VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 4 1996-1997


BÁO CÁO
CỦA ỦY BAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI CỦA QUỐC HỘI
TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG NHIỆM KỲ QUỐC HỘI KHÓA IX (1992 - 1997)
*

Căn cứ Điều 27 Luật tổ chức Quốc hội (được công bố ngày 18-4-1992) quy định về quyền hạn và nhiệm vụ của Ủy ban về các vấn đề xã hội;

Căn cứ văn bản số 272/UBTVQH ngày 5-6-1996 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc tổng kết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX;

Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội tiến hành tổng kết hoạt động nhiệm kỳ 1992 - 1997 với những nội dung chủ yếu như sau:

- Kết quả các hoạt động trong nhiệm kỳ;

- Đánh giá về các hoạt động của Ủy ban;

- Một vài vấn đề rút ra và kiến nghị.

Dưới đây là nội dung cụ thể từng vấn đề:

I- KẾT QUẢ CÁC HOẠT ĐỘNG
CỦA ỦY BAN TRONG NHIỆM KỲ

1. Tổ chức bộ máy của Ủy ban và việc điều hành:

Tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội (từ ngày 19-9 đến 08-10-1992), Quốc hội đã quyết định số lượng thành viên của Ủy ban là 27 và Quốc hội đã bầu đủ 27 thành viên: trong đó có 7 nữ và 20 nam; 23 thành viên công tác tại các địa phương và 4 thành viên công tác ở các cơ quan Trung ương; cơ cấu theo lĩnh vực thì hoạt động công tác Đảng, đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc có 11 thành viên; quản lý nhà nước (chính quyền) 9; tôn giáo 2; quân sự 1; sự nghiệp 4; theo chuyên môn nghiệp vụ thì có 19 thành viên có trình độ đại học trở lên (gồm các chuyên ngành y - dược, lâm nghiệp, nông nghiệp, thủy sản, cơ khí, kinh tế, tuyên giáo, văn học...). Quốc hội cũng đã bầu một Chủ nhiệm và bốn Phó Chủ nhiệm (trong đó Chủ nhiệm và một Phó chuyên trách). Trong nhiệm kỳ cũng đã có những thay đổi đáng kể, một số thành viên chuyển hẳn sang làm chuyên trách cho các Đoàn đại biểu Quốc hội địa phương; hai Phó Chủ nhiệm kiêm nhiệm chuyển sang chuyên trách; một số thành viên khác từ Hội đồng nhân dân chuyển sang Ủy ban nhân dân hoặc từ Ủy ban nhân dân chuyển sang Hội đồng nhân dân (sau cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân ba cấp cuối năm 1994).

Tại phiên họp thứ nhất tháng 9-1992, Ủy ban cũng đã thành lập ba tiểu ban để hoạt động chuyên sâu (Tiểu ban dân số, phụ nữ và tôn giáo; Tiểu ban lao động và các đối tượng chính sách xã hội; Tiểu ban y tế, sức khỏe, nhưng sau đó, xét thấy tuyệt đại bộ phận các thành viên hoạt động kiêm nhiệm, trong khi số cán bộ chuyên trách quá ít (hai thành viên), vì vậy, phải chuyển ngay sang hoạt động tổng hợp (từ đầu năm 1993 đến nay).

Hằng năm theo chức năng, nhiệm vụ đã được luật định, căn cứ vào chương trình hoạt động của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban chúng ta quyết định chương trình hoạt động hằng năm và Thường trực Ủy ban xây dựng chương trình hàng tháng, hàng quý. Trên cơ sở chương trình đã được xác định, Thường trực Ủy ban điều hành công việc của toàn Ủy ban. Các thành viên được thông báo trước kế hoạch công tác để sắp xếp thời gian và công việc tham gia hoạt động từng đợt.

2. Kết quả khối lượng công việc đã thực hiện được trong nhiệm kỳ:

Theo Điều 27 Luật tổ chức Quốc hội thì Ủy ban về các vấn đề xã hội có ba nhiệm vụ chính:

- Thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác thuộc lĩnh vực các vấn đề xã hội;

- Giám sát thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực các vấn đề xã hội; giám sát việc thực hiện các chính sách xã hội trong các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và thực hiện ngân sách trong lĩnh vực này;

- Kiến nghị với Quốc hội các biện pháp để giải quyết các vấn đề xã hội.

Trong nhiệm kỳ, Ủy ban đã tổ chức triển khai cả ba nhiệm vụ đó (nói gọn lại là lập pháp, giám sát và kiến nghị). Ngoài ra, Ủy ban còn triển khai một số công việc khác như nghiên cứu điều tra... phục vụ cho các nhiệm vụ chính. Dưới đây là những kết quả cụ thể:

2.1- Công tác lập pháp:

Tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Ủy ban về các vấn đề xã hội đã chủ trì thẩm tra để Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua một bộ luật, sáu pháp lệnh và trình ý kiến để vận dụng một pháp lệnh, đó là:

LUẬT PHÁP LỆNH

NGÀY THÔNG QUA

NGÀY CÔNG BỐ

CÓ HIỆU LỰC

- Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân

30-9-1993

13-10-1993

Từ ngày công bố

- Bộ luật lao động

23-6-1994

05-7-1994

01-01-1995

- Pháp lệnh về người có công (nói tắt)

29-8-1994

10-9-1994

01-01-1995

- Pháp lệnh về bà mẹ Việt Nam anh hùng (nói tắt)

29-8-1994

10-9-1994

01-12-1994

- Pháp lệnh phòng chống nhiễm HIV/AIDS (nói tắt)

31-5-1995

12-6-1995

01-8-1995

- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động

11-4-1996

20-4-1996

01-7-1996

- Pháp lệnh nghĩa vụ lao động công ích (ủy ban thường vụ Quốc hội đã thảo luận và Chủ tịch đã kết luận)

5-1997

(dự kiến)

5-1997

(dự kiến)

5-1997

Riêng Pháp lệnh “quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước để tặng các nghệ sĩ, nhà giáo, thầy thuốc”, ngày 24-02-1996, Ủy ban đã kiến nghị cho vận dụng Điều 4 đối với dược sĩ, Chủ tịch nước đã đồng ý và ngày 24-7-1996, Chính phủ đã có văn bản để Bộ Y tế triển khai thực hiện.

Nhìn chung, công tác xây dựng pháp luật của Ủy ban được tiến hành nghiêm túc, đúng quy trình với đầy đủ trách nhiệm trước Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tất cả các luật và pháp lệnh, Ủy ban đều tiến hành các công việc ngay từ khi bắt đầu khởi thảo cho đến khi Chủ tịch nước công bố để thi hành. Mỗi luật, mỗi pháp lệnh đều có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba cơ quan trụ cột (cơ quan soạn thảo, Ủy ban pháp luật và Ủy ban chủ trì thẩm tra) và các cơ quan có liên quan khác. Chúng ta đã cố gắng tập trung mọi trí tuệ, tập hợp rộng rãi các ý kiến đóng góp (các địa phương, các ngành hữu quan, các đoàn thể, chi hội luật gia...). Tổ chức các hội nghị của Ủy ban để giải quyết từng vấn đề và đi đến thống nhất các ý kiến trình Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Toàn Ủy ban đã tập trung thời gian và công sức khá lớn cho việc xây dựng luật pháp. Đó là việc xử lý một khối lượng bản thảo đồ sộ (Pháp lệnh Bà mẹ Việt Nam anh hùng có số lần dự thảo ít nhất là 4 lần, Bộ luật lao động có số lần dự thảo nhiều nhất, chỉ riêng trong nhiệm kỳ này là 16 lần), mỗi luật, pháp lệnh phải tổ chức lấy ý kiến ở hàng chục tỉnh, thành phố, ngành, đoàn thể. Trên cơ sở dự thảo, ý kiến đóng góp của các địa phương, các ngành, các đoàn thể và Tờ trình của Chính phủ, Ủy ban mới chọn lọc đưa ra các ý kiến đáng quan tâm giúp cho Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận và quyết định.

LUẬT PHÁP LỆNH

LẦN DỰ THẢO

LẤY Ý KIẾN

BÁO CÁO
CỦA ỦY BAN

- Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân

14

3 tØnh, thµnh phè

2 lÇn b¸o c¸o, kiÕn nghÞ 6 vÊn ®Ò

- Bộ luật lao động

16

23 địa phương,

16 Bộ ngành, đoàn thể

3 lần báo cáo thường vụ, 2 lần báo cáo Quốc hội với 50 ý kiến

- Pháp lệnh về người có công

14

20 địa phương,

và 6 ngành, đoàn thể

4 báo cáo với 12 vấn đề

- Pháp lệnh bà mẹ Việt Nam anh hùng

4

20 địa phương

và 6 ngành, đoàn thể

2 báo cáo và 5 vấn đề

- Pháp lệnh phòng chống nhiễm HIV/AIDS

8

10 địa phương,

3 ngành, đoàn thể

2 báo cáo và 7 vấn đề

- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động

14

13 địa phương và ngành, đoàn thể

3 báo cáo và 10 vấn đề

- Pháp lệnh lao động nghĩa vụ công ích

3

 

Một báo cáo, 5 vấn đề

Trong quá trình thẩm tra các luật và pháp lệnh, Ủy ban đã có nhiều kiến nghị thỏa đáng được Ban soạn thảo tiếp thu; Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội chấp nhận. Ví dụ, Điều 172 Bộ luật lao động, khi còn là Dự thảo thì nếu một bên đã kiện ra Tòa thì phải ngừng đình công hoặc không được phép nổ ra đình công. Ủy ban đã phát hiện ra rằng, nếu quy định như vậy là triệt tiêu quyền đình công của công nhân, vì chủ sử dụng lao động sẽ nhanh chóng đưa đơn ra Tòa trước. Vì vậy, khi Ủy ban nêu vấn đề thì Quốc hội đã quyết định: “Việc người sử dụng lao động yêu cầu Tòa án nhân dân xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài không cản trở quyền đình công của tập thể lao động”; hay là tại Điều 2 của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, Ủy ban đã kiến nghị trường hợp bà mẹ chỉ có một con mà người con đó là liệt sĩ thì cũng được phong tặng Anh hùng. Kiến nghị này đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận rất kỹ càng và nhất trí. Đến nay thực tế cho thấy, kiến nghị này là hết sức đúng đắn, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn...

Các luật và pháp lệnh do Ủy ban chịu trách nhiệm thẩm tra nhìn chung đã thể hiện được các quan điểm và đường lối của Đảng, trong đó quan điểm mang tính chỉ đạo tập trung là phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội ngay trong từng bước tăng trưởng kinh tế và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này đã được quán triệt trong Bộ luật lao động là: “bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động”, thể hiện trong các Pháp lệnh về người có công, Bà mẹ Việt Nam anh hùng về truyền thống nhân ái “Uống nước nhớ nguồn”; đạo lý “thủy chung” của dân tộc.

Ủy ban về các vấn đề xã hội có trách nhiệm nặng nề, nhưng đồng thời cũng có vinh dự lớn là được trực tiếp góp phần xử lý những mặt trái của cơ chế thị trường trong quá trình đổi mới. Bước đầu, chúng ta đã làm được một việc thể hiện trong sáu pháp lệnh và một bộ luật đã được thông qua và đang được triển khai thực hiện. Đó là thành công trong công tác lập pháp của Ủy ban nhiệm kỳ khóa IX này.

Song chúng ta cũng còn nhiều thiếu sót tồn tại thể hiện ở một số điểm yếu sau đây:

- Ở Bộ luật lao động và ở một vài pháp lệnh, chúng ta vẫn còn để lại số vấn đề cụ thể. Về Bộ luật lao động, đến nay, Chính phủ đã ban hành nghị định, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua một pháp lệnh, nhưng vẫn còn khoảng 10 vấn đề cụ thể nữa phải tiếp tục được hướng dẫn mà luật ghi là “do Chính phủ quy định”; hay là trong Pháp lệnh phòng chống nhiễm HIV/AIDS vẫn còn “để ngỏ” thủ tục khai báo nhiễm HIV/AIDS của người nước ngoài vào Việt Nam..., những việc còn tồn đọng trong luật và pháp lệnh đương nhiên sẽ có ảnh hưởng đến việc thi hành, làm hạn chế đến tác dụng, hiệu lực của luật, pháp lệnh trong giai đoạn đầu khi mới tổ chức triển khai thực hiện.

- Có một số luật, pháp lệnh rất cần thiết phải được xây dựng, ban hành để điều chỉnh một số hoạt động của xã hội nhưng chúng ta chưa kiên quyết kiến nghị, thúc đẩy soạn thảo ví dụ như luật hoặc pháp lệnh phòng chống ma túy; luật hoặc pháp lệnh giải quyết các tệ nạn xã hội, Pháp lệnh về người tàn tật, Pháp lệnh về tôn giáo..., đó là những vấn đề hết sức bức xúc, hàng ngày, hàng giờ tác động đến xã hội nhưng ta chưa làm được.

Nguyên nhân của những tồn tại thiếu sót trên trước hết là, công việc của Ủy ban vừa rộng, vừa nhiều, thời gian lại eo hẹp, nhiều thành viên làm việc kiêm nhiệm nên cũng khó tận dụng hết khả năng của mỗi đồng chí. Thứ hai là, chúng ta xây dựng pháp luật trong điều kiện không hoàn toàn chủ động (các cơ quan hành pháp và tư pháp đưa ra dự án luật hay pháp lệnh nào thì chúng ta phải thẩm tra luật, pháp lệnh đó) trong khi các lĩnh vực khác cũng đòi hỏi phải ban hành nhiều văn bản pháp luật. Thứ ba là, muốn thẩm tra một dự án luật, pháp lệnh đòi hỏi chúng ta phải có ít nhất hai loại kiến thức, đó là kiến thức luật pháp và kiến thức chuyên môn của vấn đề mà luật và pháp lệnh điều chỉnh trong khi chúng ta hoặc là thiếu kiến thức luật, hoặc là thiếu kiến thức chuyên môn, hoặc là thiếu cả hai (chưa nói đến việc có kiến thức nhưng còn phải cao hơn một tầm thì mới thẩm tra được). Có thể nói đây cũng là tình trạng chung.

2.2. Về công tác giám sát:

Đối với các địa phương, trong nhiệm kỳ này (tính đến tháng 3-1997). Ủy ban về các vấn đề xã hội đã tiến hành trên 50 cuộc giám sát ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với nội dung chủ yếu sau đây:

- Nghị quyết số 120 ngày 11-4-1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về chủ trương phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm (cụ thể là giám sát việc triển khai các dự án nhỏ giải quyết việc làm và việc sử dụng quỹ việc làm quốc gia, ở giai đoạn sau có kết hợp xem xét việc thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo);

- Nghị định số 299 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ngày 15-8-1992 về Bảo hiểm y tế và Nghị định số 95/CP ngày 28-7-1994 của Chính phủ về việc thu một phần viện phí.

- Thực hiện các chính sách ưu đãi xã hội (trước khi có Pháp lệnh về người có công và Pháp lệnh về bà mẹ Việt Nam anh hùng);

- Tình hình triển khai thực hiện các Pháp lệnh về người có công và Bà mẹ Việt Nam anh hùng;

- Tình hình triển khai thi hành Bộ luật lao động;

- Một số vấn đề về công tác tôn giáo;

- Tình hình phòng chống các tệ nạn xã hội;

- Việc thực hiện chiến lược dân số đến năm 2000;

- Các Nghị quyết của Quốc hội (phần các vấn đề xã hội).

Các cuộc giám sát được tiến hành từng đợt có trọng tâm với số cán bộ từ 3 đến 5 thành viên do một lãnh đạo của Ủy ban làm trưởng đoàn. Thường trực Ủy ban thông báo cụ thể thời gian, nội dung giám sát, cách thức làm việc với Thường trực Hội đồng nhân dân, Thường trực Ủy ban nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội của địa phương được giám sát trong khoảng thời gian từ 15 đến 20 ngày để chuẩn bị. Mở đầu mỗi cuộc giám sát thường là buổi làm việc của lãnh đạo địa phương với đoàn. Sau đó, đoàn khảo sát thực tế ở một số cơ sở, tiếp xúc với các đối tượng, trao đổi ý kiến với đại diện các ngành hữu quan, xử lý thông tin và làm việc với lãnh đạo địa phương về những việc đã làm được và những việc còn tồn đọng hoặc thiếu sót. Đoàn giám sát báo cáo kết quả (bằng văn bản) với Ủy ban thường vụ Quốc hội. Văn bản này đồng gửi cho địa phương để thực hiện những kiến nghị của đoàn.

Đối với các ngành ở Trung ương (Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Bộ Y tế, Ủy ban Quốc gia Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Ban Tôn giáo của Chính phủ, Bộ Tài chính...) hằng năm Ủy ban đều có các cuộc làm việc hoặc xem xét tổng thể các vấn đề hoặc là vấn đề có tính chuyên sâu. (Trong 5 năm, Ủy ban và Thường trực Ủy ban đã có 11 cuộc làm việc với Bộ Lao động - Thương binh và xã hội; 6 cuộc với Bộ Tài chính; 6 cuộc với Bộ Y tế; 4 cuộc với Ủy ban Quốc gia Dân số - Kế hoạch hóa gia đình; 1 cuộc với Ủy ban Dân tộc và Miền núi; một cuộc với Ban Tôn giáo và dự nhiều hội nghị với các ngành đó). Đến nay, cách làm việc này gần như đã trở thành thông lệ, thành nền nếp vì mục đích các cuộc làm việc là trao đổi thông tin, cùng nhau tìm biện pháp thúc đẩy công việc của mỗi lĩnh vực ngày càng tốt hơn.

Kết hợp giữa các hình thức giám sát nói trên, trong 5 năm Ủy ban đã kiến nghị hơn 20 vấn đề lớn với Chính phủ và các ngành Trung ương (không kể các kiến nghị trực tiếp của các đoàn giám sát đối với các địa phương khi làm việc lại để kết thúc đợt giám sát). Dưới đây là một vài kiến nghị mà Chính phủ hoặc Bộ, ngành đã tiếp nhận và xử lý:

- Sau các cuộc giám sát về việc triển khai thực hiện các dự án nhỏ bằng quỹ quốc gia giải quyết việc làm, Ủy ban đã kiến nghị và Liên (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Tài chính; Kế hoạch và Đầu tư) đã có 4 thông tư (số 12 ngày 01-4-1994; số 03 ngày 10-2-1995; số 30 ngày 11-11-1995 và số 03 ngày 3-2-1996) với các nội dung phân cấp xét duyệt dự án cho Chủ tịch tỉnh, mở rộng và điều chỉnh đối tượng cho vay, sửa đổi lãi suất cho vay, điều chỉnh thời hạn vay và kinh phí điều hành dự án. Những tiếp thu, sửa đổi đó đã có tác dụng làm cho việc xét duyệt, triển khai các dự án nhanh hơn, đúng đối tượng hơn.

- Từ đầu năm 1994, Ủy ban đã kiến nghị điều chỉnh một số nội dung trong chế độ bảo hiểm y tế, kết quả là Bộ Y tế đã tiếp thu và trình Chính phủ xem xét. Chính phủ đã có Nghị định số 47 ngày 06-6-1994 sửa đổi Điều 7; Điều 8 và Điều 10 của Điều lệ bảo hiểm y tế mà nội dung là quy định lại mức đóng góp Quỹ bảo hiểm y tế bằng 3% lương cấp bậc, lương chức vụ và phụ cấp nếu có, trong đó đơn vị đóng 2%, cá nhân đóng 1%.

- Theo kiến nghị của Ủy ban, liên Bộ Y tế, Lao động - Thương binh và Xã hội, Tài chính và Vật giá) đã điều chỉnh (giảm giá) một số dịch vụ y tế, giảm giá ngày/giường điều trị và tách giá ngày/giường điều trị thành hai phần (một phần là chi phí phục vụ giường bệnh, một phần là tiền thuốc của bệnh nhân) để khắc phục tình trạng bất hợp lý giữa người sử dụng thuốc ít với người sử dụng nhiều thuốc đắt tiền.

- Trước kỳ họp thứ 8 của Quốc hội, theo yêu cầu của Ủy ban, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 25 ngày 28-9-1995 hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung về thủ tục lập và quản lý hồ sơ người có công với cách mạng. Nội dung chủ yếu là đơn giản hóa thủ tục tới mức tối đa cho phép và đẩy nhanh tiến độ thực hiện Pháp lệnh người có công.

- Một số cuộc giám sát của Ủy ban có nội dung về di dân, định canh, định cư xây dựng các vùng kinh tế mới, Ủy ban cùng với Hội đồng dân tộc đã kiến nghị nhiều lần, ngày 17-10-1995, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 660/TTg về việc giải quyết tình trạng di cư tự do đến Tây Nguyên và một số tỉnh khác. Trong Chỉ thị có giao trách nhiệm cho các tỉnh có dân đi, các tỉnh có dân đến, trách nhiệm của các ngành các cấp và một số chính sách kèm theo.

Liệt kê ra một số vấn đề được Chính phủ, các ngành tiếp thu và sửa đổi, chúng ta có thể đi đến nhận định là:

- Các cuộc giám sát là thiết thực và bổ ích góp phần uốn nắn những thiếu sót, khuyết điểm trong việc thực hiện luật pháp và các chế độ chính sách, mặt khác cũng xem xét các quy định của chính sách luật pháp có phù hợp với thực tiễn không; kết quả các cuộc giám sát là tương đối rõ ràng và cụ thể; sự hợp tác giữa Ủy ban với các ngành, các địa phương vì nhiệm vụ chung là tương đối chặt chẽ và có nhiều thiện chí. Hoạt động của Ủy ban trên lĩnh vực này là tích cực và đều đặn từ đầu đến hết khóa. Thời gian qua công tác giám sát, các thành viên Ủy ban với mức độ khác nhau đều tích lũy thêm được kiến thức và mở rộng được phạm vi hiểu biết của mình để làm việc tốt hơn.

Một số vấn đề tồn tại, khiếm khuyết đáng lưu ý là:

- Đôi khi chúng ta cũng chưa thực sự phát huy hết quyền lực của mình trong công việc theo Điều 42 của Luật tổ chức Quốc hội, trong đó có việc giám sát. Như trên đã nói các ngành, các địa phương có thiện chí hợp tác trong công việc, nhưng cũng không phải là không có trường hợp có nơi, có lúc chưa kết hợp chặt chẽ dẫn đến hiệu quả giám sát thấp. Một số kiến nghị sau giám sát chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, thiếu thông tin phản hồi về việc thực hiện các kiến nghị của đoàn.

- Về lĩnh vực tôn giáo, mặc dù nửa nhiệm kỳ sau Ủy ban đã cố gắng nghiên cứu, giám sát ở một số địa phương như Nam Hà, Ninh Bình, Đồng Nai, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum..., nhưng thực tế là mới tiếp cận về hiện trạng, nhận dạng công việc; chưa giám sát một cách cụ thể việc thực hiện các nghị quyết, nghị định của Đảng và Chính phủ một cách đầy đủ.

- Một số kiến nghị trong giám sát cũng chưa thật đầy đủ và sâu sắc do đó các cơ quan hành pháp khó tiếp nhận. Có tình hình này vì ở một số vấn đề phải giám sát chúng ta cũng chưa nắm hết nội dung và tính nghiệp vụ của nó.

- Việc tổ chức đoàn giám sát nhiều khi “trầy trật”, vì đa số thành viên Ủy ban là kiêm nhiệm và giữ nhiều trọng trách ở các địa phương, các ngành, do đó việc tham gia đoàn có khó khăn.

3. Các công tác khác:

3.1. Trong năm kỳ họp Quốc hội cuối năm, Ủy ban đã trình bày năm báo cáo thuyết trình:

- Tại kỳ họp thứ 2 (tháng 12-1992), Thuyết trình Thực hiện chế độ, chính sách thương binh, gia đình liệt sĩ, giải quyết việc làm và tệ nạn xã hội

- Tại kỳ họp thứ 4 (tháng 12-1993), Thuyết trình Tình hình giải quyết việc làm, tệ nạn xã hội, thực trạng và giải pháp.

- Tại kỳ họp thứ 6 (tháng 10-1994), Thuyết trình Một số vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội.

- Tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10-1995), Thuyết trình Một vài vấn đề xã hội cấp bách.

- Tại kỳ họp thứ 10 (tháng 10-1996), Thuyết trình Kiến nghị giải pháp cụ thể về một số vấn đề xã hội bức xúc hiện nay.

Nội dung các báo cáo thuyết trình là những vấn đề được chọn lựa sau một năm hoạt động giám sát. Đó là những vấn đề nổi cộm cần phải đặt ra để giải quyết, hoặc là phải sửa đổi việc điều hành, sửa đổi các quy định để việc thực hiện thuận lợi có hiệu quả cao. Nhìn chung, các báo cáo, thuyết trình của Ủy ban có tính thuyết phục và như đã nói ở phần trên, có nhiều kiến nghị được cơ quan hành pháp chấp nhận.

3.2. Trong ba năm (1993, 1994, 1995), Ủy ban đã tổ chức 12 hội nghị “Đại biểu dân cử với chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình” ở 12 tỉnh với hơn 600 đại biểu Hội đồng nhân dân xã, huyện, tỉnh và một số đại biểu Quốc hội của 38 tỉnh, thành phố tham dự. Cũng trong nhiệm kỳ này, Ủy ban đã tổ chức hai hội nghị về chính sách dân số ở vùng có nhiều đồng bào công giáo; tổ chức triển khai nghiên cứu dự án chính sách dân số ở 7 vùng địa lý trong cả nước. Kết quả nghiên cứu đã được phổ biến và thảo luận trong 5 hội nghị vùng và hội nghị toàn quốc. Mới đây, Ủy ban đã tổ chức Hội nghị Dân số an toàn lương thực và dinh dưỡng nhằm chuẩn bị cho hội nghị quốc tế tại Italia tháng 11-1996 về đề tài này. Với các kết quả nghiên cứu, Ủy ban và một số Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố đã kiến nghị sửa đổi ngay một số chính sách kinh tế - xã hội của Trung ương và địa phương đang có mâu thuẫn với chính sách dân số. Các hoạt động này được các địa phương và Ủy ban Quốc gia Dân số - Kế hoạch hóa gia đình đánh giá là thiết thực, có hiệu quả vì đã cung cấp được nhiều hiểu biết về chính sách dân số trong và ngoài nước cho các đại biểu ở nhiều địa phương, do đó, bước đầu có tác dụng điều chỉnh chính sách dân số ở những địa phương đó; góp phần làm giảm tỷ lệ gia tăng dân số. Cũng thông qua hoạt động này, quan hệ giữa Ủy ban và Hội đồng nhân dân các địa phương được tăng cường một bước.

3.3. Liên quan đến dân số có một đề tài mới nhưng rất quan trọng, đó là vấn đề giới và giới tính. “Giới tính” thì đã có sự hiểu biết “phổ cập”, nhưng “giới” thì đó lại là khái niệm rất mới ở Việt Nam. Mặc dù vậy, Ủy ban cũng đã tổ chức nghiên cứu và tiến hành 3 hội nghị quan trọng.

- Hội nghị về “Vai trò giới và nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội” tháng 2-1995 có sự tham gia của Đại sứ quán Canađa tại Việt Nam và trung tâm nghiên cứu châu Á - Thái Bình Dương của liên đại học Tôrôntô và York.

- Hội nghị “Giới và các chính sách xã hội” phần I tháng 3-1996; phần II tháng 8-1996, có sự tham gia của Đại sứ quán Canađa và một số cơ quan trong nước (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Trung tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ). Cũng với đề tài trên nhưng có sự đổi mới về nội dung và phương pháp đã được tổ chức tại Hà Nội, Tiền Giang và Khánh Hòa vào tháng 3 năm 1997.

Các hội nghị trên đã rút ra nhiều điều quan trọng, trong đó có một điều hết sức đáng lưu ý là trong việc hoạch định các chính sách phải bảo đảm cho “giới” (quan hệ xã hội giữa nam và nữ) phát triển tốt đẹp, tiến bộ, bình đẳng, phù hợp với xu thế thời đại; các nhà lập pháp và lập quy phải quán triệt vấn đề “giới” trong mỗi đạo luật và trong mỗi chính sách.

3.4. Lần đầu Ủy ban đã tổ chức hội nghị trưởng, phó Ban văn hóa xã hội của Hội đồng nhân dân toàn quốc tại Đà Nẵng (tháng 8 năm 1996). Có thể coi đây là một sáng kiến vận dụng Điều 31 Quy chế huy động của Hội đồng nhân dân các cấp. Tuyệt đại bộ phận các đại biểu đều rất hoan nghênh và kiến nghị hàng năm cần tổ chức hội nghị để trao đổi thông tin, kinh nghiệm công tác, trong điều kiện gắn bó các đại biểu dân cử các cấp với nhau để làm tốt nhiệm vụ đại biểu cho dân.

3.5. Về công tác đối ngoại, Ủy ban đã thành lập hội nghị sĩ về dân số và phát triển, Ủy ban là thành viên của diễn đàn các nghị sĩ châu Á về dân số và phát triển và đã tham gia đầy đủ đều đặn các hoạt động quốc tế về lĩnh vực dân số. Chúng ta đã tổ chức tốt hai hội nghị quốc tế (Hội nghị các nghị sĩ Đông Dương về phụ nữ và sức khỏe sinh sản tại Thành phố Hồ Chí Minh gồm đại biểu 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia và đại biểu 5 nước trong khu vực là Thái Lan, Inđônêxia, Philíppin, Trung Quốc và Nhật Bản; Hội nghị diễn đàn các nghị sĩ châu Á về dân số và phát triển tại Hà Nội gồm đại biểu 16 nước và 4 tổ chức quốc tế). Trong nhiệm kỳ, Ủy ban đã tổ chức một số đoàn thăm và làm việc với các cơ quan tương ứng của Quốc hội một số nước, đồng thời, cũng đón một số đoàn vào thăm và làm việc với ta nhằm học tập kinh nghiệm lẫn nhau và tăng cường quan hệ hữu nghị giữa các bên.

Có thể nói công tác đối ngoại của Ủy ban được mở rộng và phần lớn các thành viên đã góp phần tham gia tích cực hoạt động này.

II- ĐÁNH GIÁ VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN

Với số lượng thành viên, tổ chức bộ máy và cách thức điều hành và với kết quả các công việc đã làm được như đã trình bày ở mục I, chúng ta có thể đánh giá khái quát về hoạt động của Ủy ban như sau:

1. Về ưu điểm, mặt được (đây là mặt chủ yếu):

Trước hết, cần phải chú ý đến một đặc điểm rất quan trọng về mặt tổ chức: Các Ủy ban của Quốc hội tuy là các cơ quan quyền lực cao, nhưng lại là những tổ chức không thật ổn định, cứ 5 năm thay đổi một lần, trong đó thay đổi lớn nhất là nhân sự, vì vậy, tính liên tục, tính kế thừa bị hạn chế. Thời gian cuối nhiệm kỳ là thời gian rút được kinh nghiệm hoạt động có hiệu quả hơn thì lại là thời gian chuẩn bị kết thúc, sang khóa sau mới thành lập lại Ủy ban. Tuy nhiên trong khóa này, Ủy ban về các vấn đề xã hội cũng đã làm được khá nhiều việc thiết thực, bổ ích, góp phần vào thành tựu đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội khóa IX.

Một là, Ủy ban luôn luôn nắm chắc quyền hạn, nhiệm vụ đã được luật định và thể hiện thành chương trình hoạt động trong từng thời gian có trọng tâm, trọng điểm.

Các vấn đề xã hội là rất rộng, hầu như đụng đến việc gì cũng có yếu tố xã hội trong đó, nhưng ngay từ đầu, Ủy ban cũng đã xác định 6 loại công việc có tính chất bao quát, phù hợp với Điều 27 của Luật tổ chức Quốc hội đó là:

- Lao động và việc làm;

- Thu nhập và đời sống;

- Bảo đảm xã hội (gồm bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội và phòng chống tệ nạn xã hội);

- Dân số và phát triển; giới và giới tính;

- Y tế - sức khỏe;

- Chính sách tôn giáo.

Trong cả nhiệm kỳ, Ủy ban đã tập trung phần lớn công sức thời gian cho các khối công việc nói trên. Các “sản phẩm” lập pháp và giám sát của Ủy ban đã bao quát được gần hết 6 mảng công việc đã xác định (Bộ luật lao động đã điều chỉnh các vấn đề lao động, việc làm, tiền lương, đời sống, bảo hiểm xã hội, giới và giới tính. Các pháp lệnh về người có công, Bà mẹ Việt Nam anh hùng đã chứa đựng khá đầy đủ các chính sách ưu đãi xã hội. Các pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân, phòng chống nhiễm HIV/AIDS đã điều chỉnh một mảng quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe nhân dân...), đáng lưu ý là, Pháp lệnh về người có công và Pháp lệnh về Bà mẹ Việt Nam anh hùng đã có ý nghĩa rất sâu sắc. Đó là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người có công, đối với những đóng góp to lớn, hy sinh thầm lặng của các bà mẹ trong các cuộc chiến tranh. Các pháp lệnh đó đã đem lại niềm phấn khởi và nâng cao được lòng tin của các đối tượng, là sự kiện quan trọng thiết thực kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Đảng, 50 năm ngày Quốc khánh và tiếp thêm động lực chuẩn bị tốt cho Đại hội Đảng lần thứ VIII.

Hai là, trong một nhiệm kỳ mà Ủy ban đã thẩm định được một bộ luật, sáu pháp lệnh, thực hiện được hơn 50 cuộc giám sát, hơn 30 cuộc hội thảo, hội nghị làm việc với hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước, thì về mặt số lượng đã là nhiều, công sức đã là lớn, nhưng về chất lượng hoạt động, chất lượng công việc mới là điều đáng quan tâm thì chúng ta đã đạt được yêu cầu cần thiết của mỗi công việc. Trong cấu trúc chương trình hoạt động, Ủy ban đã chú ý đến mối quan hệ giữa công việc trước mắt và công việc lâu dài, giữa công việc giám sát với công tác lập pháp và mối quan hệ giữa các mảng công việc. Ví dụ, thời gian đầu nhiệm kỳ, chúng ta tiến hành một loạt các cuộc giám sát về lao động, việc làm, thu nhập và đời sống, thì chính các kết quả giám sát là chất liệu phục vụ cho việc thẩm định Bộ luật lao động. Sau đó, chúng ta lại tiến hành nhiều cuộc giám sát về việc thực hiện các chính sách xã hội. Và kết quả giám sát là “tư liệu sống” để thẩm tra hai Pháp lệnh về người có công và Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Tương tự như vậy, kết quả các cuộc giám sát về việc thực hiện Nghị định 299 và Nghị định 95 của Chính phủ là một trong những căn cứ để thẩm tra các Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân và Pháp lệnh phòng, chống nhiễm HIV/AIDS. Nói cách khác là chúng ta đã gắn bó rất chặt chẽ giữa công tác giám sát và công tác lập pháp với nhau.

Trong một số công việc có liên quan, chúng ta đã phối hợp hoặc tham gia hoạt động với một số Ủy ban như kinh tế và ngân sách, quốc phòng - an ninh, Hội đồng dân tộc...

Ba là, các hoạt động nghiên cứu của Ủy ban được tiến hành cả bề rộng và chiều sâu đã hỗ trợ khá tốt cho hai nhiệm vụ quan trọng, nhất là cho công tác giám sát. Với việc triển khai dự án số VIE/89 và dự án nghiên cứu dân số 7 vùng, chúng ta đã thông tin cho lãnh đạo nhiều tỉnh và báo cáo trước Quốc hội những nét cơ bản về dân số đã góp phần làm cho nhận thức có chuyển biến hơn, các địa phương bước đầu có chú ý điều hành công việc này đúng mức hơn...

Các kết quả đã đạt được có nguyên nhân chủ yếu trước hết là các thành viên của Ủy ban hoạt động khá đồng đều và có trách nhiệm. Nhiều đồng chí giữ các trọng trách ở địa phương có nhiều kinh nghiệm, bản thân các đồng chí đó hoạt động có hiệu quả đồng thời cũng giúp cho hoạt động chung của Ủy ban tốt hơn. Hai là, Thường trực Ủy ban đã cố gắng điều hành công việc theo chương trình kết hợp linh hoạt trong những hoàn cảnh cụ thể. Ba là, bộ phận giúp việc của Ủy ban là Vụ các vấn đề xã hội hoạt động tích cực, có nhiều cố gắng, rút được kinh nghiệm các năm trước cho các năm sau. Bốn là, Ủy ban đã được các ngành và các địa phương ủng hộ, kết hợp chặt chẽ, có sự thống nhất cao và quan tâm đến những nội dung hoạt động của Ủy ban.

2. Những tồn tại, thiếu sót:

Tồn tại lớn nhất là Ủy ban không hoạt động đều được trên cả 6 mảng công việc. Trong mảng bảo đảm xã hội thì phần cứu trợ xã hội và tệ nạn xã hội kết quả hoạt động còn rất hạn chế. Riêng về tệ nạn xã hội, có thể nói là bộ chủ quản, Chính phủ cũng “bí” về giải pháp. Còn Ủy ban thì tiến hành giám sát, biết được thực trạng nhưng cũng khó tìm ra các biện pháp pháp luật. Mảng y tế - sức khỏe là mảng công việc rất rộng lớn và phức tạp nhưng chúng ta cũng mới chỉ đề cập tới một vài công việc như bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh (trong đó có người nghèo); còn nhiều việc khác chưa với tới. Mảng chính sách tôn giáo càng ít hoạt động hơn và cũng ít kết quả hơn. Hiệu lực giám sát chưa cao, tác dụng còn hạn chế. Tuy vậy, từ quý 4 năm 1996 đến nay, chúng ta đã khắc phục một bước những thiếu sót này, mà trước hết là đối với công tác tôn giáo.

Nguyên nhân của tình trạng trên trước hết là, phạm vi hoạt động của Ủy ban quá rộng, có những mảng công việc gượng ép không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban như mảng công việc về chính sách tôn giáo (theo kinh nghiệm của nhiều nước thì loại công việc này hoặc là có một Ủy ban riêng, hoặc là đưa vào Ủy ban dân nguyện hoặc là đưa vào Ủy ban sắc tộc và tôn giáo thì phù hợp hơn).

Thứ hai là, tổ chức bộ máy của các Ủy ban nói chung, của Ủy ban về các vấn đề xã hội nói riêng còn nhỏ bé, không đủ điều kiện hoạt động. Một Ủy ban có vài ba đại biểu chuyên trách và các đại biểu khác chủ yếu hoạt động ở các địa phương trên nhiều lĩnh vực khác nhau mà đối ứng là sáu, bảy Bộ, ban ngành của Chính phủ thì thật là khó. Trong khi mỗi Bộ, ban, ngành của Chính phủ có cả một bộ máy hoàn chỉnh từ hàng trăm người cho đến hàng ngàn biên chế. Mỗi vấn đề họ đều có nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, làm thí điểm rút kinh nghiệm rồi mới trình Quốc hội, thì đối với chúng ta không có điều kiện để làm như thế nhưng lại đòi hỏi phải “cao hơn một tầm” để thẩm tra, giám sát, thẩm định. Quả là công việc không đơn giản và còn nhiều khó khăn.

Thứ ba là, đại biểu Quốc hội có giỏi lắm cũng chỉ biết được một, hai nghiệp vụ, chuyên môn, không thể là “một đại học tổng hợp” để làm nguồn vốn lĩnh vực có chuyên môn, nghiệp vụ rất khác nhau. Hơn thế nữa, tuyệt đại bộ phận đại biểu là hoạt động kiêm nhiệm và cũng có đồng chí chưa dành đủ ít nhất một phần ba thời gian cho việc làm nhiệm vụ đại biểu như Điều 52 Luật tổ chức Quốc hội quy định.

Thứ tư là, tổ chức bộ phận giúp việc cũng chưa ổn lắm. Là một vụ nhưng lại chịu sự điều hành song trùng (một bên là Văn phòng chịu trách nhiệm về nhân sự, chế độ, hoạt động hành chính, còn một bên là Ủy ban chịu trách nhiệm điều hành về chuyên môn nghiệp vụ). Số cán bộ vụ không nhiều mà chuyên môn nghiệp vụ của mỗi người lại ở phạm vi hẹp. Do đó, việc điều hành có lúc chưa thật mạch lạc, việc tham mưu cho Ủy ban có phần bị hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu công việc.

Tóm lại trong hoàn cảnh khó khăn nhiều mặt mà Ủy ban đã làm được những công việc như đã trình bày là một cố gắng đáng khích lệ.

III- MỘT VÀI VẤN ĐỀ RÚT RA VÀ KIẾN NGHỊ

1- Trong điều kiện Quốc hội một năm họp hai kỳ, đại biểu Quốc hội phần lớn là kiêm nhiệm, bộ máy giúp việc còn nhỏ bé, cán bộ chuyên trách còn ít thì chức năng, nhiệm vụ của mỗi Ủy ban nên được xem xét và quy định lại cho vừa tầm hoạt động, làm hết mọi việc và có hiệu quả. Một trong những nội dung của cải cách hành chính là xây dựng bộ máy hợp lý, có hiệu lực làm hết việc chứ không phải đơn thuần là thu gọn đầu mối và bỏ bớt việc. Đối với Ủy ban về các vấn đề xã hội nên chăng chỉ tập trung vào các nhiệm vụ về dân số, lao động, việc làm, y tế và bảo hiểm xã hội là đã có phạm vi hoạt động khá rộng rồi. Chính sách tôn giáo là vấn đề lớn, nhất là trong giai đoạn hiện nay, cần được xem xét đặt đúng vị trí, đúng tầm cỡ và phải có một lực lượng cán bộ có chuyên môn giúp Quốc hội xử lý.

2- Mỗi Ủy ban đều có hai loại việc quan trọng nhất là lập pháp và giám sát. Thực tế trong nhiệm kỳ cho thấy, một phần công tác lập pháp cũng phải gắn với địa phương và cơ sở, tức là phải nghiên cứu vấn đề mà luật, pháp lệnh sẽ điều chỉnh ở các địa bàn, các cơ sở khác nhau để có thực tiễn mới khái quát thành điều luật. Từ thực tiễn đó nên chăng ở 7 vùng địa lý hoặc ở các tỉnh, thành phố lớn phải có thành viên chuyên trách. Thành viên này vừa là đại biểu của Đoàn đại biểu Quốc hội địa phương vừa là thành viên của Ủy ban. Cách bố trí này sẽ tạo điều kiện cho Ủy ban nắm được nhiều thông tin, làm việc được nhiều hơn với địa phương và cơ sở. Như vậy, cũng có nghĩa là phải tăng số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, nhưng không nhất thiết tập trung tại Trung ương, mà sẽ bố trí thành viên chuyên trách của Ủy ban sinh hoạt tại các Đoàn đại biểu ở các tỉnh, thành phố. Điều này bước đầu sẽ khắc phục được một nhược điểm hiện nay là khá đông đại biểu Quốc hội thuộc lĩnh vực lập pháp nhưng thực tế là hoạt động ở lĩnh vực hành pháp (Bộ trưởng, Thứ trưởng, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chánh phó giám đốc sở hoặc công ty - Tổng công ty) dẫn đến tính khách quan trong xây dựng luật pháp và trong giám sát bị hạn chế. Tăng đại biểu chuyên trách cũng có nghĩa là tăng số người thực thụ làm việc ở lĩnh vực lập pháp.

3- Ngoài việc tăng số thành viên chuyên trách nói trên thì cơ cấu các thành viên của Ủy ban các khóa sau cũng cần phải được điều chỉnh cho hợp lý hơn sau khi đã xác định hợp lý chức năng, nhiệm vụ. Trong việc điều chỉnh phải rất chú ý đến tỷ lệ hoặc số lượng các đại biểu có kiến thức luật pháp và kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm của những lĩnh vực mà Ủy ban phụ trách (các đại biểu thuộc các lĩnh vực mà Ủy ban về các vấn đề xã hội cần có là pháp lý, kinh tế lao động, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội, tiền lương, dân số học, bác sĩ đã làm quản lý, dược sĩ đã điều hành sản xuất, các nhà khoa học xã hội và nhân văn, các cán bộ có kinh nghiệm về công tác Đảng, đoàn thể...). Có được các thành viên đó mới nâng cao được chất lượng thẩm tra luật, nâng cao được chất lượng giám sát. Đây là một dạng cơ cấu rất khó, vì đại biểu được phân bổ cho các địa phương, không dễ gì lựa chọn như mong muốn. Tuy vậy, không thể không cố gắng nâng cao chất lượng đại biểu, chất lượng cán bộ của cơ quan lập pháp.

4- Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố cũng như Ủy ban và các Ban của Hội đồng nhân dân tuy không phải là hệ thống dọc nhưng trên thực tế có quan hệ tương đối chặt chẽ do yêu cầu của công việc. Ủy ban về địa phương lấy ý kiến một dự án luật nào, hoặc thực hiện một cuộc giám sát nào hay tổ chức một công việc gì thì hầu hết Thường trực Hội đồng nhân dân đều tham gia tổ chức và Ban văn hóa xã hội chịu trách nhiệm trước Thường trực. Do vậy, nên chăng Quốc hội cũng cần xem xét, nghiên cứu để có một cơ chế về quan hệ công tác giữa Quốc hội với Hội đồng nhân dân, giữa các Ủy ban với các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố (có cơ chế làm việc thì sẽ thuận lợi hơn là sử dụng quyền lực hoặc phải thỏa thuận). Trước mắt, cần cụ thể hóa Điều 31 của “Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp” để tạo mối quan hệ công tác giữa các Ủy ban của Quốc hội và các Ban của Hội đồng nhân dân.

5. Về bộ phận giúp việc cho Ủy ban:

Nếu Ủy ban tồn tại theo nhiệm kỳ thì bộ phận giúp việc (Vụ các vấn đề xã hội ) lại tồn tại gần như lâu dài, không xác định thời hạn. Chính vì vậy, việc kiện toàn bộ phận giúp việc là vấn đề có tầm chiến lược và có thể theo các hướng sau:

- Phải có đủ cán bộ theo dõi các lĩnh vực (mỗi lĩnh vực phải có 2 - 3 cán bộ). Như vậy, yêu cầu trước mắt về cán bộ nghiệp vụ tối thiểu là 10 - 12 người (chưa kể văn thư, hành chính).

- Về kiến thức, mỗi cán bộ ít nhất phải hiểu sâu một chuyên môn nghiệp vụ, nếu đã có chuyên môn về luật thì phải nắm thêm chuyên môn khác. Nếu đã có chuyên môn khác thì phải có thêm chuyên môn luật pháp. Từng cán bộ nghiệp vụ đều phải dựng được khung sườn các văn bản (báo cáo giám sát, thẩm định dự án luật, báo cáo thuyết trình trước kỳ họp, báo cáo hoạt động hàng năm, tổng kết chuyên đề, tổng kết nhiệm kỳ...).

- Mỗi cán bộ đều phải biết kỹ thuật thu thập, xử lý, lưu trữ thông tin, phải biết sử dụng vi tính.

- Hệ thống tài liệu của Ủy ban phải được lưu giữ bảo quản sao cho dễ dàng sử dụng (trong nhiệm kỳ và từ nhiệm kỳ này sang nhiệm kỳ khác...).

Có thể nói bộ phận giúp việc có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của Ủy ban do đó phải rất chú ý kiện toàn.

Những vấn đề nói trên có nhiều điểm liên quan đến Luật tổ chức Quốc hội, vì vậy, cũng rất cần thiết phải rà soát lại Luật đó để sửa đổi bổ sung những điều cần thiết.

 

TM. ỦY BAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

Chủ nhiệm

  NGUYỄN THỊ THÂN


 

* Báo cáo này được gửi tới các vị đại biểu Quốc hội (BT).

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội