TỜ TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ VỀ DỰ ÁN LUẬT THƯƠNG MẠI
(Do ông Lê Văn Triết, Bộ trưởng Bộ Thương mại
đọc tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX,
ngày 09-4-1997)
Thực hiện Quyết định số 192/HĐNN ngày 10-2-1992 của Hội đồng Nhà nước về việc soạn thảo Luật thương mại thay cho việc soạn thảo Pháp lệnh thương mại (đã ghi trong chương trình xây dựng pháp luật năm 1989), Chính phủ đã giao cho Bộ Thương mại và Du lịch (nay là Bộ Thương mại) chủ trì soạn thảo Luật thương mại.
Quá trình xây dựng Dự án Luật thương mại đã trải qua nhiều năm. Cơ quan soạn thảo đã báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Đảng và Nhà nước và đã tiến hành nhiều loại công việc để hoàn thiện Dự án Luật này, cụ thể như sau:
a) Tiến hành điều tra tình hình thương nhân, thị trường và hoạt động của các loại doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong lĩnh vực thương mại;
b) Thành lập Ban soạn thảo liên ngành gồm chuyên gia các Bộ, ngành có liên quan, xây dựng đề cương, phân công và tiến hành soạn thảo;
c) Tổ chức các hội nghị và hội thảo lấy ý kiến của các doanh nghiệp, các nhà khoa học, các luật gia và các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương để tiếp thu những kiến thức và thực tiễn xác đáng vận dụng vào việc soạn thảo để Luật thương mại được phong phú, đáp ứng yêu cầu và hoàn cảnh thực tiễn nước ta;
d) Nghiên cứu pháp luật nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển; và tham khảo ý kiến nhiều chuyên gia pháp luật nước ngoài để chọn lọc các tinh hoa về Luật thương mại các nước vận dụng vào soạn thảo Luật thương mại nước ta;
đ) Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 10 về Dự án Luật thương mại để tu chỉnh;
e) Tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 25-01-1997 và ngày 06-3-1997 để tu chỉnh các vấn đề mang tính chất chủ trương, chính sách lớn thể hiện trong dự thảo.
Đến cuối tháng 3-1997, Ban soạn thảo đã hoàn thành việc tổng hợp toàn bộ ý kiến của các doanh nghiệp, các nhà khoa học, các cơ quan nhà nước, các luật gia trong nước, ngoài nước và tiếp thu đầy đủ ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội và của Bộ Chính trị. Dự án Luật thương mại Việt Nam đã được tu chỉnh lần cuối cùng (Dự thảo tháng 4-1997) và hôm nay xin trình trước kỳ họp thứ 11 của Quốc hội khóa IX.
PHẦN THỨ NHẤT
THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM,
SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI
A- THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
SAU ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ VI (1986)
Sau hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng. Theo đà đổi mới và phát triển chung, trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa và dịch vụ có những nỗ lực lớn, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và vị thế mới trên thị trường ngoài nước:
- Chuyển việc mua - bán hàng hóa từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang mua - bán hàng hóa theo cơ chế thị trường.
- Thị trường trong nước phát triển sống động từ trạng thái chia cắt, khép kín kiểu “tự cấp tự túc” sang tự do lưu thông theo quy luật kinh tế thị trường.
- Thị trường ngoài nước được mở rộng theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Các loại hình dịch vụ gắn liền với lưu thông hàng hóa phát triển mạnh.
Thương nghiệp đã góp phần tích cực vào việc phát triển sản xuất, phân công lại lao động xã hội, thúc đẩy các ngành đổi mới công nghệ, thay đổi cơ cấu sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho sản xuất từng bước gắn với nhu cầu thị trường; bước đầu phát huy được lợi thế so sánh giữa các vùng, các miền, giữa thị trường nước ta với thị trường thế giới, tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
Bên cạnh những thành tựu trên, trong thương mại, còn những thiếu sót và khuyết điểm cần khắc phục, đồng thời nảy sinh những vấn đề phức tạp mới cần giải quyết đúng đắn nhằm bảo đảm định hướng của sự phát triển:
- Thị trường hàng hóa và số doanh nghiệp thương mại và dịch vụ phát triển với tốc độ nhanh, nhưng nặng tính tự phát, nên thương nghiệp vẫn là một nền thương nghiệp nhỏ, tổ chức phân tán, manh mún, buôn bán theo kiểu chụp giựt qua nhiều tầng nấc.
- Kỷ cương pháp luật bị vi phạm, trật tự thị trường chưa được xác lập. Nạn buôn bán hàng giả diễn ra nghiêm trọng, tác động xấu đến sản xuất và đời sống. Quảng cáo thương mại, thị trường văn hóa phẩm chưa được quản lý tốt, tác hại đến đạo đức, lối sống, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục. Cạnh tranh không lành mạnh còn diễn ra ở nhiều nơi.
- Quản lý nhà nước về thương mại còn yếu kém. Dự báo các động thái của thị trường chưa kịp thời, nhiều lúc để xảy ra mất cân đối cung cầu, bị tư thương đầu cơ nâng giá. Chưa tạo được chính sách hỗ trợ mạnh mẽ cho phát triển sản xuất hàng xuất khẩu. Chưa xử lý hợp lý mối quan hệ giữa bảo hộ sản xuất với bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chưa làm tốt việc điều tiết và hướng dẫn tiêu dùng.
- Hiệu quả kinh doanh của thương nghiệp nhà nước còn thấp, tổ chức phân tán, thiếu vốn nghiêm trọng, chưa đủ sức chiếm lĩnh và chi phối trên các lĩnh vực, địa bàn và những ngành hàng trọng yếu. Hợp tác xã mua bán hoạt động theo phương thức cũ bị tan rã, mất vị trí ở thị trường nông thôn. Từ khi thi hành Nghị quyết 12/NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đến nay được hơn một năm, thương nghiệp nhà nước và hợp tác xã có được quan tâm củng cố, hoạt động kinh doanh có tiến bộ nhưng vẫn chưa làm tốt vai trò chủ đạo, chi phối thị trường.
B- SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI
1. Pháp luật hiện hành:
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới, từ năm 1987, Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật (bộ luật, luật, pháp lệnh) liên quan đến hoạt động thương mại trong nước và với nước ngoài. Ban soạn thảo đã tiến hành thống kê lại có 12 bộ luật và luật, 4 pháp lệnh và 60 văn bản dưới luật (nghị định, quyết định, chỉ thị) có liên quan đến hoạt động thương mại (xin xem bản phụ lục về những văn bản pháp luật chủ yếu liên quan đến hoạt động thương mại).
2. Sự cần thiết phải ban hành Luật thương mại:
a) Về mặt đối nội:
Đến nay, pháp luật thương mại theo đường lối “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” bước đầu đã hình thành. Đã có những chế định, liên quan đến chủ thể tham gia thị trường (doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân và nhóm kinh doanh có vốn thấp), đến thương mại hàng hải, phá sản doanh nghiệp, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp trong thương mại...
Tuy nhiên, pháp luật thương mại hiện hành chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và chưa có hệ thống. Cơ chế kinh doanh, cơ chế quản lý cũ và mới còn đan xen nhau. Một số quy định chưa rõ ràng, chưa hợp lý, chồng chéo nhau.
Pháp luật thương mại còn thiếu những chế định cơ bản bảo đảm sự vận hành cơ chế thị trường trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa như: tự do kinh doanh thương mại; cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật; bình đẳng trước pháp luật đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; địa vị pháp lý của thương nhân; quản lý nhà nước về thương mại.
Nhiều chính sách cơ bản về thương mại chưa được thể chế hóa trong pháp luật như: mục tiêu của thương mại; chính sách đối với các doanh nghiệp thương mại thuộc các thành phần kinh tế, chính sách đối với các mặt hàng, các dịch vụ quan trọng, các địa bàn trọng yếu, đặc biệt chính sách thương mại đối với nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người; chính sách bảo hộ sản xuất, bảo hộ người tiêu dùng...
Nhiều hoạt động thương mại chủ yếu như mua - bán hàng hóa, đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý mua bán hàng hóa, v.v. chưa có quy định cụ thể.
Một số hoạt động thương mại và cơ chế quản lý như xuất nhập khẩu, quảng cáo thương mại, hội chợ, triển lãm thương mại..., mới được quy định trong các văn bản dưới luật.
Những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong thương mại cũng chưa được quy định cụ thể.
Với môi trường pháp lý như trên, những mặt tích cực của cơ chế thị trường chưa được phát huy đầy đủ, những mặt tiêu cực như bán hàng cấm, hàng giả, quảng cáo không trung thực, trốn thuế, lậu thuế trong thương mại, v.v., chưa được khắc phục có hiệu quả.
b) Về mặt đối ngoại:
Đảng và Nhà nước ta chủ động thực hiện chính sách đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Việt Nam đã triển khai nhiều việc để thực hiện chủ trương hội nhập thị trường Khu vực và thế giới, đã gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), tham gia Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á (AFTA), chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)... Tình hình đó đòi hỏi phải ban hành những quy định thích hợp, có giá trị pháp lý cao nhằm tạo thuận lợi cho sự giao lưu hàng hóa, phát triển các dịch vụ thương mại trong nước và với nước ngoài, làm cho pháp luật thương mại Việt Nam phù hợp với tập quán thương mại quốc tế, đồng thời tạo cơ sở pháp lý và chính sách để xử lý các quan hệ kinh tế thương mại trong đàm phán song phương và đa biên với các nước, các tổ chức kinh tế thương mại quốc tế và khu vực.
Vì những lý do nói trên, để có cơ sở pháp lý nhằm phát triển, mở rộng thương mại trong nước và với nước ngoài theo đúng đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước và phù hợp với tập quán thương mại quốc tế, đưa hoạt động thương mại nước ta vào trật tự, kỷ cương, góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững,đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tất yếu phải ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật về thương mại, trong đó, Luật thương mại là đạo luật cơ bản.
PHẦN THỨ II
TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT THƯƠNG MẠI
A- MỤC TIÊU VÀ CĂN CỨ
ĐỂ XÂY DỰNG LUẬT THƯƠNG MẠI
Mục tiêu của Luật thương mại là:
1- Thể chế hóa đường lối, chính sách, cơ chế quản lý thương mại trong nước và với nước ngoài đã ghi trong các văn kiện của Đảng; và Hiến pháp năm 1992 về hoạt động thương mại.
2- Tạo môi trường pháp lý thuận lợi, làm cơ sở và khung pháp luật cần thiết cho hoạt động thương mại phù hợp với đường lối đổi mới. Phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường.
3- Bảo đảm cho mọi cá nhân (thể nhân) và pháp nhân quyền tự do hoạt động thương mại theo quy định của pháp luật; bảo hộ sản xuất và quyền hoạt động hợp pháp của thương nhân, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, đồng thời, bảo đảm sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các căn cứ để soạn thảo Luật thương mại:
1- Các quan điểm, chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước về thương mại đã được ghi trong các văn kiện Đại hội Đảng, các nghị quyết về kinh tế xã hội của Ban Chấp hành Trung ương, của Chính phủ và của Quốc hội.
2- Hiến pháp năm 1992, các bộ luật và luật đã ban hành liên quan đến hoạt động thương mại.
3- Những điều ước quốc tế và các hiệp định song phương và đa phương mà Chính phủ đã (hoặc dự kiến) ký kết và tham gia.
4- Thực trạng thương mại Việt Nam, điều kiện, chính trị - kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay, có tính đến những diễn biến dự báo tương lai.
B- ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA
LUẬT THƯƠNG MẠI
1- Về đối tượng của Luật thương mại:
Luật thương mại nước ta có những điểm tương đồng với Bộ luật thương mại của nhiều nước có nền kinh tế thị trường, nhưng cũng có những khác biệt xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng phát triển của nền kinh tế, từ thực tiễn thương mại và từ hệ thống pháp luật nước ta.
Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên, đối tượng của Luật thương mại là hoạt động thương mại (được hiểu trong Dự án Luật thương mại là sự thực hiện thường xuyên các hành vi thương mại) mà chủ thể là thương nhân.
2. Về khái niệm thương mại:
Ở nước ta cũng như trên thế giới, có những quan điểm khác nhau. Ở các nước có nền kinh tế thị trường, khái niệm thương mại theo cách hiểu thông thường về cơ bản khác với định nghĩa pháp lý về thương mại. Theo định nghĩa thông thường, từ thương mại có nội dung hẹp, giới hạn vào hoạt động thương mại thuần túy (mua hàng hóa để bán nhằm mục đích lợi nhuận). Trên bình diện pháp lý, thuật ngữ thương mại có nội dung rộng hơn, gồm không chỉ hoạt động thương mại thuần túy mà cả hoạt động công nghiệp và hầu hết các dịch vụ trên thị trường như dịch vụ vận tải, hàng hải, hàng không, xây dựng, du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thông tin, v.v.. Vì vậy, phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại rộng hay hẹp tùy thuộc vào điều kiện từng nước và chủ trương của cơ quan lập pháp.
3. Phạm vi điều chỉnh:
Trong quá trình xây dựng Dự án Luật thương mại Việt Nam, các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, cũng như nhiều chuyên gia kinh tế trong nước và nước ngoài nhất trí rằng phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại không nên chỉ giới hạn vào hoạt động mua - bán hàng hóa, hoạt động thuần túy thương mại theo định nghĩa thông thường, mà cần được mở rộng ra một số dịch vụ trên thị trường, nhưng việc mở rộng phạm vi điều chỉnh phải phù hợp với điều kiện, hệ thống pháp luật nước ta, đồng thời xích lại gần pháp luật và tập quán thương mại quốc tế.
Căn cứ Nghị quyết số 12/NQ-TW ngày 03-01-1996, Nghị quyết số 01 NQ/TW ngày 18-11-1996 của Bộ Chính trị và các văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng, căn cứ Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 10, xuất phát từ điều kiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa còn ở giai đoạn sơ khai, phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại được xác định như sau:
a) Hoạt động mua, bán hàng hóa ở thị trường trong nước và với nước ngoài;
b) Các dịch vụ thương mại gắn liền với hoạt động mua, bán hàng hóa, với lưu thông hàng hóa như đại diện thương nhân; môi giới thương mại; ủy thác mua, bán hàng hóa; đại lý mua, bán hàng hóa; thuê - mua; gia công trong thương mại; giao nhận, kho vận, quảng cáo thương mại; trưng bày, giới thiệu hàng hóa; hội chợ, triển lãm thương mại, v.v..
Hàng hóa thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại được giới hạn vào các động sản chủ yếu là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật liệu phục vụ sản xuất, xây dựng, hàng tiêu dùng, vàng, bạc, đá quý, văn hóa phẩm, dược phẩm, v.v.. Theo ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội, nhà ở đã được đưa vào phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại.
Đối với các bất động sản như nhà máy, công trình xây dựng (không phải là nhà ở) và đối với quyền tài sản, trong đó có cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, tuy cũng là đối tượng mua, bán và được coi là hàng hóa, nhưng đòi hỏi phải có những quy định cụ thể phù hợp với tính đặc thù, phức tạp của những loại hàng hóa đó trong những văn bản khác, như Luật bất động sản, Luật xây dựng, Luật ngân hàng, Luật thị trường chứng khoán, v.v..
Trong điều kiện một số hoạt động thương mại (thương mại hàng hải, dịch vụ hàng không, dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm...) đã được Quốc hội quy định tại những đạo luật riêng. Cho nên để tránh trùng lắp và bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật trong Luật thương mại, không quy định các hoạt động thương mại đó.
4. Hành vi thương mại:
Hành vi thương mại về bản chất là hành vi dân sự, nhưng có những đặc điểm riêng, khác với hành vi dân sự quy định tại Bộ luật dân sự. Bộ luật dân sự có nhiều điều khoản liên quan đến thương mại, nhất là Phần thứ nhất (Những quy định chung), Phần thứ ba (Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự).
Vì vậy, hành vi thương mại phải tuân theo các quy định đặc thù của Luật thương mại, đồng thời cũng phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự.
Đặc trưng quan trọng của hành vi thương mại là gắn với thương nhân, chủ thể của hành vi thương mại. Do đó, tính chất thương mại hoặc dân sự của một hành vi mua, bán hàng hóa và pháp luật điều chỉnh hành vi đó (do Bộ luật dân sự hay do Luật thương mại điều chỉnh) tùy thuộc vào tư cách của chủ thể hành vi (thương nhân hoặc không phải là thương nhân).
Vì vậy, hành vi mua, bán hàng hóa giữa một bên là thương nhân và một bên không phải là thương nhân được coi là hành vi thương mại đối với bên là thương nhân và thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại, nhưng được coi là hành vi dân sự đối với bên không phải là thương nhân.
C- PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI
1- Về không gian:
Luật thương mại được áp dụng trên toàn lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công dân Việt Nam (thương nhân cũng như người tiêu dùng), người nước ngoài được phép hoạt động thương mại tại Việt Nam đều phải tuân thủ các quy định của Luật thương mại.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là pháp nhân Việt Nam được thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hoạt động thương mại tại Việt Nam đương nhiên phải tuân thủ các quy định của Luật thương mại Việt Nam, trừ trường hợp Luật đầu tư nước ngoài có quy định khác.
Công dân Việt Nam được hoạt động thương mại tại nước ngoài tất nhiên phải tuân thủ các quy định pháp luật thương mại nước sở tại, nước mà họ làm ăn sinh sống.
Đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa với nước ngoài được ký giữa pháp nhân Việt Nam và người nước ngoài, các bên giao dịch, ký kết hợp đồng được quyền thỏa thuận áp dụng Luật thương mại Việt Nam hoặc Luật thương mại một số nước khác nếu không trái với pháp luật Việt Nam...
2- Về đối tượng áp dụng của Luật thương mại:
a) Đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại là hoạt động thương mại mà chủ thể là thương nhân. Do đó, Luật thương mại được áp dụng cho mọi chủ thể hoạt động thương mại trên thị trường, không phân biệt cá nhân (thể nhân), pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân), không phân biệt phương thức hoạt động (chỉ hoạt động thương mại thuần túy hoặc vừa sản xuất, vừa mua, bán hàng hóa gắn với sản xuất hoặc vừa làm dịch vụ, vừa mua bán hàng hóa gắn với dịch vụ), không phân biệt quy mô hoạt động (lớn, vừa, nhỏ), không phân biệt điều kiện hoạt động (có cửa hàng, cửa hiệu, buôn chuyến, bán rong).
Với quan niệm trên, mọi cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty, Luật hợp tác xã và các đối tượng được điều chỉnh trong các văn bản pháp luật khác (như Nghị định số 66/HĐBT) khi tham gia thị trường dưới hình thức kinh doanh mua - bán hàng hóa, thực hiện các dịch vụ thương mại thì đều được coi là thương nhân.
b) Từ kết quả điều tra thị trường và thương nhân sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới ở nước ta, đến ngày 30-6-1996, đã rút ra các số liệu tổng hợp về các tổ chức và cá nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia thị trường như sau:
+ 6.400 doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành kinh tế.
+ 350 doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị - xã hội.
+ 8.300 công ty (6.500 công ty trách nhiệm hữu hạn, 1.800 công ty cổ phần).
+ 20.000 doanh nghiệp tư nhân.
+ Trên một triệu cá nhân và nhóm kinh doanh theo các quy định của Nghị định số 66/HĐBT ngày 02-3-1992.
+ Và hàng vạn người bán rong, buôn thúng, bán bưng ở đô thị và nông thôn.
Từ bức tranh thu được sau điều tra thương nhân và thị trường, có thể rút ra kết luận sau đây:
Từ khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường, các nhà sản xuất đều tham gia thị trường dưới các hình thức mua, bán hàng hóa, thực hiện các dịch vụ thương mại, tự mình tổ chức tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra, trực tiếp bán buôn, bán lẻ các sản phẩm đó cho người tiêu dùng. Sản xuất và lưu thông hàng hóa đan xen nhau: Nhà sản xuất đều mua vật tư, nguyên liệu và bán sản phẩm trên thị trường. Ranh giới giữa sản xuất và lưu thông không rõ nét như trong thời kỳ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp.
Như vậy, trong dự án Luật thương mại coi các đối tượng sau đây là thương nhân và có địa vị pháp lý của thương nhân:
- Nhà buôn thuần túy (cá nhân và pháp nhân), theo cách hiểu thông thường, với mọi hình thức hoạt động (có cửa hàng, cửa hiệu, có sạp hàng, quầy hàng tại chợ, buôn chuyến...).
- Nhà sản xuất công nghiệp, tiểu công nghiệp (cá nhân và pháp nhân) tham gia thị trường dưới hình thức mua vật tư, bán sản phẩm, thực hiện các dịch vụ thương mại gắn với sản xuất.
- Người làm dịch vụ tham gia thị trường dưới hình thức mua nguyên liệu, chế biến ra sản phẩm nhằm mục đích lợi nhuận như khách sạn, cửa hàng ăn uống, giải khát...
- Người làm các dịch vụ gắn liền với lưu thông hàng hóa quy định tại Chương hai Luật thương mại (đại diện thương nhân, môi giới thương mại, quảng cáo thương mại, v.v.).
c) Đối với người buôn bán nhỏ có vốn kinh doanh, doanh thu không đáng kể, thu nhập thấp, chủ yếu là người bán rong, quà vặt, buôn thúng bán bưng thì vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại, nhưng cần có quy chế riêng để quản lý phù hợp với đặc điểm của loại hình buôn bán nhỏ, không thể đòi hỏi họ đăng ký, có biển hiệu, mở sổ sách kế toán, bán hàng có hóa đơn, chứng từ như các thương nhân khác có cửa hàng, cửa hiệu, có sạp, có quầy hàng.
Theo kinh nghiệm các nước có hoàn cảnh tương tự như nước ta, quá trình phát triển từ nền sản xuất nhỏ đi vào xây dựng kinh tế hàng hóa, tất yếu dẫn theo quá trình tổ chức, sắp xếp lại nền thương mại theo xu thế chung là giảm dần người bán rong, buôn thúng bán bưng, tiến tới không còn tình trạng bán rong như hiện nay.
Trong quá trình đó, để bảo đảm tính ổn định của Luật thương mại, Dự án Luật thương mại có những quy định tương tự như pháp luật các nước nêu trên, Chính phủ được Quốc hội ủy nhiệm ban hành quy chế cụ thể để quản lý đối với người buôn bán nhỏ phù hợp với quá trình phát triển và tổ chức lại nền thương mại.
d) Đối với người làm dịch vụ thuần túy văn hóa như tổ chức biểu diễn nghệ thuật, ca hát, giải trí thì tuy có mục đích kiếm lợi, nhưng còn nhằm mục đích chính trị và xã hội và có những đặc điểm riêng, cần quy định trong văn bản riêng không đưa vào phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại.
đ) Với phạm vi áp dụng Luật thương mại xác định như trên, hầu hết các lực lượng và đối tượng tham gia thị trường được quản lý bằng Luật thương mại.
Sau khi ban hành Luật thương mại, Nghị định số 66/HĐBT được bãi bỏ. Các đối tượng hiện đang thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại.
3. Nhà sản xuất, người làm dịch vụ khi tham gia thị trường, ngoài việc tuân thủ pháp luật thương mại còn chịu sự điều chỉnh của các pháp luật liên quan.
PHẦN THỨ BA
KẾT CẤU, NỘI DUNG CHÍNH
CỦA DỰ ÁN LUẬT THƯƠMG MẠI
A- KẾT CẤU DỰ ÁN LUẬT:
Dự án Luật thương mại gồm Lời nói đầu, 7 chương (32 mục 352 điều).
Chương thứ nhất: “Những quy định chung” gồm 5 mục:
Mục I: Phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại.
Mục II: Những nguyên tắc cơ bản và chính sách thương mại.
Mục III: Hành vi thương mại.
Mục IV: Thương nhân.
Mục V: Thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam.
Chương thứ hai: “Các hoạt động thương mại” gồm 16 mục:
Mục I: Mua bán hàng hóa.
Mục II: Hợp đồng mua bán hàng hóa với nước ngoài.
Mục III: Đại diện của thương nhân.
Mục IV: Môi giới thương mại.
Mục V: Ủy thác mua bán hàng hóa.
Mục VI: Đại lý mua bán hàng hóa.
Mục VII: Thuê mua hàng hóa.
Mục VIII: Gia công trong thương mại.
Mục IX : Đấu giá hàng hóa.
Mục X : Đấu thầu hàng hóa.
Mục XI : Giao nhận, kho vận.
Mục XII : Giám định hàng hóa.
Mục XIII: Quảng cáo thương mại.
Mục XIV: Khuyến mại.
Mục XV : Trưng bầy giới thiệu hàng hóa.
Mục XVI : Hội chợ, triển lãm thương mại.
Chương thứ ba: “Thương phiếu” gồm 2 mục:
Mục I: Hối phiếu.
Mục II: Lệnh phiếu.
Chương thứ tư: “Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong thương mại” gồm 4 mục:
Mục I: Đặt cọc trong thương mại.
Mục II: Thế chấp trong thương mại.
Mục III: Cầm cố trong thương mại.
Mục IV: Bảo lãnh trong thương mại.
Chương thứ năm: “Chế tài trong thương mại và giải quyết tranh chấp trong thương mại” gồm 2 mục:
Mục I: Chế tài giữa các bên trong thương mại.
Mục II: Giải quyết tranh chấp trong thương mại.
Chương thứ sáu: “Quản lý nhà nước về thương mại” gồm 3 mục:
Mục I: Nội dung, hệ thống quản lý nhà nước về thương mại.
Mục II: Thanh tra thương mại.
Mục III: Xử lý vi phạm pháp Luật thương mại.
Chương thứ bảy: “Điều khoản thi hành”.
B- MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH CỦA DỰ ÁN
LUẬT THƯƠNG MẠI
1. Những chế định bảo đảm sự vận hành cơ chế thị trường trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa:
Nhằm mục tiêu trên, trong Chương thứ nhất (mục 2) và Chương thứ hai, Dự án Luật đã:
a) Cụ thể hóa Điều 57, Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” và Điều 22: “Các cơ sở sản xuất, kinh doanh... đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ”.
b) Công nhận quyền cạnh tranh hợp pháp trong hoạt động thương mại.
c) Xác lập hành lang pháp lý đối với các hoạt động thương mại.
2. Về định hướng xã hội chủ nghĩa của hoạt động thương mại và các chính sách phát triển thương mại ở nước ta:
Tư tưởng các chính sách của Đảng và Nhà nước, tính định hướng xã hội chủ nghĩa của hoạt động thương mại ở nước ta được thể hiện trong Dự án Luật, tập trung vào các điểm sau đây:
a) Mục tiêu của hoạt động thương mại.
b) Vị trí và vai trò chủ đạo của thương nghiệp nhà nước và vai trò của kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong nền thương nghiệp nhiều thành phần.
c) Các chính sách phát triển thương mại đối với các thành phần kinh tế tham gia thị trường và đối với các lĩnh vực, các địa bàn trọng yếu, đặc biệt đối với vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo.
d) Vai trò của Nhà nước về quản lý thương mại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
e) Các biện pháp nhằm khắc phục những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực thương mại.
Năm loại vấn đề thuộc tư tưởng chính sách của Đảng và Nhà nước và tính định hướng xã hội chủ nghĩa trên đây là căn cứ vào các nghị quyết Đại hội Đảng, Nghị quyết số 12 NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII, Nghị quyết số 01 NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VIII, được thể hiện rõ nét trong Lời nói đầu; Chương thứ nhất, Mục II; Chương thứ sáu và rải rác ở các chương khác Dự án Luật. Cụ thể là:
a) Lời nói đầu khái quát đường lối đổi mới thương mại nước ta, nêu rõ Luật thương mại nhằm mục tiêu: Tạo cơ sở pháp lý để phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ trên các vùng của đất nước, đô thị, đồng bằng, miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài, bảo hộ hợp lý sản xuất, quyền hoạt động hợp pháp của thương nhân, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh, bền vững toàn bộ nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện công bằng xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Hoạt động thương mại nước ta không đơn thuần vì mục đích lợi nhuận mà là một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế và là phương tiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị và những mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước.
b) Vai trò chủ đạo của thương nghiệp nhà nước trong nền thương nghiệp nhiều thành phần được quy định tại Điều 11 Dự án. Điều 11 cũng quy định nhiệm vụ và điều kiện bảo đảm cho thương nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo trên thị trường.
c) Chính sách đối với các hình thức kinh tế hợp tác trong thương mại được quy định tại Điều 12 Dự án.
d) Điều 13 Dự án quy định những chính sách và biện pháp ưu đãi cơ bản nhất nhằm phát triển thương nghiệp đối với miền núi, vùng sâu, vùng xa, các hải đảo.
e) Chính sách ngoại thương được thể chế hóa tại Điều 14 Dự án, căn cứ vào Nghị quyết số 01 NQ/TW của Bộ Chính trị.
f) Về vai trò quản lý của Nhà nước trong thương mại, nhiều quy định trong Dự án xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc quản lý thương mại bằng chính sách, pháp luật, kế hoạch, quy hoạch và chiến lược phát triển thương mại; tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế, tài chính, hành chính để tác động vào thị trường nhằm bảo đảm cân đối cung cầu, ổn định giá cả những mặt hàng, dịch vụ thiết yếu đối với sản xuất và đời sống (Điều 332 và Điều 333 và Điều 337 Dự án).
3. Về địa vị pháp lý của thương nhân Việt Nam:
Thương nhân Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật và có những nghĩa vụ và quyền do luật định tại Chương thứ nhất (Mục IV) Dự án.
Thương nhân có nghĩa vụ:
a) Đăng ký kinh doanh (Điều 21) và phải hoạt động phù hợp với nội dung đăng ký kinh doanh.
b) Có tên thương mại và biển hiệu (Điều 27).
c) Mở sổ sách kế toán; lưu giữ sổ sách, chứng từ liên quan đến hoạt động thương mại (Điều 28).
d) Mở và sử dụng tài khoản tại ngân hàng (Điều 31);
e) Niêm yết giá hàng hóa và dịch vụ (Điều 32).
f) Lập và giao chứng từ cho khách hàng khi bán hàng hoặc thực hiện dịch vụ (Điều 33).
g) Đăng ký nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác.
Thương nhân có quyền:
a) Trực tiếp quản lý, điều hành hoặc thuê người quản lý, điều hành hoạt động thương mại (Điều 34).
b) Cho thuê, chuyển nhượng cơ sở thương mại hoặc liên doanh với cơ sở thương mại khác (Điều 35).
c) Đặt chi nhánh và/hoặc Văn phòng đại diện ở trong nước và/hoặc ở nước ngoài (Điều 30).
d) Ngừng có thời hạn hoặc chấm dứt hoạt động thương mại (Điều 38).
e) Hoạt động thương mại với nước ngoài sau khi đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Chính phủ (Điều 336).
4. Về các hình thức hoạt động của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam trong lĩnh vực thương mại:
Hiện nay, pháp luật nước ta khuyến khích người nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, dưới các hình thức đầu tư trực tiếp quy định tại Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1986 (Luật này đã được thay thế bằng Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam do Quốc hội thông qua ngày 12-11-1996). Pháp luật hiện hành chưa cho phép người nước ngoài hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt Nam.
Dự án Luật thương mại chưa mở rộng quyền hoạt động thương mại cho người nước ngoài tại nước ta, chỉ mới quy định thương nhân nước ngoài được hoạt động dưới hình thức văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại Việt Nam (Điều 43).
Văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài là đơn vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài, được thành lập theo pháp luật Việt Nam để xúc tiến thương mại. Văn phòng đại diện không được hoạt động thương mại tại Việt Nam và thương nhân nước ngoài phải chịu trách nhiệm trước pháp luật Việt Nam về mọi hoạt động của Văn phòng đại diện tại Việt Nam (Điều 44).
Chi nhánh của thương nhân nước ngoài là đơn vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài được thành lập và hoạt động thương mại theo pháp luật Việt Nam để thực hiện toàn bộ hoặc một phần nội dung hoạt động của thương nhân ở nước ngoài. Nội dung hoạt động của chi nhánh được quy định trong giấy phép thành lập chi nhánh (Điều 49).
Do chi nhánh có chức năng kinh doanh và là đơn vị phụ thuộc của thương nhân nên chi nhánh và thương nhân nước ngoài phải chịu trách nhiệm trước pháp luật Việt Nam về hoạt động của chi nhánh tại Việt Nam (Điều 45).
Bằng các hình thức đặt văn phòng đại diện, chi nhánh, thương nhân nước ngoài đã có cơ sở pháp lý và điều kiện tiếp cận thị trường Việt Nam, trực tiếp thực hiện một số hoạt động thương mại trên thị trường Việt Nam.
Tuy nhiên, để bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo hộ sản xuất trong nước và lợi ích chính đáng của giới công thương gia Việt Nam, việc mở rộng phạm vi và hình thức hoạt động của thương nhân nước ngoài trên thị trường Việt Nam chỉ có thể thực hiện một cách thận trọng từng bước, tùy thuộc vào điều kiện phát triển của nền kinh tế trong nước và khả năng quản lý của Nhà nước.
5. Về cơ chế quản lý thương mại trong nước và với nước ngoài:
Trong Dự án Luật thương mại, thể hiện ý đồ về cơ bản xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung bao cấp, hình thành cơ chế quản lý bằng pháp luật như quy định trong Điều 12 và Điều 31 của Hiến pháp năm 1992. Cơ chế “xin - cho” gắn với cơ chế quản lý tập trung, bao cấp được xóa bỏ về cơ bản trong Dự án Luật thương mại, trừ những trường hợp đặc biệt những người nước ngoài muốn hoạt động thương mại tại Việt Nam thì phải được phép của Chính phủ Việt Nam.
Theo Điều 6 Dự án: Mọi cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình, nhóm kinh doanh có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được tự do hoạt động thương mại trong các lĩnh vực, tại các địa bàn mà pháp luật không cấm hoặc không có quy định khác.
Phù hợp với Điều 6, Điều 21 quy định: Để hoạt động thương mại hợp pháp, cá nhân, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của Luật thương mại phải đăng ký kinh doanh tại cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của các luật đã ban hành.
6. Về đăng ký kinh doanh đối với thương nhân:
a) Đăng ký kinh doanh không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân thương nhân mà còn có ý nghĩa về mặt quản lý nhà nước và đối với các đối tác của thương nhân đó. Các ý nghĩa đó thể hiện tập trung ở các điểm sau:
- Đối với thương nhân: Đăng ký kinh doanh là điều kiện để hoạt động thương mại và là cơ sở pháp lý cho người đó hoạt động phù hợp với pháp luật trong hành lang mà giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã xác định.
- Đối với cơ quan quản lý: Nội dung đăng ký kinh doanh, những thay đổi về nội dung đăng ký trong quá trình hoạt động là cơ sở pháp lý để giám sát hoạt động của thương nhân.
- Đối với các đối tác của thương nhân: Nội dung đăng ký kinh doanh (Điều 22) là các thông tin cần thiết để ứng xử trong quan hệ với thương nhân đó.
b) Những nội dung và ý nghĩa về đăng ký kinh doanh như đã trình bày trên đã được nhất trí. Tuy nhiên, vẫn còn vấn đề có ý kiến khác nhau, xin trình tiếp ở phần sau.
PHẦN THỨ TƯ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU
Dự án Luật thương mại đã được tu chỉnh trên cơ sở tiếp thu ý kiến của Bộ Chính trị, của các đại biểu Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội; ý kiến của các Bộ và nhiều địa phương, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên và của các giới công thương và luật gia.
Dự án còn được sự chỉ đạo chặt chẽ của Ủy ban thường vụ Quốc hội và được Bộ Chính trị Trung ương Đảng cho ý kiến.
Tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo và thảo luận, đến nay vẫn có một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau, xin trình để Quốc hội xem xét quyết định.
A- VỀ PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI
1. Các Đoàn đại biểu Quốc hội đã nhất trí rằng hàng hóa là động sản lưu thông trên thị trường, kể cả các loại hàng hóa cần được quản lý bằng những quy định riêng như thực phẩm, dược phẩm, văn hóa phẩm, đều phải chịu sự điều chỉnh của Luật thương mại.
2. Nhưng đối với hàng hóa là bất động sản, cụ thể là nhà ở, ý kiến còn khác nhau, bao gồm hai loại ý kiến:
a) Nhiều ý kiến của các đại biểu Quốc hội cho rằng việc kinh doanh nhà ở, gồm mua bán nhà, mua nhà để cho thuê, nhằm mục đích lợi nhuận cần được coi là hoạt động thương mại, người kinh doanh nhà ở cần được coi là thương nhân và thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại với lý do là: kinh doanh nhà ở đang có xu hướng phát triển, có khả năng thu được lợi nhuận đáng kể nên cần được quản lý chặt chẽ theo quy định của Luật thương mại.
b) Nhưng cũng có ý kiến cho rằng nhà ở là một bất động sản liên quan đến pháp luật đất đai, kinh doanh nhà ở có những đặc thù khác với việc mua bán hàng hóa thông thường. Do đó, cần có quy định riêng phù hợp với đặc điểm của loại hàng hóa này, không nên đưa vào phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại.
Cả hai loại ý kiến a và b như đã nêu trên đều có cơ sở lý luận và thực tiễn.
Dự án Luật thương mại được trình trước Quốc hội hôm nay là theo ý kiến của đa số.
B- VỀ ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI
1. Nhiều Đoàn đại biểu Quốc hội đã nhất trí là các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 66/HĐBT (trên một triệu hộ cá nhân và nhóm kinh doanh) đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại. Trong Luật thương mại phải quy định cơ sở pháp lý để quản lý các thương nhân vừa và nhỏ, đưa hoạt động thương mại trên thị trường vào kỷ cương, đúng pháp luật. Ý kiến này đã được thể hiện trong Luật thương mại.
2. Ý kiến khác nhau tập trung vào người buôn bán hàng rong, quà vặt có vốn kinh doanh, doanh thu và thu nhập thấp.
Dù là bán rong, mua bán vặt, dù doanh thu và thu nhập thấp, nhưng cũng là thương nhân nên các đối tượng này cũng phải đăng ký kinh doanh để bảo đảm sự quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ hoạt động thương mại trên thị trường. Tuy nhiên, thể thức đăng ký phải rất đơn giản, địa điểm đăng ký phải thuận lợi, không gây phiền hà. Phải có quy định rõ quyền và nghĩa vụ sao cho phù hợp với tính chất và đặc thù của loại thương nhân này.
Do vậy, đối với loại thương nhân nhỏ này, nhiều ý kiến tán thành quan điểm thể hiện trong Dự án Luật ủy quyền cho Chính phủ ban hành quy chế riêng theo những nguyên tắc cơ bản của Luật thương mại (Điều 20 dự án).
Cũng có ý kiến đề nghị Luật thương mại cần có những quy định cụ thể làm cơ sở cho việc quản lý các đối tượng này, nhất là ở các đô thị và nông thôn.
Với những lý do đã nêu trên, đề nghị ủy quyền cho Chính phủ ban hành quy chế riêng để quản lý đối với người buôn bán rong, quà vặt có số vốn kinh doanh, doanh thu và thu nhập thấp.
C- VẤN ĐỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI
Các vị đại biểu Quốc hội đều đề nghị phải thống nhất quản lý về thương mại trên phạm vi cả nước vào Chính phủ, một Bộ và Ủy ban nhân dân các cấp (trong phạm vi lãnh thổ).
Tuy nhiên, về cơ chế và tổ chức quản lý nhà nước, còn có ý kiến khác nhau:
1. Về cơ quan quản lý nhà nước về thương mại ở Trung ương:
- Có ý kiến đề nghị Bộ Thương mại là cơ quan của Chính phủ có chức năng thực hiện việc thống nhất quản lý nhà nước về thương mại (gồm mọi hoạt động thương mại, trong đó có quảng cáo thương mại, hội chợ triển lãm thương mại); các Bộ khác có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thương mại quản lý nhà nước về thương mại trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình.
- Có ý kiến đề nghị tập trung mọi hoạt động thương mại vào cơ quan chức năng là Bộ Thương mại, các Bộ khác không nên có chức năng quản lý thương mại.
2. Về bộ máy quản lý nhà nước về thương mại:
- Có ý kiến đề nghị chỉ cần quy định trong Luật thương mại “bộ máy hành chính nhà nước về thương mại theo hệ thống tổ chức hành chính từ Trung ương đến địa phương” và giao cho Chính phủ quy định cụ thể.
- Có ý kiến đề nghị Luật thương mại cần quy định rõ hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về thương mại từ Trung ương đến địa phương gồm:
+ Bộ Thương mại (ở Trung ương).
+ Sở Thương mại (ở cấp tỉnh, thành phố).
+ Phòng Thương mại hoặc Phòng Công thương (cấp quận, huyện).
+ Ủy ban nhân dân xã, phường (đối với người bán rong).
D- VỀ CƠ QUAN ĐẢM NHẬN
ĐĂNG KÝ KINH DOANH
Như phần C mục 6 của Tờ trình này có nêu:
Những nội dung, ý nghĩa và sự cần thiết của đăng ký kinh doanh để trở thành thương nhân thể hiện trong Dự án đã được thảo luận và nhất trí.
Vấn đề còn tồn tại là xác định cơ quan nhà nước nào là cơ quan có thẩm quyền và trách nhiệm đăng ký cho thương nhân:
- Ý kiến Chính phủ đề nghị:
Các loại doanh nghiệp khi thành lập phải tuân thủ các quy định hiện hành của pháp luật; khi tham gia thị trường các doanh nghiệp còn có nghĩa vụ phải đăng ký kinh doanh thương mại và theo quy định hiện hành thì đăng ký tại Sở Kế hoạch và Đầu tư.
Để thực hiện cải cách hành chính, giảm phiền hà cho các doanh nghiệp, trong việc thành lập và đăng ký kinh doanh, Chính phủ sẽ chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà nước quy định cụ thể quy trình và thời gian thực hiện, thông báo công khai để nhân dân kiểm tra và giám sát.
Sau khi đăng ký, cơ quan có thẩm quyền đăng ký (kế hoạch và đầu tư) thông báo cho các Bộ, ngành và các địa phương có liên quan đến các doanh nghiệp đã đăng ký để các Bộ, ngành, địa phương có thông tin và thực hiện chức năng quản lý của mình.
- Ý kiến khác: Trong quá trình tham gia ý kiến dự thảo Luật thương mại, nhiều đại biểu Quốc hội, nhiều địa phương và nhiều doanh nghiệp đề nghị việc đăng ký kinh doanh cho thương nhân do cơ quan quản lý nhà nước về thương mại thực hiện.
Kính trình Quốc hội xem xét và quyết định.
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội