II- QUỐC HỘI VỚI VIỆC ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG
TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
1. Quốc hội và hội đồng nhà nước với công tác xây dựng hiến pháp, luật, pháp lệnh và tổ chức các hoạt động giám sát
Quốc hội khóa VIII là Quốc hội của giai đoạn khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra. Với phương châm đổi mới tư duy pháp lý, Quốc hội khóa VIII đã thực hiện kế hoạch hoá việc xây dựng pháp luật và định ra một quy trình làm luật nhanh chóng, bảo đảm để cho bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật.
Trong nhiệm kỳ 5 năm, Quốc hội đã ban hành 2 bộ luật, 29 luật; Hội đồng Nhà nước đã ban hành 39 pháp lệnh. Điều đáng chú ý là nhiều đạo luật quan trọng thể chế hóa chính sách kinh tế mới lần đầu tiên đã được ban hành, đó là: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987), mở đường cho việc đẩy mạnh chính sách hợp tác kinh tế với nước ngoài và đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam. Việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm thực hiện có hiệu quả đường lối kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước.
Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân (1990) là những đạo luật quan trọng thể chế hóa đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. Lần đầu tiên các luật này thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, quyền thành lập công ty và doanh nghiệp tư nhân. Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội đã thông qua hai luật nói trên, vừa đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, vừa đáp ứng yêu cầu của các cấp chính quyền trong việc quản lý nền kinh tế nhiều thành phần. Ngoài ra, Quốc hội còn ban hành các luật về thuế như: Luật thuế doanh thu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế lợi tức; Bộ luật hàng hải, Luật hàng không dân dụng, Luật bảo vệ và phát triển rừng...
Song song với việc ban hành các đạo luật về kinh tế, Hội đồng Nhà nước cũng đã ban hành hàng loạt pháp lệnh điều chỉnh các mặt khác nhau của đời sống xã hội, như: Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều trong Điều lệ về thuế công thương nghiệp và Điều lệ thuế hàng hóa (lần 1), Pháp lệnh kế toán thống kê, Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh về ngân hàng, Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thuế nông nghiệp, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều trong các Pháp lệnh, Điều lệ và thuế công thương nghiệp và Điều lệ thuế hàng hóa (lần 2), Pháp lệnh tài nguyên khoáng sản, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh trọng tài kinh tế, Pháp lệnh hải quan, Pháp lệnh thuế tài nguyên, Pháp lệnh ngân hàng nhà nước, Pháp lệnh các ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính, Pháp lệnh chất lượng hàng hóa, Pháp lệnh thuế nhà đất.
Cùng với việc ban hành các luật, pháp lệnh về kinh tế, Quốc hội và Hội đồng Nhà nước cũng đã ban hành nhiều luật và pháp lệnh nhằm đổi mới hoạt động trong lĩnh vực chính trị như: Luật công đoàn, Luật báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân... Thường trực hội đồng nhân dân ở cấp tỉnh, thành phố và quận, huyện được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân bước đầu đã đem lại một số chuyển biến, thể hiện rõ nét ở các kỳ họp của hội đồng nhân dân các tỉnh và thành phố, làm cho hoạt động của Hội đồng nhân dân thiết thực hơn, nhất là trong công tác giám sát.
Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã ban hành luật và pháp lệnh nhằm nâng cao trình độ dân trí, chăm lo bảo vệ và tăng cường sức khỏe nhân dân. Đó là Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật phổ cập giáo dục tiểu học.
Đặc biệt, để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, lập lại kỷ cương, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Thấu suốt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, bộ luật đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội.
Bộ luật gồm 32 chương và 286 điều. Với tinh thần đổi mới mọi mặt của đời sống xã hội, bộ luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, đề cao vai trò của các tổ chức xã hội và công dân trong việc tham gia tố tụng, kết hợp sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa với sức mạnh của quần chúng nhân dân trong đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 27-61985 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 1989. Nhưng, do tình hình tội phạm diễn biến phức tạp và trong quá trình vận dụng, một số quy định trong bộ luật, nhất là quy định về các tội xâm phạm sở hữu, các tội phạm về chức vụ, các tội phạm kinh tế đã không đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Vì vậy, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự. Quốc hội đã yêu cầu các cơ quan có trách nhiệm khẩn trương ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn và tạo điều kiện thực hiện để các luật sớm đi vào cuộc sống.
Ngoài ra, Quốc hội cũng ban hành, sửa đổi một số luật như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật về sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam.
Hội đồng Nhà nước cũng đã ban hành một số pháp lệnh nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân, lập lại kỷ cương, bảo đảm an ninh, quốc phòng như: Pháp lệnh về việc tổ chức và điều tra hình sự, Pháp lệnh thi hành án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân, Pháp lệnh về lực lượng an ninh nhân dân Việt Nam, Pháp lệnh về lực lượng cảnh sát nhân dân Việt Nam, Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước...
Cùng với việc ban hành các luật, pháp lệnh, tại kỳ họp thứ 3, từ ngày 22 đến 28-6-1988, theo đề nghị của Hội đồng Bộ trưởng, Quốc hội khóa VIII đã thống nhất giao cho Hội đồng Nhà nước chỉ đạo Ủy ban Đối ngoại, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội xem xét sửa Lời nói đầu của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn cách mạng mới, nhằm phấn đấu giữ vững hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Trên cơ sở chuẩn bị của Ủy ban Đối ngoại, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và Hội đồng Bộ trưởng, tại kỳ họp thứ tư, từ ngày 13 đến ngày 22-12-1988, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc sửa Lời nói đầu của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng thời thông qua nghị quyết về việc thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi và bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm 16 thành viên do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch.
Tại kỳ họp thứ 5, họp từ ngày 19 đến 30-6-1989, trên cơ sở dự thảo do Ủy ban dự thảo Hiến pháp trình, Quốc hội khóa VIII thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung 7 điều, trong đó có các điều 57, 115, 116, 118, 122, 123, 125 thuộc Chương IX của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nội dung của các điều có liên quan tới Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Tuy nhiên, việc sửa đổi, bổ sung về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải đặt trong khuôn khổ đổi mới hệ thống chính trị và gắn chặt với cơ chế quản lý kinh tế - xã hội. Vì vậy, xét thấy việc cần thiết phải chuẩn bị tiến hành sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, ngày 30-6-1989, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm 28 thành viên do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch. Danh sách Ủy ban sửa đổi Hiến pháp cụ thể như sau:
Võ Chí Công Chủ tịch
Phan Anh Ủy viên
Phạm Bái Ủy viên
Đặng Quốc Bảo Ủy viên
Nguyễn Thanh Bình Ủy viên
Cù Huy Cận Ủy viên
Nguyễn Văn Chính (tức Chín Cần) Ủy viên
Nguyễn Việt Dũng Ủy viên
Hà Quang Dự Ủy viên
Lê Quang Đạo Ủy viên
Phan Hiền Ủy viên
Phạm Hưng Ủy viên
Phan Văn Khải Ủy viên
Nguyễn Khánh Ủy viên
Vũ Mão Ủy viên
Đỗ Mười Ủy viên
Vũ Oanh Ủy viên
Nguyễn Quyết Ủy viên
Trần Quyết Ủy viên
Hoàng Bích Sơn Ủy viên
Trần Trọng Tân Ủy viên
Nguyễn Văn Tư Ủy viên
Nguyễn Đình Tứ Ủy viên
Phùng Văn Tửu Ủy viên
Nguyễn Thị Thân Ủy viên
Nguyễn Hữu Thọ Ủy viên
Đàm Quang Trung Ủy viên
Phạm Thị Thanh Vân (tức Ngô Bá Thành) Ủy viên
Ủy ban sửa đổi Hiến pháp có nhiệm vụ xây dựng dự án sửa đổi Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đưa ra trưng cầu ý kiến rộng rãi trong nhân dân để trình Quốc hội xem xét và quyết định.
Ngay sau khi được thành lập, Ủy ban đã bắt tay vào việc nghiên cứu, xây dựng dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Quá trình xây dựng Hiến pháp sửa đổi được triển khai thực hiện trong một thời gian dài. Tháng 5-1990, dự thảo lần 1 đã được đưa ra lấy ý kiến đối tượng cán bộ trung, cao cấp trong cả nước, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban thường trực của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, các cán bộ lão thành cách mạng. Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đóng góp, Ủy ban sửa đổi Hiến pháp đã chỉnh lý trình xin ý kiến Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương đối với một số vấn đề lớn, sau đó chỉnh lý thành bản dự thảo lần 2 trình Quốc hội xem xét cho ý kiến trước khi lấy ý kiến rộng rãi nhân dân trong cả nước.
Từ ngày 27-7 đến 12-8-1991, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII, dự thảo Hiến pháp sửa đổi, bổ sung đã được trình ra Quốc hội. Tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban sửa đổi Hiến pháp đã chỉnh lý thành dự thảo lần thứ 3 và lấy ý kiến rộng rãi cán bộ và nhân dân trong cả nước.
Việc lấy ý kiến của đông đảo nhân dân và cán bộ vào bản dự thảo Hiến pháp được thực hiện với tinh thần nghiêm túc, sôi nổi, dân chủ, thể hiện ý thức trách nhiệm cao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Đến ngày 28-2-1992, Ủy ban sửa đổi Hiến pháp đã nhận được 74 bản báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 98 đơn vị bộ, ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương và địa phương; 300 thư góp ý kiến cá nhân. Theo thống kê chưa đầy đủ của 46 tỉnh, thành phố đã có 9.234.218 người tham gia các cuộc thảo luận đóng góp ý kiến vào bản dự thảo Hiến pháp.
Có thể nói đây là một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn. Các quan điểm cơ bản chỉ đạo việc sửa đổi Hiến pháp được dư luận đồng tình ủng hộ với tinh thần chung là: Hiến pháp sửa đổi phải thể chế hóa đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, khẳng định mục tiêu xã hội chủ nghĩa và phải căn cứ vào những nội dung chủ yếu của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đề ra. Đồng thời phải vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Vận dụng đúng đắn và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Đặc biệt phải tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài.
Hiến pháp sửa đổi khẳng định toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; tổ chức bộ máy hoạt động của Nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội, không phân chia các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; có sự phân công, phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp sửa đổi quy định: Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền cơ bản của con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng và bảo vệ bằng pháp luật. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. So với Hiến pháp 1980, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định rõ hơn và đầy đủ hơn. Đi đôi với mở rộng dân chủ phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Về Quốc hội, Hiến pháp tiếp tục nêu cao vị trí của Quốc hội, tạo điều kiện đầy đủ để Quốc hội hoạt động có hiệu quả, kiên quyết khắc phục tính hình thức. Quốc hội chuyển sang hoạt động có tính chất thường xuyên.
Hội đồng Dân tộc và các ủy ban thường trực của Quốc hội có chế độ làm việc chuyên trách...
Hầu hết các ý kiến nhất trí cho rằng, bản Hiến pháp sửa đổi có nhiều điểm phù hợp, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới, đã quán triệt quan điểm đổi mới của Đảng, đặc biệt quan điểm được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng và thể chế hoá được cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
Sau bốn lần sửa đổi, bổ sung, Hiến pháp mới của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội biểu quyết thông qua tại kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khoá VIII vào hồi 11 giờ 45 phút, ngày 15-4-1992. Hiến pháp 1992 bao gồm Lời nói đầu, 12 chương và 147 điều.
Hiến pháp 1992 đã có sự điều chỉnh quan trọng là lập lại chế định Chủ tịch nước là cá nhân một người và thành lập Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội; lập Hội đồng Quốc phòng do Chủ tịch nước làm Chủ tịch. Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm có Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên. Thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ.
Hiến pháp mới 1992 vẫn tiếp tục khẳng định, Quốc hội có ba chức năng cơ bản: Là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, về nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quốc hội có 14 nhiệm vụ, quyền hạn và quy định “Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết” trong Hiến pháp 1980 đã bị bãi bỏ.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện 12 nhiệm vụ, quyền hạn, trong đó có quyền công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội; tổ chức việc bầu cử đại biểu Quốc hội; tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; ra pháp lệnh về những vấn đề Quốc hội giao... Hiến pháp 1992 cũng quy định, Quốc hội bầu Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội và lần đầu tiên quy định: “Mỗi ủy ban có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách” (Điều 95).
Theo Hiến pháp 1992, Quốc hội đã có những đổi mới cơ bản, khắc phục tính hình thức, hạn chế trong hoạt động ở các khóa Quốc hội trước và ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng là cơ quan đại diện cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về chính trị, Hiến pháp ghi rõ: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Về kinh tế, Hiến pháp quy định Nhà nước nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân.
Việc ra đời Hiến pháp mới - Hiến pháp 1992 có ý nghĩa quan trọng, nhằm thể chế hóa đường lối đổi mới toàn diện của Đảng và đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân.
Cùng với việc ban hành các luật và pháp lệnh, trong nhiệm kỳ 5 năm, hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban thường trực của Quốc hội đã có tiến bộ. Quốc hội đã tập trung giám sát nhiều vấn đề cấp bách, nóng bỏng như: tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước, về chống lạm phát; tình hình phân phối lưu thông, giá - lương - tiền; biện pháp đẩy mạnh sản xuất, giải quyết việc làm, ổn định đời sống; về công tác xuất, nhập khẩu; tình hình tháo gỡ ách tắc khó khăn trong sản xuất của các xí nghiệp quốc doanh; chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số; tình hình cung cấp vật tư nông nghiệp, ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật; về cải cách giáo dục; về dân số, kế hoạch hóa gia đình; tình hình chống tham nhũng, buôn lậu, xử lý các vụ việc tiêu cực...
Công tác giám sát của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước đối với hoạt động của Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng được chú trọng. Sau mỗi chương trình giám sát việc thi hành pháp luật, quản lý kinh tế, quản lý văn hoá - xã hội, Hội đồng Nhà nước đã đề ra một số chủ trương, biện pháp để các cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương và các cấp chính quyền địa phương thực hiện nghiêm chỉnh việc xét xử các án trọng điểm về kinh tế và việc thi hành án đối với kẻ phạm tội. Hội đồng Nhà nước đã dành một phần hoạt động vào việc xem xét giám sát các vấn đề quan trọng đối với việc thực hiện các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, năng lượng và giám sát tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách nhà nước hằng năm.
Nhìn chung, Hội đồng Nhà nước đã thực hiện giám sát theo chương trình đã định, chú ý đi vào một số địa phương và những ngành quan trọng, xem xét những vấn đề cần quan tâm; vừa nghe báo cáo tình hình, vừa cử đoàn kiểm tra tại chỗ. Căn cứ vào kết quả giám sát trong chương trình, Hội đồng Nhà nước đều có văn bản kết luận, chỉ ra những việc cần giải quyết, đưa ra những kiến nghị cụ thể với Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng và các ngành, đoàn thể, cơ quan hữu quan.
Hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban thường trực của Quốc hội được thực hiện theo chương trình do Hội đồng Dân tộc và các ủy ban đề ra. Nội dung giám sát hướng vào những vấn đề kinh tế - xã hội trọng tâm và cấp bách, như việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai và Nghị quyết của Bộ Chính trị về giá - lương - tiền để Hội đồng Nhà nước có căn cứ đề nghị Hội đồng Bộ trưởng báo cáo với Quốc hội tại các phiên họp toàn thể.
Trong nhiệm kỳ, Hội đồng Dân tộc tham gia cùng Ban Dân tộc Trung ương xây dựng dự thảo Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, nghị quyết các kỳ họp Quốc hội về phát triển kinh tế - xã hội miền núi để đưa vào dự thảo Văn kiện Đại hội VII của Đảng; đồng thời tổ chức đi khảo sát tình hình thực hiện chính sách dân tộc và miền núi của Đảng, Nhà nước tại các tỉnh: Đắk Lắk, Gia Lai, Lâm Đồng, Quảng Bình, Hà Tuyên, Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang, Minh Hải, Cửu Long, Cao Bằng, Lai Châu, Hà Sơn Bình.
Ủy ban pháp luật đã nghe báo cáo của các cơ quan hữu quan về tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội; thi hành Bộ luật tố tụng hình sự, Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam; thi hành Luật đất đai. Bên cạnh đó, Ủy ban pháp luật tổ chức các đoàn kiểm tra tình hình thi hành Bộ luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự tại Vĩnh Phú, Hoàng Liên Sơn; tình hình thi hành Luật nghĩa vụ quân sự và Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam tại Vĩnh Phú, Hoàng Liên Sơn, Hà Nam Ninh, Hải Phòng, Tiền Giang, An Giang, Hậu Giang và một số cơ quan, đơn vị quân đội như: Tổng cục Hậu cần, Quân chủng Không quân, Quân chủng Hải quân và các học viện Chính trị Quân sự, Học viện Hậu cần, Học viện Quân y.
Ủy ban Kinh tế, Kế hoạch và Ngân sách đã nghe các bộ, ngành báo cáo và cử các đoàn đi kiểm tra, xem xét ở hầu hết các địa phương và một số cơ sở sản xuất, đồng thời đề xuất, kiến nghị các biện pháp giải quyết các mặt: sản xuất, thu mua, vận chuyển, quản lý và phân phối lương thực, xuất khẩu lương thực, chế biến nông sản, dự trữ lương thực, thị trường tiêu thụ nông sản và những tiêu cực trong dự trữ quốc gia về lương thực; tình hình thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, tình hình sản xuất công nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp; tình hình thực hiện Nghị quyết 217 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị quyết 16 về phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, việc sắp xếp lại công nghiệp quốc doanh Trung ương ở địa phương, việc tháo gỡ khó khăn trong sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp... Cơ chế xuất, nhập khẩu, hoạt động trao đổi hàng hóa ở vùng biên giới, phí lưu thông và nhu cầu vốn trong thương nghiệp quốc doanh, về chống tham nhũng và buôn lậu, về dự trữ vật tư, hàng hóa, vấn đề cân đối vật tư, nguyên nhiên liệu cho công nghiệp và nông nghiệp, những biện pháp giải quyết khó khăn về đời sống và việc làm cho cán bộ, công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang, các đối tượng chính sách... Vấn đề cân đối ngân sách, quản lý tiền mặt và tình hình tín dụng ngoài quốc doanh, việc thi hành các luật thuế và tổ chức ngân hàng, tín dụng về tiền mặt và lãi suất ngân hàng, hoạt động của ngân hàng và tổ chức tín dụng.
Ủy ban Văn hoá, Giáo dục nghe báo cáo và cử các đoàn đi kiểm tra tại các tỉnh, thành phố: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Thuận Hải, Lâm Đồng, Vĩnh Phú, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai -Kon Tum, Hà Bắc, Quảng Ninh, Đồng Tháp... về các vấn đề như tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VI) về văn hoá, xã hội, Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII) về văn hoá, văn nghệ; tình hình thu và sử dụng học phí theo tinh thần nghị quyết của kỳ họp thứ tư; vấn đề quản lý hoạt động xuất bản, phát hành sách; tình hình thực hiện xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật nghe báo cáo và tổ chức các đoàn đi khảo sát tại các tỉnh, thành phố: Tây Ninh, Sông Bé, Gia Lai - Kon Tum, Đắk Lắk, Hà Nội, Sơn La, Lai Châu, Hải Hưng, thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị, Thuận Hải, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi... về hoạt động khoa học, kỹ thuật phục vụ ba chương trình kinh tế lớn; tình hình khắc phục các sự cố tại nhà máy thủy điện Hòa Bình, Trị An, về đổi mới công nghệ và thiết bị kỹ thuật ở một số nhà máy theo cơ chế quản lý kinh tế mới.
Ủy ban Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng nghe báo cáo và cử các đoàn đến các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hoàng Sơn Liên, Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Nam Ninh, Quảng Nam -Đà Nẵng, Thuận Hải, Phú Khánh, Gia Lai - Kon Tum, Đắk Lắk, Lâm Đồng và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long khảo sát về tình hình thực hiện chính sách xã hội đối với thanh, thiếu niên; kết quả 10 năm thực hiện Pháp lệnh về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên.
Ủy ban Y tế và Xã hội đã nghe Bộ Y tế và các bộ, ngành báo cáo và cử các đoàn đến các địa phương thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thái Bình, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Sông Bé, Tây Ninh, Hoàng Liên Sơn... khảo sát về công tác truyền thông dân số, kế hoạch hóa gia đình; việc thu viện phí ở các cơ sở y tế; việc thực hiện chế độ đãi ngộ với cán bộ y tế ở cơ sở; kết quả tiến hành thí điểm về bảo hiểm y tế ở một số địa phương.
Ủy ban Đối ngoại đã tiến hành nhiều cuộc họp, góp ý kiến và thuyết trình trước Quốc hội về công tác đối ngoại của Hội đồng Bộ trưởng; đồng thời cử các đoàn kiểm tra trạm đón tiếp lao động ở Đông Anh (Hà Nội), tình hình mở biên giới Việt -Trung; tình hình người Việt Nam di tản; tình hình cửa khẩu Đồng Đăng (Lạng Sơn).
Công tác giám sát và hướng dẫn hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp có chuyển biến bước đầu từ sau khi Hội đồng Nhà nước ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp. Ủy ban nhân dân một số địa phương như thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Bắc... đã ra các quy định cụ thể bảo đảm quy chế của Hội đồng Nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh. Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố đã coi trọng hoạt động của các ban chuyên trách và ban thư ký, nhằm bảo đảm hoạt động và tăng cường sự phối hợp giữa ủy ban nhân dân với ban thư ký và các ban chuyên trách của hội đồng nhân dân. Nội dung các kỳ họp hội đồng nhân dân đã tập trung bàn các chuyên đề về kinh tế - xã hội, về thi hành pháp luật, những vấn đề nóng bỏng như tình hình cân đối lương thực, giải quyết tình trạng thiếu đói của nhân dân trong lúc giáp hạt.
Nhằm từng bước nâng cao chất lượng các kỳ họp, Quốc hội đã tiến hành cải tiến hoạt động chất vấn. Tại các kỳ họp, Quốc hội dành nhiều thời gian thảo luận, tranh luận, coi trọng việc chất vấn và trả lời chất vấn. Tại kỳ họp thứ 4 (12-1988), các đại biểu Quốc hội đã chất vấn về ngân sách nhà nước và thuế, về phương án tiền lương, về công tác ngân hàng và tiền tệ. Trong kỳ họp thứ 8 (12-1990), các đại biểu Quốc hội đã chất vấn và nghe trả lời chất vấn về công tác tài chính; về tiền lương, việc làm theo Quyết định số 176, ngày 9-101989 về sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh; về công tác thương nghiệp; về xử lý các vụ vi phạm trong ngành ngân hàng và thất thoát vật tư, lương thực trong dự trữ quốc gia. Tại kỳ họp thứ 11 (4-1992), các đại biểu Quốc hội đã tập trung vào chất vấn các vấn đề: ngân sách nhà nước năm 1992, hệ thống tải điện 500KV Bắc - Nam và một số công trình cấp thiết khác của Nhà nước; về vấn đề tiền mặt; về việc tăng giá điện. Nhiều đại biểu đã đóng góp ý kiến thẳng thắn, thiết thực, phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng của cử tri.
Một thách thức đặt ra đối với sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước là tình trạng tiêu cực xã hội, tệ tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, thiếu kỷ cương đang lộng hành. Vì vậy, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, chống tham nhũng là một yêu cầu bức thiết, một nhiệm vụ quan trọng đặt ra trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện. Tại kỳ họp thứ 10 (12-1991), Quốc hội đã nghe Hội đồng Bộ trưởng báo cáo về tình hình thực hiện cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Hội đồng Bộ trưởng đã chỉ đạo các ngành chức năng xây dựng các dự án luật và pháp lệnh để trình Quốc hội, Hội đồng Nhà nước ban hành theo thẩm quyền, nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật; đồng thời chỉ đạo rà soát các văn bản pháp
quy mà trong thực tế không phù hợp hoặc có nhiều sơ hở, để cho kẻ xấu lợi dụng tham nhũng, từ đó kiến nghị hoặc bổ sung, sửa đổi nhằm khắc phục những sơ hở trong quản lý.
Trong thực tế, việc triển khai thực hiện cuộc đấu tranh chống tham nhũng đã có bước chuyển biến tích cực. Hội đồng nhân dân các cấp đã ra nghị quyết chỉ đạo, giám sát việc thực hiện. Theo báo cáo chưa đầy đủ, các ngành, các địa phương đã tiến hành thanh tra và kết luận 5.070 vụ tham nhũng với 1.729 tỷ 628 triệu đồng, 2.775.000 đôla Mỹ, 2.235 lạng vàng, 36.360 tấn thóc. Các cơ quan chức năng đã thu hồi 457 tỷ 221 triệu đồng, 87.571 đôla Mỹ, 22.162 tấn thóc, 1.232 chỉ vàng và một số vật tư tài sản khác; xử lý về kỷ luật hành chính 19.220 cán bộ, công nhân viên, trong đó buộc thôi việc 407 người, cách chức, đình chức 1.020 người, trong đó có 6 cán bộ cấp thứ trưởng và tương đương; 6 cán bộ cấp cục, vụ, tổng giám đốc các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty; 16 cán bộ lãnh đạo sở, ngành thuộc tỉnh, 8 tỉnh ủy viên, 113 cán bộ lãnh đạo cấp huyện, quận, 169 cán bộ lãnh đạo các xí nghiệp, công ty. Riêng đối với ngành ngân hàng, đã xử lý kỷ luật hành chính 2.128 cán bộ, trong đó có 134 cán bộ lãnh đạo từ giám đốc ngân hàng quận, huyện đến Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Trung ương. Ngành dự trữ quốc gia cũng đã xử lý kỷ luật hành chính 316 cán bộ, trong đó có 10 cán bộ trong ngành.
Song song với việc thanh tra, kết luận và xử lý về mặt hành chính, đối với những vụ vi phạm có dấu hiệu phạm tội, các cơ quan pháp luật đã tiến hành khởi tố, điều tra truy tố và xét xử về mặt hình sự đối với các tội tham nhũng. Tính đến tháng 9-1991, cả nước đã khởi tố điều tra 4.907 vụ và 6.515 bị can về tội tham nhũng. Các ngành công an, kiểm sát, tòa án đã xác định 245 vụ án điểm về tội tham nhũng, trong đó có 49 vụ do cấp Trung ương trực tiếp chỉ đạo; đã xét xử 19/21 vụ trong năm 1990, 11/28 trong năm 1991 vụ với mức án cao nhất là phạt tù chung thân.
Cùng với việc chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, cuộc đấu tranh chống buôn lậu cũng được tiến hành. Trong năm 1991, các cơ quan chức năng đã bắt giữ và xử lý hơn 30.000 vụ buôn lậu và kinh doanh trái phép, khởi tố 95 vụ buôn lậu với 318 bị can, xét xử 9 vụ buôn lậu lớn, thu giữ hàng hóa để xử lý trên 150 tỷ đồng.
Như vậy, trong nhiệm kỳ của Quốc hội khóa VIII, công tác xây dựng pháp luật và sửa đổi Hiến pháp của Quốc hội đã được thực hiện một cách tích cực; các luật và pháp lệnh đã ban hành có chất lượng tốt hơn, nội dung và phạm vi điều chỉnh toàn diện hơn, trong đó một số luật đã bước đầu phát huy hiệu lực trong cuộc sống, góp phần thiết thực đẩy mạnh việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị và kinh tế - xã hội.
Hoạt động của Quốc hội và các cơ quan thường trực của Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các ngành, các cấp đã có sự đổi mới đối với công tác xây dựng pháp luật. Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng thường xuyên theo dõi đôn đốc việc thực hiện chương trình và quy chế xây dựng pháp luật, có biện pháp tích cực bảo đảm tiến độ chuẩn bị các dự thảo đối với từng văn bản, có sự điều chỉnh chương trình hợp lý và có sự phân công, phân nhiệm cụ thể cho các cơ quan tham gia dự thảo hữu quan. Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã coi trọng việc lấy ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các ngành, các cấp và các tầng lớp nhân dân để hoàn chỉnh các văn bản pháp luật.
Tuy nhiên, công tác lập pháp của Quốc hội vẫn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý kinh tế - xã hội. Luật, pháp lệnh ban hành thiếu đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống. Bên cạnh đó, một số văn bản luật, pháp lệnh chất lượng chưa cao, có điểm chưa phù hợp với thực tế nên phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Các văn bản hướng dẫn thi hành luật của Hội đồng Bộ trưởng ban hành còn chậm, có những quy định chưa phù hợp với luật định, nhưng không được kiểm tra, phát hiện và sửa đổi kịp thời dẫn đến tình trạng luật có rồi nhưng không triển khai thực hiện có kết quả được. Việc tuyên truyền, phổ biến luật trong các cơ quan, đoàn thể và nhân dân còn yếu và chưa đi vào nền nếp, nhiều luật và pháp lệnh chậm đến với cơ sở. Việc quản lý nhà nước bằng pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa còn yếu, dẫn đến trật tự kỷ cương xã hội lỏng lẻo, pháp luật chưa nghiêm.
Công tác giám sát còn nhiều hạn chế, hiệu quả thấp. Nhiều nghị quyết, kết luận của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước về các vấn đề kinh tế, xã hội thường chỉ dừng lại ở những nhận xét, đánh giá chung chung, mà chưa nêu được giải pháp thiết thực để góp phần tháo gỡ khó khăn và khắc phục những tồn tại kéo dài. Nhiều vấn đề cấp bách về xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế, chính sách dân tộc, thi hành pháp luật mà nhân dân quan tâm chưa được đặt ra thành chuyên đề để Quốc hội thảo luận và quyết định nên các nghị quyết của Quốc hội về những vấn đề nói trên không đem lại hiệu quả thực tế. Quốc hội, Hội đồng Nhà nước cũng chưa thường xuyên theo dõi, đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra việc thực hiện pháp luật, các nghị quyết, kết luận và kiến nghị.
Việc cử các đoàn đi kiểm tra, xem xét tình hình ở một số ngành, địa phương, cơ sở chủ yếu mới chỉ nghe báo cáo để nhận xét, kết luận và kiến nghị, do đó công tác kiểm tra, giám sát còn sơ sài, thiếu sâu sát và ít mang lại hiệu quả thiết thực. Công tác giám sát thi hành pháp luật và các văn bản pháp quy do Hội đồng Bộ trưởng và các cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng ban hành chưa thường xuyên và chưa tạo thành nền nếp. Việc cho ý kiến nhận xét về công tác của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao chưa sát thực tế và sâu sắc. Những cải tiến trong hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội với thành viên Hội đồng Bộ trưởng chưa có nhiều đổi mới. Công tác giám sát việc phòng, chống tham nhũng kết quả thu được chưa cao.
2. Quốc hội phê chuẩn kế hoạch nhà nước 5 năm (1987- 1992) và dự toán ngân sách nhà nước hằng năm
Cùng với việc thực hiện hai chức năng chủ yếu là lập pháp và giám sát, Quốc hội đã quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Trong nhiệm kỳ khóa VIII, Quốc hội đã quyết định phê chuẩn kế hoạch nhà nước 5 năm (1987-1992) với ba chương trình kinh tế lớn: Lương thực -thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; phê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế và dự toán ngân sách nhà nước hằng năm.
Điểm nổi bật nhất trong hoạt động của Quốc hội nhiệm kỳ khoá VIII (1987-1992) là bắt đầu thể chế hóa và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, từng bước phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tại các kỳ họp, Quốc hội đã giành nhiều thời gian để thảo luận báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về tình hình kế hoạch và ngân sách nhà nước. Trên cơ sở thuyết trình của Ủy ban Kinh tế, Kế hoạch và Ngân sách, Quốc hội đã thảo luận một cách nghiêm túc và yêu cầu Hội đồng Bộ trưởng báo cáo bổ sung, cung cấp thêm thông tin, số liệu để có thêm căn cứ xem xét, phân tích trước khi quyết định. Do đó, nghị quyết của Quốc hội về vấn đề này ngày càng có nội dung sâu và sát với thực tế, đáp ứng phần nào mong muốn của nhân dân, nhất là trong việc đề ra các biện pháp giải quyết một số vấn đề cấp bách, nóng bỏng về kinh tế -xã hội.
Tại kỳ họp lần thứ nhất, từ ngày 17 đến 22-6-1987, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước 6 tháng đầu năm 1987 và những nhiệm vụ cấp bách trong 6 tháng cuối năm 1987 nhằm tập trung giải quyết vấn đề mấu chốt là: Xây dựng và thực hiện ba chương trình kinh tế lớn, bảo đảm vật tư nguyên liệu cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; đẩy mạnh sản xuất lương thực; tập trung xử lý những vấn đề nảy sinh trong lĩnh vực phân phối lưu thông, giá cả, tiền tệ và đời sống của người hưởng lương; đổi mới cơ chế quản lý; bảo đảm an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội.
Trong tình hình kinh tế -xã hội đang còn nhiều khó khăn, để thực hiện tốt những nhiệm vụ và chỉ tiêu đã được Quốc hội thông qua, trong quá trình điều hành, tuân thủ nghị quyết của Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng thường xuyên cải tiến sự chỉ đạo, điều hành, đổi mới phương thức làm việc thật sự năng động, đồng bộ và có sự thống nhất từ trên xuống dưới. Bảo đảm thực hiện tốt kế hoạch sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và kịp thời đề ra những biện pháp có hiệu quả ngăn chặn tốc độ lạm phát, giảm tỷ lệ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm khó khăn về đời sống nhân dân.
Tại kỳ họp thứ 2, từ ngày 23 đến 29-12-1987, Quốc hội nghe: Báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1986-1990 và năm 1988 do Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước Võ Văn Kiệt trình bày; Báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 1987 và dự toán ngân sách nhà nước năm 1988; Báo cáo tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1986; Báo cáo bổ sung một số vấn đề về bố trí kế hoạch nhà nước và về phân phối lưu thông; nghiên cứu báo cáo thuyết trình của Ủy ban Kinh tế, Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội về kế hoạch và ngân sách nhà nước.
Quốc hội chỉ rõ: Trong ba năm (1988-1990), phải phấn đấu thực hiện bằng được mục tiêu ổn định một bước quan trọng tình hình kinh tế, xã hội, chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội trong các năm sau. Để thực hiện mục tiêu này, phải ban hành các cơ chế, chính sách nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát triển mạnh sản xuất hàng hóa, trước tiên tập trung giải quyết nhu cầu cơ bản về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và những nhu cầu bức thiết khác về đời sống của nhân dân lao động. Chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, ổn định dần tình hình phân phối lưu thông, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ lạm phát. Thực hiện một bước quan trọng việc ổn định và lành mạnh hóa sinh hoạt xã hội, bảo đảm an ninh chính trị
và trật tự an toàn xã hội, khắc phục các hiện tượng tiêu cực, xây dựng cuộc sống lành mạnh, văn minh và công bằng xã hội. Sắp xếp một bước quan trọng bộ máy Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng từ Trung ương đến huyện; nâng cao hiệu quả bộ máy, thu gọn cơ quan quản lý và tinh giản biên chế. Gắn việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội với đẩy mạnh cuộc vận động trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước và ngoài xã hội, mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế, thiết lập trật tự kỷ cương trong hoạt động kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở nội dung của các báo cáo và nghe thuyết trình của Ủy ban Kinh tế, Kế hoạch và Ngân sách, của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban thường trực khác của Quốc hội và ý kiến của các đại biểu Quốc hội, ngày 29-12-1987, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1986-1990) và năm 1988, với nội dung chính như sau:
1- Phê chuẩn báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội 2 năm 1986-1987.
2- Quyết định các phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu và biện pháp chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1986-1990.
3- Quyết định phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1988 với những chỉ tiêu chủ yếu sau:
-Tổng sản phẩm xã hội tăng 9% so với năm 1987.
-Thu nhập quốc dân tăng 9,5% so với năm 1987.
Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 10% so với năm 1987, trong đó công nghiệp hàng tiêu dùng tăng 12,5%.
Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 7,6% so với năm 1987, trong đó sản lượng lương thực (quy thóc) 19 triệu tấn.
-Giá trị hàng xuất khẩu tăng 17,6% so với năm 1987. -Đầu tư xây dựng cơ bản bằng khối lượng năm 1987. 4-Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước
năm 1988:
Quốc hội giao cho Hội đồng Bộ trưởng tính toán trình Quốc hội xem xét và quyết định dự toán ngân sách nhà nước năm 1988 tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 3 theo hướng giảm tỷ lệ bội chi so với năm 1987. Để xây dựng và thực hiện tốt dự toán ngân sách nhà nước năm 1988, Quốc hội yêu cầu Hội đồng Bộ trưởng cần tập trung chỉ đạo các mặt công tác như:
-Triệt để khai thác mọi nguồn thu, thu đúng, thu đủ theo chính sách chống thất thu. Tập trung đầy đủ vào ngân sách nhà nước và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngoài nước.
-Bảo đảm chi đúng hướng, đúng mục đích, có hiệu quả, tiết kiệm, chống lãng phí, giảm dần và tiến tới xóa bỏ khoản chi bù lỗ trong ngân sách nhà nước.
-Khẩn trương xây dựng chính sách tài chính quốc gia; sớm xây dựng và hoàn chỉnh các pháp luật về thuế phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế mới; sớm sửa đổi chế độ phân cấp quản lý ngân sách hiện hành trên cơ sở quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ.
5- Nghị quyết về phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1986:
Thực hiện Nghị quyết của kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa VIII, Hội đồng Bộ trưởng đã liên tục ban hành các chính sách nhằm tập trung giải quyết vấn đề về lương thực, giá cả, tiền tệ. Ngày 29-6-1987, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định về mức lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nước để tăng cường xử lý vốn, sử dụng theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, khuyến khích các đơn vị kinh tế và nhân dân gửi tiền vào ngân hàng. Mức lãi suất cho vay vốn lưu động trong hạn mức tín dụng thấp nhất là 2,4% và cao nhất là 6%/tháng. Mức lãi suất cho vay vốn cố định thấp nhất là 2,1% và cao nhất là 5,4%/tháng. Sau đó, mức lãi suất đã được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng điều chỉnh cho phù hợp với từng thời gian.
Tiếp đó, ngày 3-7-1987, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 218-CT cho phép làm thử ở một số tỉnh, thành phố việc chuyển hoạt động của ngân hàng sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa để rút kinh nghiệm, hoàn thiện cơ chế kinh doanh ngân hàng, tiến tới ra quyết định chính thức vào đầu năm 1988.
Ngày 10-9-1987, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 263-CT về việc sửa đổi và bổ sung Quyết định số 76-HĐBT, ngày 26-6-1986, nhằm bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế quốc doanh.
Cụ thể hóa và thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI), ngày 14-11-1987, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 217-HĐBT ban hành chính sách đổi mới kế hoạch hóa và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với các xí nghiệp quốc doanh. Đây là quyết định quan trọng nhằm chuyển toàn bộ hoạt động của các xí nghiệp quốc doanh sang cơ chế mới, xóa bỏ những vấn đề tồn tại về mặt quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp.
Nhằm giải quyết những khó khăn về lương thực, ngày 3-11-1987, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 209a - HĐBT về việc chuyển hoạt động của ngành lương thực sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Quyết định bắt đầu thực hiện từ ngày 1-1-1988. Theo đó, việc kinh doanh lương thực phải đạt được yêu cầu là nắm cho được tuyệt đại bộ phận lương thực hàng hóa và tổ chức phân phối lưu thông, tiêu dùng hợp lý; thực hiện các biện pháp nhằm ổn định giá cả, thị trường về lương thực, tiến tới Nhà nước độc quyền kinh doanh lương thực.
Năm 1988 là năm có vị trí và ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thực hiện những mục tiêu của ba năm còn lại của kế hoạch 5 năm (1986-1990) là “ổn định một bước quan trọng tình hình kinh tế - xã hội, chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội trong các năm sau”.
Tại kỳ họp thứ 3, từ ngày 22 đến 28-6-1988, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về ngân sách nhà nước năm 1988 và giao cho Hội đồng Bộ trưởng điều hành theo hướng tích cực tăng thu, triệt để tiết kiệm chi, giảm dần các khoản chi bù lỗ có tính bao cấp, phấn đấu để tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước năm 1988 thấp hơn tỷ lệ bội chi năm 1987.
Tại kỳ họp thứ 4, từ ngày 13 đến 22-12-1988, Quốc hội đã nghe báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về những vấn đề chủ yếu về kinh tế - xã hội năm 1989 do Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt trình bày. Kế hoạch nhà nước năm 1988 được Quốc hội thông qua với những nội dung chủ yếu: Tập trung thực hiện các mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; tạo chuyển biến trên mặt trận phân phối, lưu thông; chuyển các hoạt động kinh tế sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa; phát huy khả năng tích cực của các thành phần kinh tế, đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh; giải quyết một số vấn đề cấp bách trong giáo dục, y tế, văn hoá...
Năm 1988, vượt qua những khó khăn, thử thách, đất nước đã đạt được một số tiến bộ quan trọng về kinh tế - xã hội: Tổng sản phẩm xã hội tăng 5,4%, thu nhập quốc dân tăng 5,8% so với năm 1987. Sản lượng công nghiệp tăng 9%, trong đó công nghiệp hàng tiêu dùng tăng 11%. Sản xuất hàng tiêu dùng phong phú, đa dạng hơn, đã bước đầu gắn với thị trường. Sản lượng nông nghiệp tăng 4,1%, riêng lương thực tăng 8,5%, đạt kế hoạch 19 triệu tấn (quy thóc).
Năm 1988 cũng là năm đánh dấu bước mở đầu của quá trình dân chủ hóa các hoạt động kinh tế - xã hội, giải phóng sức sản xuất. Quyết định số 217 của Hội đồng Bộ trưởng cùng với văn bản thể chế hóa các Nghị quyết số 10-NQ/TW và số 16 của Bộ Chính trị, đã tháo gỡ một phần những trói buộc của cơ chế cũ, bước đầu khơi dậy các nguồn tiềm năng to lớn của các thành phần kinh tế, nhằm mở rộng sản xuất, kinh doanh, phục vụ nhu cầu xã hội, tạo ra những động lực mới để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội.
Trong năm, Nhà nước ban hành nhiều chính sách tạo điều kiện cho các đơn vị cơ sở đi dần vào hạch toán kinh doanh, giảm bớt chi tiêu; điều chỉnh giá vật tư, năng lượng cho phù hợp với tình hình thực tế. Những quy định mới đó đã tạo môi trường thuận lợi cho các cơ sở phát huy quyền chủ động để thực hiện hạch toán kinh doanh, giảm bù lỗ qua ngân sách nhà nước và hạn chế chênh lệch giá; xóa bỏ bao cấp qua lương của khu vực sản xuất, kinh doanh.
Cùng với kết quả đạt được trên mặt trận sản xuất công - nông nghiệp, kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 1988 đạt kết quả khả quan. Tổng thu ngân sách đạt 2.090 tỷ đồng bằng 106% kế hoạch; tổng chi ngân sách 2.540 tỷ đồng bằng 107% kế hoạch, bội chi 450 tỷ đồng, chiếm 17,7% tổng số chi và bằng 21,5% tổng số thu ngân sách nhà nước. Như vậy, kết quả thực
hiện ngân sách nhà nước năm 1988 chưa đạt mục tiêu giảm bội chi so với năm 1987, tỷ lệ bội chi so với tổng số chi vẫn tăng hơn năm 1987 là 0,4% và tỷ lệ bội chi so với tổng thu tăng hơn năm 1987 là 0,6%. Năm 1988, do có nhiều biến động đột xuất chưa dự kiến hết, ngân sách nhà nước phải tăng chi thêm 195 tỷ đồng (trong đó chi cho bù lỗ lương thực 133 tỷ đồng; chi tăng thêm vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho các công trình trọng điểm của Nhà nước 31 tỷ đồng; tăng chi cho phòng thủ Trường Sa và rút quân ở Campuchia về nước 13 tỷ đồng; chi khắc phục hậu quả bão lụt 20 tỷ đồng).
Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch kinh tế, xã hội năm 1989; Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 1989 và Nghị quyết phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1987, trong đó, Nghị quyết kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1989 nhằm đạt được ba mục tiêu chủ yếu:
-Đổi mới một bước quan trọng cơ chế quản lý trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và khai thác năng lực của tất cả các thành phần kinh tế, mở rộng quan hệ với bên ngoài, để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
-Bảo đảm nhu cầu tối thiểu về lương thực cho toàn xã hội, tăng dự trữ nhà nước, không để xảy ra đột biến về lương thực, ổn định dần đời sống nhân dân.
-Từng bước hạn chế lạm phát, giảm mức bội chi ngân sách, tiền mặt; giảm dần tốc độ tăng giá.
Tại kỳ họp thứ 6, từ ngày 18 đến 28-12-1989, Quốc hội nghe Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười trình bày báo cáo về tình hình và nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội năm 1989 và những mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế -xã hội năm 1990. Quốc hội thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội năm 1990.
Đến cuối năm 1989, sau ba năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị khóa VI, các quyết định của các kỳ họp Quốc hội khóa VIII, nền kinh tế đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng trên một số lĩnh vực.
Trên lĩnh vực kinh tế, thắng lợi nổi bật là đã kiềm chế và đẩy lùi nạn lạm phát nghiêm trọng kéo dài trong nhiều năm, giảm được tốc độ tăng giá từ mức bình quân 14,2%/tháng năm 1988 xuống còn 2,8%/tháng năm 1989. Tổng sản phẩm xã hội năm 1989 tăng 3,5%, thu nhập quốc dân tăng 3,2% so với năm 1988, trong đó sản xuất nông nghiệp đạt 20 triệu tấn lương thực và bước đầu có sự cải thiện về tình hình cung ứng lương thực: từ chỗ thường xuyên thiếu ăn, phải nhập lương thực, nay đã đủ ăn, tăng được dự trữ và có phần xuất khẩu. Năm 1989, lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu và là nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới, sau Thái Lan và Mỹ.
Sản xuất công nghiệp có tiến bộ, sản lượng công nghiệp năm 1989 tăng 3% so với năm 1988. Một số ngành công nghiệp quan trọng tăng trưởng khá như điện, dầu thô, xi măng, máy biến thế, pin, gạch xây, rau quả đông lạnh, hàng gia công xuất khẩu và chế biến nông sản.
Về lĩnh vực xây dựng cơ bản, đã tập trung vốn đầu tư cho một số công trình trọng điểm; đưa vào vận hành tổ máy số 2 Nhà máy thủy điện Hòa Bình, thi công vượt tiến độ xây dựng khu công nghiệp dầu khí, xi măng Hà Tiên, kính Đáp Cầu, thủy điện Trị An, thủy điện Đrâylinh và một số công trình quan trọng khác...
Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội, quá trình mở rộng và phát huy dân chủ, trước hết là trong đời sống kinh tế tiếp tục được đẩy mạnh. Kết quả của cuộc bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp ngày 19-11-1989 trong cả nước đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thực hiện quyền dân chủ và ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc xây dựng chính quyền. Trách nhiệm và quyền lực của các cơ quan dân cử, của công dân trong việc giám sát hoạt động của chính quyền nhà nước ở Trung ương cũng như địa phương được đề cao hơn. Nhà nước đã và đang tạo thêm điều kiện cho văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình phát huy khả năng và hiệu quả trong sự nghiệp đổi mới. Nhiều loại hình giáo dục, đào tạo mới được triển khai đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân.
Trên lĩnh vực quốc phòng, một sự kiện có ý nghĩa to lớn về chính trị, quân sự, đối nội và đối ngoại là theo thỏa thuận giữa hai Chính phủ Việt Nam và Campuchia, Việt Nam đã rút toàn bộ quân tình nguyện về nước.
Trên lĩnh vực đối ngoại, phát huy kết quả bước đầu trên lĩnh vực kinh tế và việc rút quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia, nước ta tích cực mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần giữ vững hòa bình, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, những chuyển biến bước đầu chưa thực sự vững chắc, mới chỉ tạo đà cho Việt Nam thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài đã nhiều năm, chứ chưa đủ để chấm dứt tình trạng khủng hoảng. Nền kinh tế vẫn mất cân đối, hoạt động kém hiệu quả, thu chưa đủ chi, xuất chưa đủ nhập, chưa có tích lũy đáng kể từ nội bộ nền kinh tế. Cơ chế quản lý mới đang được xây dựng nhưng chưa đồng bộ. Nhiều vấn đề xã hội chậm được giải quyết.
Tại kỳ họp thứ 8, từ ngày 12 đến 21-12-1990, Quốc hội đã nghe Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt trình bày báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1991; dự án của Hội đồng Bộ trưởng về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1991; báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về các phương án của kế hoạch và ngân sách năm 1991; nghe thuyết trình của Ủy ban Kinh tế, Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội về kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách.
Kiểm điểm tình hình năm 1990 và kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm 1986-1990, có thể thấy kinh tế -xã hội đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng: Cơ chế kinh tế dần chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thị trường hàng hóa được xác lập, giá cả đã phản ánh đúng với thực trạng cung cầu, thị trường tiền tệ bắt đầu hình thành. Năm 1989 và 1990 đã chế ngự được tình trạng lạm phát phi mã.
Sản xuất nông nghiệp có bước tiến bộ rõ rệt, sản lượng lương thực tăng từ 18,2 triệu tấn năm 1985 lên 21,5 triệu tấn năm 1990. Từ chỗ thiếu đói, đến năm 1989 và 1990, Việt Nam đã xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo.
Lĩnh vực xuất khẩu và kêu gọi đầu tư nước ngoài cũng đạt thành tựu đáng ghi nhận. Từ năm 1986 đến 1990, xuất khẩu liên tục tăng. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 1986-1990 đạt gấp 2,2 lần so với 5 năm 1981-1985. Nếu năm 1985, kim ngạch xuất khẩu là 594,3 triệu rúp và đôla thì năm 1990 đã đạt 2.150 triệu rúp và đôla. Về đầu tư, trong ba năm từ 1988 đến 1990, có 200 dự án với tổng số vốn khoảng 1,4 tỷ đôla.
Quốc hội và các cơ quan dân cử đã đổi mới một bước tổ chức và hoạt động, phát huy quyền lực của nhân dân trong việc quản lý kinh tế - xã hội. Hội đồng Bộ trưởng và hệ thống quản lý nhà nước đã có những bước tiến bộ và đang hướng tới quản lý nhà nước bằng pháp luật, bước đầu sắp xếp bộ máy các bộ, tổng cục và cơ quan chuyên môn các cấp.
Năm 1991 là năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm (1991-1995), với định hướng dài hạn của chiến lược 10 năm ổn định và phát triển kinh tế - xã hội và là năm tiến hành Đại hội VII của Đảng. Trong bối cảnh đó, Quốc hội thông qua phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch năm 1991 là:
-Tập trung có trọng điểm cho những mục tiêu then chốt của nền kinh tế, bảo đảm duy trì tăng trưởng kinh tế đạt 5,6%, thu nhập quốc dân tăng 5,8%, nông nghiệp tăng 4,5% để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của nhân dân, tạo nguồn thu cho ngân sách.
-Phát triển kinh tế đối ngoại, đưa kim ngạch xuất khẩu tăng tối thiểu 16%, coi đây là giải pháp quyết định để tự cân đối và vượt khó khăn; có sách lược linh hoạt, mềm dẻo để tranh thủ sự viện trợ và thu hút vốn nước ngoài.
-Tiếp tục kiềm chế và khắc phục những yếu tố phát sinh lạm phát cao trên cơ sở giữ vững và đẩy mạnh sản xuất và xây dựng, hạn chế bội chi ngân sách, phấn đấu không để giá tăng đột biến vượt mức lạm phát của năm 1990.
-Tập trung sức giải quyết có trọng điểm các vấn đề xã hội, trước hết là đẩy mạnh sản xuất, thu hút thêm lao động, giảm bớt khó khăn về đời sống, nhất là đời sống của những người hưởng lương trong khu vực hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, người về hưu, các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội. Nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, thông tin, thể dục, thể thao, bảo đảm công bằng xã hội, đặc biệt chú trọng giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc, miền núi và biên giới. Bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự và an ninh xã hội.
Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1991.
Tại kỳ họp thứ 10, từ ngày 10 đến 26-12-1991, Quốc hội đã nghe Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt trình bày Báo cáo về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1991-1995) và năm 1992; dự án về phương hướng, nhiệm vụ, kinh tế - xã hội 5 năm (1991-1995) và năm 1992.
Kế hoạch nhà nước năm 1991 được thực hiện trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước đang diễn biến hết sức phức tạp. Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô làm cho các hiệp định đã ký không còn hiệu lực, thị trường xuất, nhập khẩu truyền thống với Liên Xô bị cắt giảm đột ngột, quan hệ thương mại bị đảo lộn. Ở trong nước, thiên tai, mất mùa và lũ lụt lớn ở Sơn La, Lai Châu và đồng bằng sông Cửu Long đã gây ra sự thiệt hại lớn đối với nền kinh tế và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Trong bối cảnh khó khăn, phức tạp và đầy thách thức đó, Quốc hội kêu gọi toàn Đảng, toàn dân nêu cao ý thức tự lực, tự cường, đảm bảo tình hình kinh tế -xã hội không bị đảo lộn và từng bước tạo ra chuyển biến tích cực trên một số mặt.
Mặc dù thời tiết không thuận gây thiệt hại nặng nề cho vụ Đông - Xuân ở miền Bắc (mất hơn 1 triệu tấn lương thực), nhưng ước tính cả năm sản lượng lương thực cả nước vẫn đạt 21,7 triệu tấn. Sản xuất công nghiệp vẫn duy trì được sự tăng trưởng, so với năm 1990, giá trị sản lượng công nghiệp tăng 5,3%, trong đó công nghiệp Trung ương tăng 16%. Trong khi thị trường Liên Xô và Đông Âu bị ách tắc, các công ty kinh doanh đã kịp thời chủ động chuyển nhanh xuất, nhập khẩu sang các thị trường khác nên kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 tỷ rúp/đôla; bảo đảm nhập được những vật tư chủ yếu cho sản xuất và xây dựng, góp phần duy trì và phát triển sản xuất trong nước.
Việc đảm bảo cho nền kinh tế không bị đảo lộn và có được sự tăng trưởng đó là kết quả của đường lối đổi mới từ Đại hội VI của Đảng được tiếp tục triển khai trong năm 1991 theo hướng chuyển sang cơ chế thị trường, phát huy thêm một bước khả năng của các thành phần kinh tế. Sự chỉ đạo, điều hành của các ngành, các cấp có tiến bộ, rõ nét nhất là trong việc xử lý các cân đối lớn, điều hòa lương thực, chuyển hướng thị trường ngoại thương, kiềm chế phát hành tiền chi cho ngân sách. Thực hiện nghị quyết của Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng đã tập trung chỉ đạo phát triển các ngành then chốt, các sản phẩm quan trọng và các sản phẩm có nguồn thu lớn cho ngân sách như dầu thô, điện, xi măng, thiếc, thép, phân bón, bia, đường, giấy...
Việc kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Đến hết năm 1991, cả nước đã cấp giấy phép cho 330 dự án với tổng số vốn 2,5 tỷ đôla, trong đó, năm 1992 là 100 dự án với tổng số vốn gần 1 tỷ đôla.
Bằng nhiều biện pháp đẩy mạnh sản xuất, Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã kịp thời ban hành một số luật thuế và pháp lệnh thuế mới, tăng cường chấn chỉnh việc thu nộp thuế, nên tổng số thu ngân sách đã có bước tiến bộ. Nguồn thu tăng chủ yếu từ tăng sản lượng dầu thô, thuế công thương nghiệp, thuế xuất, nhập khẩu phi mậu dịch. Nguồn thu trong nước đã đáp ứng được tiêu dùng thường xuyên, các khoản chi đột xuất và có phần dành trả nợ nước ngoài. Giá cả, vật tư hàng hóa bước đầu được kiểm soát nên đã không để xảy ra những cơn sốt như những năm trước.
Cùng với những tiến bộ trên lĩnh vực kinh tế, các hoạt động khoa học, giáo dục, văn hoá, thông tin, y tế, xã hội... cũng có những tiến bộ đáng kể, góp phần quan trọng vào việc ổn định dần tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên, theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế, Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội, các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch năm 1991 đã được Quốc hội thông qua nhìn chung là phù hợp với thực tế của nền kinh tế năm 1991, nhưng kết quả thực hiện kế hoạch đều đạt thấp và tình hình kinh tế - xã hội vẫn chưa ổn định [1]. Ngoài nguyên nhân khách quan, chủ yếu là do việc kiềm chế lạm phát chưa đạt yêu cầu, còn nhiều nhân tố tái lạm phát, bội chi ngân sách vẫn còn lớn. Việc thanh tra quản lý tài chính, tiền tệ còn yếu, nhất là quản lý tài chính xí nghiệp còn lỏng lẻo. Chi tiêu không đúng nguyên tắc, lãng phí diễn ra khá phổ biến. Tình trạng buôn lậu ngày càng tăng, kinh doanh buôn bán không đúng pháp luật diễn ra ngày càng phức tạp dẫn đến thất thu lớn cho Nhà nước. Tốc độ phát triển kinh tế chậm và không vững chắc. Nông nghiệp còn bấp bênh, công nghiệp địa phương và tiểu thủ công nghiệp tiếp tục sa sút, dẫn đến đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn.
Về quản lý vĩ mô, nhận thức và việc vận dụng chủ trương chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước còn nhiều lúng túng. Nhiều chủ trương, chính sách, cơ chế chưa dứt khoát, còn mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ và còn sơ hở. Bộ máy quản lý nhà nước cồng kềnh, hiệu lực kém, năng lực của đội ngũ cán bộ yếu, chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Tình trạng cục bộ, bản vị, cửa quyền, mất dân chủ, vô kỷ luật, thiếu trách nhiệm diễn ra trong một số cán bộ, tổ chức quản lý và một số cơ sở sản xuất, kinh doanh cũng là một trong những nhân tố làm cho tình hình không ổn định.
Xuất phát từ thực trạng nền kinh tế của đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát trong 5 năm (19911995) và nhiệm vụ cấp bách trước mắt là: “Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bước đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế”. Quán triệt tinh thần nghị quyết của Đại hội Đảng, Quốc hội đã thông qua nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1991-1995) với những nội dung chủ yếu là:
1. Thực hiện những biện pháp cấp bách, có hiệu quả để tiếp tục đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát ở mức 2 con số vào năm 1995.
2. Đưa nền kinh tế đi vào thế ổn định và duy trì sự tăng trưởng. Tập trung vào những ngành then chốt và những sản phẩm quan trọng nhất; phát huy thế mạnh của từng vùng và huy động tối đa khả năng của các thành phần kinh tế để phát triển sản xuất. Oån định và cải thiện một số mặt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Cơ bản giải quyết tình trạng thiếu đói kinh niên và giáp hạt ở một số vùng; tạo việc làm cho phần lớn lao động mới, tiến hành cải cách chế độ tiền lương, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về học tập, hưởng thụ văn hoá, nghệ thuật; bảo vệ và tăng cường sức khỏe nhân dân.
3. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất -kỹ thuật, tạo tiền đề ổn định và phát triển, hiện đại hóa những cơ sở sản xuất có điều kiện phát triển, nhất là các cơ sở làm hàng xuất khẩu. Xây dựng các công trình then chốt như: điện, dầu khí, phân đạm, lọc dầu, xi măng, chế biến nông sản, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
4. Tiếp tục đổi mới một cách đồng bộ cơ chế quản lý nhà nước và cơ chế quản lý sản xuất, kinh doanh, chuyển hẳn sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác; thiết lập trật tự kinh tế, đảm bảo sự thống nhất quyền lực và hiệu lực của bộ máy nhà nước; cải cách hệ thống hành chính nhà nước, mở rộng dân chủ gắn liền với việc thực thi nghiêm minh kỷ luật, kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng.
5. Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh trong tình hình mới.
Nhằm thực hiện mục tiêu kế hoạch 5 năm (1991- 1995), Quốc hội nhấn mạnh, trong năm 1992 cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:
-Thực hiện tốt việc kiềm chế và tiến tới đẩy lùi lạm phát bằng cách kiềm chế bội chi ngân sách, khống chế phát hành tiền mặt; tận thu mọi nguồn thu trong và ngoài nước; điều chỉnh hệ thống thuế và chống thất thu thuế. Kiểm soát chặt chẽ các khoản chi, triệt để chống lãng phí, thực hiện tiết kiệm từ trong các khoản chi ở các đơn vị sản xuất, kinh doanh và trong các cơ quan nhà nước.
-Ổn định và phát triển sản xuất, tiếp tục coi nông nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu và tập trung bảo đảm các điều kiện để phát triển nhanh những sản phẩm trọng yếu của nền kinh tế như lương thực, thịt, hải sản, dầu khí, điện, xi măng, phân bón, thép, các loại khoáng sản, các sản phẩm công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến phục vụ xuất khẩu, đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách.
-Giải quyết một số vấn đề cấp bách về đời sống, nhằm ổn định một bước tình hình xã hội, tư tưởng và đời sống nhân dân. Chú trọng giải quyết việc làm, thực hiện một bước cải tiến tiền lương, giải quyết một số vấn đề cấp bách trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hoá, xã hội.
-Tăng cường công tác quản lý, thực hiện một bước cải cách hệ thống bộ máy hành chính và cán bộ các cấp, đổi mới và bổ sung hệ thống pháp luật kinh tế, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước.
-Thực hiện một cách ráo riết, mạnh mẽ việc chống tham nhũng, buôn lậu, chống làm hàng giả, chống các hiện tượng tiêu cực; thiết lập trật tự, kỷ cương trong quản lý kinh tế - xã hội, khôi phục lòng tin, giữ thế ổn định chính trị, bảo đảm an toàn xã hội.
Ngày 26-12-1991, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1991-1995) và năm 1992; đồng thời lưu ý Hội đồng Bộ trưởng cần có biện pháp kiên quyết, nhằm khắc phục các yếu kém, các nhân tố bất lợi khi bước vào thực hiện các nhiệm vụ của năm 1992 và các năm tiếp theo.
Nhìn chung, việc thảo luận báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về tình hình thực hiện kế hoạch và ngân sách nhà nước được Quốc hội khóa VIII thực hiện nghiêm túc. Do đó, có nhiều nghị quyết của Quốc hội liên quan đến một số vấn đề cấp bách, nóng bỏng về kinh tế - xã hội ngày càng có chiều sâu về nội dung, cơ bản đáp ứng được mong muốn của nhân dân.
Tuy nhiên, do chưa có các điều kiện đi sâu nghiên cứu, cập nhật thông tin kịp thời, nên nhiều nghị quyết của Quốc hội ban hành chưa sát với thực tế. Về vấn đề này, Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã rút kinh nghiệm, góp ý kiến thiết thực với Hội đồng Bộ trưởng để cùng tìm cách tháo gỡ, đề ra các giải pháp khắc phục khó khăn, nhất là việc giải quyết các vấn đề nóng bỏng như: chống lạm phát về giá, lương, về tài chính, tiền tệ và phân phối lưu thông.
Ngân sách nhà nước cũng là vấn đề hết sức hệ trọng trong quản lý nhà nước về kinh tế nhưng vẫn chưa được đặt đúng với tầm quan trọng của nó trong chương trình làm việc của Quốc hội. Do đó, việc thông qua ngân sách nhà nước vẫn còn mang tính hình thức, chủ yếu mới chỉ dựa trên các báo cáo, số liệu của Hội đồng Bộ trưởng khiến cho các đại biểu Quốc hội rất băn khoăn mỗi khi thực hiện quyền biểu quyết.
Từ thực tiễn hoạt động trong nhiều năm, đặc biệt từ kinh nghiệm hoạt động của nhiệm kỳ khóa VIII, mặc dù còn hạn chế, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội đã thường xuyên đổi mới, nhằm nâng cao mạnh mẽ hiệu quả hoạt động, đảm bảo cho Quốc hội thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo Hiến pháp và luật quy định.
3. điều chỉnh tổ chức bộ máy của hội đồng bộ trưởng và bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ cấp cao của nhà nước
Trong nhiệm kỳ 5 năm, Quốc hội đã xem xét quyết định việc sáp nhập các bộ và thay đổi, bổ sung nhân sự cấp cao của Nhà nước.
Ngày 10-3-1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng qua đời khi đang đi công tác tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Trong khi chờ Quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng mới, ngày 11-3-1988 Hội đồng Nhà nước đã ra Nghị quyết số 58-NQ/HĐNN8 về việc cử Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt làm quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tại kỳ họp thứ 3, căn cứ tờ trình của Hội đồng Nhà nước, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn các nghị quyết của Hội đồng Nhà nước về tổ chức và nhân sự của Hội đồng Bộ trưởng.
Tiếp đó, căn cứ vào Điều 10 Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, Điều 7 Nội quy về kỳ họp, ngày 22-6-1988, Quốc hội khóa VIII đã tiến hành bầu cử bằng cách bỏ phiếu kín chức danh Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng mới. Danh sách ứng cử viên chức danh Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng do đại biểu Quốc hội giới thiệu gồm hai đồng chí đều là Ủy viên Bộ Chính trị, đều đã hoặc đang là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và đều có đủ năng lực, tín nhiệm. Việc đưa ra danh sách hai ứng cử viên đã thể hiện tinh thần dân chủ, thực sự tin tưởng vào sự sáng suốt của đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Kết quả cuộc bầu cử đồng chí Đỗ Mười, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng[2].
Ngày 28-6-1988, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn Nghị quyết số 66-NQ/HĐNN8, ngày 24-31988 của Hội đồng Nhà nước về việc thành lập và bãi bỏ một số cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng; phê chuẩn Nghị quyết số 67-NQ/HĐNN8, ngày 10-5-1988 của Hội đồng Nhà nước về việc cử và miễn nhiệm một số thành viên của Hội đồng Bộ trưởng như sau:
Thành lập Bộ Kinh tế đối ngoại trên cơ sở sáp nhập Bộ Ngoại thương và Ủy ban Kinh tế đối ngoại.
Thành lập Bộ Xây dựng trên cơ sở sáp nhập Bộ Xây dựng và Ủy ban Xây dựng cơ bản nhà nước.
Sáp nhập Tổng cục Điện tử và Kỹ thuật tin học vào Bộ Cơ khí và Luyện kim.
Ông Võ Văn Kiệt thôi giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước; Ông Đậu Ngọc Xuân, Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm thứ nhất Ủy ban Kế hoạch nhà nước giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước.
Ông Đoàn Duy Thành thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại thương để giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế đối ngoại; Ông Võ Đông Giang thôi giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế đối ngoại.
Ông Phan Ngọc Tường giữ chức Bộ trưởng Bộ Xây dựng; Ông Đỗ Quốc Sam thôi giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Xây dựng cơ bản nhà nước.
Ông Đoàn Duy Thành thôi giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Ông Nguyễn Ngọc Trìu thôi giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng để nhận công tác khác.
Ông Nguyễn Văn Chính thôi giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra nhà nước để nhận công tác khác.
Ông Huỳnh Châu Sổ, Phó Chủ nhiệm thứ nhất Ủy ban Thanh tra nhà nước giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra nhà nước.
Tiếp đó, tại kỳ họp thứ 4 (12-1988), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn các nghị quyết của Hội đồng Nhà nước về tổ chức nhân sự của Hội đồng Bộ trưởng.
Một là: Phê chuẩn Nghị quyết số 90-NQ/HĐNN8, ngày 6-8-1988 của Hội đồng Nhà nước về việc thành lập Ủy ban Nhà nước về hợp tác đầu tư để chỉ đạo và quản lý thống nhất việc hợp tác và đầu tư của nước ngoài.
Hai là: Phê chuẩn Nghị quyết số 107-NQ/HĐNN8, ngày 11-11-1988 của Hội đồng Nhà nước về việc cử Thứ trưởng Bộ Y tế Phạm Song giữ chức Bộ trưởng Y tế.
Tại kỳ họp thứ 5 (6-1989), Quốc hội đã thông qua nghị quyết:
Một là: Phê chuẩn Nghị quyết số 133-NQ/HĐNN8, ngày 3-3-1989 của Hội đồng Nhà nước về việc cử và miễn nhiệm một số thành viên của Hội đồng Bộ trưởng như sau:
Ông Đậu Ngọc Xuân thôi giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước để giữ chức Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư.
Ông Phan Văn Khải, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước.
Ông Võ Đông Giang, nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Quan hệ kinh tế với nước ngoài, giữ chức Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư.
Hai là: Phê chuẩn Nghị quyết số 149-NQ/HĐNN8, ngày 26-4-1989 của Hội đồng Nhà nước về việc cử và miễn nhiệm một số thành viên của Hội đồng Bộ trưởng như sau:
Ông Đậu Ngọc Xuân, Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư, giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư.
Ông Lữ Minh Châu thôi giữ chức Tổng Giám đốc Ngân hàng nhà nước; Ông Cao Sỹ Kiêm, Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình, giữ chức Tổng Giám đốc Ngân hàng nhà nước.
Ông Huỳnh Châu Sổ (tức Năm Bê) thôi giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra nhà nước; ông Nguyễn Kỳ Cẩm thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội để giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra nhà nước.
Ông Trần Đình Hoan, Thứ trưởng bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, giữ chức Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Tại kỳ họp thứ 6 (12-1989), Quốc hội thông qua các nghị quyết:
Một là: Phê chuẩn Nghị quyết số 203-NQ/HĐNN8, ngày 18-10-1989 của Hội đồng Nhà nước về việc cử Tổng Giám đốc Tổng Công ty xây dựng thủy điện Hòa Bình Ngô Xuân Lộc, giữ chức Bộ trưởng Bộ Xây dựng thay ông Phan Ngọc Tường nhận nhiệm vụ khác.
Hai là: Phê chuẩn Nghị quyết số 209-NQ/HĐNN8, ngày 9-11-1989 của Hội đồng Nhà nước về việc cử ông Phan Ngọc Tường, nguyên Bộ trưởng Bộ Xây dựng, giữ chức Bộ trưởng chuyên trách công tác tổ chức và cán bộ của Hội đồng Bộ trưởng.
Tại kỳ họp thứ 7 (6-1990), Quốc hội thông qua các nghị quyết:
Một là: Phê chuẩn Nghị quyết số 242-NQ/HĐNN8, ngày 20-2-1990 của Hội đồng Nhà nước về việc cử và miễn nhiệm một số thành viên của Hội đồng Bộ trưởng như sau:
Ông Vũ Tuân thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ để nghỉ hưu. Cử Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ Đặng Vũ Chư giữ chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ.
Ông Phan Thanh Liêm thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim để nhận công tác khác.
Ông Trần Lum, Thứ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim giữ chức Bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim.
Hai là: Phê chuẩn Nghị quyết số 244-NQ/HĐNN8, ngày 31-3-1990 của Hội đồng Nhà nước về việc thành lập, đổi tên một số bộ, ủy ban nhà nước và phê chuẩn việc giải thể một số tổng cục; cử và miễn nhiệm một số thành viên của Hội đồng Bộ trưởng như sau:
Về tổ chức của Hội đồng Bộ trưởng:
Thành lập Bộ Văn hoá, Thông tin, Thể thao và Du lịch trên cơ sở Bộ Văn hoá, Bộ Thông tin, Tổng cục Thể thao và Tổng cục Du lịch để thống nhất quản lý nhà nước về văn hoá, thông tin, phát thanh, truyền hình, báo chí, xuất bản, thể dục thể thao và du lịch.
Thành lập Bộ Giáo dục và Đào tạo trên cơ sở Bộ Giáo dục, Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề để thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo.
-Thành lập Bộ Thương nghiệp trên cơ sở Bộ Kinh tế đối ngoại, Bộ Nội thương, Bộ Vật tư để thống nhất quản lý nhà nước các hoạt động thương nghiệp và dịch vụ.
-Đổi tên Bộ Cơ khí và Luyện kim thành Bộ Công nghiệp nặng để thống nhất quản lý nhà nước đối với các ngành cơ khí, luyện kim, điện tử, mỏ và địa chất, Tổng cục Hóa chất và Tổng cục Dầu khí.
-Đổi tên Bộ Giao thông vận tải thành Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện đảm nhiệm chức năng quản lý nhà nước đối với các ngành bưu điện do Tổng cục Bưu điện phụ trách và ngành Hàng không dân dụng. Phê chuẩn việc giải thể Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam.
-Đổi tên Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật nhà nước thành Ủy ban Khoa học nhà nước để thống nhất quản lý nhà nước về khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội.
-Phê chuẩn việc chuyển Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam thành Viện Khoa học xã hội Việt Nam làm chức năng nghiên cứu khoa học xã hội.
-Giao chức năng quản lý nhà nước đối với ngành cao su cho Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm đảm nhiệm. Phê chuẩn việc giải thể Tổng cục Cao su.
-Chuyển giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về ngành du lịch từ Bộ Văn hóa, Thông tin, Thể thao và Du lịch sang Bộ Thương nghiệp phụ trách. Do đó, đổi tên Bộ Thương nghiệp thành Bộ Thương mại và Du lịch; đổi tên Bộ Văn hoá, Thông tin, Thể thao và Du lịch thành Bộ Văn hoá, Thông tin và Thể thao.
Về nhân sự của Hội đồng Bộ trưởng:
Ông Trần Hoàn thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin để giữ chức Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thông tin, Thể thao và Du Lịch.
Ông Trần Văn Phác thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Văn hoá để nhận công tác khác.
Ông Trần Hồng Quân thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề để giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Ông Phạm Minh Hạc thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục để nhận công tác khác.
Ông Hoàng Minh Thắng thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương để giữ chức Bộ trưởng Bộ Thương nghiệp.
Ông Hoàng Đức Nghi thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Vật tư để giữ chức Bộ trưởng chuyên trách công tác miền núi và dân tộc.
Ông Đoàn Duy Thành thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế đối ngoại để nhận công tác khác.
-Ngày 9-8-1991 tại kỳ họp thứ 9, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười đã đề nghị và được Quốc hội chấp nhận cho thôi giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng để đảm đương trọng trách Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Căn cứ vào Điều 83 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Điều 10 của Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, sau khi lấy ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước cùng các trưởng đoàn đại biểu Quốc hội đã nhất trí giới thiệu Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt để Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Với sự thống nhất cao, Quốc hội đã nhất trí bầu Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
-Ông Phan Văn Khải, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Ông Đoàn Khuê làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Ông Bùi Thiện Ngộ làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
-Ông Nguyễn Mạnh Cầm làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Ông Lê Văn Triết làm Bộ trưởng Bộ Thương mại và Du lịch.
Ông Đỗ Quốc Sam làm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước.
Về bổ nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại một số nước:
Trong nhiệm kỳ của Quốc hội khóa VIII, theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng Nhà nước đã bổ nhiệm và miễn nhiệm 49 đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước ta tại gần 100 nước, như: Cộng hòa Cuba, Cộng hòa dân chủ Đức, Cộng hòa nhân dân Ba Lan, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Rumani, Niu Dilân, Cộng hòa Irắc, Cộng hòa nhân dân Cônggô, Cộng hòa dân chủ Ápganixtan, Cộng hòa Ghinê, Cộng hòa Mali và Cộng hòa Xênêgan, Cộng hòa Ghinê Bítxao và Cộng hòa Gana (17-11-1987); Cộng hòa Ấn Độ, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa dân chủ Xri Lanca, Cộng hòa Hồi giáo Iran, Cộng hòa Hồi giáo Pakixtan, Cộng hòa Manđivơ, Nhật Bản, Cộng hòa nhân dân Hunggari, Cộng hòa Philippin, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Lúcxămbua, Vương quốc Bỉ, Vương quốc Hà Lan, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa dân chủ Yêmen, Cộng hòa nhân dân Ănggôla, Cộng hòa Cáp Ve, Cộng hòa Gana, Cộng hòa Ghinê Bítxao, Cộng hòa Ghinê Xích đạo, Cộng hòa Xao Tômê và Prinxipê, Cộng hòa Côlômbia (10-5-1988); Cộng hòa nhân dân Mông Cổ (6-8-1988); Vương quốc Thụy Điển, Vương quốc Đan Mạch, Vương quốc Nauy, Cộng hòa Aixơlen và Cộng hòa Phần Lan (12-10-1988); Cộng hòa Philippin (5-121988); Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Liên bang Thụy Sĩ, Cộng hòa Áo, Cộng hòa Italia, Cộng hòa Manta, Cộng hòa Bồ Đào Nha và Vương quốc Tây Ban Nha, Vương quốc Thái Lan, Cộng hòa nhân dân xã hội chủ nghĩa Anbani, Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ailen, Cộng hòa Liên bang Nam Tư, Cộng hòa Côxta Rica, Cộng hòa Êcuađo (2-9-1989); Cộng hòa Inđônêxia (22-10-1989); Vương quốc Bỉ (32-12-1990); Vương quốc Campuchia (20-11-1991); Liên bang Nga (16-3-1992); Cộng hòa Arập Ai Cập, Cộng hòa Arập Xyri và Côoét, Cộng hòa Bêlarút...(27-5-1992).
4. Quốc hội với nhiệm vụ quốc phòng và an ninh; phê chuẩn phân vạch địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
a) Quốc hội với nhiệm vụ quốc phòng và an ninh
Trước tình hình các thế lực thù địch trong và ngoài nước tăng cường chống phá cách mạng nước ta, ngày 19-3-1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Trong nội dung chỉ thị, Ban Bí thư xác định: Việc đánh thắng chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định an ninh, trật tự, an toàn xã hội là những yêu cầu cấp bách và lâu dài của đất nước trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến vấn đề bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc và chủ trương giải quyết vấn đề Campuchia bằng giải pháp chính trị, với mong muốn xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước.
Để phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn cách mạng mới, ngày 28-61988 tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Nghị quyết về việc sửa Lời nói đầu của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là sự kiện được dư luận thế giới và khu vực đặc biệt quan tâm. Xuất phát từ tính chất cơ bản, lâu dài của Hiến pháp và trước yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước trên thế giới, theo đề nghị của Hội đồng Bộ trưởng, Quốc hội đã quyết nghị không ghi vào Lời nói đầu của Hiến pháp tên một nước cụ thể nào là kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Sự kiện này chứng tỏ thiện chí của Việt Nam mong muốn bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, coi những vấn đề đang tồn tại giữa hai nước là tạm thời có thể giải quyết và coi việc khôi phục tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước là cơ bản, lâu dài vì hoà bình và chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
Đối với vấn đề Campuchia, thực hiện chủ trương của Đảng và sự thoả thuận giữa Chính phủ hai nước Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Campuchia, ngày 265-1988 Bộ Quốc phòng Việt Nam đã ra thông báo về việc rút hết quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia. Ngày 19-6-1989, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá VIII, được sự ủy nhiệm của Hội đồng Bộ trưởng, Thượng tướng Đoàn Khuê, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam đã đọc báo cáo về việc quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả trở về Tổ quốc vào cuối tháng 9-1989. Ngày 306-1989, Quốc hội đã thông qua nghị quyết về vấn đề này; đồng thời tuyên dương công lao to lớn của toàn thể cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện, chuyên gia quân sự, chuyên gia các ngành, các địa phương đã vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quốc tế cao cả ở Campuchia. Quốc hội tin tưởng các đơn vị, cán bộ chiến sĩ bộ đội tình nguyện tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng và bản chất tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng trong nhiệm vụ mới của mình, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì hòa bình hữu nghị và hợp tác ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cùng với việc rút hết quân tình nguyện Việt Nam về nước, Đảng và Nhà nước đã thực hiện một số điều chỉnh chiến lược lớn, bố trí lại lực lượng trên phạm vi cả nước, tạo ra thế phòng thủ hợp lý, tăng cường khả năng phòng thủ ở những khu vực trọng điểm; từng bước xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, chấn chỉnh một bước tổ chức biên chế lực lượng vũ trang; xây dựng lực lượng dự bị động viên và nâng cao chất lượng dân quân tự vệ. Ngày 291-1990, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 29 ban hành Điều lệ dân quân tự vệ gồm 6 chương, 25 điều.
Trước thực trạng tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội vẫn còn phức tạp, ngày 22-12-1988, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá VIII đã thông qua Nghị quyết về công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Theo đó, Quốc hội yêu cầu Hội đồng Bộ trưởng và ủy ban nhân dân các cấp phải quan tâm chỉ đạo chặt chẽ và có các biện pháp kiên quyết đối với công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng và chống tội phạm. Quốc hội coi đây là một khâu quan trọng trong hoạt động quản lý, là điều kiện cần thiết để đảm bảo việc thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ổn định đời sống nhân dân.
Triển khai nghị quyết của Quốc hội, ngày 14-51989, Hội đồng Bộ trưởng ra Chỉ thị số 135-CT về tăng cường công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới. Thực hiện chỉ thị của Hội đồng Bộ trưởng, các địa phương trong cả nước từ xã đến tỉnh, thành phố do công an là lực lượng nòng cốt, đã đồng loạt ra quân trấn áp, truy quét các nhóm tội phạm, trừng trị, bắt giữ, xử lý hàng nghìn tên tội phạm hình sự. Chính quyền các cấp đã phát động phong trào toàn dân giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, toàn dân phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm, tệ nạn, xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc ở đường phố, thôn, xã và phong trào phòng gian bảo mật, bảo vệ cơ quan, xí nghiệp.
Để phát động phong trào quần chúng, Bộ Nội vụ đã cùng với các ban, ngành, đoàn thể liên quan triển khai các kế hoạch cụ thể trong các cơ quan, đơn vị, cụm dân cư. Bộ Nội vụ cùng với Mặt trận Tổ quốc mở hội nghị điển hình phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc trong toàn quốc, tổ chức thành hai cụm phía Bắc và phía Nam; hướng dẫn các địa phương tiêu chuẩn về gia đình, phường, xã, cơ quan, đơn vị về an ninh, trật tự. Bộ Nội vụ đã ra chỉ thị hướng dẫn công an các cấp tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các địa phương mở hội nghị sơ kết phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc trong hai năm 1989 và 1990 ở các cơ quan, đơn vị, các cụm dân cư. Cả nước có 29 địa phương có kế hoạch chuẩn bị, bốn tỉnh: Hải Hưng, Sông Bé, Gia Lai - Kon Tum, Thuận Hải mở hội nghị sơ kết phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ quân đội trong tình hình mới, một số quy định của Luật nghĩa vụ quân sự và Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được Quốc hội khóa VII kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 30-12-1981 không còn phù hợp, đòi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung. Để đáp ứng yêu cầu bức thiết của việc củng cố và xây dựng quân đội trong giai đoạn đổi mới, bảo đảm để quân đội phát huy truyền thống vẻ vang và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, ngày 21-12-1990, tại kỳ họp thứ 8, theo đề nghị của Hội đồng Bộ trưởng, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Nghị quyết về việc thi hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự và Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
b) Quốc hội phê chuẩn phân vạch địa giới hành chính các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Trong nhiệm kỳ 5 năm, Quốc hội khóa VIII đã phê chuẩn các nghị quyết về việc sáp nhập và phân vạch địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và coi đây là một vấn đề quan trọng trực tiếp quan hệ đến việc xây dựng và phát triển đất nước.
Tại kỳ họp thứ 5, Hội đồng Bộ trưởng đã đề nghị Quốc hội xem xét và quyết định điều chỉnh địa giới ba tỉnh Nghĩa Bình, Phú Khánh và Bình Trị Thiên. Theo tờ trình của Hội đồng Bộ trưởng, đây là ba tỉnh trong số các tỉnh có quy mô lớn về diện tích và dân số, sự chỉ đạo của tỉnh khó sát thực tế, quan hệ giữa các huyện, các xã và nhân dân với các cơ quan tỉnh gặp nhiều khó khăn. Việc điều chỉnh địa giới không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động của tỉnh, mà còn rút kinh nghiệm chung cho cả nước trong việc đổi mới về quản lý kinh tế, vị trí và chức năng, nhiệm vụ của các cấp quản lý hành chính, nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp trong việc khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, từng địa phương, tăng nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Sau khi nghiên cứu ý kiến của Hội đồng nhân dân các tỉnh Nghĩa Bình, Phú Khánh và Bình Trị Thiên, Quốc hội đã quyết định chia tỉnh Nghĩa Bình thành hai tỉnh mới lấy tên là tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Bình Định, mỗi tỉnh có 11 đơn vị hành chính. Chia tỉnh Phú Khánh thành tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa. Tỉnh Phú Yên có 7 đơn vị hành chính. Tỉnh Khánh Hòa có 8 đơn vị hành chính. Chia tỉnh Bình Trị Thiên thành ba tỉnh mới, gồm tỉnh Quảng Bình với 5 đơn vị hành chính, tỉnh Quảng Trị với 4 đơn vị hành chính và tỉnh Thừa Thiên Huế với 5 đơn vị hành chính.
Chấp hành Nghị quyết kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa VIII, Hội đồng Bộ trưởng đã chỉ đạo thực hiện việc chia ba tỉnh Nghĩa Bình, Phú Khánh, Bình Trị Thiên thành bảy tỉnh. Sau khi họp với bảy tỉnh mới được chia tách, Hội đồng Bộ trưởng nhận thấy có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh về lãnh đạo và quản lý, về tổ chức và cán bộ. Trong lúc Đảng, Nhà nước và toàn dân đang phải tập trung sức để giải quyết những vấn đề nóng bỏng về kinh tế - xã hội, để giữ sự ổn định và tránh những công việc gây xáo trộn, Hội đồng Bộ
trưởng đề nghị Quốc hội tạm dừng việc điều chỉnh lại địa giới các tỉnh.
Xét thấy việc điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương là vấn đề quan trọng, trực tiếp quan hệ đến việc xây dựng, phát triển đất nước và phải được giải quyết đồng bộ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Căn cứ vào tình hình chung của đất nước, trên cơ sở đề nghị của Hội đồng Bộ trưởng và kiến nghị của Hội đồng nhân dân một số tỉnh, ngày 30-6-1990, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn việc giữ nguyên địa giới hành chính hiện tại của các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương; đồng thời giao cho Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng nghiên cứu, chuẩn bị phương án tổ chức hệ thống chính quyền và địa giới hành chính của các tỉnh, thành phố trình Quốc hội xem xét và quyết định vào thời gian thích hợp.
Tại kỳ họp thứ 9, trong tờ trình trước Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng cho rằng: “việc phân chia lại địa giới hành chính các tỉnh cần được cân nhắc dựa trên một phương án đầy đủ và chuẩn bị chu đáo thì mới tránh được tình trạng tách, nhập không đủ căn cứ, phải sửa đi sửa lại”[3].
Vì vậy, trong lúc tiếp tục nghiên cứu phương án tổng thể, Hội đồng Bộ trưởng trình Quốc hội xem xét, quyết định điều chỉnh địa giới một số tỉnh miền núi, hoặc có phần miền núi, địa bàn hiểm trở, điều kiện giao thông liên lạc khó khăn. Đối với thành phố Hà Nội do vùng ngoại thành quá rộng, Hội đồng Bộ trưởng thấy cần được điều chỉnh để sớm có điều kiện xây dựng thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật của cả nước.
Dựa trên báo cáo của Ủy ban thẩm tra phương án điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố[4] và ý kiến của các đại biểu Quốc hội, ngày 12-8-1991, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc:
1. Chia tỉnh Nghệ Tĩnh thành hai tỉnh, lấy tên là tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh.
-Tỉnh Nghệ An có 18 đơn vị hành chính gồm thành phố Vinh và 17 huyện, có diện tích tự nhiên 16.449 km2, dân số 2.415.425 người, tỉnh lỵ là thành phố Vinh.
-Tỉnh Hà Tĩnh có 9 đơn vị hành chính gồm thị xã Hà Tĩnh và 8 huyện, có diện tích tự nhiên 6.053km2, dân số 1.166.107 người, tỉnh lỵ là thị xã Hà Tĩnh.
2. Chia tỉnh Hoàng Liên Sơn thành hai tỉnh, lấy tên là tỉnh Yên Bái và tỉnh Lào Cai.
Tỉnh Yên Bái có 8 đơn vị hành chính gồm thị xã Yên Bái và 7 huyện, có diện tích tự nhiên 6.625km2, dân số 530.000 người, tỉnh lỵ là thị xã Yên Bái.
Tỉnh Lào Cai có 9 đơn vị hành chính gồm thị xã Lào Cai và 8 huyện, có diện tích tự nhiên 7.500km2 , dân số 470.000 người, tỉnh lỵ là thị xã Lào Cai.
3. Chia tỉnh Hà Tuyên thành hai tỉnh, lấy tên là tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang.
Tỉnh Hà Giang có 10 đơn vị hành chính gồm thị xã Hà Giang và 9 huyện, có diện tích tự nhiên 7.831 km2, dân số 461.839 người, tỉnh lỵ là thị xã Hà Giang.
Tỉnh Tuyên Quang có 6 đơn vị hành chính gồm thị xã Tuyên Quang và 5 huyện, có diện tích tự nhiên 5.800km2, dân số 564.528 người, tỉnh lỵ là thị xã Tuyên Quang.
4. Chia tỉnh Gia Lai - Kon Tum thành hai tỉnh, lấy tên là tỉnh Gia Lai và tỉnh Kon Tum.
Tỉnh Gia Lai có 10 đơn vị hành chính gồm thị xã Plâyku và 9 huyện, có diện tích tự nhiên 12.000km2, dân số 654.365 người, tỉnh lỵ là thị xã Plâyku.
Tỉnh Kon Tum có 5 đơn vị hành chính gồm thị xã Kon Tum và 4 huyện, có diện tích tự nhiên 13.000km2, dân số 230.000 người, tỉnh lỵ là thị xã Kon Tum.
5. Chia tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh, lấy tên là tỉnh Hòa Bình và tỉnh Hà Tây.
Tỉnh Hòa Bình có 10 đơn vị hành chính gồm thị xã Hòa Bình và 9 huyện, có diện tích tự nhiên 4.697km2, dân số 670.000 người, tỉnh lỵ là thị xã Hòa Bình.
Tỉnh Hà Tây có 14 đơn vị hành chính gồm thị xã Hà Đông, thị xã Sơn Tây và 12 huyện, có diện tích tự nhiên 2.169km2, dân số 2.086.926 người, tỉnh lỵ là thị xã Hà Đông.
6. Thành lập tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu gồm Đặc khu Vũng Tàu -Côn Đảo và 3 huyện Long Đất, Châu Thành, Xuyên Mộc của tỉnh Đồng Nai.
-Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có 5 đơn vị hành chính gồm thành phố Vũng Tàu và 4 huyện: Côn Đảo, Long Đất, Châu Thành, Xuyên Mộc, diên tích tự nhiên 2.047,45 km2, dân số 587.499 người, tỉnh lỵ là thành phố Vũng Tàu.
7. Điều chỉnh địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội như sau:
Chuyển huyện Mê Linh của thành phố Hà Nội về tỉnh Vĩnh Phú.
Chuyển thị xã Sơn Tây và 5 huyện: Hoài Đức, Phúc Thọ, Đan Phượng, Ba Vì, Thạch Thất của thành phố Hà Nội về tỉnh Hà Tây.
Để nhanh chóng ổn định tổ chức và phát triển sản xuất, Quốc hội đã giao cho Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo thực hiện nghị quyết của Quốc hội theo tinh thần tiết
kiệm, không tăng biên chế và không để thất thoát tài sản của Nhà nước.
Ngày 26-12-1991, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về việc:
1. Chia tỉnh Thuận Hải thành hai tỉnh, lấy tên là tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Bình Thuận.
Tỉnh Ninh Thuận có 4 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Phan Rang - Tháp Chàm và 3 huyện, có diện tích tự nhiên 3.530,4km2, dân số 406.732 người, tỉnh lỵ là thị xã Phan Rang - Tháp Chàm.
Tỉnh Bình Thuận có 9 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Phan Thiết và 8 huyện, có diện tích tự nhiên
7.892 km2, dân số 812.547 người, tỉnh lỵ là thị xã Phan Thiết.
2. Chia tỉnh Hậu Giang thành hai tỉnh, lấy tên là tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng.
Tỉnh Cần Thơ có 7 đơn vị hành chính gồm: Thành phố Cần Thơ và 6 huyện, có diện tích tự nhiên 3.022,30km2, dân số 1.614.350 người, tỉnh lỵ là thành phố Cần Thơ.
Tỉnh Sóc Trăng có 7 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Sóc Trăng và 6 huyện, có diện tích tự nhiên 3.138,67km2, dân số 1.067.167 người, tỉnh lỵ là thị xã Sóc Trăng.
3. Chia tỉnh Cửu Long thành hai tỉnh, lấy tên là tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh.
-Tỉnh Vĩnh Long có 6 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Vĩnh Long và 5 huyện, có diện tích tự nhiên
1.487,34km2, dân số 957,281 người, tỉnh lỵ là thị xã Vĩnh Long.
-Tỉnh Trà Vinh có 8 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Trà Vinh và 7 huyện, có diện tích tự nhiên 2.363,03km2, dân số 961.638 người, tỉnh lỵ là thị xã Trà Vinh.
4. Chia tỉnh Hà Nam Ninh thành hai tỉnh, lấy tên là tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình.
Tỉnh Nam Hà có 13 đơn vị hành chính gồm: Thành phố Nam Định, thị xã Hà Nam và 11 huyện, có diện tích tự nhiên 2.423,59km2, dân số 2.435.995 người, tỉnh lỵ là thành phố Nam Định.
Tỉnh Ninh Bình có 7 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Ninh Bình, thị xã Tam Điệp và 5 huyện, có diện tích tự nhiên 1.386,77km2, dân số 787.877 người, tỉnh lỵ là thị xã Ninh Bình.
Kiểm điểm lại ba đợt chia tỉnh từ năm 1989 đến 1991 cho thấy: Chủ trương điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh phần lớn là đúng, nhiều tỉnh sau khi chia có quy mô hợp lý hơn, tạo điều kiện thuận lợi trong sự lãnh đạo và quản lý. Nhưng, cũng có một số tỉnh lại gặp không ít khó khăn do quy mô tỉnh mới quá nhỏ và có tỉnh lại rất thiếu cán bộ quản lý. Cơ sở vật chất và phương tiện làm việc rất khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng công tác. Trong khi chờ Hội đồng Bộ trưởng tổng kết và đánh giá việc điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố ba năm qua, ngày 15-4-1992, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội thông qua nghị quyết giữ nguyên địa giới hành chính của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để ổn định tình hình và tổ chức hành chính, tập trung sức thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước cũng như ở địa phương.
5. Mở rộng hoạt động đối ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng và Nhà nước, trong nhiệm kỳ 5 năm của khóa VIII, Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã chủ động, tích cực triển khai có hiệu quả các hoạt động đối ngoại trên nhiều hướng, từng bước cải thiện mối quan hệ với các nước láng giềng và nhiều nước khác trên thế giới, góp phần từng bước tạo ra điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Với mong muốn mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi vì hòa bình và phát triển, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Nghị quyết về một số vấn đề quốc tế và hoạt động đối ngoại của Nhà nước. Quốc hội tán thành hoạt động đối ngoại của Hội đồng Bộ trưởng nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng; đồng thời khẳng định, những hoạt động đối ngoại của Hội đồng Bộ trưởng trong thời gian qua đã góp phần quan trọng củng cố quan hệ giữa nước ta với Liên Xô, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Cộng hòa dân chủ nhân dân Campuchia và các nước anh em bè bạn trên thế giới.
Thực hiện nghị quyết của Quốc hội, hoạt động đối ngoại của Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng có sự chuyển hướng, chú trọng đến quan hệ với các nước láng giềng và châu Á. Một sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đó là ngày 6-1-1989, trong diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm 10 năm ngày giải phóng Phnôm Pênh cùng với tuyên bố sẽ rút hết quân tình nguyện Việt Nam còn lại ở Campuchia về nước vào tháng 9-1989 (trước thời hạn dự định 1 năm), Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nêu rõ: Việt Nam chân thành mong muốn mở ra một trang sử mới trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương, xây dựng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực vì một Đông Nam Á hòa bình, ổn định và hợp tác, không ngừng phấn đấu để sớm bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Quốc hội hoan nghênh việc rút quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước trong năm 1988, coi đó là đóng góp quan trọng vào việc giải quyết bằng chính trị vấn đề Campuchia vì hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á. Sau sự kiện chính trị này, quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng đã có sự cải thiện theo chiều hướng hoà bình, hữu nghị, thân thiện và hợp tác.
Đối với Campuchia, sau chuyến thăm của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm, hai bên đã ra Thông cáo chung nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa quan hệ truyền thống Việt Nam - Campuchia lên giai đoạn phát triển mới, nhằm xây dựng mối quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện giữa hai nước trên cơ sở các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực, giải quyết mọi vấn đề trong quan hệ giữa hai nước bằng con đường hòa bình, hợp tác, bình đẳng, cùng tồn tại hòa bình.
Đối với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào: Với chủ trương tăng cường mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước, ngày 11-11-1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Ban hợp tác với Lào thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng để giúp Bộ Chính trị và Ban Bí thư hoạch định chủ trương và chỉ đạo các quan hệ giữa Đảng và Nhà nước Việt Nam với Đảng, Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Sau đó, Chính phủ hai nước Việt Nam và Lào đã ký Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật trong những năm 1992-1995 và thỏa thuận về quá cảnh hàng hóa xuất, nhập khẩu của Lào.
Đối với Trung Quốc: Sau hơn 10 năm gián đoạn quan hệ, nhận lời mời của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng, trong hai ngày 3 và 4-91990, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng đã đến Thành Đô (tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) dự cuộc gặp đầu tiên giữa lãnh đạo cấp cao của hai nước. Hai bên trao đổi ý kiến và thỏa thuận cùng với việc giải quyết hợp lý vấn đề Campuchia, từng bước cải thiện quan hệ giữa hai nước, tiến tới bình thường hóa hoàn toàn. Tiếp theo cuộc gặp cấp cao Thành Đô, nhận lời mời của Chính phủ Trung Quốc, tháng 9-1991, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thăm Trung Quốc và tiến hành hội đàm với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham về vấn đề bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, chuẩn bị cho cuộc gặp cấp cao hai nước vào tháng 11-1991. Hai bộ trưởng thỏa thuận sớm khôi phục các quan hệ kinh tế, thương mại, hàng không, hàng hải, bưu điện và một số biện pháp nhằm đẩy nhanh quá trình bình thường hóa.
Trước những thay đổi lớn của tình hình thế giới, cùng với các chuyến thăm và làm việc của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII, Quốc hội, Hội đồng Nhà nước và các ủy ban thường trực của Quốc hội đã tổ chức nhiều đoàn đại biểu đi thăm Quốc hội các nước và đón tiếp các đoàn đại biểu Quốc hội các nước đến thăm chính thức Việt Nam.
Nhận lời mời của Quốc hội nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ, từ ngày 5 đến ngày 10-9-1987, Đoàn đại biểu Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo dẫn đầu thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ. Tại cuộc hội đàm giữa hai đoàn đại biểu Quốc hội, ta đã tranh thủ thông báo với bạn những nét lớn về chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, chú trọng giải thích chủ trương đấu tranh về vấn đề Campuchia và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Chuyến thăm hữu nghị của Đoàn đại biểu Quốc hội đã đạt kết quả tốt đẹp, góp phần tích cực vào việc tăng cường hơn nữa tình hữu nghị và sự hợp tác toàn diện giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Mông Cổ.
Tiếp đó, từ ngày 14 đến ngày 19-11-1987, Đoàn do Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo dẫn đầu đã thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa nhân dân Ba Lan. Qua hội đàm và các cuộc tiếp xúc, Đoàn đại biểu Quốc hội Ba Lan đã giới thiệu một số nét chính về những cải cách trong hoạt động và tổ chức của Quốc hội, đồng thời giới thiệu một số hình thức tổ chức hoạt động của Quốc hội để ta có thể tham khảo như mô hình Hội đồng kinh tế xã hội, Tòa án Hiến pháp, Tòa án quốc gia, Ủy ban bảo vệ quyền công dân... Về quan hệ hai nước, phía Ba Lan đánh giá rất cao quan hệ với Việt Nam và hoàn toàn ủng hộ chính sách đối ngoại và những sáng kiến của nhân dân ba nước Đông Dương về giải pháp cho vấn đề Campuchia, khẳng định mong muốn củng cố và phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với Việt Nam.
Đầu năm 1991, mặc dù bối cảnh tình hình Liên Xô có nhiều diễn biến phức tạp trong công cuộc cải tổ, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và chính trị đang rất gay gắt, từ ngày 27-3 đến ngày 3-4-1991, Đoàn đại biểu Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo dẫn đầu đã đi thăm Liên Xô, nhằm tiếp tục khẳng định và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác mọi mặt giữa hai nước và hai cơ quan lập pháp trong tình hình mới. Trong các cuộc gặp gỡ tiếp xúc, ngoài việc tập trung giới thiệu những thành tựu bước đầu đạt được và những khó khăn trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo đã nhấn mạnh việc coi trọng giữ vững ổn định chính trị, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng và khẳng định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua các cuộc gặp gỡ trao đổi ý kiến ở Mátxcơva và ở Bêlarút, hai bên đã tăng cường được sự hiểu biết lẫn nhau, củng cố thêm sự đoàn kết nhất trí giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước. Hai bên cũng nhấn mạnh sự quyết tâm tiếp tục đi theo con đường đổi mới và cải tổ theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân.
Sau chuyến thăm Liên Xô, từ ngày 3 đến ngày 7-4 -1991, đoàn đã đi thăm hữu nghị chính thức Rumani. Đây là đoàn cấp cao đầu tiên của ta thăm Rumani từ sau khi Rumani thay đổi thể chế. Trong thời gian ở thăm Rumani, Chủ tịch Lê Quang Đạo và đoàn Quốc hội đã có các cuộc tiếp xúc với Chủ tịch Thượng nghị viện Alêxanđru Birladêanu, Chủ tịch Hạ viện Dan Macstian, Thủ tướng Pêtrê Rôman, với Chủ tịch và Phó Chủ tịch các Ủy ban soạn thảo Hiến pháp và Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Rumani. Chuyến thăm ngắn, nhưng hai bên đều công nhận đây là một dịp tốt để hiểu rõ hơn tình hình của nhau. Hai bên cùng mong muốn tiếp tục tăng cường quan hệ các mặt và tăng cường gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động lập pháp.
Ngoài các chuyến thăm cấp cao của Chủ tịch Quốc hội còn có nhiều đoàn công tác của Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, như Đoàn do Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Nguyễn Hữu Thọ dẫn đầu đi dự Hội nghị cấp cao các nước có sử dụng tiếng Pháp tại Quêbéc (Canađa); Đoàn đại biểu do Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Thị Bình làm Trưởng đoàn thăm hữu nghị Nhật Bản; Đoàn đại biểu cấp cao Nhà nước do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công dẫn đầu đi dự lễ kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 40 nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên và thăm hữu nghị chính thức Liên Xô; Đoàn do Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước, đặc phái viên của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Nguyễn Việt Dũng dẫn đầu đi dự lễ kỷ niệm lần thứ 25 ngày Quốc khánh nước Cộng hòa Nhân dân Cônggô; Đoàn do Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Nguyễn Ngọc Hà dẫn đầu đi dự Hội nghị quốc tế hợp tác vì hòa bình, an ninh và phát triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương tại Niu Đêli (Ấn Độ) và dự Hội nghị tư vấn các Đoàn Liên minh Quốc hội các nước xã hội chủ nghĩa tại La Habana; Đoàn đại biểu Quốc hội do Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Ngọc Phượng dẫn đầu đi dự Hội nghị các nữ nghị sĩ châu Á về dân số và vai trò phụ nữ tại Niu Đêli (Ấn Độ), đồng thời dự Hội nghị các nghị sĩ châu Á về dân số và phát triển tại Băng Cốc (Thái Lan); Đoàn do Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Ngô Bá Thành làm Trưởng đoàn đi bảo vệ báo cáo quốc gia về Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị tại khóa họp 39 của Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc tại Giơnevơ và tham dự lễ kỷ niệm lần thứ 25 các tổ chức quần chúng chống chiến tranh Việt Nam tại Niu Óoc (Mỹ), dự Hội nghị về quyền trẻ em tại Băng Cốc (Thái Lan)...
Trong nhiệm kỳ 5 năm của khóa VIII, Quốc hội, Hội đồng Nhà nước và các cơ quan của Quốc hội cũng đón tiếp và làm việc với nhiều đoàn đại biểu Quốc hội các nước, như Đoàn đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa nhân dân Hunggari do Chủ tịch Quốc hội Sáclốt Ixtôvan dẫn đầu thăm hữu nghị chính thức nước ta (từ ngày 24 đến 26-11-1987); Đoàn Ủy ban Đối ngoại Xôviết tối cao Liên Xô do Thư ký Ủy ban Đối ngoại Trécvônencô làm Trưởng đoàn thăm nước ta (từ ngày 1 đến 9 -12 -1987); Đoàn đại biểu của Ủy ban Dân tộc và Ủy ban Văn hóa giáo dục của Quốc hội Campuchia do Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Ủy viên Ủy ban Dân tộc của Quốc hội Campuchia Xôikeo làm Trưởng đoàn sang thăm và trao đổi kinh nghiệm với Hội đồng Dân tộc và Ủy ban Văn hóa giáo dục của Quốc hội (từ ngày 13 đến 20-10-1987); Tổng thống nước Cộng hòa Ấn Độ R.Vencataraman (từ ngày 24 đến 28-4-1991); Đoàn đại biểu Nhà nước và Chính phủ Cộng hòa nhân dân Triều Tiên do Phó Chủ tịch nước Ri Chong Oc dẫn đầu (từ ngày 27-4 đến 2-5-1991); Đoàn đại biểu Hội đồng nhân dân tối cao của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; Đoàn nghị sĩ Quốc hội EEC; Đoàn Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Hạ viện Philíppin; Đoàn nghị sĩ Liên bang Thụy Sĩ; Đoàn Nhà nước Mông Cổ; Đoàn các nghị sĩ và Hội hữu nghị Phần Lan - Việt Nam...
Các chuyến viếng thăm của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Quốc hội và các ủy ban của Quốc hội đến các nước và các đoàn cấp cao các nước đến thăm Việt Nam đã có tác dụng tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, mở rộng sự giao lưu và hợp tác về các vấn đề đối nội, đối ngoại, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Sở dĩ có được kết quả trong hoạt động đối ngoại nêu trên là do chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước được đề ra đúng lúc, vận dụng kịp thời và triển khai có hiệu quả, đã nâng cao uy tín và vị trí quốc tế của Việt Nam, từng bước tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
6. Chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội khóa IX
Theo quy định tại Điều 84 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1980, nhiệm kỳ của Quốc hội khoá VIII sẽ kết thúc vào tháng 6-1992 và hai tháng trước khi kết thúc nhiệm kỳ phải tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khoá mới. Nhưng, trước yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, để cử tri cả nước phát huy dân chủ lựa chọn bầu được những đại biểu có đủ phẩm chất, năng lực hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, cần phải sửa đổi, bổ sung Luật bầu cử đại biểu Quốc hội.
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội là văn bản quan trọng cần phải được chuẩn bị kỹ và Quốc hội sẽ thông qua cùng Hiến pháp (sửa đổi) và Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi) vào kỳ họp cuối của nhiệm kỳ khóa VIII. Vì vậy, việc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá IX không thể tiến hành vào tháng 4-1992, vì theo luật định ngày bầu cử phải được Hội đồng Nhà nước ấn định và công bố chậm nhất là 60 ngày trước ngày bầu cử.
Với lý do nêu trên, ngày 11-12-1991, Hội đồng Nhà nước đã trình Quốc hội xem xét, quyết định việc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội khóa VIII thêm hai tháng và ấn định ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khoá IX sẽ được tổ chức vào ngày chủ nhật 28-6-1992.
Để có điều kiện và thời gian chuẩn bị tốt dự thảo Hiến pháp sửa đổi, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và bảo đảm tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá IX, ngày 26-12-1991, theo đề nghị của Hội đồng Nhà nước, Quốc hội khoá VIII đã thông qua Nghị quyết về việc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội khoá VIII thêm ba tháng, chậm nhất đến ngày 30-9-1992.
Hiến pháp (sửa đổi), Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi) và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa VIII thông qua tại kỳ họp thứ 11 và có hiệu lực kể từ ngày công bố. Để bảo đảm thi hành Hiến pháp 1992, Quốc hội giao cho Hội đồng Nhà nước trước mắt phải tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa IX.
Căn cứ vào Điều 91 của Hiến pháp 1992 và Điều 12 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, ngày 17-4-1992, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Nghị quyết số 558-NQ/HĐNN8 về việc tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa IX vào ngày chủ nhật 19-7-1992 và thành lập Hội đồng bầu cử để phụ trách tổ chức việc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá IX trong cả nước.
Tiếp đó, ngày 2-5-1992, Hội đồng Nhà nước ban hành Nghị quyết số 566NQ/HĐNN8 về việc phê chuẩn tổng số đại biểu Quốc hội khóa IX là 395 người. Tổng số đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội khoá IX trong cả nước là 158 đơn vị; đồng thời phê chuẩn danh sách các đơn vị bầu cử và số đại biểu của mỗi đơn vị bầu cử ở từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa IX được tiến hành thực sự dân chủ, đúng pháp luật, ngày 31-3-1992, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 09-CT/TW về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa IX. Theo yêu cầu của Bộ Chính trị, cuộc bầu cử phải thể hiện tinh thần đổi mới, phải bầu được một Quốc hội xứng đáng là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có năng lực làm tròn nhiệm vụ đã được Hiến pháp quy định, góp phần tích cực vào việc tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ bằng nhà nước của nhân dân, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng.
Thực hiện kế hoạch bầu cử của Hội đồng Nhà nước, các cấp ủy đảng đã tăng cường công tác lãnh đạo quá trình chuẩn bị bầu cử và tiến hành bầu cử, nhân dân cả nước đã sôi nổi hưởng ứng, sáng suốt lựa chọn người đại diện của mình tham gia nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX.
*
* *
Quốc hội khóa VIII được bầu ra và hoạt động trong giai đoạn bước ngoặt của đất nước, bắt đầu từ khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu để thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra, nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ quốc tế, đưa đất nước sớm ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vững bước tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc, phức tạp; đất nước phải đương đầu với nhiều khó khăn, thử thách gay gắt, Quốc hội khóa VIII đã từng bước đổi mới trên mọi mặt hoạt động và đã bước đầu có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới chung của đất nước. Kết quả nổi bật nhất của Quốc hội khóa VIII trong toàn nhiệm kỳ là đã hoạt động thực chất và dân chủ, điều đó được thể hiện trên các lĩnh vực hoạt động, nhưng nhiều nhất và rõ nét nhất là trong công tác xây dựng pháp luật.
Với số lượng lớn luật, pháp lệnh được ban hành trong nhiệm kỳ, chứng tỏ Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã có sự nỗ lực lớn trong việc tăng cường công
tác lập pháp để phục vụ các yêu cầu bức thiết quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội nghĩa. Nếu như nhiệm kỳ Quốc hội khóa VII, các luật, pháp lệnh được ban hành chủ yếu là quy định về tổ chức bộ máy nhà nước, thì trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII, nội dung đề cập toàn diện hơn, nhiều luật và pháp lệnh quan trọng về kinh tế như: Luật đất đai, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty; Pháp lệnh về Hợp đồng kinh tế, về ngân hàng... đã được ban hành để phục vụ việc thực hiện một cơ cấu kinh tế mới và cơ chế quản lý kinh tế mới, kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, góp phần phát huy mọi năng lực sản xuất, huy động mọi tiềm năng của đất nước và đầu tư nước ngoài vào việc phát triển kinh tế.
Ngoài ra, Quốc hội và Hội đồng Nhà nước cũng tập trung xem xét, thẩm tra và ban hành nhiều luật, pháp lệnh phục vụ cho việc đổi mới trên lĩnh vực chính trị. Việc ban hành Luật công đoàn, Luật báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân... đã nói lên sự đổi mới về nhận thức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan thường trực của Quốc hội, của Hội đồng Bộ trưởng, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cấp đối với công tác xây dựng pháp luật.
Cùng với việc ban hành các luật, pháp lệnh, tại kỳ họp thứ 5 (6-1989), Quốc hội khóa VIII đã thông qua Nghị quyết thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp 1980 một cách cơ bản và toàn diện, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Kế thừa và phát triển các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp sửa đổi đã thể hiện đầy đủ ý chí và nguyện vọng của toàn dân, thể chế hóa đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, những nội dung chủ yếu của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đến năm 2000 do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đề ra. Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khoá VIII xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 11 năm 1992. Việc ban hành Hiến pháp 1992 là cơ sở pháp lý cơ bản nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới.
Trong việc thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban thường trực của Quốc hội, các đoàn đại biểu và các đại biểu Quốc hội đã có nhiều cố gắng, quan tâm đến những vấn đề nóng bỏng cấp bách về kinh tế - xã hội và thi hành pháp luật, nhằm nâng cao vai trò của Quốc hội, từng bước vươn lên thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân. Trong nhiệm kỳ, ngoài việc thảo luận, ra nghị quyết về các nhiệm vụ kinh tế -xã hội và ngân sách nhà nước, Quốc hội đã xem xét quyết định việc sáp nhập các bộ và thay đổi, bổ sung nhân sự cấp cao của Nhà nước. So với các nhiệm kỳ trước, cách bàn bạc và biểu quyết của Quốc hội khoá VIII dân chủ và cởi mở hơn, thể hiện được trách nhiệm của Quốc hội và đại biểu Quốc hội với cử tri cả nước.
Có thể nói, trong nhiệm kỳ 5 năm hoạt động, trên cơ sở phát huy những ưu điểm của các khoá Quốc hội trước, khắc phục những nhược điểm còn tồn tại, Quốc hội khoá VIII đã ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng là cơ quan đại diện dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Kết quả đáng ghi nhận của Quốc hội khoá VIII, trước hết là do có sự đổi mới về sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội; sự nỗ lực làm việc của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban thường trực của Quốc hội và của toàn thể đại biểu Quốc hội. Đặc biệt, đó còn là kết quả của sự cộng tác và phối hợp chặt chẽ với tinh thần cộng đồng trách nhiệm giữa Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, với các bộ, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Điều đáng chú ý là trong nhiệm kỳ này, Hội đồng Bộ trưởng đã có trách nhiệm cao hơn, thể hiện qua các báo cáo trước Quốc hội và việc trả lời nghiêm túc, có trách nhiệm của các thành viên của Hội đồng Bộ trưởng đối với chất vấn của đại biểu Quốc hội.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chỉ là tiến bộ bước đầu, trong báo cáo tổng kết nhiệm kỳ, Quốc hội tự kiểm điểm nhận thấy còn nhiều thiếu sót và hạn chế, nhất là những vấn đề về công tác quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại của Nhà nước chưa được Quốc hội xem xét, quyết định, mặc dù đây là những vấn đề đã được Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước quy định. Công tác giám sát mới chỉ dừng ở mức độ phát hiện, phân tích vấn đề rồi động viên, đôn đốc và nhắc nhở các ngành, địa phương quan tâm giải quyết. Nhiều nghị quyết của Quốc hội về các vấn đề kinh tế - xã hội mới chỉ dừng lại ở những nhận xét, đánh giá chung mà chưa nêu ra được giải pháp thiết thực để góp phần tháo gỡ khó khăn, bế tắc và khắc phục những tồn tại kéo dài. Nhiều vấn đề cấp bách liên quan đến văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội hoặc chính sách dân tộc, thi hành pháp luật... được nhân dân quan tâm nhưng chưa được đặt ra thành các chuyên đề để Quốc hội thảo luận và quyết định, làm cho một số nghị quyết của Quốc hội về những vấn đề nói trên không đem lại hiệu quả thiết thực.
Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do tổ chức Quốc hội chưa phù hợp và chưa đủ mạnh, nhận thức về vị trí, vai trò của Quốc hội và các cơ quan thường trực của Quốc hội chưa được quán triệt đầy đủ trong các ngành, các cấp và các cán bộ có trách nhiệm, dẫn đến tình trạng các nghị quyết của Quốc hội, các quyết định, kết luận của Hội đồng Nhà nước, các kiến nghị của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban thường trực của Quốc hội chưa được thực hiện nghiêm túc. Cơ chế làm việc và mối quan hệ công tác giữa Quốc hội với Đảng, Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban thường trực với Hội đồng Bộ trưởng và các cơ quan nhà nước khác chưa được quy định cụ thể, rõ ràng.
Mặc dù vẫn còn những hạn chế, song những kết quả đạt được của Quốc hội khóa VIII đã tạo tiền đề để Quốc hội khóa IX tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn, nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xứng đáng với lòng tin và sự mong đợi của nhân dân.
[1] Thuyết trình của Ủy ban Kinh tế, Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội do ông Nguyễn Hòa, quyền Chủ nhiệm Ủy ban trình bày tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa VIII, ngày 1012-1991: Tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 3,2% so với kế hoạch 4,3%. Thu nhập quốc dân sản xuất chỉ tăng 2,3% so với kế hoạch 4,5%. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp chỉ tăng 1,1% so với kế hoạch 3,1%. Chỉ riêng giá trị tổng sản lượng công nghiệp vượt kế hoạch, tăng 5,3% so với kế hoạch 4,7%...
[2] Danh sách ứng cử viên gồm hai đồng chí là Đỗ Mười và Võ Chí Công. Sau khi đồng chí Đỗ Mười được bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 9-8-1991 Quốc hội đã bầu đồng chí Võ Văn Kiệt giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
[3] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Văn kiện Quốc hội toàn tập, Sđd, t. 7, q. 3, tr. 193.
[4] Ủy ban thẩm tra phương án điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố được thành lập theo Nghị quyết số 444 NQ/HĐNN8, ngày 01-7-1991 của Hội đồng Nhà nước, gồm bảy thành viên do Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo làm Chủ nhiệm Ủy ban. Ủy ban có nhiệm vụ thẩm tra dự án của Hội đồng Bộ trưởng để trình Quốc hội về quy mô phân vạch địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ủy ban hết nhiệm vụ sau khi Quốc hội quyết định xong việc phân vạch địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố.