VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 4 1996-1997


BÁO CÁO CỦA
ỦY BAN QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CỦA QUỐC HỘI
VỀ CÔNG TÁC NHIỆM KỲ QUỐC HỘI KHÓA IX
(1992 - 1997)
*

Xuất phát từ tầm quan trọng của nhiệm vụ giữ gìn an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện đường lối quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang trong thời kỳ cách mạng mới. Xét thấy cần phải nâng cao hơn nữa vai trò của Quốc hội trong việc xem xét, quyết định các vấn đề thuộc lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Căn cứ vào Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Quốc hội đã được Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 15 tháng 4 năm 1992, tại khoản 3 Điều 21 của Luật đã quy định “Thành lập Ủy ban quốc phòng và an ninh”.

Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Quốc hội, tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa IX (tháng 9-1992), Ủy ban quốc phòng và an ninh của Quốc hội đã được bầu gồm 21 thành viên, trong đó có 10 đại biểu hoạt động trong Quân đội, 7 đại biểu trong ngành Công an, 4 đại biểu công tác tại các cơ quan của Đảng, Nhà nước ở Trung ương và địa phương. Thường trực Ủy ban có 6 đồng chí bao gồm: một Phó Chủ tịch Quốc hội kiêm Chủ nhiệm, ba Phó Chủ nhiệm và hai ủy viên Thường trực. Hoạt động chuyên trách chỉ có Chủ nhiệm, gần giữa nhiệm kỳ có thêm một ủy viên thường trực. Ba Phó Chủ nhiệm và các thành viên khác đều hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm cho đến những tháng cuối của nhiệm kỳ, Ủy ban thường vụ Quốc hội mới điều động hai đồng chí Phó Chủ nhiệm sang hoạt động chuyên trách.

Như vậy là nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX mới có Ủy ban quốc phòng và an ninh.

I- TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG

Ủy ban quốc phòng và an ninh có nhiệm vụ: Thẩm tra các dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác thuộc lĩnh vực quốc phòng - an ninh; giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực quốc phòng - an ninh, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và việc thực hiện ngân sách trong lĩnh vực này. Kiến nghị với Quốc hội các vấn đề về chính sách quốc phòng, an ninh, những biện pháp cần thiết nhằm thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.

Trải qua nhiệm kỳ hoạt động Ủy ban đã có những đóng góp tích cực vào hoạt động của Quốc hội. Đã cố gắng từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động, thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định.

1. Đã có nhiều cố gắng trong công tác lập pháp và đạt được những kết quả nhất định:

Theo Nghị quyết Quốc hội về chương trình xây dựng pháp luật, được sự phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các dự án luật, pháp lệnh thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh mà Ủy ban chủ trì thẩm tra trong cả nhiệm kỳ bao gồm 3 dự án luật và 10 dự án pháp lệnh.

Tính đến nay, các dự án luật, pháp lệnh đã ban hành là: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự và 07 pháp lệnh: Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự, Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự (sửa đổi), Pháp lệnh bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự, Pháp lệnh về dân quân tự vệ, Pháp lệnh về lực lượng Dự bị động viên, Pháp lệnh về tình báo, Pháp lệnh về Bộ đội biên phòng.

Ủy ban cũng đã tham gia ý kiến vào một số văn bản pháp luật về lãnh hải Việt Nam và Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát biển để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua.

Số dự án còn lại (Luật biên giới quốc gia, Luật Sĩ quan (sửa đổi) và Pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp đang phối hợp với Ban soạn thảo tích cực triển khai).

Ngoài ra, Thường trực Ủy ban đã tham gia cùng Hội đồng dân tộc và các Ủy ban khác của Quốc hội thẩm tra nhiều dự án luật, pháp lệnh có liên quan đến quốc phòng - an ninh, đến việc kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh.

Để có được kết quả trên trong quá trình làm luật, Ủy ban đã bám sát đường lối của Đảng, sự chỉ đạo của Ủy ban thường vụ Quốc hội, cụ thể:

Đã cố gắng quán triệt đường lối của Đảng, nghị quyết của Quốc hội và sự chỉ đạo của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kịp thời xin ý kiến cấp trên về những vấn đề vướng mắc; đồng thời, bám sát tiến độ từng dự án.

Đã tuân thủ quy trình làm luật:

- Bảo đảm nguyên tắc tập thể Ủy ban thẩm tra dự án: hầu hết các dự án đều được tập thể Ủy ban thẩm tra. Một số ít dự án do không có điều kiện họp toàn Ủy ban, Thường trực Ủy ban đã họp mở rộng để thẩm tra trong đó có nhiều thành viên của Ủy ban, một số Tư lệnh quân khu, đại diện lãnh đạo một số địa phương, Bộ, ngành liên quan tham dự.

- Đã tham gia cùng Ban soạn thảo dự án ngay từ đầu (từ khảo sát, biên soạn, hội thảo...). Nhiều ý kiến tham gia của Ủy ban được Ban soạn thảo tiếp thu chỉnh lý dự án.

Một số dự án sau khi được phép của Ủy ban thường vụ Quốc hội đã được gửi tới một số đại biểu Quốc hội, nhất là số đại biểu hoạt động trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh để xin ý kiến trước khi trình Ủy ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự (sửa đổi), Pháp lệnh về dân quân tự vệ, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (sửa đổi).

- Thường trực Ủy ban đã theo dõi và chỉ đạo chặt chẽ đảm bảo tiến độ và chất lượng từng dự án.

Đã quan hệ chặt chẽ với Ủy ban pháp luật của Quốc hội và lãnh đạo hai Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ, cũng như Ban soạn thảo dự án và các cơ quan hữu quan trong xây dựng pháp luật:

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban, hàng năm thường trực Ủy ban đã cùng lãnh đạo hai Bộ thống nhất chương trình làm luật. Quá trình triển khai đã phối hợp chặt chẽ với từng Bộ trong từng dự án để trao đổi những vấn đề lớn tạo sự thống nhất giữa cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra dự án. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Ủy ban pháp luật và các cơ quan liên quan để thống nhất trong thẩm tra dự án cũng như trong khi trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua.

Đánh giá kết quả công tác lập pháp có thể nói rằng những văn bản luật đã ban hành hoặc đã đưa được vào chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội mới chỉ là những văn bản bức bách nhất mà thực tế đòi hỏi vì thực tế trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh còn thiếu rất nhiều luật. Nhiều chủ trương của Đảng về quốc phòng - an ninh chưa được thể chế hóa thành luật pháp. Do đó, những luật, pháp lệnh vừa được ban hành đã đáp ứng một phần yêu cầu của cuộc sống và góp phần vào sự nghiệp củng cố quốc phòng - an ninh. Đã một bước thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng và Hiến pháp 1992 của Nhà nước ta trên một số lĩnh vực quốc phòng - an ninh nhằm xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh; tăng cường củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội; tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước, nâng cao trách nhiệm cơ quan, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội và mọi công dân trong xây dựng lực lượng vũ trang. Mặt khác cũng đã có tác dụng góp phần động viên thế hệ trẻ tham gia bảo vệ Tổ quốc, hăng hái làm nghĩa vụ quân sự, yên tâm phục vụ Quân đội lâu dài, đồng thời, có chính sách động viên tốt hơn đối với bản thân và gia đình quân nhân phù hợp với cơ chế thị trường, v.v..

2. Ủy ban đã tích cực tham gia, đóng góp vào việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước nói chung và thuộc lĩnh vực quốc phòng - an ninh:

Nhận thấy đây là nhiệm vụ lớn hết sức quan trọng: quyết định những vấn đề lớn mang tính chất chủ trương cho cả năm, thậm chí, cho cả nhiệm kỳ Quốc hội, nhất là trong tình hình hiện nay, vì vậy, Ủy ban đã xác định rõ trách nhiệm trước nhiệm vụ này.

1- Để có những ý kiến xác đáng, Ủy ban đã định kỳ nghe Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng báo cáo và tham gia ý kiến đánh giá thực hiện nghị quyết Quốc hội về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong năm và phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng - an ninh năm sau (bao gồm cả phần thực hiện nghị quyết Quốc hội về ngân sách). Trên cơ sở đó cùng với các kết quả hoạt động khác, Ủy ban đã đề xuất những vấn đề cần đưa vào Nghị quyết Quốc hội về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh hằng năm.

Kiểm lại cho đến nay, những vấn đề mà Ủy ban đã đề xuất để Quốc hội đưa vào Nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh đều bảo đảm đúng hướng, phù hợp với thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm là chính xác, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Ngoài ra, thông qua làm việc trực tiếp với Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ và các Bộ, các cơ quan hữu quan, kết hợp với thực tiễn giám sát ở địa phương, cơ sở, Ủy ban còn có nhiều kiến nghị với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ về lĩnh vực quốc phòng - an ninh như: đầu tư thêm kinh phí mua sắm trang thiết bị tối cần thiết; bảo quản vũ khí trang bị kỹ thuật hiện có; nâng cao chất lượng hệ thống học viện, nhà trường Quân đội, Công an; tăng cường phòng thủ biên giới, biển đảo, bảo đảm chế độ, chính sách, chăm lo đời sống tinh thần vật chất cho các lực lượng vũ trang, v.v., đã được Nhà nước quan tâm giải quyết từng bước.

Trong nhiệm kỳ, Ủy ban đã làm việc với một số Bộ, ngành như: Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Thủy sản, Bộ Giáo dục - Đào tạo..., để trao đổi thống nhất những vấn đề thuộc phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng - an ninh, gắn củng cố quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế - xã hội...

3. Ủy ban đã đẩy mạnh công tác giám sát và đạt một số hiệu quả thiết thực:

Từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX đến nay, Ủy ban đã cử 45 đoàn công tác đến làm việc với hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước.

Tại mỗi địa phương đoàn đến, sau khi làm việc với lãnh đạo đều dành thời gian làm việc trực tiếp với các quận, huyện, phường, xã và đơn vị Bộ đội, Công an. Qua các lần giám sát đã có nhiều kiến nghị trình Ủy ban thường vụ Quốc hội, Trung ương, Chính phủ xem xét giải quyết.

Thực tế công tác giám sát của Ủy ban trong những năm qua tuy còn những mặt hạn chế, nhưng có thể nói về cơ bản những mặt làm được là có hiệu quả thiết thực. Giúp cho Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nắm được tình hình, xác định nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và việc phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với quốc phòng - an ninh trong tình hình hiện nay: Phát hiện những vấn đề về chính sách, chế độ cần phải sửa đổi, bổ sung với lực lượng vũ trang; góp phần làm chuyển biến nhận thức của các cấp, các ngành quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược, kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh..., đồng thời đối với lĩnh vực quốc phòng - an ninh công tác giám sát đã kịp thời phát hiện để Nhà nước, Chính phủ thấy rõ sự cần thiết phải đầu tư cho công nghiệp quốc phòng - an ninh, thông tin liên lạc của Quân đội, Công an cũng như trang bị cho Công nghiệp quốc phòng - an ninh, tỷ lệ tăng ngân sách quốc phòng - an ninh hằng năm; chủ trương của Đảng trên nhiều lĩnh vực quốc phòng - an ninh chưa được thể chế hóa thành luật, còn thiếu nhiều luật...

Ngoài việc giám sát chung nêu trên, Ủy ban đã tập trung khảo sát, giám sát một số lĩnh vực, khu vực trọng điểm như: biển, đảo, biên giới...

Về khảo sát vùng biển đảo:

Xuất phát từ vị trí chiến lược và tầm quan trọng của vùng biển đảo nước ta cả về kinh tế và quốc phòng - an ninh cùng với việc theo dõi nắm tình hình qua báo cáo định kỳ của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Hải quân... Ủy ban đã đặt việc khảo sát nắm tình hình vùng biển đảo là một công tác trọng điểm suốt cả nhiệm vụ Quốc hội khóa IX.

Ủy ban đã cử nhiều đoàn công tác đi nghiên cứu khảo sát tình hình biển, đảo. Tính đến nay, Ủy ban đã tiến hành khảo sát toàn bộ các tuyến biển đảo của Tổ quốc (Trường Sa, Đông Bắc, miền Trung, Tây Nam), làm việc với các tỉnh ven biển, với Tổng công ty Dầu khí Việt - Xô Petro.

Qua khảo sát đã cung cấp nhiều thông tin tới Quốc hội và Chính phủ thấy rõ tiềm năng to lớn của biển, đảo đối với sự nghiệp kinh tế của đất nước nhưng chưa được điều tra khai thác tốt. Một số địa phương chưa cho đây là một thế mạnh về kinh tế cần đặt thành kế hoạch đầu tư để phát triển khai thác. Mặt khác, cũng làm rõ tính chất phức tạp về quốc phòng - an ninh trên biển đảo và những điểm còn yếu nhằm tập trung củng cố trong kế hoạch phòng thủ biển, đảo của ta.

Trên cơ sở đó đã có những kiến nghị về các vấn đề:

- Cần sớm hình thành chiến lược kinh tế biển; kết hợp phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh trên vùng biển đảo; đầu tư thực hiện quy hoạch xây dựng các đảo.

- Xây dựng phương án phòng thủ biển, đảo: Xây dựng lực lượng (cả ba thứ quân: chủ lực, Bộ đội địa phương, Dân quân tự vệ), phối hợp chặt chẽ các lực lượng trên biển, đảo: Lực lượng dân quân, Hải quân, Bộ đội biên phòng, Hải quan...; Có kế hoạch từng bước đầu tư phương tiện, trang bị kỹ thuật tiên tiến cho các lực lượng làm nhiệm vụ, đồng thời, có chế độ chính sách thỏa đáng động viên các lực lượng bảo vệ vùng biển đảo xây dựng các đảo trở thành pháo đài vững chắc trên biển.

- Có kế hoạch từng bước đưa dân ra đảo và tạo điều kiện để họ trụ vững trên đảo. Mặt khác, cần đầu tư ngân sách để tăng nhanh tàu thuyền quốc doanh; ưu tiên cho dân vay vốn đóng tàu thuyền có công suất lớn để đánh bắt hải sản xa bờ, làm chủ vùng biển, đảo của Tổ quốc.

Riêng quần đảo Trường Sa, đoàn khảo sát đã có báo cáo về tình hình quần đảo, đồng thời kiến nghị Đảng, Nhà nước, Quốc hội về xây dựng và bảo vệ quần đảo, kết hợp khai thác vùng biển Đông và bảo vệ vùng biển thuộc chủ quyền của ta.

Về tuyến biên giới trên đất liền:

Là nơi thường xuyên diễn ra tranh chấp, nhất là biên giới phía Bắc và Tây Nam. Nhận thấy đây là một điểm nóng cần được quan tâm, vì vậy, trong chương trình hằng năm, Ủy ban cũng đã đặt thành một trọng điểm công tác. Ngoài việc nắm thông tin qua báo cáo của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Biên phòng theo định kỳ, Ủy ban đã tổ chức nhiều đoàn đến làm việc với: các tỉnh biên giới (24/26 tỉnh), có tỉnh đi tới hai lần để nghe tình báo cáo tình hình kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh, nhất là tình hình biên giới, các cửa khẩu và công tác quản lý biên giới của ta, đồng thời, đến khảo sát trực tiếp, nhất là những vị trí thường xuyên bị tranh chấp, những khu vực quan trọng của biên giới. Qua khảo sát đã kiến nghị trực tiếp với địa phương những vấn đề về kinh tế - xã hội kết hợp với quốc phòng - an ninh và các giải pháp để giữ gìn, bảo vệ biên giới hòa bình, hữu nghị và hợp tác..., đồng thời có báo cáo và kiến nghị với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Trung ương và Chính phủ về tình hình biên giới cũng như những chủ trương và giải pháp nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

- Về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng lực lượng Công an nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ bảo vệ biên giới.

- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: đường sá, điện nước, văn hóa, xã hội, đưa dân ra làm ăn sinh sống ở biên giới, có chính sách cải thiện đời sống đồng bào vùng sâu, vùng xa, nhất là đồng bào giáp biên.

 - Đầu tư ngân sách để rà phá bom, mìn, vật cản ở biên giới...

Tóm lại trong nhiệm kỳ, Ủy ban đã dành nhiều thời gian và công sức để khảo sát tuyến biên giới và biển, đảo. Đã trực tiếp tham gia góp ý với lãnh đạo địa phương, cơ sở nơi Đoàn đến khảo sát những vấn đề về kinh tế, quốc phòng, an ninh, nhất là việc kết hợp kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, được địa phương, cơ sở tiếp thu.

Đồng thời, đã có nhiều kiến nghị quan trọng trình Quốc hội, Trung ương, Chính phủ nhằm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Kết quả cho đến nay, nhiều kiến nghị đã được Chính phủ lưu ý, nhiều nơi Chính phủ đã đầu tư ngân sách làm những công trình vừa mang ý nghĩa kinh tế, vừa kết hợp với việc phòng thủ trên các tuyến biển đảo và biên giới của Tổ quốc.

Những tồn tại trong công tác giám sát:

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giám sát cũng bộc lộ một số điểm yếu như sau:

a) Trong khi rất coi trọng việc thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh đảm bảo tiến độ và chất lượng như trên đã trình bày, thì lại chưa coi trọng đúng mức việc giám sát ban hành các văn bản dưới luật, giám sát việc thi hành luật, pháp lệnh thuộc lĩnh vực quốc phòng - an ninh.

b) Thời gian dành cho từng đợt khảo sát, giám sát việc thực hiện nghị quyết Quốc hội, nghị quyết Ủy ban thường vụ Quốc hội, các luật, pháp lệnh thuộc lĩnh vực quốc phòng - an ninh ở các địa phương còn ít và thiếu chiều sâu, còn nặng về tìm hiểu tình hình; giám sát chỉ đạo quản lý, phân bổ, sửa đổi ngân sách quốc phòng - an ninh tuy có được quan tâm, nhưng còn hạn chế.

Chưa có điều kiện đi sâu vào một số lĩnh vực như trật tự an toàn xã hội.

c) Khâu đôn đốc giải quyết các kiến nghị qua giám sát, tuy có làm song kết quả giải quyết còn bị hạn chế, nhiều kiến nghị, giải quyết chậm hoặc chưa giải quyết được. Trong đó có nguyên nhân là chưa có quy chế quan hệ giữa Ủy ban với các Bộ Quốc phòng, Nội vụ và các cơ quan hữu quan trong việc giải quyết các kiến nghị.

d) Về công tác đối ngoại:

Do đặc điểm Ủy ban quốc phòng - an ninh nên trong nhiệm kỳ chỉ có một đoàn với danh nghĩa Đoàn đại biểu Quốc hội (nòng cốt thành phần là Ủy ban quốc phòng và an ninh) đi thăm Ấn Độ. Còn là thường ghép thành viên của Ủy ban trong tổ chức đoàn của Quốc hội đi thăm các nước.

Ủy ban cũng đã trực tiếp hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan của Quốc hội đón tiếp một số đoàn khách nước ngoài đến thăm và làm việc với Quốc hội.

Đánh giá chung việc tổ chức các đoàn đi nước ngoài và đón đoàn vào thăm đều chu đáo, đạt kết quả tốt. Kết quả làm việc đều có báo cáo bằng văn bản trình Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuy nhiên, hoạt động đối ngoại của Ủy ban còn rất hạn chế, do nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân khách quan là tổ chức Ủy ban về quốc phòng - an ninh, song về phía chủ quan còn thiếu chủ động mở rộng quan hệ, thường là làm theo sự phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch Quốc hội.

II- ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG,
KINH NGHIỆM VÀ KIẾN NGHỊ

1. Đánh giá kết quả hoạt động và nguyên nhân:

Tuy là Ủy ban mới được thành lập, nhưng nhìn chung Ủy ban hoạt động có kết quả, bước đầu làm được một số việc và cũng đã tích lũy được những kinh nghiệm tốt. Hoạt động của Ủy ban đã góp phần giúp Nhà nước, Quốc hội, Trung ương và Chính phủ nắm được thực tế tình hình quốc phòng, an ninh - một lĩnh vực rất quan trọng của đất nước để kịp thời đề ra chủ trương, phương hướng giải quyết những vấn đề ở tầm vĩ mô về lĩnh vực quốc phòng - an ninh trong phạm vi cả nước, cũng như chỉ đạo giải quyết cụ thể ở địa phương, cơ sở. Điều đó chứng tỏ quyết định thành lập Ủy ban quốc phòng và an ninh trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX là đúng đắn và càng khẳng định vai trò, vị trí và sự cần thiết không thể thiếu Ủy ban quốc phòng và an ninh trong tổ chức và hoạt động Quốc hội.

a) Kết quả hoạt động vừa qua cho thấy hoạt động của Ủy ban đúng hướng, bảo đảm chức năng, nhiệm vụ được giao, theo Luật tổ chức của Quốc hội và Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.

b) Hoàn thành cơ bản nhiệm vụ được giao, cũng như hoàn thành chương trình hoạt động trong nhiệm kỳ và từng năm mà Ủy ban đã đề ra.

Là Ủy ban mới được thành lập, nhưng với tinh thần tích cực chủ động, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, nên dần từng bước trưởng thành, hoạt động ngày càng có hiệu quả, năm sau tốt hơn năm trước.

c) Kết quả hoạt động của Ủy ban đã góp phần vào kết quả hoạt động chung của Quốc hội, rút ra được một số kinh nghiệm bổ ích, giúp cho hoạt động của Ủy ban quốc phòng và an ninh trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa tới.

Đạt được những kết quả trên là do có sự đổi mới tổ chức và hoạt động Quốc hội, sự chỉ đạo, điều hành của Ủy ban thường vụ Quốc hội mà trực tiếp là của Chủ tịch Quốc hội, sự cố gắng, nỗ lực của toàn thể Ủy ban, sự ủng hộ, hợp tác của các Bộ, ngành Trung ương, địa phương và các cơ quan hữu quan...

Trong quá trình tổ chức, thực hiện nhiệm vụ, Ủy ban đã coi trọng cải tiến lề lối làm việc bảo đảm được nguyên tắc tập thể, dân chủ, bảo đảm chế độ sinh hoạt, làm việc theo chương trình kế hoạch, thường xuyên rút kinh nghiệm để huy động ngày càng tốt hơn.

Mọi chủ trương, phương hướng và chương trình huy động của Ủy ban đều do tập thể bàn bạc, quyết định, từ việc tham gia ý kiến vào dự thảo nghị quyết Quốc hội về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Thẩm định nhiệm vụ và ngân sách hai Bộ (Quốc phòng, Nội vụ). Thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh đến việc quyết định phương hướng nhiệm vụ và chương trình hoạt động của Ủy ban...

Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ủy ban đã xác định những phương hướng hoạt động lớn cho cả nhiệm kỳ. Trong từng năm, căn cứ vào nghị quyết Quốc hội và diễn biến tình hình thực tế, Ủy ban xác định trọng tâm, trọng điểm tập trung vào phòng chống âm mưu “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh trật tự các địa bàn, nhất là trên biên giới, biển, đảo. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, sĩ quan Quân đội, Công an; quan tâm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của chiến sĩ; vấn đề bảo quản, cải tiến trang thiết bị kỹ thuật, xây dựng công nghiệp quốc phòng an ninh...

Trên cơ sở phương hướng hoạt động và chương trình công tác của Ủy ban, Thường trực Ủy ban đã có nhiều cố gắng trong việc điều hành và tổ chức triển khai công việc. Trong quá trình triển khai, tùy theo diễn biến tình hình đã chủ động điều chỉnh hoặc bổ sung công việc cho phù hợp và thường xuyên coi trọng rút kinh nghiệm để hiệu quả hoạt động của Ủy ban ngày càng tốt hơn.

Thường xuyên giữ tốt mối quan hệ với Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ và các cơ quan hữu quan. Do đặc điểm công việc có liên quan nhiều đến các Bộ, ngành hữu quan cả Trung ương và địa phương, cho nên Ủy ban đã rất coi trọng và thường xuyên giữ mối quan hệ với các Bộ: Quốc phòng, Nội vụ, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Văn phòng Quốc hội, cũng như phối hợp tương đối chặt chẽ với Hội đồng dân tộc, Ủy ban pháp luật, các Ủy ban khác của Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ. Trong khi làm việc tại các địa phương, Ủy ban đã giữ tốt mối quan hệ phối hợp với Đoàn đại biểu Quốc hội địa phương, với các đơn vị Quân đội, Công an đóng trên địa bàn.

Tuy nhiên cần nghiên cứu cách làm việc để có thể phát huy được khả năng các thành viên của Ủy ban tham gia nhiều hơn nữa vào hoạt động của Quốc hội, của Ủy ban. Thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau, có đồng chí tham gia hoạt động của Ủy ban còn ít, việc đảm bảo thông tin hai chiều chưa thành nền nếp, một số đồng chí không đảm bảo thông tin định kỳ về những hoạt động của mình tới Thường trực Ủy ban.

Nhìn chung, so với yêu cầu nhiệm vụ thì hoạt động của Ủy ban còn có nhiều việc chưa làm được. Trong số việc đã làm, cũng còn nhiều thiếu sót, kể cả trong công tác lập pháp và công tác giám sát là hai lĩnh vực chi phối nhiều thời gian huy động nhất của Ủy ban, một nguyên nhân quan trọng của tình hình này là vì đa số các thành viên Ủy ban hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm, lại giữ những trách nhiệm chủ chốt trong lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị, nên không có điều kiện dành thời gian nhiều cho hoạt động Ủy ban. Đây cũng là vấn đề cần được khắc phục trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX.

2. Những kinh nghiệm rút ra qua hoạt động thực tiễn:

Đánh giá kết quả hoạt động của Ủy ban trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:

a) Để hoạt động đúng hướng và có hiệu quả trước hết phải hết sức coi trọng việc quán triệt đường lối đổi mới, các chủ trương, chính sách của Đảng, nghị quyết của Quốc hội và của Ủy ban thường vụ Quốc hội, sự chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội cũng như những nhiệm vụ được Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội giao cho. Trên cơ sở đó định ra phương hướng, nhiệm vụ và chương trình công tác cụ thể. Đồng thời phải nắm vững Luật tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội và các văn bản luật khác có liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban để làm căn cứ pháp lý.

b) Từng thời kỳ, từng năm, biết tìm ra trọng tâm, trọng điểm đúng tầm hoạt động của Ủy ban để tập trung giải quyết, tránh dàn đều chung chung. Cần tăng cường công tác lập pháp kết hợp chặt chẽ giữa công tác lập pháp và công tác giám sát thực hiện pháp luật. Coi trọng công tác giám sát ban hành các văn bản dưới luật.

c) Đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công phân nhiệm rõ ràng, phát huy vai trò tích cực chủ động của tập thể và từng thành viên Ủy ban, đồng thời, phát huy vai trò Thường trực Ủy ban trong điều hành công việc thường xuyên. Phải có Thường trực Ủy ban mạnh đủ sức tổ chức, điều hành công việc của Ủy ban.

d) Hết sức coi trọng việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan và địa phương. Cần tạo mọi điều kiện phát huy cao nhất khả năng của Ủy ban, đồng thời phải biết phối kết hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan của Quốc hội, Chính phủ..., để thực hiện nhiệm vụ, nhất là để cùng các cơ quan Chính phủ tháo gỡ hoạt động định hướng giúp đỡ địa phương cơ sở giải quyết những khó khăn.

đ) Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ủy ban cần thống nhất với Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ để có chương trình xây dựng pháp luật về quốc phòng, an ninh toàn khóa để báo cáo đưa vào chương trình lập pháp của Quốc hội; cố gắng xây dựng các luật cơ bản về quốc phòng - an ninh, lưu ý hai Bộ củng cố, tăng cường các cơ quan pháp chế, tăng cường cán bộ chuyên trách về công tác lập pháp.

e) Phát huy vai trò của cơ quan tham mưu giúp việc, nhất là Vụ quốc phòng và an ninh.

Tuy là Vụ giúp Ủy ban và Thường trực Ủy ban về mặt chuyên môn, song có thể nói mọi công việc của Vụ đều gắn chặt với hoạt động của Ủy ban. Kết quả hoạt động của Ủy ban trong nhiệm kỳ có sự đóng góp tích cực của Vụ quốc phòng và an ninh. Để Vụ quốc phòng và an ninh đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ ngày càng nặng nề thì cần tăng cường củng cố cả về số lượng, chất lượng và có chính sách động viên thỏa đáng.

3. Một số kiến nghị:

Để hoạt động của Ủy ban quốc phòng và an ninh có hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng và an ninh cần tổ chức xây dựng Ủy ban quốc phòng và an ninh để giúp Quốc hội về vấn đề gắn hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1- Đường lối, chủ trương, chính sách quốc phòng - an ninh của Đảng là cơ sở cho hoạt động của Quốc hội về lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Do đó, đề nghị Đảng có những định hướng cụ thể từng thời kỳ để trình Ủy ban quốc phòng và an ninh có căn cứ trình Quốc hội kế hoạch hoạt động của cả nhiệm kỳ cũng như từng năm về quốc phòng - an ninh.

2- Ủy ban thường vụ Quốc hội trong năm đầu của khóa mới cần thông qua phương hướng, kế hoạch hoạt động cả khóa trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, lập pháp để Ủy ban quốc phòng và an ninh chủ động triển khai cụ thể và phối hợp với Hội đồng dân tộc và các Ủy ban khác.

3- Cần xây dựng luật hoặc pháp lệnh về giám sát của Quốc hội, của đại biểu Quốc hội, xây dựng cơ chế giải quyết các kiến nghị của các đại biểu Quốc hội với các ngành, các cấp.

4- Về tổ chức Ủy ban quốc phòng và an ninh trong khóa tới, đề nghị số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động trong Ủy ban quốc phòng và an ninh cần khoảng 6% trong tổng số đại biểu Quốc hội (Quốc hội khóa IX: 5,31%).

Trong cơ cấu của Ủy ban quốc phòng và an ninh cần có tỷ lệ hợp lý giữa đại biểu hoạt động lĩnh vực quốc phòng - an ninh và đại biểu hoạt động thuộc các lĩnh vực khác, nhất là lĩnh vực kinh tế.

Ngoài Chủ nhiệm chuyên trách, nên có ba Phó chủ nhiệm, trong đó có hai Phó Chủ nhiệm chuyên trách (một Quốc phòng và một Nội vụ), có như vậy mới đủ sức giúp Ủy ban điều hành hoạt động. Ngoài ra, cần có một số cộng tác viên chuyên sâu giúp Ủy ban trên từng lĩnh vực.

Về tiêu chuẩn đại biểu, do đặc điểm hoạt động thuộc lĩnh vực quốc phòng - an ninh cần nhấn mạnh thêm tiêu chuẩn có điều kiện tham gia hoạt động Ủy ban. Mặt khác về cơ cấu đại biểu trong Ủy ban cần có các đại biểu có cương vị tương tự như Ủy ban trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX (cụ thể cần hai đồng chí lãnh đạo cấp Bộ Quốc phòng - Nội vụ, một số đại biểu là Tư lệnh quân khu, một số Giám đốc Sở Công an tỉnh, thành phố, bốn Chỉ huy trưởng quân sự tỉnh, một số đại biểu cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, Trung ương và địa phương).

Trên đây là báo cáo công tác nhiệm kỳ của Ủy ban quốc phòng và an ninh trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX, kính trình Quốc hội xem xét.

 TM. ỦY BAN QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

Chủ nhiệm

ĐẶNG QUÂN THỤY


 

* Bác cáo này được gửi tới các vị đại biểu Quốc hội (BT).

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội