VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 4 1996-1997


BÁO CÁO THẨM TRA CỦA ỦY BAN PHÁP LUẬT CỦA QUỐC HỘI VỀ DỰ ÁN LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ QUY ĐỊNH CÁC TỘI VỀ THAM NHŨNG, MA TÚY, TỘI PHẠM VỀ TÌNH DỤC ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

(Do ông Vũ Đức Khiển, Phó Chủ nhiệm Ủy ban
pháp luật của Quốc hội đọc tại kỳ họp thứ 11,
Quốc hội khoá IX, ngày 07-4-1997)

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Thực hiện chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội, ngày 12 và ngày 13 tháng 3 năm 1997, Ủy ban pháp luật đã họp phiên toàn thể để thẩm tra Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự quy định các tội về tham nhũng, ma túy, xâm phạm tình dục đối với người chưa thành niên, theo Tờ trình số 1136/PC ngày 12 tháng 3 năm 1997 của Chính phủ. Tham gia phiên họp có đại diện của các cơ quan: Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Ủy ban Dân tộc và Miền núi, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Luật gia Việt Nam. Sau khi nghe đại diện của Chính phủ trình bày về Dự án Luật, đại diện các cơ quan phát biểu ý kiến, các thành viên của Ủy ban pháp luật đã thảo luận về Dự án Luật. Chúng tôi xin báo cáo ý kiến của Ủy ban về Dự án Luật này như sau:

I- SỰ CẦN THIẾT PHẢI SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ

Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua năm 1985 đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm ở nước ta. Kể từ ngày ban hành đến tháng 12-1992, Bộ luật hình sự đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung ba lần. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng Bộ luật hình sự để phục vụ cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, bên cạnh những kết quả đã đạt được còn có nhiều vấn đề mới phát sinh trong đấu tranh phòng và chống tội phạm cần phải được giải quyết. Tại phiên họp thứ 52 của Ủy ban thường vụ Quốc hội tháng 01 năm 1997, Chính phủ đã trình Dự án sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự. Sau khi thảo luận, Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự là rất cần thiết, song đòi hỏi phải có thời gian. Do đó, khó có thể chuẩn bị kịp để trình Quốc hội xem xét, thông qua ngay tại kỳ họp thứ 11 này. Căn cứ vào ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, để kịp thời phục vụ cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống các tệ nạn xã hội, tại phiên họp thứ 53 của Ủy ban thường vụ Quốc hội tháng 02 năm 1997, Chính phủ đã trình Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự với phạm vi giới hạn trong một số điều quy định các tội về tham nhũng, ma túy, xâm phạm tình dục đối với người chưa thành niên. Sau khi Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến, Chính phủ đã chỉnh lý Dự án Luật để trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Qua thảo luận tại phiên họp, các thành viên Ủy ban pháp luật tán thành với nhận định của Chính phủ là “một số tội phạm liên quan đến tham nhũng, ma túy, các tội phạm về tình dục đối với người chưa thành niên đang có nguy cơ phát triển, gây tác hại nghiêm trọng về nhiều mặt trong đời sống kinh tế - xã hội” và thấy rằng, để đấu tranh chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác đòi hỏi phải có các biện pháp kiên quyết, tổng hợp và đồng bộ. Một trong những biện pháp đó là cần khẩn trương rà soát các văn bản pháp luật về kinh tế, hành chính, hình sự..., để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, góp phần phục vụ đắc lực và kịp thời cuộc đấu tranh này. Với tinh thần đó, Ủy ban pháp luật của Quốc hội nhất trí với đề nghị của Chính phủ về sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự để làm căn cứ pháp lý cho việc xử lý nghiêm minh và đấu tranh có hiệu quả hơn đối với các tội phạm về tham nhũng, ma túy, xâm phạm tình dục đối với người chưa thành niên. Đồng thời, chúng tôi cũng đề nghị cơ quan soạn thảo, trong việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự lần này cần lưu ý đến yêu cầu của việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự sắp tới; coi đây là bước đi cần thiết, trong khi chưa có điều kiện sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự.

II- VỀ NỘI DUNG CỦA DỰ ÁN LUẬT

Ủy ban pháp luật nhận thấy Dự án Luật đã thể hiện theo hướng: tăng mức hình phạt đối với các tội về tham nhũng và tệ nạn xã hội khác, tách các hành vi phạm tội được quy định tại một số điều, khoản của Bộ luật hình sự hiện hành và bổ sung thêm những hành vi mới để quy định thành những tội riêng, bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng hình phạt; tăng thêm số khung hình phạt, cá thể hóa hình phạt; sửa đổi, bổ sung các điều, khoản về hình phạt bổ sung có liên quan và bỏ hình phạt cải tạo không giam giữ đối với những điều luật được sửa đổi, bổ sung lần này. Qua thảo luận, chúng tôi nhất trí với nhiều nội dung của Dự án Luật, nhất là các nội dung quy định về tội phạm xâm phạm tình dục đối với người chưa thành niên. Tuy nhiên, về một số điều luật cụ thể cũng còn có nhiều ý kiến cho rằng Dự án Luật cần được tiếp tục chỉnh lý cho phù hợp hơn với tình hình kinh tế - xã hội và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Sau đây, chúng tôi xin báo cáo với Quốc hội những ý kiến của Ủy ban về một số vấn đề của Dự án Luật.

1- Về vấn đề bổ sung nội dung “người phạm tội có chức vụ cao” làm tình tiết định khung hình phạt trong một số tội về tham nhũng:

Điều 1 của Dự án Luật quy định sửa đổi, bổ sung 12 điều bao gồm các Điều 133, 134a, 137a, 156, 175a, 221, 221a, 224, 226, 227a, 228a và 228b. Trong tất cả các điều luật này đều có quy định tại khoản 2, điểm b với nội dung “người phạm tội có chức vụ cao” là tình tiết định khung hình phạt theo hướng tăng nặng đối với người phạm tội (khung 2).

Chúng tôi nhận thấy, về đường lối xử lý, nếu cùng một hành vi phạm tội với tính chất và mức độ như nhau thì “người có chức vụ cao” mà lợi dụng chức vụ đó để phạm tội, nhất là phạm tội về tham nhũng, cần phải bị xử lý nghiêm khắc hơn là hợp lý. Tuy nhiên, việc xác định mức độ xử lý nghiêm khắc hơn đến đâu thì cần phải được cân nhắc thêm. Theo chúng tôi, nếu chỉ căn cứ vào yếu tố nhân thân là “người phạm tội có chức vụ cao” để quy định làm tình tiết định khung hình phạt nặng hơn là chưa thỏa đáng. Bởi lẽ, một người có hành vi phạm vào một trong các điều luật được quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự thì khi áp dụng hình phạt đối với người đó, Tòa án không chỉ căn cứ vào yếu tố nhân thân của người phạm tội mà còn căn cứ vào tất cả các yếu tố khác đã được quy định ở phần chung của Bộ luật hình sự như: phải nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, khoan hồng đối với người tự thú, thật thà khai báo (Điều 3); phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội (Điều 37); phải xem xét những tình tiết giảm nhẹ (Điều 38), những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 39), v.v.. Quy định như trong Dự án Luật thì người phạm tội chỉ cần có một yếu tố nhân thân là “người có chức vụ cao” đã bị Tòa án áp dụng ngay hình phạt ở khung 2, mà không cần phải xem xét các yếu tố khác. Như vậy, sẽ không phù hợp với các nguyên tắc quyết định hình phạt quy định tại phần chung của Bộ luật hình sự hiện hành và không bảo đảm tính công bằng khi áp dụng luật trong xét xử. Mặt khác, khái niệm “người có chức vụ cao” chưa được xác định rõ. Vì vậy, Ủy ban pháp luật cho rằng để bảo đảm tính thống nhất trong cả Bộ luật, đồng thời, để tránh khó khăn trong việc áp dụng luật thì không nên quy định tình tiết “người phạm tội có chức vụ cao” làm tình tiết định khung tăng nặng trong các điều luật nêu trên. Trong trường hợp cùng một hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội về tham nhũng, với tính chất và mức độ như nhau thì “người có chức vụ cao” mà lợi dụng chức vụ đó để phạm tội cần phải bị xử lý nghiêm khắc hơn, cụ thể là áp dụng mức án cao trong khung hình phạt là thỏa đáng. Với cách đặt vấn đề như vậy, chúng tôi đề nghị quy định bổ sung thêm một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ở Điều 39 thuộc phần chung của Bộ luật hình sự là người phạm tội có chức vụ cao mà lợi dụng chức vụ đó để phạm tội.

2- Về vấn đề bổ sung tội sử dụng tài sản xã hội chủ nghĩa để đưa hối hộ (Điều 227a) và bổ sung tình tiết khung tăng nặng hình phạt “nhận của hối lộ mà biết rõ là tài sản xã hội chủ nghĩa” (điểm đ khoản 2 Điều 226):

Chúng tôi nhận thấy, việc đưa hối lộ bằng tài sản xã hội chủ nghĩa là hành vi nguy hiểm, khá phổ biến hiện nay, làm thất thoát lớn về tài sản và làm hư hỏng một bộ phận không ít cán bộ, công chức, gây bất bình trong nhân dân. Do đó, cần phải kiên quyết xử lý và áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn đối với cả người đưa và người nhận hối lộ mà của hối lộ là tài sản xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, quy định vấn đề này như thế nào trong Bộ luật hình sự thì cần phải xem xét kỹ hơn.

Theo chúng tôi, các hành vi đưa, môi giới và nhận hối lộ đều là những hành vi nguy hiểm cho xã hội và thường có mối quan hệ với nhau. Bởi vậy, trong Bộ luật hình sự hiện hành đã quy định tại các Điều 226, 227 về 3 tội danh: “tội nhận hối lộ”, “tội đưa hối lộ” và “tội làm môi giới hối lộ”. Trong đó tại điểm e, khoản 2 Điều 227 đã quy định “sử dụng công quỹ để đưa hối lộ” là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt. Nay Dự án Luật đã quy định tình tiết này thành một tội riêng ở Điều 227a (mới) là tội sử dụng tài sản xã hội chủ nghĩa để đưa hối lộ; đồng thời quy định bổ sung tình tiết “nhận của hối lộ mà biết rõ là tài sản xã hội chủ nghĩa” làm tình tiết định khung tăng nặng hình phạt ở điểm đ khoản 2 Điều 226. Chúng tôi cho rằng, nếu quy định bổ sung hành vi sử dụng tài sản xã hội chủ nghĩa để đưa hối lộ thành tội danh độc lập thì cũng cần quy định bổ sung thành tội danh độc lập đối với các hành vi của người nhận, người môi giới hối lộ trong trường hợp biết được tài sản dùng để hối lộ là tài sản xã hội chủ nghĩa. Có như vậy mới bảo đảm sự thống nhất và tính nhất quán trong các điều của Bộ luật hình sự. Do đó, đa số thành viên Ủy ban chúng tôi đề nghị không nên tách riêng điểm e khoản 2 Điều 227 nêu trên để quy định bổ sung thành một tội độc lập là tội sử dụng tài sản xã hội chủ nghĩa để đưa hối lộ (Điều 227a) như trong Dự án Luật. Đối với trường hợp đưa, làm môi giới, nhận hối lộ mà biết rõ của hối lộ là tài sản xã hội chủ nghĩa thì phải quy định đó là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt trong các điều luật tương ứng.

3- Về vấn đề bổ sung tội nhận tài sản có giá trị lớn dưới dạng quà biếu liên quan đến công tác (Điều 228b):

Tại khoản 12 Điều 1 của Dự án Luật quy định bổ sung Điều 228b về tội nhận tài sản có giá trị lớn dưới dạng quà biếu liên quan đến công tác.

Qua thảo luận, chúng tôi nhận thấy trong truyền thống và tập quán của nhân dân ta, có không ít trường hợp việc tặng và nhận quà biếu mang ý nghĩa tích cực, nhất là trong các trường hợp thể hiện đạo lý đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn. Bên cạnh đó, hiện nay, có một hiện tượng khá phổ biến là người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng danh nghĩa quà biếu để nhận tài sản có giá trị lớn, gây dư luận bất bình trong nhân dân và ảnh hưởng xấu đến uy tín của cơ quan nhà nước. Do đó, ý kiến của các đại biểu dự phiên họp của Ủy ban pháp luật đều thống nhất về quan điểm là cần kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm đối với những người có hành vi này. Tuy nhiên, về biện pháp cụ thể để ngăn chặn và xử lý thì còn có hai loại ý kiến khác nhau:

Một số ý kiến cho rằng, trong tình hình tệ tham nhũng đang diễn biến phức tạp như hiện nay thì việc bổ sung tội danh nêu trên vào Bộ luật hình sự là cần thiết nhằm góp phần đấu tranh và ngăn chặn triệt để tệ nạn này.

Nhiều ý kiến khác lại phân vân về việc quy định thành một tội danh riêng đối với hành vi nhận tài sản có giá trị lớn dưới dạng quà biếu có liên quan đến công tác, bởi vì: xét về mặt pháp lý cũng như thực tiễn, khó có thể phân định được rạch ròi việc nhận quà biếu mang tính tham nhũng với việc nhận quà biếu thuần túy chỉ là quan hệ tình cảm tốt đẹp. Mặt khác, hành vi nhận tài sản có giá trị lớn dưới dạng quà biếu liên quan đến công tác của người có chức vụ, quyền hạn có dấu hiệu đặc trưng gần giống với tội nhận hối lộ quy định tại Điều 226 của Bộ luật hình sự hiện hành. Về bản chất, đây chính là hành vi nhận hối lội được che đậy dưới hình thức nhận quà biếu (loại hành vi này chỉ là một trong những hình thức tinh vi để thực hiện tội phạm nhận hối lộ). Bên cạnh đó, các khái niệm “tài sản có giá trị lớn”, “liên quan đến công tác” là những dấu hiệu trong cấu thành cơ bản của tội này cũng cần quy định rõ. Do đó, nếu bổ sung tội danh nêu trên không chặt chẽ thì sẽ gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật, tạo sơ hở cho việc có thể lợi dụng chuyển từ “tội nhận hối lộ” với hình phạt nặng (thậm chí tới mức tử hình) sang “tội nhận tài sản có giá trị lớn dưới dạng quà biếu liên quan đến công tác” với hình phạt nhẹ hơn (cao nhất là 12 năm tù) hoặc ngược lại. Vì thế, có thể mục đích của việc bổ sung tội danh này nhằm góp phần đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng lại không đạt được. Ngoài ra, về mặt hình sự nếu đặt vấn đề xử lý người nhận tài sản có giá trị lớn dưới dạng quà biếu liên quan đến công tác, thì cũng phải quy định những hành vi của người đưa, người môi giới việc đưa tài sản có giá trị lớn thành những tội phạm tương ứng. Như đã trình bày ở trên, thực tế cho thấy có những trường hợp quy định như vậy là không phù hợp. Bởi vậy, để đấu tranh ngăn chặn và xử lý một cách chính xác đối với hiện tượng đưa, nhận và môi giới việc đưa quà biếu là tài sản có giá trị lớn với động cơ tiêu cực thì cần phải áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp: xử lý kỷ luật, xử lý hành chính, xử lý hình sự; đối với những hành vi mà qua điều tra xác định được các dấu hiệu của tội phạm thì phải xử lý theo quy định về tội hối lộ.

4- Về vấn đề bổ sung tội trồng trái phép cây thuốc phiện hoặc cây khác có chứa chất ma túy (Điều 185a):

Điều 2 của Dự án Luật quy định bổ sung Điều 185a về tội trồng trái phép cây thuốc phiện hoặc cây khác có chứa chất ma túy. Về điều luật này, tại phiên họp thẩm tra của Ủy ban pháp luật có hai loại ý kiến như sau:

Đa số ý kiến của Ủy ban pháp luật cho rằng để đấu tranh đối với tội phạm về ma túy được triệt để và có hiệu quả hơn thì phải xử lý bằng biện pháp hình sự đối với những người trồng trái phép cây thuốc phiện hoặc cây khác có chứa chất ma túy. Tuy nhiên, hiện nay người trồng cây thuốc phiện hoặc cây khác có chứa chất ma túy phần lớn là đồng bào các dân tộc thiểu số có tập quán lâu đời trong việc trồng các loại cây này. Trong số đó có nhiều người không nhận thức đầy đủ về tính nguy hiểm cho xã hội cũng như những nguy hại do việc trồng cây thuốc phiện cho chính bản thân họ. Do đó, việc xử lý đối với người trồng cây thuốc phiện, đặc biệt là đối với người thuộc các dân tộc thiểu số cần phải được xem xét toàn diện về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội và có bước đi thích hợp để tránh việc xử lý tràn lan, sơ hở mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, Ủy ban pháp luật tán thành với quan điểm là trong giai đoạn hiện nay, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với loại hành vi này chỉ nên áp dụng đối với người đã được vận động, giáo dục, được Nhà nước hỗ trợ chuyển đổi cây trồng để ổn định đời sống và đã bị xử lý hành chính mà vẫn cố tình vi phạm.

Bên cạnh đó, cũng còn có ý kiến phân vân với tính khả thi của điều luật này và đề nghị cần tiến hành tổng kết việc thực hiện các chủ trương, biện pháp đã được đề ra trong Nghị quyết số 06 ngày 29 tháng 01 năm 1993 của Chính phủ về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy, đặc biệt là phải tổ chức điều tra cơ bản, phân tích đánh giá thực trạng việc trồng cây thuốc phiện hoặc cây khác có chứa chất ma túy ở Việt Nam, cũng như việc áp dụng các loại biện pháp giải quyết trên thực tế, từ đó mà xem xét việc có nên quy định một tội riêng đối với hành vi của người trồng trái phép cây thuốc phiện hoặc cây khác có chứa chất ma túy hay không. Theo ý kiến này thì trước mắt cần tiếp tục đẩy mạnh công tác vận động giáo dục, hỗ trợ chuyển giống cây trồng để tạo điều kiện cho đồng bào bảo đảm cuộc sống, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm khắc bằng biện pháp hành chính đối với hành vi trồng trái phép cây thuốc phiện hoặc cây khác có chứa chất ma túy. Còn đối với những người cố tình trồng cây thuốc phiện nhằm mục đích kinh doanh thì nên vận dụng xử lý theo Điều 185b về tội sản xuất trái phép chất ma túy. Cách xử lý này vẫn bảo đảm được sự nghiêm khắc của Nhà nước ta và không gây trở ngại gì nếu Nhà nước ta tham gia các công ước của Liên hợp quốc về kiểm soát ma túy, do vậy, ý kiến trên đây cho rằng chưa nên quy định bổ sung Điều 185a vào Bộ luật hình sự.

5- Về vấn đề quy định cụ thể yếu tố định lượng làm tình tiết định khung hình phạt trong một số tội phạm về ma túy:

Điều 2 của Dự án Luật sửa đổi, bổ sung 14 điều luật quy định các tội phạm về ma túy thì có 6 điều đã quy định số lượng cụ thể một số chất ma túy để làm tình tiết định khung hình phạt đối với người phạm tội như tại Điều 185b khoản 2 điểm d, khoản 3 điểm a, khoản 4 điểm a, khoản 5; Điều 185c khoản 2 điểm đ, khoản 3 điểm a, khoản 4 điểm a, khoản 5,...

Qua thảo luận, đa số ý kiến thành viên Ủy ban pháp luật tán thành với Dự thảo Luật và cho rằng mặc dù trên thực tế ma túy là tên gọi chung để chỉ hàng trăm chất gây nghiện khác nhau, nhưng cần phải quy định cụ thể ngay trong Luật về yếu tố định lượng đối với một số chất ma túy điển hình như: Hêrôin, côcain, bột côca, nhựa thuốc phiện làm tình tiết định khung hình phạt trong các tội phạm về ma túy, nhằm bảo đảm tính ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật, phát huy tính răn đe, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực này. Quy định như vậy cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, cũng còn có ý kiến băn khoăn cho rằng trong Bộ luật hình sự, các tội phạm về tham nhũng, tội phạm về kinh tế, v.v., cũng không có quy định cụ thể ngay trong điều luật về yếu tố định lượng để làm tình tiết định khung hình phạt. Hơn nữa, việc quy định số lượng cụ thể một số chất ma túy trong Dự án Luật có thể dẫn đến việc phải sửa đổi các điều luật đó, mỗi khi có sự thay đổi yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong từng giai đoạn, mà việc sửa đổi thường xuyên Bộ luật hình sự là vấn đề không đơn giản. Vì vậy, để bảo đảm tính thống nhất trong cả Bộ luật và đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm thì ý kiến này cho rằng không nên quy định cụ thể yếu tố định lượng ngay trong từng điều luật và cũng không nên giao cho các cơ quan bảo vệ pháp luật (Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ) quy định mà nên giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội, căn cứ vào đề nghị của các cơ quan nói trên, ra nghị quyết để quy định các yếu tố định lượng không chỉ đối với tội phạm về ma túy mà còn đối với cả tội phạm về tham nhũng và những tội phạm khác. Để có được những quy định này giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ pháp lý vững chắc khi áp dụng pháp luật thì Ban soạn thảo cần dự kiến định lượng cụ thể trong các tội về chiếm đoạt tài sản, về kinh tế, về ma túy, v.v. trình Quốc hội xem xét cho ý kiến.

6- Về vấn đề bổ sung tội sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185l):

Điều 2 của Dự án Luật quy định bổ sung Điều 185l về tội sử dụng trái phép chất ma túy. Qua thảo luận vấn đề này, trong Ủy ban chúng tôi có hai loại ý kiến như sau:

Có ý kiến đồng ý với việc xử lý bằng biện pháp hình sự đối với những người sử dụng trái phép chất ma túy sau khi đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, nhưng phải có sự phân hóa về tính chất, mức độ xử lý và đối với những đối tượng khác nhau, chẳng hạn người sinh sống ở đô thị, người sinh sống ở vùng các dân tộc thiểu số nơi còn có tập quán hút thuốc phiện, v.v..

Ý kiến chung của Ủy ban pháp luật cho rằng, người sử dụng trái phép chất ma túy là nạn nhân của tệ nạn xã hội. Hiện nay, tình trạng sử dụng trái phép chất ma túy khá phổ biến trong xã hội, kể cả một bộ phận thanh, thiếu niên và người cao tuổi. Nhiều người trong số họ không nhận thức đầy đủ tác hại của việc dùng ma túy trái phép đối với xã hội cũng như đối với chính bản thân họ. Việc tổ chức cai nghiện cho những người này là rất cần thiết nhưng cũng rất công phu, liên tục, đòi hỏi những khoản chi phí không nhỏ mà trong tình hình kinh tế hiện nay việc đáp ứng cũng còn có khó khăn. Dự án Luật quy định xử lý hình sự đối với người “đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc mà vẫn sử dụng trái phép chất ma túy” là khó có tính khả thi. Việc đưa ngay tội này vào luật hình sự có thể dẫn đến tình trạng vượt quá khả năng của các cơ quan bảo vệ pháp luật, nhất là những khó khăn trong việc phải mở rộng các nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam. Vì vậy, đối với những người sử dụng trái phép chất ma túy thì nên áp dụng các biện pháp vận động tuyên truyền, giáo dục, xử lý hành chính, trong đó đặc biệt chú trọng việc cung cấp đầy đủ những thông tin về nguy cơ mắc các bệnh hiểm nghèo cũng như những tác hại do việc sử dụng trái phép chất ma túy gây ra. Đồng thời, cần tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 06 ngày 29 tháng 01 năm 1993 của Chính phủ về công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy, chú ý khảo sát về số lượng người đang nghiện hút hiện nay, số lượng người đã được đi cai nghiện, số người tái nghiện, cũng như về nguyên nhân, điều kiện và biện pháp cụ thể giải quyết tình trạng này. Từ đó, mới có cơ sở cho việc xem xét trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và do đó, đề nghị chưa nên quy định bổ sung điều luật này.

7- Về vấn đề bổ sung tội pha trộn trái phép chất ma túy vào thức ăn, đồ uống, hút (Điều 185n):

Điều 2 của Dự án Luật quy định bổ sung Điều 185n về tội pha trộn trái phép chất ma túy vào thức ăn, đồ uống, hút.

Có ý kiến cho rằng loại hành vi này rất có khả năng xảy ra trong thực tế và nếu như vậy thì hết sức nguy hiểm, cần phải có biện pháp chủ động phòng ngừa, răn đe. Do đó, cần thiết phải bổ sung điều luật nêu trên.

Qua thảo luận, ý kiến chung của Ủy ban pháp luật cho rằng đây là vấn đề mới được nói đến trên các phương tiện thông tin đại chúng; các đồng chí có trách nhiệm ở Bộ Nội vụ cho biết trong thực tế vấn đề này cho đến nay chưa xác định chính xác là có xảy ra hay không. Cũng có ý kiến cho rằng, ma túy chỉ có thể gây nghiện thông qua việc hút, hít, tiêm, chích mà không thể gây nghiện qua con đường tiêu hóa được. Vì vậy, đề nghị Chính phủ giao cho cơ quan có trách nhiệm tiến hành khảo sát, điều tra thực tế diễn biến của hành vi này để có kết luận chính xác. Trên cơ sở đó mới có căn cứ để xem xét việc có nên quy định trong Bộ luật hình sự tội phạm này hay không. Mặt khác, nếu bổ sung ngay tội danh này vào trong Bộ luật thì có thể gây bất lợi cho một số hoạt động thu hút khách du lịch, các dịch vụ ăn uống cho người nước ngoài, huy động xuất khẩu thực phẩm... Do đó, chưa nên bổ sung tội danh nói trên vào Bộ luật hình sự trong lần sửa đổi, bổ sung này; trong trường hợp phát hiện được người có hành vi pha trộn trái phép chất ma túy vào thức ăn, đồ uống thì vẫn có thể xử lý hình sự về tội “tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

8- Về một số vấn đề khác:

a) Dự án Luật sửa đổi, bổ sung đã tách một số trường hợp phạm tội được quy định là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt tại một số điều của Bộ luật hình sự hiện hành để quy định thành các điều luật riêng. Về cơ bản quy định như vậy đã bảo đảm được yêu cầu của việc sửa đổi, bổ sung lần này là theo hướng xử lý nghiêm khắc hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp, chẳng hạn trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa (là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự hiện hành) thì mức phạt tù được quy định từ 3 năm đến 12 năm, nhưng khi được thay thế bằng một điều luật riêng là Điều 134a (mới) về “tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa” thì tại khoản 1 của Điều này, mức phạt tù chỉ được quy định từ 1 năm đến 6 năm. Ở một số điều luật khác mới được bổ sung như Điều 137a và Điều 227a cũng thấy có vấn đề tương tự. Do đó, Ủy ban chúng tôi đề nghị cần phải nghiên cứu quy định lại những điều luật mới bổ sung trên đây.

b) Trong Dự án Luật đã quy định thành những tội danh độc lập đối với các hành vi sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 185b), tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 185c), vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 185d), mua bán trái phép chất ma túy (Điều 185đ). Về các điều luật này, Ủy ban chúng tôi đề nghị cân nhắc thêm xem có nên tách ra hay không, bởi vì, nếu tách ra như vậy dễ gây ấn tượng nặng nề do số lượng các điều luật có mức hình phạt cao nhất là tử hình trong Bộ luật hình sự tăng lên. Hơn nữa, ngay sau đó hai điều tiếp theo trong Dự án Luật lại quy định tội ghép đối với các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng để điều chế trái phép chất ma túy (Điều 185g) và Điều 185h quy định tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng để điều chế trái phép chất ma túy. Như vậy rõ ràng là, ở đây chưa bảo đảm sự thống nhất về kỹ thuật lập pháp trong Dự án Luật.

c) Dự án Luật đã thay thế các điều quy định tội phạm về ma túy trong Bộ luật hình sự hiện hành (Điều 96a, Điều 203) và sắp xếp các điều luật sửa đổi, bổ sung tội phạm về ma túy thành một chương mới (Chương VIIa). Còn các điều luật quy định tội phạm về tham nhũng, tội phạm về tình dục đối với người chưa thành niên được sắp xếp theo thứ tự gần với các điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự hiện hành. Qua thảo luận, ý kiến chung của Ủy ban pháp luật cho rằng cách cơ cấu này của Dự án Luật là hợp lý, không gây ra những xáo trộn lớn trong trật tự chương, điều của Bộ luật hình sự hiện hành. Vì vậy, nhất trí với cách cơ cấu mà cơ quan soạn thảo đã thể hiện trong Dự án Luật.

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Chúng tôi cũng xin phép báo cáo thêm với Quốc hội là, sau khi Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được gửi tới các vị đại biểu Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội đã tổ chức thảo luận, góp ý kiến. Căn cứ vào ý kiến đóng góp của các Đoàn đại biểu Quốc hội và một số cơ quan, tổ chức hữu quan, cơ quan soạn thảo đã tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật. Nhiều ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, của các cơ quan, tổ chức hữu quan và của Ủy ban pháp luật đã được tiếp thu, thể hiện vào Dự thảo Luật này.

Trên đây là ý kiến của Ủy ban pháp luật về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự. Chúng tôi xin kính trình Quốc hội xem xét và quyết định.

 

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội