BÁO CÁO
TỔNG KẾT NHIỆM KỲ
CỦA ỦY BAN VĂN HÓA, GIÁO DỤC, THANH NIÊN, THIẾU NIÊN
VÀ NHI ĐỒNG CỦA QUỐC HỘI KHÓA IX (1992 - 1997)
Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội
được thành lập từ kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX (tháng 9-1992).
Trong nhiệm kỳ 5 năm (1992 - 1997), Ủy ban đã hoạt động theo chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992, Luật tổ chức Quốc hội và Quy chế hoạt động của các
Ủy ban của Quốc hội.
Tổng kết nhiệm kỳ của Ủy ban nhằm xem xét, đánh giá các mặt về tổ chức, cơ
cấu, về phương thức hoạt động và những bài học kinh nghiệm. Từ đó đề xuất,
kiến nghị một số vấn đề cần thiết góp phần vào sự đổi mới hoạt động của Quốc
hội, của Ủy ban khóa tới.
PHẦN
THỨ NHẤT
VỀ
TỔ CHỨC, CƠ CẤU VÀ LỀ LỐI LÀM VIỆC CỦA ỦY BAN
Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội
được thành lập gồm 30 thành viên do Quốc hội bầu. Trong đó có Chủ nhiệm, bốn
Phó Chủ nhiệm (hai Phó Chủ nhiệm chuyên trách, hai Phó Chủ nhiệm kiêm nhiệm)
Chủ nhiệm và các Phó Chủ nhiệm của Ủy ban hợp thành thường trực Ủy ban.
Về cơ cấu thành viên Ủy ban:
- 10/30 hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật;
- 9/30 hoạt động trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo;
- 7/30 hoạt động trên lĩnh vực thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;
- 4/30 hoạt động trên lĩnh vực chính trị, xã hội.
Trong số thành viên của Ủy ban có 14 đại biểu nữ, 5 đại biểu người dân tộc
thiểu số, 5 đại biểu có học hàm, học vị phó tiến sĩ, phó giáo sư, 6 đại biểu
là văn nghệ sĩ.
Ủy ban hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ tập
thể và quyết định theo đa số đúng như Quy chế hoạt động của các Ủy ban của
Quốc hội.
Ủy ban họp thường kỳ hai phiên trong một năm, thường là vào trước kỳ họp của
Quốc hội. Từ khi Quốc hội chuyển họp vào tháng 4 và tháng 10 hằng năm, Ủy
ban tổ chức một phiên họp vào cuối tháng 12 hoặc đầu tháng 01 để thông qua
chương trình công tác cụ thể năm, nghe báo cáo kết quả các chuyên đề khảo
sát phục vụ công tác giám sát của Ủy ban và quyết định các đề tài chuyên đề
khảo sát phục vụ công tác giám sát của Ủy ban và quyết định các đề tài
chuyên đề khảo sát phục vụ công tác giám sát trong năm.
Trong những trường hợp cần thiết như để thẩm tra dự án luật, dự án pháp
lệnh; hoặc nghe các Bộ, ngành báo cáo những vấn đề quan trọng và cấp bách,
Ủy ban tổ chức các phiên họp ngoài những phiên họp thường kỳ.
Những phiên họp của Ủy ban được chuẩn bị chu đáo. Các báo cáo có chất lượng,
có đủ các văn bản và những tư liệu cần thiết, thảo luận dân chủ và kết luận
cụ thể.
Căn cứ vào nghị quyết về nhiệm vụ năm của Quốc hội, vào phương hướng hoạt
động năm của Ủy ban, Thường trực Ủy ban định chương trình công tác hằng
tháng, 3 tháng, 6 tháng và cả năm.
Thường trực Ủy ban họp một tháng một lần; đối với các đồng chí thường trực
kiêm nhiệm vì phải giữ trọng trách ở các cơ quan khác nên chỉ tham dự được
những cuộc họp cần thiết và quan trọng, nhưng vẫn giữ được mối liên hệ
thường xuyên, cung cấp thông tin và trao đổi xin ý kiến. Khi có những vấn đề
quan trọng, song chưa cần đến mức triệu tập họp toàn Ủy ban, Thường trực Ủy
ban tổ chức họp thường trực Ủy ban mở rộng, trao đổi, xin ý kiến để có những
quyết định kịp thời.
Hằng năm, căn cứ vào chương trình, kế hoạch hoạt động, Thường trực Ủy ban tổ
chức các Đoàn đại biểu của Ủy ban, đoàn của Thường trực Ủy ban đi giám sát,
hoặc khảo sát theo chuyên đề tại các địa phương, các Bộ, ngành có liên quan.
Ủy ban mời một đồng chí đã kinh qua công tác chỉ đạo và có nhiều kinh nghiệm
về lĩnh vực văn hóa - thông tin làm cộng tác viên. Và khi cần làm sáng tỏ
một số vấn đề mà Ủy ban quan tâm, Ủy ban mời các nhà văn hóa, nhà giáo, nhà
khoa học, các nhà hoạt động chính trị, luật pháp để trao đổi, tham khảo ý
kiến.
Về bộ máy giúp việc, Ủy ban có một vụ chuyên môn giúp việc hoạt động của Ủy
ban. Vụ chuyên môn này (tức Vụ văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và
nhi đồng) đang từng bước hoàn thiện dần, tăng cường số lượng và chất lượng,
bảo đảm những phương tiện cần thiết để làm việc. Đối với vụ chuyên môn, Chủ
nhiệm Ủy ban chỉ đạo về công tác chuyên môn nghiệp vụ và phối hợp với Chủ
nhiệm Văn phòng Quốc hội chỉ đạo các mặt công tác khác đúng như Điều 35 quy
định trong Quy chế hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội.
PHẦN
THỨ HAI
VỀ
HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN
1.
Về công tác lập pháp:
Ủy ban và Thường trực Ủy ban đã thực hiện nghiêm túc sự phân công của Ủy ban
thường vụ Quốc hội thẩm tra các dự án luật, dự án pháp lệnh. Việc thẩm tra
các dự án luật, pháp lệnh được tổ chức đúng quy trình, công phu và khoa học,
bảo đảm tính pháp lý và tính khả thi để Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
thông qua.
Khi tiến hành thẩm tra các dự án pháp luật, Thường trực Ủy ban đã triển khai
từng bước và đồng bộ các công việc sau: Quán triệt các quan điểm, chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về những phạm vi điều
chỉnh của dự án pháp luật; tập hợp, nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật
liên quan đến các lĩnh vực thẩm tra; xem xét, tham khảo nội dung và kinh
nghiệm xử lý của các nước; làm việc định kỳ với cơ quan chỉ đạo và ban soạn
thảo; tổ chức khảo sát thực tế; tổ chức lắng nghe ý kiến của các nhà chuyên
môn, quản lý và các chuyên gia pháp luật; trao đổi với Ủy ban pháp luật về
các vấn đề có liên quan; tổ chức họp Ủy ban để thẩm tra.
a)
Về các dự án luật:
- Thực hiện sự phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban đã thẩm tra
Dự án Luật xuất bản. Ngay từ đầu, khi Dự án Luật xuất bản được ghi vào
chương trình Quốc hội thông qua, Ủy ban đã cử người tham gia vào Ban soạn
thảo, Thường trực Ủy ban làm việc trực tiếp với Ban soạn thảo theo kế hoạch
phối hợp đã thống nhất, để đảm bảo đúng tiến độ, quy trình và chất lượng của
Dự án Luật. Khi tiến hành thẩm tra, Ủy ban đã tổ chức thẩm tra đúng quy
trình, bảo đảm nguyên tắc, thủ tục và báo cáo kết quả thẩm tra trước Quốc
hội. Luật xuất bản đã được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 07 tháng 7 năm
1993 tại kỳ họp thứ 3.
- Căn cứ vào nhiệm vụ và quyền hạn, xét thấy, trước yêu cầu của sự phát
triển giáo dục - đào tạo phục vụ cho công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước, đồng thời nhận thấy sự cần thiết phải thể chế hóa
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục - đào tạo trong giai
đoạn hiện nay, Thường trực Ủy ban đã có Tờ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội,
kiến nghị đưa Luật giáo dục bổ sung vào chương trình xây dựng pháp luật của
Quốc hội đến hết nhiệm kỳ.
Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa IX đã thông qua chương trình xây dựng pháp
luật đến hết nhiệm kỳ. Luật giáo dục được ghi vào chương trình chính thức và
theo sự phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội giao cho Ủy ban chủ trì và
phối hợp với Ủy ban pháp luật của Quốc hội thẩm tra Dự án Luật. Thường trực
Ủy ban đã tổ chức phối hợp chặt chẽ với cơ quan soạn thảo, cử người tham gia
Ban chỉ đạo soạn thảo Dự án Luật, làm việc từng bước với cơ quan soạn thảo,
thống nhất quan điểm, phạm vi điều chỉnh của Dự án Luật, quy trình tiến độ,
đảm bảo chất lượng của Dự án Luật giáo dục để trình Quốc hội khóa IX, kỳ họp
thứ 11.
Đồng thời với Dự án Luật giáo dục, Thường trực Ủy ban đã làm việc với Ban
thường vụ Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trình Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về việc tiếp tục xây dựng Dự án Luật thanh niên đã được
chuẩn bị từ Quốc hội khóa VIII. Dự án Luật thanh niên đã được ghi vào chương
trình xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa IX từ kỳ họp thứ 8 đến hết nhiệm
kỳ trong phần chương trình dự bị, Ủy ban tiếp tục góp phần tham gia cùng
Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là cơ quan soạn thảo Dự án
Luật này.
Đối với các dự án pháp luật khác, những vấn đề có liên quan đến những lĩnh
vực Ủy ban theo dõi, Ủy ban đều quan tâm xem xét và có những ý kiến đóng góp
cụ thể như: Luật đất đai, Bộ luật lao động, Bộ luật dân sự, Luật ngân sách,
Luật thuế ...
b)
Về các dự án pháp lệnh:
- Ủy ban thường vụ Quốc hội đã giao cho Ủy ban thẩm tra dự án pháp lệnh bảo
hộ quyền tác giả và xem xét Dự thảo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều
quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước tặng nhà giáo, thầy thuốc, nghệ sĩ.
Về thẩm tra Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả, Thường trực Ủy ban đã phối hợp
chặt chẽ và làm việc cụ thể với Ban soạn thảo, đồng thời tổ chức một số cuộc
hội thảo với một số các nhà khoa học tiêu biểu ở các lĩnh vực khoa học khác
nhau, một số văn nghệ sĩ có nhiều tác phẩm và công trình nghệ thuật, một số
cơ quan quản lý sự nghiệp khoa học và văn học - nghệ thuật; nghiên cứu, tham
khảo một số văn bản của một số nước quy định về bảo hộ quyền tác giả và tác
phẩm, tìm hiểu Công ước Bécnơ. Thường trực Ủy ban đã tiến hành thẩm tra dự
án Pháp lệnh này một cách thận trọng, khoa học. Pháp lệnh bảo hộ quyền tác
giả đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 02 tháng 12 năm 1994.
Về Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều quy định danh hiệu vinh dự Nhà
nước tặng nhà giáo, thầy thuốc, nghệ sĩ, Thường trực Ủy ban đã thực hiện sự
phối hợp với Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội xem xét dự
thảo Pháp lệnh này và đã báo cáo với Ủy ban thường vụ Quốc hội về ý kiến của
Thường trực Ủy ban.
- Xét thấy cần thiết, Thường trực Ủy ban đã chủ động tổ chức nghiên cứu Dự
thảo Pháp lệnh về nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân ở mỗi cấp, đặc biệt quan tâm đóng góp ý kiến về phần nhiệm vụ cụ
thể về văn hóa, giáo dục, thể dục thể thao, phát thanh, truyền hình và công
tác thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, những lĩnh vực mà Ủy ban phụ trách.
c)
Về các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh:
Khi xây dựng những văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh thuộc lĩnh vực
của Ủy ban, Chính phủ đều gửi dự thảo lấy ý kiến Ủy ban, Thường trực Ủy ban
đã tổ chức xem xét, đóng góp ý kiến bằng văn bản; có những lĩnh vực cần
thiết Thường trực Ủy ban giao cho cấp vụ phối hợp tham gia vào Ban soạn
thảo. Thường trực Ủy ban đã đóng góp ý kiến cho các dự thảo nghị định của
Chính phủ: Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật xuất bản,
Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo hộ quyền
tác giả, Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động điện ảnh, Nghị định
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành quyền tác giả trong Bộ luật dân sự,
Nghị định của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực báo chí.
2.
Về công tác giám sát:
Ủy ban và Thường trực Ủy ban rất coi trọng công tác giám sát về các lĩnh vực
mà Ủy ban theo dõi, coi đây là một trong những mặt hoạt động chủ yếu của Ủy
ban trong suốt nhiệm kỳ.
Ủy ban thực hiện giám sát tại địa phương, Bộ, ngành, cơ sở theo chương trình
công tác năm. Tùy thuộc vào nội dung giám sát mà Ủy ban thực hiện hình thức
giám sát thích hợp nhất, nhằm đem đến hiệu quả cao, như Ủy ban; Thường trực
Ủy ban nghe báo cáo của các Bộ, ngành, đơn vị cơ sở, sau đó trao đổi, thảo
luận và kết luận; thành lập đoàn của Ủy ban, hoặc Thường trực Ủy ban đi giám
sát tại địa phương tỉnh, huyện, xã, tiếp xúc trực tiếp với cử tri, kết hợp
cả hai hình thức nghe báo cáo và đi giám sát thực tế.
Căn cứ vào nhiệm vụ và quyền hạn, Ủy ban đã tiến hành giám sát những nội
dung sau:
a)
Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh thuộc những lĩnh vực Ủy ban theo
dõi:
Ủy ban đã giám sát việc thực hiện các luật: Luật báo chí, Luật xuất bản,
Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;
các pháp lệnh: Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng các di tích lịch sử văn hóa, danh
lam, thắng cảnh, Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả, Pháp lệnh quy định danh
hiệu vinh dự nhà nước tặng nhà giáo, thầy thuốc, nghệ sĩ. Về những luật và
pháp lệnh này trong quá trình giám sát, Ủy ban quan tâm đến các vấn đề: Tình
hình tổ chức triển khai thực hiện các luật, pháp lệnh, việc ban hành các văn
bản dưới luật và tình hình thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước, các
đoàn thể, các tổ chức kinh tế - xã hội và trong nhân dân.
Đặc biệt, Ủy ban đi sâu giám sát Luật báo chí, Luật xuất bản, Luật phổ cập
giáo dục tiểu học, Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng các di tích lịch sử văn hóa,
danh lam, thắng cảnh; cử người tham gia với Ủy ban Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo
dục trẻ em Việt Nam tổng kết 5 năm thực hiện Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em.
Về giám sát Luật báo chí, Luật xuất bản, Thường trực Ủy ban đã nghe lãnh đạo
Bộ Văn hóa - Thông tin, Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, Lãnh đạo Đài
Tiếng nói Việt Nam báo cáo về việc thi hành Luật báo chí, Luật xuất bản. Cử
đoàn đi giám sát về tình hình hoạt động báo chí xuất bản, việc thi hành Luật
báo chí, Luật xuất bản và việc tăng cường sự lãnh đạo và quản lý báo chí,
xuất bản tại 12 tỉnh, thành phố, một số tờ báo, nhà xuất bản của các đoàn
thể và các cơ quan trung ương (gồm 32 tờ báo, 11 đài phát thanh, truyền
hình, 18 nhà xuất bản). Kết thúc giám sát, Ủy ban đã có văn bản báo cáo Ủy
ban thường vụ Quốc hội, và thuyết trình trước Quốc hội về một số vấn đề về
báo chí, xuất bản cần được quan tâm.
Để sự nghiệp báo chí, xuất bản phát triển đúng hướng với chất lượng và hiệu
quả cao, Ủy ban đã có những kiến nghị với Chính phủ cần nhanh chóng ban hành
kịp thời và đồng bộ những văn bản dưới luật nhằm đưa hoạt động và quản lý
báo chí, xuất bản vào hành lang pháp luật; tiếp tục quy hoạch, sắp xếp lại
hệ thống báo chí, xuất bản và xây dựng đội ngũ; củng cố các cơ quan quản lý
nhà nước, phát huy vai trò của Ủy ban nhân dân trong quản lý hoạt động báo
chí, xuất bản trên địa bàn. Cần nghiên cứu, ban hành một số chính sách, chế
độ cần thiết như chế độ nhuận bút, chính sách hỗ trợ vốn cho nhà xuất bản và
phát hành sách, nghiên cứu thêm chính sách thuế đối với báo chí, xuất bản.
Trước mắt, nên thực hiện phương thức ghi thu, ghi chi, đầu tư trở lại để nhà
xuất bản và các cơ quan báo chí xây dựng và tăng cường cơ sở vật chất, trang
thiết bị và phương tiện hành nghề cho phóng viên.
Về giám sát Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Ủy ban đã cử đoàn đi giám sát
việc thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học ở cả ba miền: miền Bắc, miền Trung,
miền Nam; ở cả vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa; ở những nơi có điều kiện
thuận lợi và những nơi có nhiều khó khăn. Ủy ban rất quan tâm đến chỉ tiêu
phổ cập giáo dục tiểu học hằng năm trong báo cáo của Chính phủ. Chỉ tiêu đạt
tiêu chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học năm 1995 - 1996 là: 1/3 số
tỉnh, 2/3 số huyện và 1/3 số xã, và sẽ hoàn thành phổ cập giáo dục vào năm
2000. Qua giám sát, Ủy ban nhận thấy rằng, những chỉ tiêu và mục tiêu này là
cần thiết, nhưng điều kiện để thực hiện như về nhận thức của các đối tượng,
cơ sở vật chất và chính sách cũng còn hạn chế, cho nên phải có kế hoạch và
biện pháp rất cụ thể và đồng bộ. Trong 5 năm qua, mới chỉ công nhận được hơn
1/5 số tỉnh, 1/4 số huyện, 1/3 số xã. Số còn lại tập trung ở những vùng thực
sự khó khăn (vùng sâu, vùng xa của đồng bằng sông Cửu Long, vùng núi phía
Bắc, vùng núi miền Trung và Tây Nguyên) nơi cơ sở hạ tầng yếu kém, tỷ lệ
sinh để còn cao, đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (cả
nước thiếu trên 60.000 giáo viên tiểu học, hơn 60% chưa đạt chuẩn). Cơ chế
chính sách để huy động mọi lực lượng tham gia thực hiện mục tiêu phổ cập
giáo dục tiểu học và xóa mù chữ chưa được giải quyết, việc lập quỹ giáo dục
quốc gia hỗ trợ cho kinh phí sự nghiệp phổ cập giáo dục tiểu học vẫn chưa có
văn bản hướng dẫn thi hành. Để thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học
vào năm 2000, Ủy ban đã có kiến nghị, Chính phủ phải có những quyết sách đủ
mạnh, tập trung chỉ đạo quyết liệt đồng bộ để giải quyết những khó khăn,
vướng mắc hiện nay về những điều kiện cho giáo dục tiểu học, cũng như phải
tổ chức nhiều hình thức học tập và tăng cường công tác tuyên truyền, vận
động để huy động được sức mạnh tinh thần và vật chất của toàn xã hội để mọi
ngành, mọi nhà, mọi người đều quan tâm chăm lo cho trẻ em đi học, chăm lo
đến việc hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học mà Chính phủ đã đề
ra.
Về giám sát Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa, danh lam,
thắng cảnh, Ủy ban đã nghe lãnh đạo Bộ Văn hóa - Thông tin và các cơ quan
chức năng của Bộ báo cáo về thực trạng tình hình bảo vệ và sử dụng, việc thi
hành Pháp lệnh này và những kiến nghị. Ủy ban đã cử đoàn đi khảo sát thực tế
tại một số di tích lịch sử, văn hóa, danh lam, thắng cảnh tiêu biểu hoặc
những nơi đang nổi cộm một số vấn đề cần giải quyết. Để phục vụ cho việc
giám sát này, Ủy ban đã có một chuyên đề khảo sát phối hợp với 53 Sở Văn hóa
- Thông tin cùng tiến hành. Ủy ban sẽ có đánh giá chính thức về vấn đề này
trước khi kết thúc nhiệm kỳ.
b)
Giám sát tình hình thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các lĩnh vực văn
hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; về thực hiện chính sách
văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng trong các kế hoạch,
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hằng năm, theo chương trình kế hoạch, Ủy ban đã cử các đoàn đi giám sát tại
các địa phương, cơ sở, làm việc với các Bộ, ngành, đoàn thể. Những đoàn giám
sát thực hiện những nội dung giám sát. Tình hình triển khai và thực hiện các
nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm; tình hình thi hành pháp luật thuộc
những lĩnh vực Ủy ban theo dõi; khảo sát tình hình thực tế và việc thực hiện
các chính sách về văn hóa, giáo dục, thanh thiếu niên và nhi đồng. Bên cạnh
đó, Ủy ban còn cử các đoàn đi khảo sát những vấn đề mà Ủy ban quan tâm. Nghe
các cơ quan chức năng báo cáo những vấn đề cụ thể. Trong nhiệm kỳ Ủy ban đã
cử các đoàn đi giám sát và khảo sát tại 38 tỉnh, thành phố: Hà Giang, Tuyên
Quang, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Hải Hưng, Hải Phòng, Quảng Ninh,
Nam Hà, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên - Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Đồng Nai, Sông Bé, Tây Ninh,
Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang,
Minh Hải. Từ thực tế và rút kinh nghiệm việc tổ chức đoàn đi giám sát ở
những khóa trước, Ủy ban chỉ thành lập đoàn từ 3 đến 5 đại biểu. Các đoàn
chỉ dành thời gian vừa đủ để nghe báo cáo tình hình; còn là tập trung đi cơ
sở, làm việc với cơ sở, tiếp xúc trực tiếp với cử tri, lắng nghe ý kiến,
nguyện vọng và kiến nghị của cử tri, của các đơn vị. Với cách làm việc này,
Ủy ban đã thu thập được nhiều tư liệu, số liệu cụ thể, nắm tình hình khá sâu
sát và chắc chắn, được các địa phương, nhất là các cử tri hoan nghênh và bày
tỏ sự đồng tình, ủng hộ.
Qua báo cáo đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ từng năm của Chính phủ và giám
sát thực tế, Ủy ban nhận thấy rằng, trong những năm qua trên các lĩnh vực
văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng đã có những chuyển
biến tích cực, tiến bộ, có những mặt đạt được khá cơ bản. Quy mô giáo dục đã
vượt được giai đoạn giảm sút, bắt đầu đi vào ổn định và phát triển, thể hiện
ở các chỉ tiêu: Số học sinh các cấp đều tăng, số học sinh bỏ học giảm, chất
lượng các trường chuyên, lớp chọn ngày càng được nâng cao, số học sinh giỏi
ngày càng tăng ở các thành phố và mở rộng ra nhiều tỉnh (một số tỉnh miền
núi đã có học sinh đoạt giải trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi toàn quốc);
đội ngũ giáo viên ổn định hơn. Giáo viên bỏ nghề giảm đáng kể ở nhiều tỉnh;
việc học bằng đại học thứ hai cho những người đã tốt nghiệp đại học đã tạo
ra những điều kiện thuận lợi cho thanh niên nâng cao trình độ, có cơ hội tìm
việc làm dễ hơn trong nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội. Với sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đang diễn ra sôi động trong cả nước cũng như ở từng địa
phương, những hoạt động văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao đã được
triển khai theo hướng vừa nâng cao chất lượng, vừa mở rộng phong trào quần
chúng. Nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục - thể thao kỷ niệm những
ngày lễ lớn trong năm 1994 - 1995 và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã
góp phần làm cho đời sống tinh thần trong xã hội sinh động, phong phú hơn.
Các địa phương đã quan tâm đến đời sống văn hóa cơ sở, xây dựng nếp sống văn
minh, gia đình văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Việc
tăng cường trang thiết bị cho đài phát thanh, truyền hình Trung ương và các
đài địa phương đã cải thiện đáng kể chất lượng phát sóng cũng như mở rộng
diện phủ sóng. Hoạt động của Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
đã hướng vào việc tổ chức cho thanh niên thực hiện những chương trình kinh
tế - xã hội. Năm 1995, Đoàn Thanh niên đã chỉ đạo và điều hành 400 dự án
kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm cho 30.000 thanh niên. Trung ương Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thành lập hai khu kinh tế thanh niên tại Tây
Ninh và Tuyên Quang góp phần định cư cho 1.220 hộ gia đình trẻ. Điều đáng
nói ở đây chính là các tổ chức thanh niên đã có sự đổi mới trong việc tập
hợp thanh niên thông qua những hoạt động thiết thực gắn với quyền lợi cũng
như trách nhiệm qua phong trào “thanh niên lập nghiệp”, “tuổi trẻ giữ nước”.
Những mục tiêu trong chương trình chăm sóc trẻ em đến năm 2000 được triển
khai đồng bộ và có kết quả hơn đối với những vấn đề bức xúc, như trẻ em suy
dinh dưỡng, trẻ em thất học, giúp đỡ trẻ em thiệt thòi...
Trong chương trình giám sát, Ủy ban đã tập trung vào một số vấn đề mà Ủy ban
cho là trọng yếu nhằm góp phần đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển và tháo gỡ
vướng mắc khắc phục những tồn tại, khó khăn. Đó là các vấn đề: chính sách về
nguồn lực và việc quản lý nhà nước có liên quan tới việc huy động và sử dụng
nguồn lực trong lĩnh vực văn hóa - xã hội; những giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục - đào tạo; vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây
dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa, vấn đề giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa trong công cuộc đổi mới, trong thời kỳ mở cửa và hội nhập; vấn
đề bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em; vấn đề giáo dục tư tưởng chính trị
cho thanh niên hiện nay, công tác vận động, tập hợp thanh niên và chính sách
của Nhà nước đối với thanh thiếu niên và nhi đồng.
Về nguồn lực cho văn hóa, giáo dục và chăm lo cho sự nghiệp phát triển của
thế hệ trẻ phải nói đến ngân sách nhà nước dành cho các lĩnh vực này. Ngân
sách nhà nước ta thường phải chi chủ yếu cho ba lĩnh vực: Đầu tư phát triển,
quốc phòng - an ninh, văn hóa - xã hội (năm 1995 cũng như năm 1996 so với
tổng ngân sách nhà nước chi cho văn hóa - xã hội chiếm gần 29%). Xét trên
quan điểm hệ thống với một cách nhìn nhận tổng thể thì những lĩnh vực trên
đều có liên quan hữu cơ với nhau, lĩnh vực này là tiền đề, là cơ sở cho sự
phát triển của lĩnh vực kia. Song, trong từng giai đoạn thì vấn đề nào cần
được ưu tiên hơn để tạo ra những khả năng cho sự phát triển toàn diện của
đất nước, cho hiện tại, cho mười năm, cho hai mươi năm sau. Đây là một vấn
đề cần được nghiên cứu, để có những cơ sở về mặt lý luận cũng như thực tiễn,
nhằm xác định cho được một tỷ lệ hợp lý, có tác dụng nâng cao hiệu quả trong
chính sách đầu tư từ ngân sách. Ủy ban cho rằng, giải quyết nguồn lực cho
văn hóa - xã hội không thể chỉ bằng ngân sách nhà nước, nhất là trong tình
hình ngân sách còn hạn hẹp. Tuy nhiên, những năm qua Nhà nước đã có những
biện pháp xã hội hóa hoạt động của các lĩnh vực này. Bởi vì, chất lượng hoạt
động văn hóa - xã hội không thể chỉ bảo đảm bằng các ngành chuyên môn,
nghiệp vụ mà còn phải được bảo đảm bằng sự tham gia tự giác của toàn xã hội,
cho nên cần có sự nghiên cứu một cách cơ bản về vấn đề kinh tế trong văn
hóa, giáo dục, từ đó, định ra một hệ thống chính sách và cơ chế quản lý phù
hợp cho từng loại hình hoạt động, để có thể tăng nguồn thu từ xã hội một
cách trật tự, kỷ cương, bảo đảm được quản lý của Nhà nước trong việc thực
hiện mục tiêu xây dựng con người, không nên để việc vận dụng thực hiện
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” tùy tiện như hiện nay ở một số
nơi, mà nhiều cử tri có ý kiến.
Vấn đề quản lý nhà nước có liên quan tới việc huy động và sử dụng nguồn lực
trong lĩnh vực văn hóa - xã hội là vấn đề cần được quy định rõ. Một khi nền
kinh tế đã chuyển hướng, cơ chế quản lý đã thay đổi thì công tác quản lý, bố
trí lực lượng trong các lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng phải được đổi mới
đồng bộ. Mấy năm gần đây, bên cạnh việc chỉ đạo, điều hành đổi mới kinh tế,
Chính phủ đã từng bước quan tâm đổi mới hoạt động các lĩnh vực văn hóa - xã
hội. Tuy nhiên, một số vấn đề về quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa,
giáo dục đang từng bước đòi hỏi một sự giải đáp thỏa đáng, Chính phủ cần sớm
có những quyết định thống nhất trên phạm vi cả nước về những loại công việc
thuộc công tác quản lý nhà nước đang cần được khắc phục, góp phần tăng cường
hiệu lực điều hành và tổ chức thực hiện của các cấp chính quyền khi triển
khai các chủ trương, chính sách của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở.
Ủy ban cho rằng, sự nghiệp văn hóa, giáo dục và chăm lo cho sự phát triển
của thế hệ trẻ ở tầm vĩ mô là việc hoạch định những chính sách, cung cấp
những nguồn lực, xây dựng bộ máy quản lý, điều hành, xác định các chương
trình hành động quốc gia để phấn đấu đạt các mục tiêu đã định. Còn ở tầm vi
mô, sự nghiệp này phải được triển khai đến từng đơn vị cơ sở, từng cộng đồng
dân cư, từng gia đình đảm bảo cho sự phát triển một cách bền vững và có
chiều sâu.
Tại kỳ họp thứ 2, thứ 4, thứ 6, thứ 8, thứ 10, Quốc hội khóa IX, Ủy ban đã
thuyết trình về những vấn đề sau: “Một số vấn đề trong tổ chức chỉ đạo thực
hiện kế hoạch năm 1992 và dự kiến kế hoạch năm 1993 đối với sự nghiệp văn
hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; về tình hình thực hiện kế
hoạch năm 1993 và dự kiến kế hoạch 2 năm 1994 - 1995 và kế hoạch năm 1994
đối với sự nghiệp văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; một
số vấn đề chính sách về nguồn lực và quản lý nhà nước đối với sự nghiệp văn
hóa, giáo dục, thanh thiếu nhi; một số vấn đề về giáo dục - đào tạo, về báo
chí, xuất bản cần được quan tâm; một số vấn đề về phát huy và phát triển
nguồn nhân lực trẻ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Để phục vụ cho công tác giám sát có chất lượng, hiệu quả và rút kinh nghiệm
từ thực tế công tác giám sát; từ năm 1994, hằng năm, Ủy ban đã xem xét và
quyết định một số chuyên đề khảo sát có tính nghiên cứu nhằm có tư liệu một
cách hệ thống phục vụ cho công tác giám sát của Ủy ban, công việc này Ủy ban
giao cho Thường trực Ủy ban chỉ đạo Vụ văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu
niên và nhi đồng thực hiện có sự phối hợp của các thành viên Ủy ban và báo
cáo kết quả trước Ủy ban. Về văn hóa - thông tin đã thực hiện khảo sát các
chuyên đề: Tình hình tổ chức và xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, tình hình
và biện pháp để giữ gìn, phát triển và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong sự nghiệp đổi mới của đất nước; tình hình bảo vệ và sử dụng di tích
lịch sử, danh lam, thắng cảnh. Về giáo dục - đào tạo: Tình hình xóa mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học; chính sách phổ cập giáo dục tiểu học ở những
vùng khó khăn; chế độ chính sách đối với giáo viên phổ thông; tình hình tổ
chức và hoạt động các loại hình trường bán công, dân lập, tư thục; tình hình
và mạng lưới các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề hiện
nay. Về thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Tình hình thanh thiếu niên phạm
pháp và biện pháp phòng ngừa, giáo dục.
Tuy nhiên, do lĩnh vực theo dõi của Ủy ban nhiều, rộng và tính cấp bách của
giáo dục - đào tạo, văn hóa - thông tin cần phải được tập trung, nên có lúc
về lĩnh vực thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, về thể dục - thể thao chưa
được tập trung như các lĩnh vực khác. Chính vì vậy, Thường trực Ủy ban đã
đặt chương trình làm việc với Ban thường vụ Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Ủy ban Bảo vệ và Chăm
sóc trẻ em Việt Nam để nắm tình hình và có các kiến nghị cần thiết, Thường
trực Ủy ban cũng đã đề nghị, trong các báo cáo của Chính phủ, Nghị quyết của
Quốc hội dành phần thích đáng cho những lĩnh vực này.
Đối với thành viên Ủy ban, bên cạnh việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ của
đại biểu Quốc hội, các thành viên đã căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của Ủy
ban và chương trình công tác hằng năm, 6 tháng, kết hợp với cương vị công
tác của mình để tìm hiểu, nghiên cứu trực tiếp tại địa phương, cơ sở đại
biểu công tác, đóng góp thiết thực vào công việc giám sát của Ủy ban. Nếu
thực hiện tốt phương thức làm việc này, Ủy ban sẽ có thêm những nguồn thông
tin, những tư liệu phong phú trong quá trình tập hợp, tổng hợp, phân tích
tình hình. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, các thành
viên Ủy ban chưa gửi các báo cáo về Thường trực Ủy ban một cách thường
xuyên, đầy đủ.
Tùy theo điều kiện và yêu cầu có thể tổ chức nhóm đại biểu thành viên Ủy ban
đi khảo sát theo những chuyên đề nhất định, hoặc tìm hiểu kỹ một vấn đề do
thực tế cuộc sống đặt ra.
Thường trực Ủy ban luôn luôn coi trọng và tranh thủ thu hút trí tuệ của các
nhà chuyên môn, nhà khoa học, nhà quản lý giỏi có nhiều kinh nghiệm bằng các
hình thức lấy ý kiến, tổ chức tọa đàm, hội thảo giúp cho Ủy ban nghiên cứu
các vấn đề, các lĩnh vực một cách cặn kẽ và khoa học. Cho nên, việc Ủy ban
có một số cộng tác viên và dành kinh phí để khai thác chất xám là vấn đề cần
thiết được đặt ra.
3.
Về các công tác khác:
a) Về hoạt động đối ngoại:
Nhằm tăng cường quan hệ hợp tác và trao đổi kinh nghiệm hoạt động giữa Quốc
hội và các cơ quan của Quốc hội nước ta với các nước. Ủy ban đã tổ chức đón
các đoàn Ủy ban của Quốc hội một số nước sang thăm và làm việc với Quốc hội
và Ủy ban: đoàn Ủy ban văn hóa, gia đình và xã hội của Quốc hội nước Cộng
hòa Pháp, đoàn Ủy ban văn hóa - xã hội của Quốc hội Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào, đoàn Ủy ban văn hóa, tôn giáo và nghệ thuật của Hạ viện Vương quốc
Thái Lan, đoàn Ủy ban giáo dục của Hạ viện Vương quốc Thái Lan, đoàn nghị sĩ
Thượng nghị viện nước Cộng hòa Pháp, Ủy ban đã tổ chức đón các đoàn hữu
nghị, chân tình, chu đáo và trọng thị, tổ chức hội đàm, trao đổi kinh nghiệm
về những vấn đề mà hai bên quan tâm.
Nhận lời mời của Ủy ban giáo dục của Hạ nghị viện Vương quốc Thái Lan, Ủy
ban văn hóa - xã hội của Quốc hội Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Ủy ban giáo
dục, khoa học, văn hóa, y tế của Đại hội đại biểu nhân dân Trung Quốc và
được sự đồng ý của Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh, Ủy ban đã cử các đoàn
đại biểu của Ủy ban đi thăm và làm việc tại Vương quốc Thái Lan, Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Mục đích của những chuyến
thăm và làm việc được định rõ: Tìm hiểu, nghiên cứu và trao đổi về văn hóa,
giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, tìm hiểu cơ cấu tổ chức và
hoạt động của Ủy ban của Quốc hội các nước này, góp phần tăng cường quan hệ
hữu nghị, hợp tác và hiểu biết lẫn nhau giữa Quốc hội và nhân dân các nước
mà đoàn đến thăm. Đoàn đã có báo cáo kết quả các chuyến thăm và làm việc với
Ủy ban thường vụ Quốc hội và Ủy ban.
Ngoài ra, một số thành viên của Ủy ban đã tham gia các đoàn của Ủy ban
thường vụ Quốc hội và các Ủy ban khác đi thăm và làm việc ở một số nước.
b)
Về công tác dân nguyện và việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công
dân:
Ủy ban đã nhận được 174 đơn thư khiếu tố, khiếu nại và phản ánh nguyện vọng
của công dân. Thường trực Ủy ban đã xem xét kỹ những đơn thư, phối hợp với
Văn phòng Quốc hội về cách giải quyết; có công văn gửi cho chính quyền địa
phương, cơ quan chủ quản, cơ quan chức năng, đồng thời, thông báo đến cá
nhân, tập thể và cơ quan có đơn thư khiếu nại, tố cáo; có những trường hợp,
Thường trực Ủy ban cử người trực tiếp nghe đương sự và làm việc với các cơ
quan chức năng. Có những vụ việc đã được giải quyết dứt điểm như ở Đài
Truyền hình Việt Nam, một số vụ việc tiêu cực về thể thao; một số vụ việc
xâm phạm quyền trẻ em và trẻ em phạm pháp. Việc một số tờ báo viết về ngành
Hàng không Việt Nam, việc một số nhà xuất bản xuất bản sách phạm luật, một
số vụ việc vi phạm di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, vấn đề chế
độ lương và phụ cấp của giáo viên, việc điều chỉnh xử lý đối với một cán bộ
ở ngành Giáo dục, việc công nhận và giải quyết chính sách cho một người có
công với cách mạng... Nhìn chung, việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo
của công dân của các cơ quan chức năng còn chậm, có một số vụ việc rơi vào
tình trạng im lặng không được hồi âm. Thường trực Ủy ban sẽ tiếp tục đôn đốc
và theo dõi việc giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Thường trực Ủy ban cũng đã tiếp và nghe các đề xuất ý kiến về các lĩnh vực
văn hóa, giáo dục của các nhà khoa học, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa,
văn nghệ sĩ. Một số đề xuất đã làm sáng tỏ hơn một số vấn đề do thực tế đặt
ra mà Ủy ban rất quan tâm để có ý kiến với các ngành, các cấp hữu quan.
c)
Sự phối hợp với các cơ quan hữu quan:
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX, Ủy ban đã tìm phương thức hoạt động, cố
gắng nâng cao dần chất lượng hoạt động. Trên cơ sở những chuyển biến về tình
hình kinh tế - xã hội, nắm vững đường lối chủ trương của Đảng, mục tiêu,
chính sách của Nhà nước và những đóng góp ý kiến của các thành viên, Ủy ban
đã định ra được một chương trình hoạt động sát hợp, lựa chọn đúng các vấn đề
trong từng thời gian cần được xem xét, nghiên cứu mà thực tiễn và lý luận
đang đòi hỏi phải giải quyết. Những nhận xét, đánh giá tình hình và những
kiến nghị của Ủy ban đều dựa trên cơ sở kết quả khảo sát thực tế, phát hiện
những mặt mạnh, mặt yếu của tình hình, đề xuất được các biện pháp thiết thực
để Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương nghiên cứu giải quyết.
Thường trực Ủy ban giữ mối quan hệ tốt và tạo được sự phối hợp chặt chẽ với
Bộ Giáo dục - Đào tạo, Bộ Văn hóa - Thông tin, Trung ương Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Ủy ban bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam, định kỳ làm
việc, cung cấp thông tin, trao đổi, phối hợp một số mặt công tác đã giúp cho
Ủy ban thuận lợi trong việc thẩm tra các dự án pháp luật, các báo cáo, phát
biểu ý kiến, thuyết trình của Ủy ban, và đóng góp hướng giải quyết một số
vấn đề bức xúc đặt ra ở những lĩnh vực văn hóa, giáo dục, chăm lo cho thế hệ
trẻ.
Ủy ban cũng đã có sự phối hợp với Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc
hội khi tiến hành thẩm tra các dự án pháp luật; một số vấn đề trong công tác
giám sát và xử lý một số công việc cụ thể. Tuy nhiên, sự phối hợp này cần
được tiến hành có chương trình kế hoạch thường xuyên và chủ động, đặc biệt
là sự chỉ đạo, điều hòa của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Ủy ban đã có sự phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Quốc hội bằng làm việc trực
tiếp của Thường trực Ủy ban với lãnh đạo Văn phòng Quốc hội, hoặc thông qua
Vụ văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Các bộ phận chức
năng của Văn phòng Quốc hội đã phục vụ tương đối tốt các hoạt động của Ủy
ban.
PHẦN
THỨ BA
MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ
1.
Về tổ chức Ủy ban:
Về cơ cấu đại biểu của Ủy ban cần có sự nghiên cứu cân đối giữa đại biểu
hoạt động nghiên cứu về chính sách ở tầm vĩ mô, am hiểu quản lý với các đại
biểu hoạt động chuyên môn và cơ sở, giữa chuyên ngành và luật pháp.
Trong quy chế hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội, cần quy định tiêu chuẩn
thành viên Ủy ban. Vấn đề này cần được nghiên cứu, ngoài tiêu chuẩn của đại
biểu Quốc hội, cần phải có thêm những tiêu chuẩn như: am hiểu về chuyên môn
thuộc lĩnh vực của Ủy ban, có tinh thần trách nhiệm cao và có điều kiện hoạt
động. Cần quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của thành viên.
Nhiệm kỳ khóa tới, về số lượng thành viên Ủy ban ngoài thường trực Ủy ban,
thành viên Ủy ban không quá 21 đại biểu. Tùy thuộc vào yêu cầu và những điều
kiện bảo đảm hoạt động có hiệu quả mà bố trí một số thành viên chuyên trách.
Số thành viên chuyên trách của Ủy ban nếu có, phải hoạt động tập trung ở Ủy
ban chứ không ở Đoàn đại biểu Quốc hội. Về Thường trực Ủy ban, có Chủ nhiệm
Ủy ban và ba Phó Chủ nhiệm phụ trách ba lĩnh vực: một phụ trách văn hóa -
thông tin, một phụ trách giáo dục - đào tạo và một phụ trách thanh niên,
thiếu niên, nhi đồng và thể dục - thể thao. Chủ nhiệm và các Phó Chủ nhiệm
nhất thiết phải làm nhiệm vụ chuyên trách và nên là những đồng chí đã kinh
qua công tác quản lý, có năng lực tổ chức chỉ đạo, có khả năng nghiên cứu
tổng hợp.
Về tên Ủy ban, cần cân nhắc có nên giữ tên “Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh
niên, thiếu niên và nhi đồng” hay là “Ủy ban văn hóa, giáo dục” vấn đề này
có lịch sử của nó, Quốc hội khóa VII, khóa VIII có Ủy ban thanh niên, thiếu
niên và nhi đồng. Quốc hội khóa IX, theo Luật tổ chức Quốc hội năm 1992
không còn Ủy ban thanh niên, thiếu niên và nhi đồng mà thành lập Ủy ban văn
hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng trên cơ sở nhập hai Ủy ban
văn hóa, giáo dục và Ủy ban thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, nay Ủy ban
đề nghị lấy tên là “Ủy ban văn hóa, giáo dục của Quốc hội” là đủ vì thanh
niên, thiếu niên và nhi đồng chính là đối tượng của văn hóa và giáo dục.
2.
Về tổ chức Quốc hội:
Về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội giữ như quy định của Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội.
Về số lượng đại biểu, xét trên nhiều mặt và tổng thể, đồng thời căn cứ vào
kết quả, kinh nghiệm hoạt động của Quốc hội khóa IX, số đại biểu khoảng trên
400 là phù hợp với tình hình thực tế. Cần thiết phải duy trì cơ cấu, nhưng
hết sức quan tâm và coi trọng chất lượng đại biểu sao cho có sự kết hợp một
cách hài hòa và hoạt động có hiệu quả. Cần chú ý lựa chọn những người có
năng lực thực hiện nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội và có điều kiện để hoạt
động công tác Quốc hội. Việc lựa chọn đại biểu chuyên trách ở các Ủy ban và
các Đoàn đại biểu Quốc hội sao cho thích hợp và đáp ứng được yêu cầu. Quy
định số lượng đại biểu chuyên trách nên căn cứ vào yêu cầu, năng lực, tình
hình thực tế và điều kiện bảo đảm để đại biểu làm nhiệm vụ chuyên trách.
Về Ủy ban thường vụ Quốc hội, số lượng ít nhất cũng phải bảo đảm và tùy theo
sự phát triển về tổ chức như khóa IX, có thể bố trí từ 15 đến 17 người. Nên
có bốn Phó Chủ tịch phụ trách các lĩnh vực: kinh tế ngân sách, văn hóa - xã
hội, pháp luật, an ninh - quốc phòng; về đối ngoại do Chủ tịch Quốc hội trực
tiếp phụ trách, Phó Chủ tịch tập trung vào công tác chung của Quốc hội, cố
gắng không bố trí kiêm Chủ nhiệm các Ủy ban.
Cần có sự phân công phân nhiệm cụ thể và kiểm tra phối hợp điều hành của Ủy
ban thường vụ Quốc hội về công tác dân nguyện để đẩy mạnh công tác này.
Để tăng hiệu quả giải quyết các kiến nghị của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban
của Quốc hội, nên có những quy định về trách nhiệm cụ thể của cơ quan kiến
nghị cũng như cơ quan giải quyết các kiến nghị.
Căn cứ Nghị quyết 02 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, đề nghị nghiên cứu thành
lập tờ báo của Quốc hội - Cơ quan ngôn luận của Quốc hội, diễn đàn của nhân
dân.
TM. ỦY BAN VĂN HÓA, GIÁO DỤC,
THANH NIÊN, THIẾU NIÊN VÀ NHI ĐỒNG
Chủ
nhiệm
TRẦN
THỊ TÂM ĐAN
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội