BÁO CÁO
CÔNG TÁC
CỦA QUỐC HỘI NHIỆM KỲ KHÓA IX (1992-1997)
(Do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh trình bày tại
kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX, ngày 02-4-1997)
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa các vị khách quý,
Được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra vào ngày 19-7-1992 và hoạt động theo
tinh thần của Hiến pháp năm 1992, Quốc hội khóa IX có nhiệm vụ tiếp tục thể
chế hóa cương lĩnh và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới sâu sắc và toàn diện, phát huy vai trò của
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Gần 5 năm qua, cùng với toàn Đảng, toàn dân, các cơ quan
khác trong bộ máy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, Quốc
hội đã không ngừng phấn đấu, góp phần quan trọng vào những thành tựu đạt
được sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng và 10 năm
đổi mới của đất nước ta.
Tại kỳ họp này, chúng ta sẽ đánh giá toàn diện những việc đã làm được trong
nhiệm kỳ qua, trên cơ sở đó có những kiến nghị về việc tiếp tục đổi mới tổ
chức và hoạt động của Quốc hội trong thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với tinh thần đó, thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội, tôi xin trình Quốc hội
Báo cáo công tác của Quốc hội nhiệm kỳ khóa IX.
I-
VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI
1.
Về lập pháp
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi chúng ta phải tạo ra khuôn khổ
pháp lý phù hợp, bảo đảm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đây là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu mà Quốc hội phải đảm nhiệm. Xác định rõ trách nhiệm đó, Quốc
hội khóa IX đã tập trung thời gian, trí lực để đẩy mạnh hoạt động lập pháp,
thể chế đường lối đổi mới trên cơ sở Nghị quyết của Đại hội lần thứ VI, lần
thứ VII, lần thứ VIII của Đảng và Hiến pháp năm 1992 và đã đạt được kết quả
đáng khích lệ. 36 luật, bộ luật và 43 pháp lệnh đã được ban hành, trong đó
có 2 bộ luật lớn là Bộ luật lao động, Bộ luật dân sự, cùng nhiều dự thảo văn
bản pháp luật khác được xem xét, cho ý kiến trong nhiệm kỳ qua, thể hiện sự
cố gắng lớn của Quốc hội khóa IX, góp phần khẳng định vai trò của Quốc hội
trong công tác lập pháp.
- Về lĩnh vực kinh tế: Quốc hội đã ưu tiên ban hành các văn bản cần
thiết, thiết lập hệ thống chính sách nhất quán, tạo môi trường ổn định và
thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, với vai trò chủ đạo
của kinh tế Nhà nước; góp phần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
trong đó có việc đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả nhằm mục tiêu
thúc đẩy sản xuất phát triển, huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực,
tăng tích lũy để tạo vốn cho đầu tư phát triển ... Các văn bản Luật doanh
nghiệp nhà nước, Luật hợp tác xã, Luật phá sản doanh nghiệp, Luật công ty
(sửa đổi ), Luật doanh nghiệp tư nhân (sửa đổi), Luật khuyến khích đầu tư
trong nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi), Luật ngân sách
nhà nước, các luật thuế và nhiều luật, pháp lệnh khác ra đời, tuy phạm vi
điều chỉnh khác nhau nhưng đều có chung mục đích là góp phần nâng cao năng
lực và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt
động sản xuất, kinh doanh.
Cùng với các văn bản pháp luật về kinh tế, Quốc hội đã quan tâm ban hành các
luật, pháp lệnh về đổi mới hệ thống chính trị nhằm góp phần thực hiện
tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân,
làm cho kiến trúc thượng tầng phát huy tốt vai trò thúc đẩy, mở đường cho sự
phát triển của cơ sở hạ tầng. Để đạt được mục đích này, tiếp theo việc Quốc
hội khóa VIII ban hành Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Quốc hội, Quốc hội
khóa IX đã ban hành Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân,
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân (sửa đổi), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức
Toà án nhân dân về Tòa kinh tế, Tòa hành chính và Tòa lao động... Những văn
bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan trong bộ máy nhà nước phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới.
Nhằm góp phần tạo sự chuyển biến tích cực về mặt xã hội, Quốc hội đã
quan tâm xây dựng và thông qua nhiều văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực này.
Đặc biệt Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh
hùng” và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình
liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công
giúp đỡ cách mạng, đã thể chế hóa chủ trương “đền ơn đáp nghĩa” của Đảng và
Nhà nước ta, có tác động sâu sắc về mặt chính trị - xã hội, phát huy hiệu
lực sâu rộng trong cuộc sống, được toàn dân hưởng ứng.
Ngoài ra, Quốc hội đã chú ý xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật liên
quan đến việc lập lại trật tự, kỷ cương, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng - an ninh,
tạo thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới. Đó là Bộ luật lao động, Bộ luật
dân sự, Luật nghĩa vụ quân sự (sửa đổi), Pháp lệnh dân quân tự vệ, Pháp lệnh
bảo vệ công trình quốc phòng và khu vực quân sự, Nghị quyết về thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu ...
Do quán triệt các quan điểm của Đảng về phát triển các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và bám sát yêu cầu của cuộc sống, coi
trọng tổng kết thực tiễn đất nước, kết hợp với tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm nước ngoài ... nên các luật, pháp lệnh được ban hành trong thời gian
qua nhìn chung có chất lượng tốt, trong đó có những văn bản lớn như Bộ luật
dân sự, Bộ luật lao động.
Nhìn chung,
hoạt động lập pháp của Quốc hội trong nhiệm kỳ qua đã được triển khai tích
cực, mang lại hiệu quả cả về số lượng và chất lượng văn bản; đã hướng trọng
tâm vào việc phục vụ đổi mới cơ cấu kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống
chính trị, bảo vệ và phát huy quyền dân chủ của công dân, bảo đảm an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội. Ở mức độ khác nhau, các lĩnh vực của đời
sống đều đã được Quốc hội quan tâm xây dựng và ban hành văn bản pháp luật.
Các luật, pháp lệnh được thông qua đều bảo đảm quan điểm cơ bản, đúng đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của
nhân dân. Một hệ thống pháp luật, bao gồm các lĩnh vực từ tổ chức bộ máy nhà
nước đến kinh tế, ngân sách, quốc phòng, an ninh, các quyền công dân, khoa
học, công nghệ và môi trường... phục vụ cho yêu cầu đổi mới được hình thành,
đã và đang phát huy tác dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ đa dạng của
đời sống kinh tế - xã hội trên đất nước ta.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác lập pháp vẫn còn các tồn tại sau
đây:
- Về chương trình, chưa có chiến lược lập pháp dài hạn, thiếu chương trình
xây dựng pháp luật cả nhiệm kỳ, việc xây dựng chương trình hàng năm chưa
thật chủ động. Tình trạng này chậm được khắc phục.
- Về nội dung, vẫn còn thiếu sự đồng bộ, chưa thực sự ưu tiên các luật, pháp
lệnh có nhu cầu rất cấp thiết ban hành, vì vậy nhiều văn bản quan trọng về
các lĩnh vực thương mại, ngân hàng, giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ, về chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, huy động các
nguồn lực để xây dựng đất nước, về cán bộ, công chức..., đến cuối nhiệm kỳ
mới được thông qua, hoặc để Quốc hội khóa mới tiếp tục xem xét.
- Về trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành văn bản còn có chỗ chưa thật hợp
lý, thiếu quy định về mặt pháp lý và tạo điều kiện về mọi mặt để Quốc hội và
các cơ quan của Quốc hội thật sự chủ động trong công tác lập pháp.
- Trong việc phát huy hiệu lực các văn bản pháp luật, chưa có biện pháp hữu
hiệu để khắc phục tình hình chậm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện; chưa
chú trọng đúng mức đến việc giải thích, tuyên truyền và động viên nhân dân
“sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
2.
Về quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước:
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, Quốc hội khóa IX đã thay mặt nhân dân quyết định những
vấn đề trọng đại để xây dựng, phát triển đất nước. Đó là các kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội,dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách Nhà nước, chính
sách tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách cơ bản về đối nội, đối
ngoại..., điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và thành
lập các cơ quan cấp cao của Nhà nước.
Quốc hội đã thường xuyên xem xét, quyết định về nhiệm vụ kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh và ngân sách nhà nước.
Trong nhiệm kỳ, Quốc hội đã ra nghị quyết về nhiệm vụ, về dự toán ngân sách
Nhà nước và phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm. Đáng chú
ý là để cụ thể hóa “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội”; “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000” và Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, Quốc hội đã thông
qua Nghị quyết về nhiệm vụ, kế hoạch 5 năm 1996 - 2000. Đây là lần đầu tiên
sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Quốc hội có nghị quyết về nhiệm vụ,
kế hoạch dài hạn, thể hiện trách nhiệm của Quốc hội khóa IX trước định hướng
phát triển đất nước. Thẩm quyền và trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong việc quyết
định, phân bổ và giám sát việc thu chi ngân sách theo Luật ngân sách nhà
nước được xác định rõ hơn. Từ kinh nghiệm giám sát việc điều hành ngân sách
nhà nước qua 10 năm đổi mới, nhất là từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX đến
nay, Quốc hội giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội căn cứ vào quyết định của
Quốc hội về ngân sách nhà nước hàng năm để quyết phương án phân bổ ngân sách
trung ương cho từng Bộ, ngành và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho
từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Thông qua việc xem xét, thảo luận, phân tích báo cáo của Chính phủ, báo cáo
thẩm tra, thuyết trình của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và ý
kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Quốc hội đã xác định những chỉ tiêu,
những giải pháp đúng, có tính khả thi, phù hợp với tình hình đất nước. Những
quyết định của Quốc hội đã tạo điều kiện để Chính phủ, các ngành, các cấp
điều hành việc triển khai thực hiện nhiệm vụ với sự đồng tình, ủng hộ của
nhân dân; đã góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành nhiều
mục tiêu chủ yếu, tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội, giữ
vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển mạnh mẽ quan
hệ đối ngoại ...
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1992, cùng với việc thông qua các luật
còn lại về tổ chức Nhà nước, Quốc hội đã bầu các cơ quan của Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án
Toà án nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ
nhiệm các thành viên của Chính phủ tại kỳ họp đầu tiên (tháng 9-1992). Quốc
hội cũng đã quyết định sáp nhập một số Bộ, ngành; miễn nhiệm, bầu và phê
chuẩn việc bổ nhiệm một số nhân sự cấp cao khác của Nhà nước; quyết định
chia tách một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Những quyết định này
của Quốc hội đã góp phần vào việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhìn chung, những cán bộ cấp cao của Nhà nước được Quốc hội bầu hoặc phê
chuẩn bổ nhiệm đều đạt tiêu chuẩn về chuyên môn, về giác ngộ chính trị, có
đạo đức, phẩm chất, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, xứng đáng với sự tín
nhiệm của Quốc hội và nhân dân. Những tỉnh, thành phố được Quốc hội quyết
định chia, tách đã có sự phát triển mới về kinh tế - xã hội và các mặt khác.
Tuy vậy, cũng có những vấn đề đưa ra quá gấp, quy trình chưa thật chặt chẽ,
đã ít nhiều ảnh hưởng đến việc xem xét và quyết định của Quốc hội.
Quốc hội cũng đã quan tâm đến việc xem xét, quyết định quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất đai trong cả nước đến năm 2010 theo quy định của Luật đất đai,
góp phần vào việc quản lý, sử dụng đất đai đúng mục đích và có hiệu quả
trong thời gian tới.
Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng đến nay, việc thực hiện chức năng quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là trong việc
dự toán và quyết định phân bổ thu chi ngân sách nhà nước; quyết định các
công trình xây dựng cơ bản quan trọng; chính sách phát triển vùng dân tộc và
miền núi... Tình hình thiếu thông tin và công tác thống kê, kiểm tra, kiểm
toán, đội ngũ chuyên gia giỏi chưa được tăng cường đủ mạnh..., đã ảnh hưởng
đến chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng này của Quốc hội.
3.
Về công tác giám sát:
Để từng bước khắc phục những mặt yếu kém, tồn tại về công tác giám sát, Quốc
hội khóa IX đã đẩy mạnh việc thực hiện chức năng này và đã thu được những
kết quả quan trọng.
Về lĩnh vực kinh tế và ngân sách nhà nước,
Quốc hội đã tập trung giám sát việc triển khai thực hiện nghị quyết của Quốc
hội về nhiệm vụ và về ngân sách nhà nước, trong đó có những vấn đề nóng
bỏng, cấp bách nổi lên như thu chi ngân sách, các biện pháp tăng thu, giảm
chi, giảm bội chi ngân sách, kiềm chế lạm phát, thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, dồn vốn cho đầu tư phát triển, hoạt động của ngân hàng, hoạt động
xuất, nhập khẩu, tình trạng nhập siêu quá lớn. Đồng thời, công tác giám sát
đã hướng vào việc tháo gỡ khó khăn, tạo động lực và điều kiện cho doanh
nghiệp nhà nước hoạt động nhằm phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân, phát triển các thành phần kinh tế ...
Về lĩnh vực thi hành pháp luật,
Quốc hội đã quan tâm giám sát việc thực thi các giải pháp đấu tranh chống
tham nhũng và các tệ nạn xã hội đang nổi lên nhức nhối; xác định rõ trách
nhiệm của tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các ngành, các cấp, từ
Trung ương đến cơ sở, của các vị đại biểu Quốc hội và của mọi công dân trong
cuộc đấu tranh này; yêu cầu các cơ quan chức năng xử lý nghiêm và kịp thời
mọi hành vi vi phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh
trong toàn xã hội. Quốc hội cũng đã chú ý đến việc lập lại trật tự, kỷ
cương, trước hết là trong lĩnh vực hoạt động tài chính, ngân hàng, đất đai,
thuế xuất, nhập khẩu và cả trong hoạt động của nhiều cơ quan thi hành pháp
luật.
Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội đã nhiều lần kết hợp nghe báo cáo và cử
đoàn đến tận địa phương, cơ sở để giám sát tình hình thi hành pháp luật về
đất đai, tình hình chống tham nhũng, chống buôn lậu. Ủy ban thường vụ Quốc
hội và Thường trực Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có nhiều cuộc họp liên tịch để bàn việc
phối hợp thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về vấn đề này.
Trước những vấn đề bức xúc như thiếu việc làm, đời sống một bộ phận nhân
dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc còn nhiều khó khăn, chất lượng giáo dục,
đào tạo, y tế ở nhiều nơi còn thấp, trật tự xã hội còn nhiều phức tạp, môi
trường sinh thái chưa tốt, v.v.. Quốc hội đã dành nhiều thời gian để giám
sát và góp sức cùng với Chính phủ, các ngành, các cấp tìm các giải pháp để
khắc phục.
- Về lĩnh vực quốc phòng an ninh,
Quốc hội đã tập trung giám sát việc nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của
Quân đội và Công an, công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, việc cải thiện đời sống và điều kiện hoạt động của lực lượng vũ trang.
Bằng những việc làm cụ thể của mình trong công tác giám sát, Quốc hội đã góp
phần tích cực vào việc phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tăng cường
tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước và thế trận an ninh nhân dân, bảo
vệ đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Các hình thức giám sát
đã được cải tiến để mang lại hiệu quả thiết thực hơn. Phát huy kết quả của
các khóa trước, Quốc hội khóa IX đã tiến hành hoạt động giám sát trên cả
chiều rộng và chiều sâu. Những vấn đề đặt ra đều được quan tâm xem xét bằng
việc nghe báo cáo, cử đoàn đi kiểm tra, chất vấn các cơ quan hữu quan, thảo
luận nghiêm túc để có được những kết luận, quyết định đúng đắn có hiệu quả,
hiệu lực. Đến nay, ở mỗi kỳ họp, ngoài báo cáo chung của Chính phủ về kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, ngày càng có nhiều báo cáo bổ sung, báo
cáo chuyên đề giải trình rõ những vấn đề cấp bách, nổi cộm mà đại biểu Quốc
hội và cử tri cả nước quan tâm.
- Chất vấn và trả lời chất vấn
được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao
của đại biểu Quốc hội, của Chính phủ và các cơ quan hữu quan trước nhân dân.
Thông qua hình thức hoạt động quan trọng này của Quốc hội, nhiều vấn đề đã
được làm sáng tỏ, làm căn cứ để đại biểu Quốc hội báo cáo với cử tri. Hình
thức đối thoại, tranh luận trực tiếp, tạo không khí cởi mở giữa người hỏi và
người trả lời tại các phiên họp về chất vấn của Quốc hội đã mang lại kết quả
thiết thực, được nhân dân quan tâm theo dõi và hoan nghênh.
Hiệu quả và hiệu lực giám sát của Quốc hội được đánh giá bằng tác động của
các quyết định, kết luận và kiến nghị của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
và đại biểu Quốc hội thông qua các hoạt động giám sát. Đây chính là mặt hạn
chế của công tác này. Nhiều lĩnh vực nóng bỏng về kinh tế - xã hội, thi hành
pháp luật, nổi lên là nạn tham nhũng, buôn lậu ngày càng có chiều hướng gia
tăng... tuy Quốc hội đã cố gắng giám sát nhưng hiệu quả chưa cao. Việc giám
sát công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án chưa làm được nhiều.
Nhiều hành vi vi phạm pháp luật chưa được đấu tranh ngăn chặn và xử lý kịp
thời, chưa đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân. Thực tế này đòi
hỏi phải xác định rõ hơn nội dung, đối tượng, phương thức và cơ chế giám
sát; phải tăng cường giám sát tại kỳ họp Quốc hội, tăng cường hoạt động giám
sát của các cơ quan của Quốc hội; đồng thời, xác định trách nhiệm của các cơ
quan trong việc xử lý các kiến nghị, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong
việc tham gia vào việc thực hiện chức năng quan trọng này. Có như vậy mới
từng bước khắc phục tính hình thức trong hoạt động giám sát, nhằm đáp ứng
ngày càng tốt hơn yêu cầu của cuộc sống và mong muốn của nhân dân.
4.
Về các hoạt động khác:
- Về hoạt động đối ngoại:
Trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác
quốc tế, thực hiện các nghị quyết về công tác đối ngoại, Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội và tổ chức nghị sĩ Việt Nam hữu nghị với các nước đã triển
khai hoạt động đối ngoại một cách chủ động, tích cực, thực hiện có kết quả
chính sách rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Trong quan hệ song phương, hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã được triển
khai trên khắp các địa bàn châu Âu, châu Mỹ, Trung Đông và châu Phi, đặc
biệt là khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Về quan hệ đa
phương, Quốc hội đã tích cực tham gia và bước đầu đóng góp thiết thực vào
các hoạt động của ngoại giao nghị viện thế giới - một cơ chế vừa mang tính
chất Nhà nước, vừa mang tính nhân dân, đại diện cho lợi ích rộng rãi của các
dân tộc và các xu thế chính trị khác nhau của các quốc gia.
Nhìn lại trong suốt nhiệm kỳ thực hiện các nghị quyết về công tác đối ngoại,
hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa IX đã góp phần đáng kể vào thành tựu
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, chúng ta chưa tranh thủ hết
những điều kiện khách quan thuận lợi để triển khai mạnh mẽ hơn nữa hoạt động
đối ngoại trong tình hình mới để có thể đạt được những thành tựu cao hơn.
Việc thống nhất quản lý đối ngoại được đề cập nhiều lần, nhưng ngay trong
phạm vi Quốc hội đến nay chúng ta cũng chưa thực hiện tốt. Công tác giám sát
đối ngoại đã được tiến hành cả ở trong và ngoài nước, nhưng hiệu quả đạt
được chưa cao. Mặt khác, Quốc hội cũng chưa phát huy được hết tiềm năng của
đông đảo các đại biểu Quốc hội trên lĩnh vực công tác quan trọng này.
- Công tác tiếp dân và giám sát giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công
dân
đã được Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các vị đại biểu quan tâm hơn.
Nhiều đoàn công tác của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội đã trực tiếp đến tận địa phương, cơ sở, để đôn đốc xem
xét việc giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền. Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội cũng đã nhiều lần nghe báo cáo, thảo luận và bàn các biện pháp
để nâng cao hiệu quả công tác dân nguyện.
Nhiều Đoàn đại biểu Quốc hội, nhiều vị đại biểu Quốc hội đã thực hiện tốt
việc định kỳ tiếp dân, dành thời gian tìm hiểu những vụ việc quan trọng để
kịp thời đề xuất các biện pháp xử lý với cơ quan có trách nhiệm. Những cố
gắng nêu trên của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các vị đại biểu Quốc
hội đã góp phần khắc phục từng bước tình trạng khiếu tố vượt cấp và chạy
vòng vo giữa các cơ quan nhà nước. Đồng thời đã thúc đẩy việc giải quyết có
hiệu quả hơn những vụ việc khiếu tố kéo dài, tạo thêm niềm tin của nhân dân
đối với các cơ quan nhà nước.
- Về giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp:
Nhằm góp phần tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân
dân các cấp, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân (sửa đổi); Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành các pháp lệnh,quy
chế để cụ thể hóa một số quy định trong Luật, trong đó có việc giám sát và
hướng dẫn của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với hoạt động của Hội đồng nhân
dân các cấp. Căn cứ vào quy định của pháp luật, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã
tiến hành giám sát cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 1994 -
1999, bảo đảm để cuộc bầu cử được dân chủ, đúng pháp luật, Ủy ban thường vụ
Quốc hội đã có đại diện về dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân; đã kịp thời
hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân ở những tỉnh mới được chia,
tách... Trong nhiệm kỳ khóa IX, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã tổ chức và chủ
trì hai cuộc hội nghị toàn quốc về Hội đồng nhân dân đạt kết quả tốt đẹp.
Thông qua hội nghị này, Ủy ban thường vụ Quốc hội, các cơ quan hữu quan, các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dịp đánh giá, rút kinh nghiệm về
kết quả hoạt động của Hội đồng nhân dân trong cả nước, đề xuất được những
biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả và hiệu lực hoạt động của Hội đồng nhân
dân trong thời gian tới.
Nhiều vị đại biểu Quốc hội đã tham dự đầy đủ các kỳ họp Hội đồng nhân dân để
báo cáo kết quả các kỳ họp Quốc hội, đóng góp nhiều ý kiến hữu ích vào các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh ở địa phương do Hội đồng nhân dân quyết định, hoặc tham gia các đoàn
giám sát do Hội đồng nhân dân tổ chức.
Tuy vậy, một số đề nghị của Hội đồng nhân dân ở nhiều địa phương về những
vấn đề bức xúc, nhằm tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân hoạt động ngày càng
tốt hơn chưa được Ủy ban thường vụ Quốc hội cùng với Chính phủ nghiên cứu và
có biện pháp giải quyết kịp thời.
II-
VỀ TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG
CỦA QUỐC HỘI
Kết quả hoạt động của Quốc hội gắn liền với tổ chức và phương thức hoạt động
của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội. Ở nhiệm
kỳ này, tổ chức Quốc hội về cơ bản hợp lý, chế độ và lề lối làm việc được
cải tiến, bảo đảm thực hiện có hiệu quả cao nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội
trên nhiều lĩnh vực hoạt động.
1. Về đại biểu Quốc hội:
Yêu cầu, tiêu chuẩn và chất lượng đại biểu Quốc hội khóa IX được chú trọng
hơn; trình độ, năng lực và điều kiện thực hiện nhiệm vụ đại biểu được đáp
ứng tốt hơn. Đã có sự kết hợp hài hòa giữa chất lượng và cơ cấu đại biểu. So
với nhiệm kỳ trước đây, số đại biểu hoạt động chuyên trách nhiều hơn, có
điều kiện để tham gia và đẩy mạnh hoạt động lập pháp, giám sát và các hoạt
động khác của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội.
Gần 5 năm qua, được nhân dân tín nhiệm bầu ra và ủy quyền tham gia quyết
định các công việc của đất nước, các vị đại biểu Quốc hội đã dành nhiều thời
gian và tập trung trí lực để nghiên cứu, đóng góp ý kiến thiết thực vào các
dự án luật, báo cáo, đề án trình Quốc hội. Các vị đại biểu đã thường xuyên
tiếp xúc cử tri, gương mẫu tuyên truyền, giải thích, chấp hành pháp luật,
tích cực chống tệ quan liêu, nạn tham nhũng, tham gia giám sát việc chấp
hành pháp luật ở địa phương, ở đơn vị công tác của mình. Nhiều đại biểu đã
không quản ngại đường sá xa xôi, trèo đèo, lội suối đến với cử tri ở vùng
sâu, vùng xa để báo cáo kết quả kỳ họp Quốc hội và nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân. Trăn trở với những định hướng phát triển kinh tế - xã
hội, những yếu kém ở địa phương, nhiều đại biểu đã tận tâm, tận lực nghiên
cứu đề xuất những giải pháp hữu hiệu... Những hoạt động đó đã để lại ấn
tượng tốt đẹp về người đại biểu của nhân dân.
Bên cạnh đó, cá biệt còn có đại biểu được nhân dân bầu ra, nhưng ít sát dân,
sát cơ sở, ít dành thời gian và công sức cho hoạt động của Quốc hội. Một số
đại biểu do chưa thu xếp công việc một cách hợp lý nên đã vắng mặt ở nhiều
phiên họp Quốc hội cũng như các cuộc họp của các cơ quan của Quốc hội và
Đoàn đại biểu Quốc hội.
2. Về Ủy ban thường vụ Quốc hội:
Là cơ quan thường trực của Quốc hội, trong nhiệm kỳ qua, mặc dù chỉ có 13
người, nhưng với tinh thần cộng đồng trách nhiệm, Ủy ban thường vụ Quốc hội
đã góp phần quan trọng vào kết quả hoạt động của Quốc hội. Các phiên họp
thường lệ được duy trì đều đặn. Trình tự, thủ tục xem xét các vấn đề được
thực hiện nghiêm túc theo Quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Nhiều vấn đề phức tạp, nhạy cảm như ngân sách, đất đai, tiền lương, chống
tham nhũng, v.v. đều được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét trước khi trình
Quốc hội. Các pháp lệnh, nghị quyết do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành,
nhìn chung có chất lượng và đã đáp ứng yêu cầu của cuộc sống.
Để chuẩn bị tốt các kỳ họp Quốc hội và các phiên họp của mình, Ủy ban thường
vụ Quốc hội đã chú trọng chỉ đạo, điều hòa phối hợp hoạt động của Hội đồng
dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong việc thẩm định các văn bản pháp
luật, các báo cáo. Mặt hạn chế trong tổ chức và hoạt động của Ủy ban thường
vụ Quốc hội là số thành viên ít, khó phân công các thành viên đi sâu tất cả
các lĩnh vực; một số kết luận về một số nội dung được xem xét tại phiên họp
chất lượng chưa cao.
3. Về Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội:
Thực tế cho thấy, hiệu quả hoạt động của Quốc hội ngày càng được nâng cao do
có phần đóng góp tích cực của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
Với trách nhiệm cao trước Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban đã cải
tiến phương thức hoạt động, sâu sát cơ sở, nghiêm túc nghiên cứu..., để xây
dựng các báo cáo thẩm tra, các bản thuyết trình, có chất lượng, bám sát các
quan điểm của Đảng và Nhà nước, bảo đảm tính khoa học, thực tiễn, khách quan
để làm cơ sở cho Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét và có quyết
định đúng đắn về các dự án luật, pháp lệnh, báo cáo.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban đã
đẩy mạnh hoạt động giám sát. Nhiều đoàn công tác đã đến những nơi khó khăn
nhất ở biên giới, hải đảo. Có Ủy ban đã cử đoàn đến tất cả 53 tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương để giám sát tình hình thực hiện các nghị quyết của
Quốc hội về những vấn đề thuộc lĩnh vực Hội đồng, Ủy ban phụ trách. Nhiều
kiến nghị, kết luận của Hội đồng, Ủy ban về xử lý, tháo gỡ vướng mắc; về
biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; về sửa đổi, bổ
sung các văn bản pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tế..., đã được Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp
thu.
Tuy vậy, Quốc hội chưa đủ điều kiện đi sâu giám sát một số vấn đề bức xúc
như tài chính - ngân sách, tư pháp, dân nguyện. Việc bố trí thêm đại biểu
hoạt động chuyên trách cũng cần được quan tâm xem xét để tạo thêm điều kiện
đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
4. Về Đoàn đại biểu Quốc hội:
Trong nhiệm kỳ qua, các Đoàn đã phát huy tác dụng tốt trong việc tổ chức để
đại biểu Quốc hội tham gia các hoạt động, nhất là tham gia việc tổ chức lấy
ý kiến của nhân dân, của các ngành, các cấp ở địa phương về các dự án luật,
pháp lệnh; tham gia các hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội tại
địa phương; giữ mối quan hệ với các cơ quan của Quốc hội; thu thập ý kiến cử
tri và cung cấp thông tin cần thiết để Quốc hội có thêm cơ sở xem xét, quyết
định các vấn đề quan trọng tại các kỳ họp Quốc hội. Thực tế đó chứng tỏ các
hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội là cần thiết, cần làm rõ thêm vị trí,
trách nhiệm,quyền hạn của Đoàn và việc bảo đảm các điều kiện để hoạt động
của Đoàn ngày càng tốt hơn.
5. Về kỳ họp Quốc hội:
Hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trước hết được bảo đảm bằng hiệu quả của
các kỳ họp Quốc hội. Tại các kỳ họp, Quốc hội đã thực hiện nghiêm túc nguyên
tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa
số. Các kỳ họp của Quốc hội khóa IX đã có nhiều đổi mới, chuyển biến về chất
lượng trong việc thực thi quyền lực của cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân. Kết quả nổi bật là tại các kỳ họp, các văn bản pháp luật,
các nghị quyết về nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
về ngân sách nhà nước và nhiều lĩnh vực quan trọng được tập trung xem xét,
thông qua, bảo đảm chất lượng, đúng định hướng, phù hợp với cuộc sống.
Đây là kết quả của công tác chuẩn bị chu đáo từ khâu xây dựng chương trình,
đến hoàn thiện nội dung trình Quốc hội. Công tác điều hành đã phát huy được
trí tuệ của tập thể đại biểu Quốc hội vào việc xem xét, quyết định những vấn
đề quan trọng. Các kỳ họp Quốc hội, diễn đàn chủ yếu để đại biểu Quốc hội
bày tỏ quan điểm của mình, nơi tập trung nhất hiệu quả hoạt động của Quốc
hội đã thực sự trở thành cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng, thu hút sự quan
tâm theo dõi của nhân dân cả nước.
6. Về bảo đảm các điều kiện làm việc của Quốc hội:
Việc xây dựng bộ máy giúp việc đủ mạnh và bảo đảm các điều kiện để đáp ứng
yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội được quan tâm. Văn phòng
Quốc hội được tổ chức phù hợp với nhiệm vụ, được bổ sung những chuyên gia,
chuyên viên có năng lực về pháp lý, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước...,
được đào tạo cơ bản và được sử dụng đúng người, đúng việc. Thông tin, tư
liệu, báo chí, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật..., được tăng cường hơn
trước. Tuy nhiên, lĩnh vực này cần phải được quan tâm nhiều hơn nữa mới bảo
đảm được yêu cầu phục vụ ngày càng cao.
Nhìn chung,
Quốc hội nhiệm kỳ khóa IX đã có bước chuyển mới về tổ chức, về cải tiến
phương thức hoạt động để bảo đảm thực hiện ngày càng đầy đủ hơn nhiệm vụ và
quyền hạn của Quốc hội. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của công cuộc đổi mới, tổ
chức của Quốc hội còn có những bất cập, phương thức hoạt động cần được
nghiên cứu cải tiến nhiều hơn để mang lại hiệu quả cao hơn.
III-
ĐÁNH GIÁ CHUNG
Nhìn chung về tổ chức và hoạt động của Quốc hội nhiệm kỳ khóa IX trong tổng
thể hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, trong mối liên hệ mật
thiết với nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nổi lên những yếu tố quan trọng sau đây:
1.
Vai trò của Quốc hội:
Nhìn lại chặng đường gần 5 năm qua, Quốc hội ngày càng thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Các mặt hoạt động
của Quốc hội khóa IX đã được đẩy mạnh, nhiều mặt đạt hiệu quả tốt, nhất là
lĩnh vực lập pháp. Tổ chức Quốc hội đã được tăng cường, sinh hoạt dân chủ
được phát huy trong quá trình thảo luận, quyết định các vấn đề thuộc thẩm
quyền Quốc hội. Vai trò của Quốc hội đã được đề cao hơn trong đời sống chính
trị của đất nước. Hoạt động của Quốc hội đã bao quát nhiều mặt và dần dần đi
vào thực chất, nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế,
từng bước vững chắc đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm các quyền của công dân, phục vụ việc từng
bước hội nhập với khu vực và thế giới. Lề lối làm việc của Quốc hội được cải
tiến, mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội và cử tri được tăng cường. Nguyên
tắc tập trung dân chủ và sự lãnh đạo của Đảng được bảo đảm và tôn trọng. Do
đó, hoạt động của Quốc hội đã góp phần củng cố lòng tin, sự tín nhiệm và
nâng cao nhận thức của nhân dân đối với vị trí, vai trò của Quốc hội.
2.
Quốc hội với nhân dân:
Ra đời từ kết quả cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhân dân ta, là thành
quả to lớn của dân tộc, Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội luôn luôn
gắn bó mật thiết và chịu sự giám sát của nhân dân. Trong nhiệm kỳ qua, nhân
dân đã thường xuyên quan tâm theo dõi các hoạt động của Quốc hội, kiến nghị
với Quốc hội những vấn đề bức xúc về kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh,
đối ngoại; tham gia góp ý kiến về các dự án luật; yêu cầu Quốc hội có biện
pháp cứng rắn, không khoan nhượng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng và
các tệ nạn xã hội, kiên quyết sàng lọc những phần tử cơ hội, thoái hóa biến
chất làm trong sạch bộ máy nhà nước, để Nhà nước thực sự là công cụ quyền
lực của nhân dân. Về phần mình, Quốc hội đã lắng nghe ý kiến nhân dân, tổng
hợp đầy đủ kiến nghị của nhân dân, chú trọng phát huy dân chủ trực tiếp để
nhân dân tham gia các quá trình xây dựng các văn bản pháp luật và tổ chức
thực hiện các nghị quyết của Quốc hội; đồng thời, công khai hóa các hoạt
động trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân theo dõi và giám
sát. Thực tế cho thấy, lòng tin và sự tín nhiệm của nhân dân chính là nguồn
động viên lớn lao để Quốc hội phấn đấu thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình.
3.
Quốc hội trong mối quan hệ với các cơ quan khác của bộ máy nhà nước:
Kết thúc nhiệm kỳ, đánh giá hiệu quả hoạt động của Quốc hội khóa IX, không
thể tách rời hoạt động của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Trên cơ
sở Hiến pháp năm 1992, chúng ta chủ trương cải cách bộ máy nhà nước trong
tổng thể đổi mới hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội nhằm tăng cường hiệu
lực quản lý của Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới
được thực hiện bằng sự đóng góp tích cực của toàn Đảng, toàn dân và hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước, dựa trên nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trong nhiệm kỳ qua, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã phối hợp chặt chẽ trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ,quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Trước hết, đó là sự phối hợp trong công tác lập pháp; từ khâu chuẩn bị,
thông qua đến công bố các luật, pháp lệnh đều có sự đóng góp tích cực, có
hiệu quả của các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước.
Trong việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ
và các cơ quan hành chính các cấp đã có những đổi mới về tổ chức và phương
thức điều hành, quản lý đất nước bằng pháp luật, tập trung chủ yếu vào việc
đổi mới và sử dụng có hiệu quả các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như kế
hoạch, chính sách tài chính, tiền tệ; quyết định đúng và kịp thời một số chủ
trương lớn để khắc phục có hiệu quả lạm phát; suy thoái; xây dựng thành công
một số công trình lớn; tạo điều kiện mở rộng thị trường với nhiều thành phần
kinh tế; mở rộng hoạt động ngoại giao và kinh tế đối ngoại, chăm lo các vấn
đề văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh; cải thiện một bước rõ nét đời sống
của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
đã có những chuyển biến tích cực trong điều tra, truy tố, xét xử, giải quyết
các tranh chấp kinh tế, góp phần bảo vệ pháp luật, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, các cơ quan trong tổ chức
bộ máy nhà nước thường xuyên trao đổi, thảo luận, thông báo cho nhau những
công việc cần quan tâm. Đối với các vấn đề cấp bách, nóng bỏng như chống
tham nhũng, chống buôn lậu, thực hành tiết kiệm, tình hình thi hành pháp
luật về đất đai..., đã tổ chức các cuộc làm việc để bàn về các biện pháp xử
lý. Sự phối hợp trong việc giải quyết đơn thư dân nguyện, hướng dẫn và giám
sát hoạt động của Hội đồng nhân dân cũng được tăng cường.
Nhìn chung, mối quan hệ công tác của các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà
nước ngày càng chặt chẽ hơn, mang lại hiệu quả cao hơn trong tất cả các lĩnh
vực hoạt động, góp phần vào việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách
của Đảng thể hiện qua các nghị quyết của Quốc hội.
4.
Quốc hội trong mối quan hệ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân:
Quốc hội coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân trong việc tổ chức tuyên truyền, động viên nhân dân làm nghĩa vụ
công dân trong bầu cử, ứng cử, trong việc hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu
những người tiêu biểu để nhân dân bầu vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp; động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến
pháp, pháp luật, nghị quyết của Quốc hội, giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, đại biểu dân cử, cán bộ và công chức nhà nước. Trong thời gian qua,
bằng những hoạt động cụ thể của mình, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân đã góp phần quan trọng vào đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội và
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước; đồng thời là chỗ dựa vững chắc để Nhà nước
phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân.
5.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội:
Đảng lãnh đạo Quốc hội là vấn đề mang tính nguyên tắc. Đổi mới và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là bảo đảm các chủ trương đường lối
của Đảng được thể chế hóa thành các văn bản pháp luật nhằm xây dựng Nhà nước
ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đồng thời, đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng là nhằm phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của Quốc hội, tạo điều kiện
để Quốc hội làm tròn chức năng nhiệm vụ theo luật định; góp phần xây dựng và
hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng phù hợp với yêu cầu cuộc sống và
nguyện vọng chính đáng cuả nhân dân.
Để quán triệt yêu cầu nêu trên, trong nhiệm kỳ qua, Quốc hội đã thực hiện
nghiêm túc sự chỉ đạo về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định
của Quốc hội như các quan điểm lớn về các mục tiêu chủ yếu phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, về các dự án pháp
luật, về quyết định nhân sự cấp cao của Nhà nước, điều chỉnh địa giới hành
chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương...
Trước yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội,chúng ta mong muốn
Đảng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, vạch ra những định hướng, những
chủ trương và quan điểm lớn trong các mặt hoạt động của Quốc hội, để Quốc
hội ngày càng thực hiện đầy đủ hơn nhiệm vụ quyền hạn của mình.
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa các vị khách quý,
Với nhận thức sâu sắc rằng, những thành tích của Quốc hội trong nhiệm kỳ qua
là do nhân dân mà có, những quyết định của Quốc hội chính là ý chí và nguyện
vọng của nhân dân; là kết quả của sự ủng hộ nhiệt tình, sự cổ vũ lớn lao của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, của đồng bào ta ở nước ngoài và bạn
bè trên thế giới. Đó còn là sự đóng góp có hiệu quả của các cơ quan trong bộ
máy nhà nước, của các ngành, các cấp, các cơ quan thông tấn, báo chí, của
các vị lão thành cách mạng và tất cả các vị đại biểu Quốc hội. Nhân dịp tiến
hành kỳ họp cuối cùng của nhiệm kỳ, Quốc hội xin tỏ lòng biết ơn sự tín
nhiệm của nhân dân cả nước và chân thành cảm ơn mọi sự ủng hộ,động viên và
đóng góp quý báu đó.
Trong niềm phấn khởi về những kết quả đạt được,chúng ta ghi nhớ công lao của
Đảng quang vinh, nhân tố quan trọng nhất bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, cho sự thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất
nước; tưởng nhớ đến Bác Hồ kính yêu, Người đã dày công vun đắp, xây dựng
chính quyền nhân dân.
Quốc hội cũng xin nhận thiếu sót trước nhân dân về những gì chưa làm được
trong thời gian qua. Sắp tới, nhiệm kỳ kết thúc, dù ở cương vị công tác nào,
các đại biểu Quốc hội khóa IX cũng sẽ tiếp tục phấn đấu với tinh thần đã
từng là “Người đại biểu của nhân dân”.
Trên cơ sở đánh giá đúng đắn, đầy đủ những ưu điểm, tồn tại, thiếu sót về tổ
chức và hoạt động của Quốc hội khóa IX,chúng ta rút ra những bài học, kinh
nghiệm để tiến hành tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X và xây dựng tổ
chức Quốc hội khóa mới, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; góp phần quan trọng vào việc
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, đáp ứng yêu
cầu của thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh”, tạo tiền đề vững chắc để đất nước bước vào thế kỷ XXI.
Lưu tại
Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội