 và năm 1992. Luật này cùng với các văn bản dưới luật và các văn bản pháp luật liên quan đã tạo khung pháp lý cần thiết cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong những năm qua, mang lại một số kết quả bước đầu như: thu hút được một số lượng đáng kể vốn đầu tư nước ngoài, hình thành được một số cơ sở công nghiệp và cơ sở hạ tầng, tạo được các ngành nghề mới, giải quyết được một phần công ăn việc làm trong nhân dân. Bên Việt Nam cũng đã có được một số kinh nghiệm về quản lý sản xuất, kinh doanh và tiếp nhận một số kiến thức về công nghệ của nước ngoài. Đầu tư nước ngoài đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.

Tuy nhiên, Luật đầu tư nước ngoài hiện hành trong quá trình thực hiện đã bộc lộ những hạn chế và thiếu sót.

Trước hết là, Luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào cuối năm 1987, lúc đó, đất nước ta mới bắt đầu công cuộc đổi mới, chúng ta chưa có kinh nghiệm về đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài chỉ mới dừng lại ở những nguyên tắc chung, đòi hỏi phải có các nghị định của Chính phủ và nhiều thông tư của các Bộ mới thi hành được. Lúc đó, Nhà nước ta cũng chưa có đủ các văn bản pháp luật cần thiết khác như các Luật về thuế, Luật công ty, Bộ luật lao động, Bộ luật dân sự, Luật dầu khí, Luật khoáng sản, các Pháp lệnh về ngân hàng, các văn bản pháp luật khác để cùng với Luật đầu tư nước ngoài điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Việc tiếp tục ban hành các văn bản pháp luật sau đó đã góp phần tăng cường cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài, nhưng cũng bộc lộ một vấn đề khác, đó là làm sao để hệ thống pháp luật của chúng ta phải đồng bộ và thống nhất. Có những vấn đề khi nghiên cứu soạn thảo và ban hành văn bản pháp luật mới lại thấy cần phải quy định và áp dụng khác với Luật đầu tư nước ngoài như trong trường hợp cấp Giấy phép đầu tư trong lĩnh vực ngân hàng, cấp Giấy phép liên doanh cho các bệnh viện, trường học, vấn đề có hoàn thuế trong trường hợp dùng lợi nhuận để tái đầu tư trong tất cả các lĩnh vực hay không v.v..

Một hạn chế khác là Luật đầu tư nước ngoài và các văn bản dưới luật chưa quy định đầy đủ việc quản lý các hoạt động đầu tư nước ngoài sau khi được cấp Giấy phép. Việc này đã dẫn đến tình trạng là một mặt các ngành, các địa phương đã lúng túng trong việc thực hiện quyền quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài; mặt khác, các nhà đầu tư nước ngoài lại phàn nàn nhiều về các thủ tục hành chính và cách làm việc chậm trễ, thiếu phối hợp của các Bộ, Ủy ban nhân dân và các cơ quan hữu quan ở địa phương, nhất là trong các lĩnh vực xuất nhập khẩu, hải quan, ngân hàng, thuế vụ, xây dựng, địa chính, trong đó có việc kiểm tra, thanh tra, kiểm sát việc thi hành pháp luật.

Bên cạnh những khiếm khuyết về văn bản pháp luật, qua tìm hiểu tình hình thực tế, chúng tôi nhận thấy một trong những nguyên nhân làm cho việc thực hiện Luật đầu tư nước ngoài còn hạn chế là chúng ta còn thiếu quy hoạch và kế hoạch cụ thể thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó có các quy hoạch, kế hoạch về ngành, nghề, lĩnh vực cụ thể khuyến khích đầu tư (lĩnh vực nào thì để cho các nhà đầu tư Việt Nam làm, lĩnh vực nào cần liên doanh, lĩnh vực nào để cho nước ngoài đầu tư 100% vốn, lĩnh vực nào thì không cấp Giấy phép đầu tư nước ngoài v.v.). Quy hoạch sử dụng đất đai gắn liền với địa bàn trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài hiện nay cũng là một vấn đề bức xúc.

Ngoài ra, thực tế thi hành Luật đầu tư nước ngoài cũng bộc lộ những thiếu sót, sơ hở của chúng ta trong quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Việc quản lý vốn, đặc biệt là đất đai dùng để góp vốn liên doanh, việc quản lý lợi nhuận được chia cho Bên Việt Nam trong liên doanh còn thiếu chặt chẽ. Theo báo cáo của các cơ quan hữu quan ở Trung ương và địa phương thì phía Việt Nam do thiếu quy định và tổ chức thẩm định nên khó kiểm soát được việc nhập công nghệ và việc chuyển giá nội bộ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam với các công ty có quan hệ nằm trong cùng một hệ thống ở các nước khác, dẫn đến có hiện tượng chuyển giao công nghệ vào Việt Nam không đúng yêu cầu hoặc bán công nghệ, nguyên vật liệu vào Việt Nam thì đắt còn mua thành phẩm ra thì rẻ, nhằm giảm phần nộp thuế cho Nhà nước ta và phần chia cho Bên Việt Nam trong liên doanh.

Từ những thực tiễn nói trên, Ủy ban pháp luật tán thành với đề nghị của Chính phủ về sự cần thiết và mục tiêu, yêu cầu sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm tạo môi trường pháp lý hấp dẫn hơn nữa để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng cường sự hội nhập kinh tế của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời, khắc phục những thiếu sót, sơ hở và tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và các Nghị quyết khác của Đảng đã chỉ rõ.

2. Về phạm vi sửa đổi, bổ sung của dự án Luật:

Khác với hai lần trước, chỉ sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật, mục tiêu, yêu cầu lần này là cần sửa đổi một cách cơ bản để trình Quốc hội thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi). Ủy ban pháp luật nhận thấy Dự án Luật đã được chuẩn bị khá công phu. Cơ quan soạn thảo đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn 8 năm thi hành Luật đầu tư nước ngoài, tham khảo, so sánh pháp luật đầu tư nước ngoài của một số nước trong khu vực để rút ra những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung vào Luật. Dự án đã kế thừa được những nguyên tắc cơ bản và nhiều quy định của Luật hiện hành; sửa đổi, bổ sung hoặc cụ thể hóa nhiều quy định như về lĩnh vực khuyến khích đầu tư nước ngoài, lĩnh vực không cấp Giấy phép đầu tư nước ngoài; về thuế và các ưu đãi đối với nhà đầu tư nước ngoài; phương thức tổ chức đầu tư; về góp vốn và quản lý, điều hành doanh nghiệp liên doanh; về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, v.v.. Qua thảo luận, Ủy ban pháp luật nhất trí về cơ bản với phạm vi sửa đổi, bổ sung của dự án Luật; đồng thời cũng nêu nhiều ý kiến về các nội dung cụ thể của dự án Luật.

3. Về các nội dung cụ thể của dự án Luật:

a) Về lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư nước ngoài và không cấp Giấy phép đầu tư nước ngoài:

Về lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư:

Quy định về lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư là xác định định hướng và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Về cơ bản, Ủy ban pháp luật tán thành quy định của dự án Luật về các lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư: bên cạnh việc vẫn chú trọng khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng kỹ thuật hiện đại, xây dựng cơ sở hạ tầng... Dự án Luật còn quy định bổ sung một số địa bàn, lĩnh vực khác thuộc diện khuyến khích đầu tư cho phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội và thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn mới, đó là: khuyến khích đầu tư vào nuôi trồng, chế biến nông, lâm, thủy sản, các cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng, đầu tư vào miền núi, nông thôn và những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Trong những lĩnh vực khuyến khích thì trước hết khuyến khích đầu tư cho sản xuất, nhất là sản xuất hàng xuất khẩu.

Riêng đối với trường hợp dự án Luật không quy định khuyến khích lĩnh vực sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu (tại Điều 3 của Dự án Luật), Ủy ban pháp luật đề nghị cần phải cân nhắc thêm. Luật hiện hành xác định đây là một trong những lĩnh vực thuộc diện khuyến khích đầu tư và tại các điều 30 và 36 của Dự án Luật sửa đổi, lĩnh vực sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu vẫn là một trong những lĩnh vực được ưu tiên bảo đảm hỗ trợ cân đối ngoại tệ và miễn giảm thuế lợi tức. Trong phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của nước ta từ 1996 - 2000 (đã được ghi trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII) cũng đã xác định cần phải từng bước thay thế nhập khẩu những mặt hàng có thể sản xuất có hiệu quả trong nước. Một số Đoàn đại biểu Quốc hội qua góp ý kiến vào Dự thảo Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi cũng đề nghị quy định khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng hóa thay thế cho loại hàng tương ứng đang phải nhập khẩu. Vì vậy, Ủy ban pháp luật đề nghị bổ sung lĩnh vực “sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu” vào danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư, còn mức độ khuyến khích như thế nào đối với từng ngành nghề..., thì Chính phủ sẽ quy định cụ thể trong văn bản dưới Luật.

Đồng thời, Ủy ban pháp luật đề nghị có giải trình thêm về việc bỏ một số lĩnh vực được khuyến khích theo Luật đầu tư hiện hành, trong đó có việc khuyến khích sử dụng nguyên liệu và tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam.

Về lĩnh vực, địa bàn không cấp Giấy phép đầu tư:

Luật hiện hành không quy định những lĩnh vực và địa bàn không cấp Giấy phép đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, việc Nhà nước không cấp Giấy phép đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực, địa bàn nào đều được thực hiện thông qua việc xét duyệt, cấp Giấy phép. Dự thảo Luật sửa đổi khẳng định Nhà nước Việt Nam không cấp Giấy phép đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực và địa bàn gây thiệt hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, thuần phong mỹ tục và môi trường sinh thái và giao cho Chính phủ ban hành danh mục các lĩnh vực không cấp Giấy phép đầu tư nước ngoài. Ủy ban pháp luật tán thành quy định này của Dự thảo vì quy định như vậy làm cho pháp luật của ta rõ ràng hơn, giúp các nhà đầu tư nước ngoài cũng như Bên Việt Nam xác định trước lĩnh vực nào có thể được đầu tư, tránh tình trạng nhà đầu tư nước ngoài và Bên Việt Nam mất nhiều thời gian, chi phí tìm hiểu, lập dự án, sau đó lại không được cấp Giấy phép. Qua nghiên cứu, chúng tôi được biết Luật của một số nước cũng có những quy định cụ thể những lĩnh vực cấm và hạn chế đầu tư nước ngoài.

b) Về hình thức đầu tư:

Luật đầu tư nước ngoài hiện hành quy định 3 hình thức đầu tư: xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình đầu tư nước ngoài trong thời gian qua đã gửi các vị đại biểu Quốc hội thì trong 3 hình thức đầu tư, hình thức xí nghiệp liên doanh vẫn chiếm đa số (64,6% số dự án và 65,3% số vốn đầu tư; xí nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 27,1% số dự án và 17,8% số vốn đầu tư; hợp đồng, hợp tác kinh doanh chiếm tỷ lệ thấp nhất: 8,3% số dự án và 16,9% số vốn đầu tư). Tuy nhiên, những năm gần đây, có xu hướng là các nhà đầu tư nước ngoài giảm dần sự quan tâm tới hình thức liên doanh, trong khi đó số dự án 100% vốn nước ngoài tăng lên. Qua khảo sát, chúng tôi thấy có tỉnh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ gần 70% số dự án, cao hơn hẳn doanh nghiệp liên doanh. Trong một số khu công nghiệp thì tỷ lệ này còn cao hơn. Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nêu một số nguyên nhân chủ yếu, đó là:

- Sau một thời gian tiếp cận thị trường Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư châu Á đã hiểu rõ hơn về luật pháp, chính sách, thủ tục đầu tư tại Việt Nam và thấy rằng trong nhiều trường hợp, không cần thiết phải có sự hợp tác với đối tác Việt Nam nữa.

- Trong thực tiễn quản lý, điều hành xí nghiệp, đã phát sinh nhiều tranh chấp giữa Bên Việt Nam và Bên nước ngoài.

- Khả năng tham gia liên doanh của Bên Việt Nam có sự hạn chế do thiếu cán bộ, thiếu vốn đóng góp, v.v..

Ủy ban pháp luật cho rằng đây là một trong những vấn đề cần được lưu ý trong khi sửa đổi Luật lần này. Tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và các nghị quyết khác của Đảng là chú trọng khuyến khích mở rộng hình thức liên doanh trong hợp tác đầu tư với nước ngoài, tăng dần tỷ lệ góp vốn của Bên Việt Nam. Khuyến khích hình thức liên doanh để đạt các mục tiêu của Luật trong việc thu hút đầu tư nước ngoài đó là ngoài việc thu hút vốn còn có mục tiêu chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến cho Bên Việt Nam góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Ủy ban pháp luật tán thành với dự án Luật lần này đã có quy định làm cho Bên nước ngoài an tâm hơn khi tham gia liên doanh, đó là giảm bớt những vấn đề đòi hỏi phải được Hội đồng quản trị thông qua theo nguyên tắc nhất trí (Điều 14). Ngoài những vấn đề quan trọng đòi hỏi phải có sự nhất trí, chúng tôi thấy cần xem lại có nên bắt buộc các quyết định khác phải có ít nhất 2/3 số thành viên của Hội đồng quản trị đại diện của các Bên liên doanh có mặt tại cuộc họp chấp thuận hay là nên áp dụng nguyên tắc biểu quyết quá bán như các Nhà đầu tư nước ngoài có đề nghị. Ủy ban pháp luật cũng nhất trí với đề nghị của nhiều địa phương và cơ sở là nên quy định vào trong Luật và trong văn bản dưới Luật một số biện pháp khuyến khích thỏa đáng để thu hút đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh. Đó là các ưu tiên ưu đãi về hỗ trợ cân đối ngoại tệ, về tín dụng, về hoàn thuế liên quan đến tái đầu tư... Đối với hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, chúng tôi cho rằng cũng cần áp dụng các biện pháp khuyến khích và ưu đãi hơn.

c) Về các tổ chức Việt Nam được phép liên doanh với các tổ chức, cá nhân nước ngoài:

Luật hiện hành chỉ cho phép các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế được hợp tác, liên doanh với các tổ chức, cá nhân nước ngoài (Điều 2). Dự án Luật sửa đổi quy định bổ sung các tổ chức: bệnh viện, trường dạy nghề, viện nghiên cứu và trường học trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, công nghệ, khoa học tự nhiên được hợp tác đầu tư với nước ngoài. Luật giao cho Chính phủ quy định cụ thể vấn đề này trên cơ sở các nguyên tắc của Luật đầu tư nước ngoài.

Ủy ban pháp luật tán thành chủ trương cho phép các tổ chức nói trên được hợp tác đầu tư với nước ngoài. Trên thực tế, chúng ta cũng đã thực hiện thí điểm cho phép một số bệnh viện liên doanh với nước ngoài và cho phép một đối tác của Việt Nam liên doanh với nước ngoài để thành lập trường quốc tế.

Tuy nhiên, chúng tôi đề nghị Chính phủ khi quy định cụ thể việc liên doanh này cần phải tính đến một số vấn đề, đó là: hình thức tổ chức liên doanh (có tổ chức theo hình thức doanh nghiệp liên doanh hay không?); việc góp vốn liên doanh, trong đó có vấn đề góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất nên xử lý như thế nào; cán bộ, nhân viên, công chức của bệnh viện, trường, viện nghiên cứu chuyển sang làm việc cho liên doanh có được áp dụng quy chế công chức, viên chức nữa không; việc hạch toán, áp dụng các loại thuế đối với loại hình liên doanh này có gì khác với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác không?

d) Về vấn đề góp vốn của Bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất:

Luật hiện hành (Điều 7) quy định Bên Việt Nam tham gia xí nghiệp liên doanh được góp vốn pháp định bằng giá trị quyền sử dụng đất. Trên thực tế, do thiếu vốn nên hầu hết Bên Việt Nam góp vốn pháp định chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, do pháp luật của ta quy định chưa đầy đủ và có điểm còn chưa thống nhất nên trong thời gian qua, việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất cũng đã phát sinh một số vấn đề. Do đó, có ý kiến đề nghị bỏ quy định cho Bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, để công ty liên doanh thuê đất và trả tiền thuê đất cho Nhà nước.

Ủy ban pháp luật cho rằng trong điều kiện chúng ta còn thiếu vốn thì vẫn cần giữ quy định cho phép Bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Tới đây, các quy định của pháp luật về đất đai liên quan tới việc góp vốn của Bên Việt Nam bằng giá trị quyền sử dụng đất cần làm rõ một số vấn đề mà thực tế đang đặt ra, đó là:

- Việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất đối với từng loại đất (đất được thuê, đất được giao không phải trả tiền sử dụng đất, đất được giao đã trả tiền sử dụng đất).

- Bên Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế thì những đối tượng nào được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất;

- Các điều kiện cụ thể để được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; tránh một số trường hợp đã xảy ra là được tham gia liên doanh chỉ vì có quyền sử dụng đất;

- Việc xác định giá đất hợp lý và việc thu tiền đất cho ngân sách nhà nước đối với đất dùng để góp vốn liên doanh;

- Biện pháp xử lý đối với đất dùng để góp vốn liên doanh (kể cả đất thuê và đất được giao) trong trường hợp doanh nghiệp liên doanh bị phá sản.

Đồng thời, để có cơ sở cho việc xây dựng các quy định pháp luật có liên quan, Ủy ban pháp luật đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Tổng cục Địa chính khẩn trương thống kê, đánh giá việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong việc liên doanh với nước ngoài trong thời gian qua, cụ thể là về số diện tích đất được Nhà nước giao, cho thuê đã được đưa vào góp vốn liên doanh, Bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất gồm những loại doanh nghiệp nào, việc thu tiền để nộp vào ngân sách nhà nước đối với đất dùng để góp vốn liên doanh.

d) Về hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT):

Điều 19b của Luật hiện hành quy định: “Các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam xây dựng công trình hạ tầng, có thể ký kết hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam...”. Dự án Luật sửa đổi quy định thêm các hình thức hợp đồng tương tự như hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, hợp đồng xây dựng - chuyển giao và giao cho Chính phủ, căn cứ vào các nguyên tắc của Luật đầu tư nước ngoài, quy định cụ thể về đầu tư theo các loại hợp đồng này.

Ủy ban pháp luật tán thành với việc bổ sung các dạng hợp đồng: xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, xây dựng - chuyển giao nhằm đa dạng hóa các phương thức đầu tư để thu hút thêm đầu tư nước ngoài xây dựng các công trình hạ tầng, nhất là việc thu hút đầu tư thông qua các hợp đồng này vào những nơi có khó khăn và những lĩnh vực cần nhiều vốn. Tuy nhiên, qua thảo luận, có ý kiến cho rằng trong tờ trình và dự án Luật về hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, hợp đồng xây dựng - chuyển giao chưa rõ ràng, cụ thể là về nội dung và phương thức thực hiện. Trong hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) chưa được làm rõ chủ thể và nội dung kinh doanh sau khi công trình đã được chuyển giao cho Việt Nam, còn trong hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) thì chưa được làm rõ Nhà nước ta sẽ thanh toán cho nhà đầu tư nước ngoài như thế nào. Đây là những phương thức mới, ta chưa có kinh nghiệm, ngay cả hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) được bổ sung vào Luật năm 1992 nhưng tới nay mới có một dự án được cấp Giấy phép. Vì vậy, Ủy ban pháp luật đề nghị cơ quan soạn thảo ngoài giải trình bổ sung nên có bản dự thảo quy định của Chính phủ về hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh và hợp đồng xây dựng - chuyển giao để các vị đại biểu Quốc hội nghiên cứu trong quá trình thảo luận.

đ) Về khu công nghiệp:

Dự án Luật bổ sung quy định về khu công nghiệp bao gồm việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp và việc đầu tư vào khu công nghiệp.

Việc đầu tư xây dựng khu công nghiệp có 3 loại: khu công nghiệp do các nhà đầu tư trong nước xây dựng; khu công nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài xây dựng và khu công nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài liên doanh với các nhà đầu tư trong nước xây dựng. Ủy ban pháp luật tán thành phạm vi của Luật đầu tư nước ngoài không quy định về khu công nghiệp do các nhà đầu tư trong nước xây dựng cũng như việc đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam (đầu tư 100% vốn) vào khu công nghiệp mà để cho các văn bản pháp luật về đầu tư trong nước quy định. Tới đây, khi chúng ta thống nhất hệ thống pháp luật đầu tư, những quy định khác nhau đối với các nhà đầu tư cũng sẽ được giải quyết.

Qua khảo sát một số khu công nghiệp, Ủy ban pháp luật tán thành chủ trương cần thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp tập trung để thuận lợi cho việc quy hoạch về ngành, nghề, địa bàn đầu tư, xử lý chất thải công nghiệp, bảo vệ môi trường... Song về khu công nghiệp, một vấn đề cần được quan tâm là thời hạn hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp (khác với thời hạn hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngoài khu công nghiệp) cần phải được xác định tương ứng với thời hạn hoạt động của khu công nghiệp và tối đa cũng chỉ bằng thời hạn hoạt động của khu công nghiệp,

e) Về vấn đề thuế:

- Về việc hoàn thuế trong trường hợp dùng lợi nhuận tái đầu tư:

Theo quy định của Luật hiện hành, việc hoàn thuế lợi tức trong trường hợp dùng lợi nhuận để tái đầu tư được áp dụng đối với mọi lĩnh vực và mọi dự án. Trên thực tế, đã có nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dùng lợi nhuận thu được để tái đầu tư, kể cả trong các lĩnh vực, dự án thu được lợi nhuận cao như dầu khí, khách sạn ... Ủy ban pháp luật nhất trí với đề nghị của Chính phủ là việc hoàn thuế lợi tức cho phần lợi nhuận tái đầu tư chỉ áp dụng đối với các dự án thuộc diện được khuyến khích đầu tư; tùy thuộc vào lĩnh vực, địa bàn, hình thức và thời hạn tái đầu tư, tỷ lệ hoàn thuế sẽ khác nhau.

Do có sự sửa đổi, bổ sung như vậy, nên đối với các nhà đầu tư nước ngoài đã dùng lợi nhuận được chia để tái đầu tư theo các quy định hiện hành, chúng tôi đề nghị Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần trình Chính phủ các phương án cụ thể để giải quyết thỏa đáng.

- Về thuế lợi tức đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh:

Theo quy định của dự án Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi), Điều 35, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh nộp thuế lợi tức cao nhất là 25% lợi nhuận thu được. Dự án Luật cũng bổ sung quy định thuế lợi tức 25% đánh trên phần chênh lệch trong trường hợp chuyển nhượng vốn (Điều 31).

 Theo quy định của dự án Luật thuế thu nhập công ty cũng được trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp này thì sẽ áp dụng một thuế suất chung (33%) cho doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; đồng thời có một số thuế suất ưu đãi có thời hạn áp dụng cho một số ngành, lĩnh vực kinh doanh.

Nhiều ý kiến đề nghị nhân dịp sửa Luật đầu tư nước ngoài và việc xây dựng Luật thuế thu nhập công ty, cần thống nhất chủ trương về việc thu loại thuế này. Ủy ban pháp luật tán thành trước mắt vẫn áp dụng thuế lợi tức theo Luật đầu tư nước ngoài. Tới đây, khi xem xét thông qua Luật thuế thu nhập công ty sẽ tính toán việc áp dụng thống nhất loại thuế này cho các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, tại kỳ họp này, việc sửa đổi, bổ sung các quy định về thuế trong Luật đầu tư nước ngoài cũng cần phải tính đến các quy định của Dự án Luật thuế thu nhập công ty để khi Luật thuế thu nhập công ty được thông qua, sẽ không có sự khác biệt quá lớn, trước hết là mức thuế và thời hạn miễn, giảm thuế.

Về cơ quan có thẩm quyền miễn, giảm thuế:

Nhiều ý kiến trong Ủy ban pháp luật và của các Đoàn đại biểu Quốc hội đề nghị làm rõ cơ quan có thẩm quyền miễn, giảm thuế trong các điều 40, 42 của Dự án Luật. Có ý kiến đề nghị ghi rõ trong Luật là giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có ý kiến đề nghị giao vấn đề này cho Bộ Tài chính hoặc Chính phủ. Ủy ban pháp luật nhận thấy, việc miễn, giảm thuế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh có liên quan đến việc cấp Giấy phép đầu tư, nên tập trung vào một đầu mối cơ quan cấp giấy phép là Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tuy nhiên, vấn đề miễn, giảm thuế có liên quan tới thẩm quyền, chức năng của Bộ Tài chính, nên cần có ý kiến của cơ quan này. Vì vậy, đề nghị trong Dự án Luật quy định rõ là việc miễn, giảm thuế lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định sau khi thống nhất ý kiến với Bộ Tài chính.

g) Về chế độ kế toán đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh:

Theo quy định của Dự án Luật sửa đổi (Điều 34), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh có quyền lựa chọn áp dụng chế độ kế toán theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc theo những nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế được Bộ Tài chính chấp thuận. Trên thực tế, do các nhà đầu tư nước ngoài đến từ nhiều nước khác nhau nên hiện nay trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng các loại chế độ kế toán của nhiều nước khác nhau.

Qua khảo sát tại một số địa phương, nhiều ý kiến đề nghị quy định áp dụng bắt buộc chế độ kế toán Việt Nam đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vì chế độ kế toán do Bộ Tài chính nước ta ban hành và áp dụng từ ngày 01-01-1996 về cơ bản là tiên tiến. Áp dụng chế độ kế toán của Việt Nam sẽ giúp cho các cơ quan thuế, tài chính, thống kê của Việt Nam dễ nắm tình hình, nhất là để tính thuế.

Qua thảo luận, Ủy ban pháp luật thấy rằng trong điều kiện hiện nay, nên để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được quyền lựa chọn, hoặc chế độ kế toán Việt Nam, hoặc chế độ kế toán khác theo nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế được Bộ Tài chính xem xét chấp thuận. Tuy nhiên, có nên để tình trạng có quá nhiều chế độ kế toán của nước ngoài như hiện nay hay là nên chọn một hoặc hai chế độ kế toán theo khuyến nghị của các tổ chức quốc tế. Về vấn đề này, Ủy ban pháp luật đề nghị trong quá trình thảo luận cần có ý kiến giải trình thêm của Bộ Tài chính.

h) Về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài:

Trong Luật hiện hành, vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài chỉ quy định một số nguyên tắc chung, cụ thể là chỉ có một số điều quy định về cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, theo hướng tập trung việc quản lý nhà nước, trong đó có việc cấp Giấy phép vào cơ quan này. Dự án Luật sửa đổi quy định ba vấn đề lớn về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Đó là:

- Thẩm quyền cấp Giấy phép đầu tư.

- Thẩm quyền quản lý sau khi cấp Giấy phép.

- Mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở nguyên tắc về cơ chế “một cửa”.

Về cơ bản, Ủy ban pháp luật tán thành với hướng sửa đổi, bổ sung này nhằm quy định thủ tục rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, cũng tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. So với Luật hiện hành, dự án Luật đã quy định cụ thể hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, cơ quan hữu quan và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài.

Ủy ban pháp luật xin báo cáo rõ thêm một số điểm cụ thể như sau:

- Về thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư:

So với Dự thảo Luật gửi lấy ý kiến các vị đại biểu Quốc hội tháng 8 năm 1996, Dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp này đã bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 54 như sau: “Với chức năng cơ quan quản lý nhà nước đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể ủy quyền cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất cấp Giấy phép đầu tư”.

Về vấn đề này, trong quá trình soạn thảo và thẩm tra dự án Luật có ba loại ý kiến chính:

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể ủy quyền cấp Giấy phép đầu tư nhưng chỉ được ủy quyền cho các cơ quan quản lý nhà nước trong hệ thống của Bộ, chứ không thể ủy quyền cho Ủy ban nhân dân hoặc Ban quản lý khu công nghiệp.

Loại ý kiến thứ hai, đề nghị Luật quy định: đối với một số dự án có quy mô nhỏ, vốn đầu tư thấp, thì phân cấp cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp Giấy phép đầu tư trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế địa phương đã được Trung ương phê duyệt.

Loại ý kiến thứ ba, đề nghị không nên có phân cấp cấp Giấy phép đầu tư mà tập trung quyền này vào cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy phép.

Ủy ban pháp luật đề nghị: về nguyên tắc, cần tập trung quyền cấp Giấy phép đầu tư vào cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài là Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đồng thời, tùy theo tính chất và quy mô của dự án, có thể phân cấp cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất cấp Giấy phép đầu tư trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch đầu tư đã được phê duyệt. Việc phân cấp cụ thể đề nghị Quốc hội giao cho Chính phủ quy định.

- Về kỹ thuật thể hiện nội dung quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài:

Do có sự sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, Ủy ban pháp luật thấy có thể nghiên cứu trình bày lại chương quản lý nhà nước cho phù hợp hơn (như các luật đã được ban hành). Trước hết, cần có một điều về nội dung quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài trong đó quy định Chính phủ có trách nhiệm quản lý thống nhất hoạt động đầu tư nước ngoài, sau đó mới quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ hữu quan và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và sự phối hợp giữa các cơ quan này trong việc quản lý các dự án đầu tư nước ngoài, trước hết là việc kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý lao động, về công nghệ - môi trường, về thuế ...

Trên cơ sở các điều về phân định quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước hữu quan, sẽ làm rõ được quy định về thủ tục hành chính về đầu tư nước ngoài, trong đó có những quy định cơ bản về thủ tục cấp giấy phép.

i) Về quy định của Luật cho phép Chính phủ có thể ký với Chính phủ nước ngoài các hiệp định về hợp tác đầu tư:

Luật hiện hành (Điều 40) quy định: “Căn cứ vào những nguyên tắc quy định trong Luật này, Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể ký kết với Chính phủ nước ngoài những hiệp định về hợp tác đầu tư phù hợp với quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với mỗi nước”.

Điều 63 của Dự án Luật (sửa đổi) gồm hai đoạn. Đoạn 1 về cơ bản vẫn giữ nội dung của Điều 40 của Luật hiện hành, nhưng có thay các chữ “căn cứ vào những nguyên tắc quy định trong Luật này” bằng các chữ “căn cứ vào Luật này”. Đoạn 2 của Điều này quy định:

“Trường hợp các quy định của Luật này trái với những quy định tại các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia thì sẽ áp dụng quy định của Điều ước quốc tế”.

Ủy ban pháp luật nhận thấy cách quy định như Dự án Luật tại Điều 63 sẽ dẫn đến cách hiểu khác nhau, thậm chí có ý kiến cho là có sự mâu thuẫn giữa hai đoạn này của Điều luật. Vì nếu đã nói là căn cứ vào Luật tức là không chỉ căn cứ vào các nguyên tắc mà còn phải căn cứ vào các quy định cụ thể thì không thể ký điều ước quốc tế với những quy định trái Luật được.

Do đó, Ủy ban pháp luật đề nghị giữ nguyên Điều 40 của Luật hiện hành, vì Điều này về mặt pháp lý và trên thực tế đã giao quyền cho Chính phủ ta ký kết các hiệp định về hợp tác đầu tư với nước ngoài, trong đó có những quy định ưu đãi hơn quy định của Luật.

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Như trên chúng tôi đã báo cáo, việc trình Quốc hội xem xét thông qua Luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) lần này là cần thiết. Tuy nhiên, kinh nghiệm 8 năm qua cho thấy chỉ riêng Luật đầu tư nước ngoài và Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật này cũng chưa đủ. Muốn thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài và quản lý được hoạt động đầu tư nước ngoài thì cần phải có một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ về nhiều lĩnh vực. Vì vậy, đồng thời với việc sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lần này, đề nghị Chính phủ sớm cho rà soát các quy định pháp luật có liên quan tới đầu tư nước ngoài như quy định về xuất, nhập khẩu, thủ tục hải quan, giao đất, cho thuê đất và giải phóng mặt bằng xây dựng, chuyển giao công nghệ, đánh giá tác động môi trường để sửa đổi, bổ sung hoặc trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung cho nhất quán với Luật đầu tư nước ngoài. Đồng thời, cần giảm dần sự khác biệt giữa các quy định áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài và các quy định áp dụng cho nhà đầu tư trong nước, tiến tới chủ yếu áp dụng một mặt bằng pháp luật chung cho các nhà đầu tư.

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Trên đây là ý kiến của Ủy ban pháp luật về những vấn đề chủ yếu của Dự án Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi) chúng tôi xin trình Quốc hội. Đối với những ý kiến về những vấn đề cụ thể của dự án Luật, chúng tôi sẽ cùng với cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu tiếp thu ý kiến của các Đoàn đại biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội để chỉnh lý Dự án Luật trình Quốc hội xem xét và quyết định.

 

   

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội