VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 4 1996-1997


BÁO CÁO CÔNG TÁC CỦA CHÍNH PHỦ
NHIỆM KỲ 1992-1997

(Do Thủ tướng Võ Văn Kiệt trình bày tại kỳ họp
thứ 11, Quốc hội khóa IX, ngày 02-4-1997)

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Kính thưa các vị khách quý,

Sau 5 năm hoạt động, trong bối cảnh đất nước ta đã trải qua 10 năm đổi mới đầy thách thức với những thành tựu to lớn về mọi mặt, Quốc hội khóa IX và Chính phủ đi gần tới thời điểm kết thúc một nhiệm kỳ rất có ý nghĩa. Nhìn lại 5 năm qua, có thể rút ra nhiều kinh nghiệm bổ ích và bài học phong phú trong việc duy trì ổn định và phát triển của đất nước cũng như trong công tác điều hành của Chính phủ.

Hằng năm, Chính phủ đều đã có báo cáo trình Quốc hội tình hình phát triển kinh tế - xã hội và công tác của Chính phủ. Trong báo cáo này, tôi xin trình bày một số nét rất khái quát tình hình nước ta 5 năm qua, qua đó đánh giá công tác của Chính phủ trong nhiệm kỳ này.

I- KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG 5 NĂM QUA

Bước vào nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX, công cuộc đổi mới trải qua 5 năm đầu tiên vừa làm vừa tìm tòi, thử nghiệm. Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã bước đầu khơi dậy động lực phát triển sản xuất, rõ rệt nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp và lưu thông hàng hóa.

Tuy nhiên, vào thời điểm này, đất nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng. Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 1991 mới đạt 6% và chỉ giành được 10% GDP cho tích lũy. Lạm phát còn ở mức 67,5%. Đất nước còn bị bao vây, cấm vận. Những biến động tại Liên Xô cũ và các nước Đông Âu làm mất nguồn chi viện thường chiếm 1/5 đến 1/3 ngân sách nhà nước và thị trường truyền thống cho hàng xuất khẩu vốn kém khả năng cạnh tranh của chúng ta.

Từ năm 1992 đến 1996, tốc độ tăng trưởng GDP được nâng lên và duy trì ở mức bình quân hàng năm gần 9% so với 5,5% trong nhiệm kỳ trước. Đầu tư phát triển từ tích lũy trong nước được nâng lên xấp xỉ 20% GDP. Kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình 28%; lạm phát được kiềm chế ở mức trên dưới 10%, riêng năm 1996 là 4,5%. Mặc dù bị thiên tai thường xuyên, nông nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, khoảng 5%; công nghiệp tăng 14%/năm, dịch vụ tăng 9,5%/năm. Sau 5 năm, sản lượng của nhiều sản phẩm quan trọng như dầu thô, điện, thép cán, xi măng, giấy, xà phòng, bia, cà phê, cao su, tăng gấp đôi. Nhiều chỉ tiêu phát triển đề ra cho năm 2000 như sản lượng lương thực, điện..., đã đạt ngay từ năm 1996. Cơ cấu kinh tế sau 15 năm gần như không thay đổi, từ năm 1992 đã bắt đầu có bước chuyển dịch rõ nét theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Năm 1991, giá trị sản lượng công nghiệp chỉ bằng 58,8% so với nông nghiệp, thì đến năm 1996, đã bằng 113%.

Trên trường quốc tế, chúng ta đã phá vỡ được thế bị bao vây, cấm vận. Từ chỗ bị cô lập, Việt Nam đã thực sự hội nhập khu vực và quốc tế, trở thành thành viên chính thức của ASEAN và đang tích cực chuẩn bị gia nhập Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tới nay, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với trên 150 nước gồm tất cả các cường quốc, các trung tâm kinh tế lớn trên thế giới; là bạn hàng của trên 100 nước và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 1996 đạt 18,4 tỷ USD. Đến hết năm 1996, đã thu hút gần 28 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp và 8,5 tỷ USD viện trợ phát triển (ODA), chưa kể viện trợ từ các tổ chức phi chính phủ.

Quốc phòng, an ninh được củng cố, giữ vững được ổn định chính trị, xã hội. Trình độ công nghệ và tiềm năng khoa học, công nghệ được nâng cao một bước. Cùng với tăng trưởng kinh tế - các mặt xã hội cũng có những tiến bộ đáng kể. Sau mấy năm giảm sút, từ năm 1992, số học sinh đến trường đã bắt đầu tăng. Hiện nay, nước ta đã có gần 20 triệu học sinh, sinh viên ở tất cả các bậc học. Hoạt động thể dục thể thao, nhất là thể thao quần chúng, phát triển mạnh và đã giành được những vị trí cao trong khu vực ở một số bộ môn. Công tác phòng bệnh, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, đặc biệt là sức khỏe trẻ em có những bước tiến bộ. Thông tin, văn hóa được mở rộng, phong phú hơn. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân có bước cải thiện rõ, tỷ lệ hộ nghèo giảm được một nửa. Các gia đình và những người có công với nước, những người tàn tật, không nơi nương tựa được xã hội và Nhà nước quan tâm chăm sóc tốt hơn.

Những thành tựu đạt được trong 5 năm qua là rất to lớn. Kể từ khi bắt tay vào xây dựng đất nước trong thời bình, chưa khi nào nền kinh tế nước ta tăng trưởng liên tục và ở mức độ cao như vậy. Có thể nói nhiệm kỳ này thật sự mang ý nghĩa một thời đoạn bản lề, đánh dấu một bước ngoặt của nền kinh tế, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng và chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ được thế giới biết đến như một đất nước thiếu đói, kiệt quệ do chiến tranh, Việt Nam đã trở thành một nền kinh tế năng động, một thị trường nhiều tiềm năng, trở thành một trong số ít nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, góp tiếng nói có trọng lượng trong nhiều diễn đàn quốc tế. Những thành tựu có sức thuyết phục đó đã chứng minh công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước và xu thế của thời đại.

Bên cạnh những thành tựu đó, cũng như tất cả các nước trong thời kỳ bắt đầu phát triển, nền kinh tế - xã hội nước ta cũng còn nhiều vấn đề, khó khăn cần giải quyết:

Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao nhưng hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Nhiều yếu tố của nền kinh tế thị trường, nhất là thị trường tài chính, tiền tệ mới ở trong giai đoạn bắt đầu hình thành, chưa đồng bộ. Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa nhưng cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng còn yếu kém, công nghệ trong nhiều ngành sản xuất chưa được đổi mới, còn lạc hậu.

Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề gay gắt. Chênh lệch giàu nghèo, lao động chưa có việc làm, chất lượng giáo dục, khám, chữa bệnh, tệ nạn xã hội, nạn tham nhũng, quan liêu, lãng phí, v.v., tiếp tục là những vấn đề nhức nhối, được Đảng, Nhà nước và nhân dân hết sức quan tâm, cố gắng giải quyết, ngăn chặn bằng nhiều biện pháp.

Những mặt yếu kém trên đây có phần do những nguyên nhân khách quan, song nếu sự quản lý, điều hành của Chính phủ kịp thời và có hiệu lực hơn thì có thể tránh hoặc hạn chế được. Dù sao thì những yếu kém, hạn chế đó đã và đang là trở lực trên con đường phát triển của đất nước, nhất là trước xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới và cuộc cách mạng khoa học, công nghệ - đặc biệt là công nghệ thông tin - đang có những tác động sâu sắc đến nhiều mối quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội của tất cả các quốc gia.

II- NHÌN LẠI SỰ CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA CHÍNH PHỦ

Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội và những mặt còn hạn chế như đã trình bày ở trên đây cũng đã phản ánh kết quả và những mặt còn yếu kém trong công tác điều hành của Chính phủ. Trên tinh thần đánh giá những gì đã làm được và thẳng thắn nhìn nhận những gì chưa làm được, tôi xin phép tập trung vào một số nội dung chủ yếu, qua đó đánh giá tổng quát sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ trong nhiệm kỳ này như sau:

1. Đẩy mạnh quá trình chuyển từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế quản lý kinh tế bằng luật pháp, phát huy lợi thế của nền kinh tế nhiều thành phần

Chính phủ đã cố gắng tiến thêm những bước mới trong việc cụ thể hóa và hướng dẫn thực hiện chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, giải phóng và phát huy tiềm năng của tất cả các thành phần kinh tế, tạo điều kiện và hướng dẫn các thành phần kinh tế phát triển đúng hướng.

Một trong những mặt công tác trọng tâm của Chính phủ là tập trung xây dựng hệ thống pháp luật nhằm một mặt phát huy tính năng động của các thành phần kinh tế, mặt khác, hạn chế các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Mặc dù hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, nhưng về cơ bản, đã hình thành được khuôn khổ pháp lý để thực hiện quản lý nhà nước bằng luật pháp, phát huy quyền tự chủ của doanh nghiệp, tháo gỡ những cấm đoán, ràng buộc của cơ chế cũ, bước đầu giải phóng các nguồn lực, khơi dậy những động lực phát triển ở trong nước và từ bên ngoài.

Việc ban hành các văn bản pháp quy, văn bản hướng dẫn thực hiện luật, pháp lệnh nói chung còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế và của toàn xã hội. Trong những nguyên nhân của tình trạng này, có một phần đáng kể do sự chỉ đạo của Chính phủ, do năng lực cán bộ của các cơ quan nhà nước còn hạn chế và do chưa huy động được các chuyên gia về pháp luật trong nước, chưa tranh thủ được kinh nghiệm và tư vấn quốc tế về luật pháp.

Sự hướng dẫn, điều hành thường xuyên của Chính phủ đã tạo điều kiện cho hàng chục triệu hộ kinh doanh ở nông thôn và thành thị, hàng vạn doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, góp phần tạo động lực thúc đẩy thành phần kinh tế quốc doanh đổi mới cung cách làm ăn, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường. Hàng hóa được lưu thông thông suốt trong cả nước, các ngành dịch vụ phát triển mạnh, tổng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu lương thực, thủy hải sản, hàng thủ công, v.v. tăng nhanh và liên tục có phần đóng góp đáng kể của các thành phần kinh tế này.

Về thể chế kinh tế, tuy đã hình thành được khuôn khổ pháp lý - dù còn chưa đồng bộ - để các loại hình doanh nghiệp ra đời và hoạt động, song chưa tạo lập được môi trường để các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng theo cơ chế thị trường và phát triển theo đúng pháp luật; chưa tháo gỡ kịp thời các vướng mắc và chưa giải phóng hoàn toàn được nguồn lực của các thành phần kinh tế; chưa xóa được tâm lý ỷ lại, chờ đợi nhà nước “ban cho, cấp phát”. Việc đổi mới cơ chế quản lý, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tiến hành chậm. Tình trạng độc quyền đi đôi với cửa quyền vẫn còn tồn tại ở một số ngành, nếp suy nghĩ và thói quen làm việc “cha chung không ai khóc” vẫn còn phổ biến ở nhiều doanh nghiệp nhà nước.

Bên cạnh việc tạo điều kiện để tất cả các thành phần kinh tế phát triển, Chính phủ đã rất chú trọng và cố gắng chỉ đạo, quản lý nhằm chấn chỉnh và nâng cao năng lực, hiệu quả, khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.

Chính phủ cũng đã có những công trình và giải pháp nhằm phân định chức năng quản lý nhà nước, chức năng chủ sở hữu với chức năng điều hành sản xuất, kinh doanh thông qua việc sắp xếp lại và thành lập mới các tổng công ty lớn, thực hiện thí điểm cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước. Quy trình, phương thức xây dựng, giao và chỉ đạo thực hiện kế hoạch được cải tiến cho sát hơn với khả năng và yêu cầu phát triển của từng ngành và từng địa phương.

Các chính sách của Chính phủ cũng chưa đủ cụ thể và rõ ràng để đảm bảo quyền làm chủ thực sự của dân. Do vậy, chưa đưa ra được những hình thức, phương pháp có hiệu quả để phát huy nguồn lực trong dân, bảo đảm cho dân quyền được thông tin, bàn bạc, giám sát việc sử dụng vốn và tài sản của nhà nước.

Nhìn chung, cùng với việc chỉ đạo sản xuất, Chính phủ đã chú trọng việc phát triển quan hệ sản xuất mới. Tuy nhiên, trong thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện và khắc phục những yếu kém về cơ chế, chính sách một cách tập trung và đồng bộ hơn, nhằm phát huy tốt hơn nữa tiềm năng của các thành phần kinh tế, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.

Bên cạnh việc giải phóng sức dân, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng, Chính phủ cũng đã nhận thức rõ và chỉ đạo việc huy động sức dân. Thực hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhiều địa phương đã tổ chức tốt để nhân dân góp công, góp của làm các công trình phúc lợi xã hội, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, làm đường giao thông, thủy lợi ...

Đóng góp của nhân dân rất to lớn, làm thay đổi bộ mặt nông thôn nhiều vùng. Tính bình quân Nhà nước đầu tư một thì nhân dân đóng góp tới 2-3 hoặc hơn nữa. Chính phủ đã và đang chỉ đạo khẩn trương hoàn thành các văn bản quy định việc thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động kinh tế - xã hội nhằm phát huy trí tuệ, sức lao động và tiền của của nhân dân, đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước.

Có thể nói việc phát huy sức mạnh của dân là bài học lớn nhất và là kinh nghiệm quan trọng nhất trong công tác của Chính phủ 5 năm qua. Chính phủ nhận thức rõ rằng: Quản lý nhà nước phải nhằm không ngừng bồi dưỡng sức dân, phát huy sức mạnh của toàn xã hội. Tuy nhiên, nguyên tắc này chưa được cụ thể hóa bằng những thiết chế đầy đủ, chưa được tổ chức thực hiện có hiệu quả. Cần nghiên cứu, vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm dựa vào dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân như chúng ta đã làm trong hai cuộc kháng chiến, và quán triệt lời dạy của Bác Hồ “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

2. Thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài

Chính phủ bắt đầu nhiệm kỳ của mình trong bối cảnh quốc tế đang có nhiều diễn biến phức tạp, nhiều thời cơ mới xuất hiện cùng những thách thức lớn đòi hỏi sự nhanh nhạy và quyết đoán trong công tác đối ngoại. Sự kiện Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu không chỉ tác động lớn tới ngân sách và kinh tế, mà còn ảnh hưởng không nhỏ tới vị thế chính trị của nước ta trên trường quốc tế. Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện tốt đường lối đối ngoại đa phương của Đảng và thực hiện với quyết tâm cao tiến trình hội nhập khu vực thông qua việc cải thiện quan hệ với các nước ASEAN, đi tới gia nhập tổ chức này. Chính phủ cũng đã chỉ đạo thực hiện việc phối hợp giữa ngoại giao với kinh tế, tranh thủ sự hợp tác, ủng hộ của các nước, các tổ chức quốc tế và của cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài để từng bước phá thế bị bao vây, cấm vận.

Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế, thông qua đó thu nhận, phân tích kinh nghiệm của các nước, khuyến nghị của các tổ chức quốc tế và vận dụng một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện trong nước, đẩy nhanh công cuộc đổi mới. Quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế giúp chúng ta thấy rõ hơn nhiều tiềm năng, lợi thế của đất nước cũng như nhiều khiếm khuyết, hạn chế trong hệ thống chính sách, phương pháp điều hành. Một ví dụ là việc tham gia tiến trình thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã đặt ra cho chúng ta nhiều yêu cầu phù hợp với đường lối đổi mới như cải tiến, hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, thương mại, công nghiệp ..., tạo điều kiện để chúng ta thực hiện nhanh hơn công cuộc đổi mới.

Tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới theo hướng tự do hóa thương mại và mở rộng dần tự do hóa sang các lĩnh vực đầu tư, dịch vụ, lao động..., tạo ra những thuận lợi mới để phát huy lợi thế của đất nước, đồng thời, đòi hỏi Chính phủ phát triển có những giải pháp cụ thể hơn đối với từng lĩnh vực để vượt qua được những thách thức đặt ra trong tình hình vừa hợp tác vừa cạnh tranh gay gắt, phải nỗ lực vượt bực để thu hẹp khoảng cách tụt hậu về kinh tế và công nghệ, trước hết là so với các nước trong khu vực.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ đã triển khai toàn diện các hoạt động ngoại giao và kinh tế đối ngoại; chủ động phối hợp giữa công tác đối ngoại của Nhà nước với hoạt động đối ngoại nhân dân, nhằm củng cố môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn cho sự phát triển kinh tế, xã hội trong nước. Ngày nay, trên các diễn đàn quốc tế song phương và đa phương, Việt Nam đã được thừa nhận là một thành viên tích cực của hòa bình, hữu nghị và hợp tác.

Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Chính phủ đã chú ý chính sách phát triển ngoại thương có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế dưới sự quản lý của Nhà nước. Chính sách đó cùng với các biện pháp đẩy mạnh sản xuất và đầu tư phát triển, khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu đã làm tăng nhanh kim ngạch ngoại thương, từ chỗ bằng 50% GDP năm 1992 lên 78% năm 1996. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu biện pháp đồng bộ khuyến khích sản xuất và lưu thông hàng xuất khẩu, làm ảnh hưởng tới việc thực hiện chủ trương hướng mạnh về xuất khẩu. Mặt khác, chính sách bảo hộ sản xuất trong nước còn thiếu hợp lý. Vẫn còn những biện pháp bảo hộ cứng nhắc, không cần thiết và chưa phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế, trong khi vẫn có những ngành cần và có thể bảo hộ được thì lại bị hàng nước ngoài, nhất là hàng nhập lậu, đẩy vào tình trạng khó khăn. Cơ chế quản lý xuất, nhập khẩu còn nặng về sử dụng các biện pháp hành chính kém hiệu quả, và có nhiều kẽ hở dẫn đến tình trạng một số mặt hàng quan trọng khi thừa, khi thiếu. Cán cân thương mại bị thâm hụt khá lớn...

Phát huy những thuận lợi mới trong quan hệ quốc tế, Chính phủ đã coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư để tranh thủ nguồn tài trợ phát triển (ODA) và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), góp phần đáng kể vào việc thay đổi bộ mặt đất nước và tăng cường nội lực của nền kinh tế. So với các nước đang phát triển khác, tốc độ và tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong 5 năm qua khá cao. Tới nay, Việt Nam cũng là một trong số ít nước được các tổ chức tài chính quốc tế và nhiều nước tài trợ ưu tiên ở châu Á.

Tuy nhiên, việc cải tiến các chính sách và tháo bỏ những vướng mắc về thủ tục hành chính trong tất cả các khâu từ lập, duyệt dự án tới giải ngân, quyết toán tài chính, v.v. còn chưa được thực hiện đồng bộ và triệt để làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Mặt khác, việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào hoạt động còn thiếu chặt chẽ, nhất là về xuất, nhập khẩu, chế độ đối với công nhân Việt Nam và vấn đề sử dụng công nghệ tiên tiến, bảo vệ môi trường.

Chính phủ cũng rất chú trọng chỉ đạo và đã có nhiều văn bản hướng dẫn quản lý, sử dụng các khoản vốn vay, nguồn tài trợ. Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn này đã được nâng cao một bước đáng kể và có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy việc huy động vốn trong nước, phát huy nội lực để phát triển. Tuy nhiên, cũng vẫn còn tình trạng vốn viện trợ được sử dụng một cách “dễ dãi” hơn vốn trong nước với tâm lý coi đó là “của cho không”. Việc quản lý và chỉ đạo xử lý nợ nước ngoài, kể cả nợ thương mại, còn phân tán. Đó là những vấn đề cần được quan tâm khắc phục; trong đó có nhiều vấn đề có thể giải quyết được thông qua sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, nhưng cũng có vấn đề còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan trong nước và quốc tế.

Một điểm nữa cũng cần nói tới là mặc dù Chính phủ đã rất cố gắng trong việc chỉ đạo phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao với kinh tế đối ngoại, nhưng đây vẫn còn là một điểm yếu trong công tác ngoại giao của nước ta. Các cơ quan ngoại giao chưa thực sự là chỗ dựa tin cậy cho các doanh nghiệp trong việc tìm hiểu bạn hàng, vươn ra các thị trường mới. Để khắc phục điểm này phải có phương án tổ chức thực hiện đồng bộ hơn về tổ chức bộ máy, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước liên quan.

3. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển và thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội

Đi đôi với sự chỉ đạo, điều hành kinh tế và dựa trên kết quả tăng trưởng kinh tế, trong nhiệm kỳ này, Chính phủ dành sự quan tâm nhiều hơn trước cho các lĩnh vực văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường. Điều đó thể hiện qua việc bổ sung chính sách, thể chế, bố trí kế hoạch đầu tư, phân bổ ngân sách nhà nước và nguồn tài trợ từ bên ngoài đi đôi với việc tiến hành xã hội hóa từng bước các lĩnh vực đó. Song song với việc tạo điều kiện thuận lợi và hướng dẫn nhân dân làm giàu chính đáng cho mình và cho đất nước, Chính phủ chú trọng phát huy sức mạnh của dân trên mọi mặt hoạt động văn hóa, xã hội, cổ vũ những nhân tố mới của một xã hội công nghiệp, hiện đại, có trật tự, kỷ cương, phát huy truyền thống và giữ vững bản sắc dân tộc; đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội.

Trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đã có một số mặt đạt được chuyển biến rõ rệt thông qua việc thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ, sắp xếp lại các trường đại học và cao đẳng, mở rộng diện phủ sóng và thời lượng phát thanh, truyền hình, v.v.. Chính phủ quan tâm chỉ đạo công tác giáo dục, văn hóa, thông tin, chú trọng việc vun đắp những giá trị đạo đức truyền thống, hun đúc chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, xây dựng tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tạo lập nếp sống văn minh, nhất là trong các lứa tuổi thanh, thiếu nhi.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện một bước đáng kể. Tuy nhiên, mặc dù Chính phủ đã có nhiều cố gắng đổi mới cơ chế, chính sách và tăng cường chỉ đạo, nhưng những chuyển biến về quản lý nhà nước và về chất lượng các hoạt động văn hóa xã hội còn chậm. Một trong những nguyên nhân là chưa nhận thức đầy đủ những vấn đề mới và tầm quan trọng của các nhiệm vụ thuộc lĩnh vực văn hóa, xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường đối với sự phát triển bền vững và lâu dài của đất nước, chưa tổng kết kịp thời để nhân rộng những điển hình dựa vào sáng kiến và sức của dân.

Mặc dù Chính phủ đã tập trung chỉ đạo việc ngăn chặn các tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma túy; bài trừ văn hóa độc hại và lối sống sa đọa; chống mê tín dị đoan và các hủ tục; khắc phục tình trạng phô trương, lãng phí..., nhưng các tệ nạn này vẫn còn tiếp diễn và có chiều hướng phát triển. Chính phủ nhận thức được một trong những nguyên nhân là chưa hình thành được một cuộc vận động sâu rộng trong toàn xã hội, thông qua các đoàn thể quần chúng, để giải quyết được tận gốc căn nguyên của các tệ nạn này. Mặt khác, mức độ xử lý vi phạm còn chưa đủ nghiêm và chưa thống nhất.

Về thực hiện công bằng xã hội, điều đáng chú ý hiện nay là còn một số khá đông người đến tuổi lao động chưa có việc làm; chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng đang có chiều hướng mở rộng. Đây là khó khăn mà tất cả các nền kinh tế chuyển đổi đều gặp phải và phải giải quyết trong nhiều năm. Chính phủ đã tập trung chỉ đạo việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách thuế như một công cụ bảo đảm sự công bằng xã hội nhưng kết quả vẫn còn hạn chế. Chính phủ đã dành sự quan tâm chỉ đạo và đầu tư cho các vùng khó khăn có thêm điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất ngay tại địa phương thông qua nhiều chương trình, dự án có vốn ngân sách và vốn viện trợ nước ngoài để khuyến khích các doanh nghiệp và nhân dân cùng tham gia. Tuy nhiên, kết quả thực hiện chưa cao, có trường hợp vốn đầu tư của Nhà nước không được sử dụng đúng mục đích, thậm chí còn bị thất thoát không nhỏ.

Chính phủ đã đề ra và cố gắng thực hiện nhiều chính sách phân phối và phân phối lại hợp lý thu nhập của các tầng lớp nhân dân bằng nhiều hình thức song chưa đạt được kết quả thiết thực. Trong xã hội, và ngay trong bộ máy nhà nước vẫn còn sự bất hợp lý rất lớn về thu nhập (ví dụ, giữa một cán bộ quản lý nhà nước với một cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước, người lao động giản đơn và lao động trí óc); thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ quân sự không nhập ngũ cũng không phải thực hiện nghĩa vụ gì thay thế, là những ví dụ chứng tỏ còn nhiều vấn đề chưa đảm bảo được công bằng xã hội. Đây là những vấn đề không thể giải quyết được ngay một lúc, và được Chính phủ coi là một nhiệm vụ thường xuyên, phải kiên trì thực hiện.

4. Điều hành, xử lý công việc thường xuyên, giải quyết các vấn đề cấp bách, đồng thời chú trọng các vấn đề cơ bản, lâu dài đối với sự phát triển đất nước

Một điểm nổi bật trong công tác của Chính phủ nhiệm kỳ này là đã chú ý tăng tính chủ động hơn trong điều hành công việc thường xuyên, bước đầu thay đổi được nếp làm việc kinh niên “đầu năm đủng đỉnh, cuối năm chạy nước rút”, đồng thời, dành sự quan tâm nhiều hơn cho việc giải quyết các vấn đề có tầm cơ bản, lâu dài của sự phát triển.

Hằng năm, Chính phủ đều rút kinh nghiệm và sửa đổi, bổ sung quy chế điều hành, hình thành được nếp chỉ đạo trực tiếp, kiên quyết, kịp thời hơn đối với những vấn đề cấp bách, phát sinh trong sản xuất, xây dựng, lưu thông hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu...

Chính từ những vấn đề cấp bách đó, Chính phủ đã thấy rõ hơn và tập trung chỉ đạo tốt hơn việc hình thành những chính sách, và quan trọng hơn là các giải pháp đối với những vấn đề mang tính cơ bản, lâu dài như tài chính, tiền tệ, thuế, quy hoạch phát triển vùng, v.v. và việc hình thành các dự án lớn vừa phục vụ nhu cầu trước mắt, vừa tạo điều kiện cho cả tiến trình công nghiệp hóa.

Từ thực tế phải cân đối thu chi ngân sách, kiềm chế được mức bội chi sau nhiều năm ngân sách nhà nước phải dựa một phần quan trọng vào nguồn tài trợ bên ngoài và phát hành tiền để chi tiêu, Chính phủ đã từng bước đổi mới cơ chế, chính sách tài chính, trước hết là hệ thống thuế, nhằm bồi dưỡng và khai thác các nguồn lực của đất nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy quản lý nhà nước về thuế còn nhiều yếu kém, khuyết điểm, thể hiện ở ngay trong các sắc thuế cũng như trong tổ chức hệ thống thu thuế, v.v. cần phải được tiếp tục khắc phục và hoàn thiện.

Chính phủ đã xây dựng, trình Quốc hội ban hành Luật ngân sách bảo đảm sự quản lý có hiệu quả hơn của Nhà nước đối với nền tài chính quốc gia. Trong tình hình ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhu cầu chi lại rất lớn, Chính phủ thực hiện nhiều đổi mới trong cơ chế phân bổ và điều hành ngân sách, thực hiện việc phân cấp quản lý ngân sách với sự ổn định nhiệm vụ thu chi cho địa phương nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền trong công tác tài chính, khai thác tốt hơn các nguồn thu của địa phương cho đầu tư phát triển.

Trong lĩnh vực tiền tệ, Chính phủ đã thường xuyên theo dõi diễn biến tình hình, từng bước giải quyết mục tiêu bức xúc suốt nhiệm kỳ là đẩy lùi và kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, công tác của Chính phủ trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng vẫn chưa tiến kịp yêu cầu của nền kinh tế. Thị trường vốn phát triển chậm, cơ chế tín dụng còn nhiều nhược điểm, dẫn tới tình trạng có lúc ngân hàng thừa vốn mà doanh nghiệp lại thiếu vốn. Cũng chưa có cơ chế đủ chặt chẽ để vừa bảo đảm vốn cần thiết cho hoạt động của các doanh nghiệp, vừa giảm rủi ro, tránh mất vốn trong hệ thống ngân hàng.

Chính phủ đã dành một phần quan trọng thời gian và công sức cho các vấn đề cơ bản, lâu dài đối với sự phát triển đất nước; đó là công tác xây dựng thể chế, công tác quy hoạch, kế hoạch, xây dựng các công trình lớn...

Đi đôi với việc hoạch định chiến lược phát triển, công tác quy hoạch đã được quan tâm đẩy mạnh nhằm định hướng cho sự bố trí hợp lý lực lượng sản xuất và các địa bàn dân cư, tránh xu hướng tự phát của kinh tế thị trường gây nên mất cân đối và những tổn thất khó khắc phục. Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố và nhiều ngành đã xây dựng được quy hoạch phát triển đến năm 2000 và 2010. Chính phủ đã xây dựng quy hoạch phát triển ba vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp tập trung; chỉ đạo quy hoạch ba vùng giàu tiềm năng nhưng hiện còn khó khăn là đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc.

Quy hoạch phát triển ngành và quy hoạch phát triển vùng đã có sự kết hợp, tạo cơ sở cho việc xây dựng chương trình đầu tư công cộng và lập danh mục các dự án thu hút vốn bên ngoài. Chính phủ xác định cần tiếp tục chú ý bổ sung, hoàn chỉnh, nâng cao chất lượng các quy hoạch sao cho mỗi địa phương đều phát huy được lợi thế của mình, hỗ trợ, bổ sung cho các địa phương khác; các ngành sản xuất, kinh doanh được nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Chính phủ xác định trong suốt cả nhiệm kỳ này là thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn. Chính phủ đã chú trọng chỉ đạo bằng nhiều biện pháp, kết hợp các nguồn vốn, trong đó vốn do nhân dân đóng góp chiếm phần quan trọng, để xây dựng kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi xã hội ở nông thôn như đường giao thông, trường học, bệnh xá... Nhiều mô hình tốt đã và đang được tổng kết, đánh giá để nhân rộng. Tuy nhiên, phần do công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ còn chưa sâu sát, phần do hạn chế về nguồn lực và vẫn còn tư tưởng trông chờ ngân sách, vốn nước ngoài nên vùng nông thôn vẫn chưa đổi mới được cơ cấu sản xuất nông nghiệp, phát triển thêm ngành, nghề. Cuộc sống của một bộ phận lớn nông dân còn bị lệ thuộc vào thiên nhiên, sự dao động của thị trường nông sản..., đòi hỏi phải tiếp tục có những giải pháp hiệu quả, thiết thực hơn trong thời gian tới.

Chính phủ cũng đã tập trung chỉ đạo, kịp thời giải quyết khó khăn về vốn và công nghệ, hoàn thành nhiều công trình, dự án lớn, có ý nghĩa then chốt đối với nền kinh tế. Nổi bật là đầu tư cho các ngành kết cấu hạ tầng như giao thông, viễn thông, điện lực. Nhiều công trình sửa chữa, nâng cấp các tuyến đường quốc lộ; làm cầu mới với hàng chục ngàn tỷ đồng vốn đầu tư của Nhà nước đã và đang được tiến hành, chưa kể hàng ngàn kilômét đường cấp huyện, xã do nhân dân cùng góp vốn. Hệ thống viễn thông ở nước ta đạt trình độ công nghệ không thua kém nhiều nước trong khu vực. Năm 1992, mới có khoảng 10% số xã có máy điện thoại, tới nay, con số này đã lên tới hơn 60%. Các công trình đầu tư cho ngành Điện, kể cả các nhà máy điện, đường dây tải điện Bắc - Nam 500kV và mạng lưới phân phối điện ở thành thị và nông thôn đã nâng công suất điện lên gấp gần hai lần từ 1992 đến năm 1996; số xã có điện lưới được nâng từ 40% lên trên 60%.

Những bài học thu được trong thời gian qua về việc phát huy sức lao động sáng tạo của cán bộ kỹ thuật trong nước, huy động nguồn vốn trong nhân dân và sự chỉ đạo điều hành đối với các công trình trọng điểm cần được tiếp tục phát huy trong việc chuẩn bị và xây dựng các công trình lớn phục vụ tiến trình công nghiệp hóa trong thời gian tới.

Một trong những thế mạnh đồng thời là nhân tố cơ bản đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước là con người. Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đi đôi với nâng cao trình độ khoa học - công nghệ là mối quan tâm thường xuyên của Chính phủ. Việc hoạch định chiến lược phát triển khoa học - công nghệ được xúc tiến song song với việc sắp xếp tổ chức, tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật và đổi mới cơ chế quản lý. Những kết quả đạt được trong việc nghiên cứu, triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và tiếp nhận làm chủ công nghệ nhập cùng với một số công trình nghiên cứu về xã hội và nhân văn trong thời gian qua là đáng khích lệ. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa, để triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 2 về Khoa học - Công nghệ và về Giáo dục - Đào tạo, công tác phát triển nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ cần được chỉ đạo sâu sát và tăng cường đầu tư hơn nữa.

Nhận thức rõ bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc, bảo vệ chế độ, giữ vững ổn định xã hội là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là điều kiện không thể thiếu để phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ đã cố gắng kết hợp tốt giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh; đáp ứng những yêu cầu củng cố an ninh - quốc phòng trong điều kiện mới; thực hiện tốt công tác hậu phương quân đội, cải tiến và nâng cao một bước chế độ đãi ngộ đối với lực lượng vũ trang và những người đã có cống hiến trong các cuộc kháng chiến. Việc lập lại trật tự, kỷ cương trong đời sống kinh tế, xã hội cũng được chú ý và có những chuyển biến tích cực thông qua nhiều đợt vận động sâu rộng trong nhân dân để thực hiện các chủ trương về thiết lập trật tự giao thông; xử lý các vi phạm Pháp lệnh bảo vệ đê điều; không sản xuất, lưu thông và đốt pháo nổ; xóa bỏ cây thuốc phiện, cai nghiện ma túy; làm lành mạnh sinh hoạt văn hóa... Được nhân dân đồng tình ủng hộ, các chủ trương đó một mặt giải quyết được một số yêu cầu bức xúc của xã hội, mặt khác làm tăng thêm lòng tin của nhân dân vào kỷ cương, phép nước, đồng thời, cho phép rút ra nhiều kinh nghiệm để áp dụng vào các lĩnh vực khác, dần hình thành nền nếp tôn trọng pháp luật trong đời sống xã hội.

Bên cạnh đó cũng còn những vấn đề lớn, không kém phần bức xúc nhưng Chính phủ chưa đủ cương quyết để xử lý cho được như vấn đề ngăn chặn nạn phá rừng, cấm xuất khẩu lậu gỗ. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc trồng rừng, hạn chế xuất khẩu gỗ, nhưng độ bao phủ của rừng vẫn giảm, rừng vẫn bị tàn phá đến mức báo động. Trước tình hình đó, gầy đây, Chính phủ đã chủ trương tăng cường trồng mới, khoanh nuôi và bảo vệ rừng, tiết kiệm sử dụng gỗ và cấm xuất khẩu gỗ (trừ hàng thủ công mỹ nghệ). Hằng năm, Chính phủ sẽ công bố danh mục cụ thể khu rừng nào không được khai thác gỗ, khu rừng nào chỉ được khai thác để phục vụ nhu cầu gỗ tại địa phương, khu rừng nào được khai thác để cung cấp gỗ cho cả nước, v.v. và có chính sách khuyến khích sử dụng các vật liệu, nhiên liệu thay gỗ. Nếu cần thì nhập khẩu gỗ phục vụ tiêu dùng trong nước và để gia công xuất khẩu.

5. Cải cách nền hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước

Từ thực tiễn điều hành, Chính phủ đã sớm nhận thấy nhu cầu bức xúc phải cải cách nền hành chính nhà nước, tức là phải thực sự đổi mới bản thân mình thì mới chỉ đạo được công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội.

Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Chính phủ đã tập trung vào việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, từng bước bảo đảm chức năng quản lý nhà nước phù hợp với kinh tế thị trường. Bộ máy hành chính được điều chỉnh, thu gọn cơ cấu Chính phủ, cải cách chế độ tiền lương theo quy chế ngạch, bậc mới; đẩy mạnh đào tạo và đào tạo lại công chức... Nhờ đó, trong nhiệm kỳ này, Chính phủ và bộ máy hành chính đã vừa làm vừa tích lũy thêm được kiến thức và kinh nghiệm về quản lý nhà nước, về sử dụng các công cụ điều tiết để ổn định kinh tế vĩ mô, về thiết lập trật tự, kỷ cương theo pháp luật... Tuy nhiên, nền hành chính nói chung còn nhiều mặt yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước như đã trình bày ở trên.

Các thiết chế nhà nước nói chung và hệ thống hành chính nói riêng còn nhiều bất hợp lý. Thẩm quyền trong nội bộ nền hành chính chưa được phân định rành mạch, chưa có sự ràng buộc, gắn quyền hạn với trách nhiệm; kỷ cương hành chính chưa được thiết lập chặt chẽ. Bên cạnh sự tập trung quan liêu chưa được đẩy lùi triệt để, đã xuất hiện những biểu hiện phân tán, cục bộ, làm giảm hiệu lực điều hành tập trung thống nhất của Chính phủ. Lề lối làm việc tản mạn, tùy tiện còn khá phổ biến. Đội ngũ cán bộ, công chức vừa thừa, vừa thiếu, một bộ phận suy thoái, tham ô, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân. Tình trạng chi tiêu lãng phí, phô trương, hình thức còn chưa được ngăn chặn; tài sản công chưa được quản lý chặt chẽ, đang bị sử dụng rất lãng phí, kém hiệu quả. Điều này đang gây bất bình chính đáng trong nhân dân, đòi hỏi những biện pháp quyết liệt hơn nữa trong chỉ đạo điều hành của Chính phủ và các cấp chính quyền. Do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, trong đó có chính sách quản lý và sử dụng cán bộ chưa thật hợp lý nên các giải pháp của Chính phủ để chỉnh đốn, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức và cán bộ quản lý nhà nước còn chưa thực sự có hiệu quả. Việc xử lý cán bộ, công chức vi phạm pháp luật, kỷ luật hành chính còn thiếu nghiêm minh.

Cải cách hành chính vừa qua chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân cũng như của công tác quản lý nhà nước. Chính phủ nhận rõ những thiếu sót và trách nhiệm của mình trong việc tiến hành cải cách hành chính, nhất là cải cách về thủ tục hành chính.

Sự khởi đầu một nhiệm kỳ mới của Quốc hội và Chính phủ là thời điểm thích hợp để chúng ta đẩy tới một bước mạnh hơn nữa cải cách hành chính. Hoạt động Nhà nước nói chung, hành chính nói riêng phải hướng vào mục tiêu phục vụ nhân dân và tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, tăng cường hội nhập quốc tế phục vụ phát triển trong nước. Muốn vậy, cần soát xét lại toàn bộ thiết chế tổ chức và vận hành của bộ máy hành chính, phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp chính quyền, từng cơ quan trong bộ máy nhà nước.

Bài học thực tiễn vừa qua cho thấy, nhiệm vụ đó chỉ có thể được thực hiện thành công với một quyết tâm cao và ý chí cải cách mạnh mẽ, được tiến hành một cách đồng bộ trong tổng thể bộ máy nhà nước.

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Kính thưa các vị khách quý,

Năm năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đạt được những thắng lợi đáng tự hào trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, mở ra những khả năng và triển vọng to lớn cho thời kỳ phát triển mới. Với ý thức trách nhiệm trước nhân dân, thực hiện sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, sự hướng dẫn và giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, có sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, đặc biệt là được sự ủng hộ và tham gia của nhân dân, Chính phủ và các cấp chính quyền đã nỗ lực thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần tích cực vào những thắng lợi và chuyển biến của đất nước. Bên cạnh những nhiệm vụ được thực hiện tốt, cũng còn không ít việc chưa đạt được kết quả mong muốn, còn nhiều vấn đề chưa giải quyết tốt.

Quốc hội và Chính phủ khóa mới sẽ đứng trước những đòi hỏi cao hơn của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phải đi kịp tiến trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập với khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) sẽ được hình thành vào đầu thế kỷ XXI. Chúng ta không có sự lựa chọn nào khác là phải phát triển vừa nhanh vừa bền vững, dần dần đuổi kịp các nước chung quanh. Chúng ta hoàn toàn có thể làm được việc đó, nếu phát huy được sức mạnh to lớn và đầy sáng tạo của toàn dân. Đó cũng là nhân tố quyết định việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Trách nhiệm lịch sử của Đảng và Nhà nước ta là phải phát huy đến mức cao nhất sức mạnh đó, tạo ra động lực mới thúc đẩy sự phát triển của đất nước ta trong thời kỳ mới.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội